Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

LUẬN VĂN: Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (897.23 KB, 118 trang )








LUẬN VĂN:
Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương
hướng hoàn thiện những quy định của pháp
luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế








mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động có ích của mỗi người là nguồn gốc tạo ra của cải xã hội. Song để biến lao
động thành một hoạt động tự giác, phát huy được tính năng động, sáng tạo của người lao
động thì xã hội phải quan tâm tới lợi ích của họ. Chính vì thế chế định quyền sở hữu nói
chung và chế định quyền thừa kế nói riêng ra đời là một trong những phương thức pháp lý
cần thiết để bảo toàn và gia tăng tích lũy của cải trong xã hội. Về mặt tâm lý cá nhân
không chỉ muốn mình có quyền năng đối với khối tài sản của mình khi còn sống, mà còn
muốn chi phối nó ngay cả khi đã chết. Vì vậy, Nhà nước đã công nhận quyền thừa kế của
cá nhân đối với tài sản, coi thừa kế là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu. Điều
này không chỉ có tác dụng kích thích tính tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng mà còn tạo


động lực phát triển lòng say mê, kích thích sự quản lý năng động của mỗi con người, tạo ra
sự thi đua thầm lặng của mỗi cá nhân nhằm nhân khối tài sản của mình lên bằng sức lực và
khả năng sáng tạo mà họ có. Khi họ chết, các tài sản của họ để lại sẽ trở thành di sản và đ-
ược phân chia cho các thế hệ con cháu. Và nếu như con cháu chính là sự hóa thân của ông
bà, bố mẹ, là sự kéo dài nhân thân của mỗi người thì sự chuyển dịch di sản theo chế định
thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu. Vì vậy, một người coi là đã chết nhưng chết
chưa hẳn là đã chấm dứt mà một phần con người đó còn hiện hữu, tồn tại trong con cháu,
trong những di sản mà họ để lại. Pháp luật công nhận quyền thừa kế của cá nhân đã đáp
ứng một phần mong mỏi của con người là tồn tại mãi mãi. Chính vì thế, pháp luật thừa kế
trên thế giới nói chung và pháp luật thừa kế ở Việt Nam nói riêng đã không ngừng phát
triển và hoàn thiện.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, sau Hiến pháp 1992, Bộ luật dân sự (BLDS)
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, tạo lập hành lang pháp lý cho các cá nhân khi thực hiện
quyền thừa kế. Được quy định tại phần thứ tư, bao gồm 4 chương, 56 điều, từ Điều 631
đến Điều 687 của BLDS năm 2005 chế định thừa kế đã tạo chuẩn mực pháp lý cho cách
ứng xử của các chủ thể khi tham gia quan hệ thừa kế, góp phần làm lành mạnh hóa các



quan hệ xã hội. Chế định quyền thừa kế trong BLDS đã kết tinh những thành tựu của khoa
học pháp lý nhân loại góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy
những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp đã ăn sâu vào tiềm thức và lưu truyền qua
bao đời của dân tộc Việt Nam.
Hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng gia tăng và trở nên
phức tạp hơn. Sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật của cá nhân, sự áp dụng pháp luật
không thống nhất giữa các cấp Tòa án là những yếu tố làm cho các vụ kiện gặp nhiều khó
khăn, thời gian giải quyết kéo dài, ảnh hưởng không tốt đến truyền thống đạo đức tốt đẹp
vốn có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, một trong những khó khăn vướng mắc
lớn khi áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp thừa kế chính là vấn
đề xác định sao cho đúng về diện và hàng thừa kế.

Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để làm sáng tỏ một số
vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế trong chế định thừa kế theo pháp luật là một đòi hỏi
tất yếu, khách quan cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế.
2. Tình hình nghiên cứu
Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất nhiều nhà
khoa học pháp lý quan tâm, nghiên cứu. Tiến sĩ Phùng Trung Tập đã giới thiệu với bạn
đọc tác phẩm "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 từ trước đến
nay"; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện là tác giả của cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong
Bộ luật dân sự Việt Nam"; Phó giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Thanh - Trần Hữu Biền có tác
phẩm "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế". Ngoài ra, còn có nhiều bài viết về đề tài này được
đăng tải trên các sách báo, tạp chí. Đặc biệt hơn, còn có rất nhiều các cử nhân, học viên
chọn nội dung này làm đề tài cho các luận văn tốt nghiệp của mình.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính toàn diện, bao
quát cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để ngày càng hoàn thiện
hơn hệ thống pháp luật về thừa kế. Riêng với đề tài " Diện và hàng thừa kế theo pháp luật
dân sự Việt Nam ", tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất của
diện và hàng thừa kế được quy định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở đó



đưa ra một số kiến nghị mang tính giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn những quy định
về nội dung này trong luật.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất quy định của
pháp luật về quyền thừa kế nhằm làm sáng tỏ diện và hàng thừa kế. Khi nghiên cứu đề tài,
tác giả đã tham khảo toàn bộ các quy định của nước ta về diện và hàng thừa kế gắn với
từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước, đồng thời nghiên cứu pháp luật của một số
nước trên thế giới cũng như các sách chuyên khảo và những tài liệu liên quan đến vấn đề
này.
4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử. Bên cạnh đó còn có sự phối hợp với một số phương pháp khác như:
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng
hợp.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ nội dung và bản chất của diện và hàng
thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử phát triển của
đất nước. Trên cơ sở đó, xác định đúng, chính xác những người thuộc diện thừa kế và thứ
tự hưởng ưu tiên theo quy định của BLDS năm 2005.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra những vướng mắc còn tồn tại khi áp
dụng quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế. Từ đó đưa ra những đề xuất, kiến
nghị mang tính giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, tồn tại, góp phần hoàn thiện hơn
các quy định về thừa kế.





6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực
thừa kế. Có những công trình khoa học nghiên cứu vấn đề nội dung này một cách toàn
diện, bao quát, nhưng cũng có những công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của chế
định thừa kế trong luật. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chi tiết, cụ thể về
diện và hàng thừa kế gắn với từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Đây là luận
văn ở cấp độ thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu từng diện và từng hàng thừa kế gắn với từng quy
định của mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, tác giả nghiên cứu
làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiện hành và tìm ra những vướng mắc còn tồn
tại trên thực tế và đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về diện và hàng
thừa kế trong BLDS.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thừa kế.
Chương 2: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện những quy
định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế.












Chương 1
Khái quát chung về thừa kế

1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Thừa kế và quyền thừa kế
Một trong những yếu tố để đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia đó chính là
sự bảo hộ của Nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như việc kết
hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng. Trên tinh thần đó, quyền thừa kế là
một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. Điều 58 Hiến pháp năm
1992 của Việt Nam quy định "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế
của công dân".

Để hiểu và nhận thức sâu sắc về khái niệm quyền thừa kế trước hết phải làm sáng
tỏ nội dung khái niệm thừa kế. Theo Từ điển tiếng Việt: "Thừa kế là hưởng của người
khác để lại cho". Theo các tác giả của Giáo trình Luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà
Nội, thừa kế được hiểu là: "Việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho những người
còn sống". Khái niệm này đã phản ánh chính xác bản chất cũng như nội dung thừa kế.
Thừa kế luôn gắn với quan hệ sở hữu xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và sự
phát triển của xã hội loài người. Khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu
và quan hệ thừa kế đã tồn tại như một tất yếu khách quan. Thừa kế xuất hiện phụ thuộc
vào quan hệ sở hữu. Nếu sở hữu là yếu tố quyết định thừa kế, thì thừa kế là phương tiện duy
trì và củng cố quan hệ sở hữu.
Thừa kế và sở hữu là hai phạm trù kinh tế cùng tồn tại song song trong một hình
thái kinh tế - xã hội nhất định, chúng có mối liên hệ biện chứng với nhau, chỉ đạo, chi phối
lẫn nhau, cùng phát triển theo sự phát triển của xã hội loài người.
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay
trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người - chế độ cộng sản nguyên thủy. Trong thời kỳ
này, quan hệ thừa kế chỉ đơn thuần là một quan hệ xã hội, việc thừa kế chỉ nhằm di chuyển



tài sản của người chết cho những người còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết
thống và do những phong tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định.
Khi nhà nước ra đời việc chiếm giữ của của vật chất giữa người với người được
điều chỉnh bằng pháp luật theo hướng có lợi cho giai cấp thống trị. Nhà nước đã sử dụng
pháp luật là công cụ để bảo vệ tài sản và quyền tài sản của người chết cho những người
còn sống, quy định quyền của các chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản của mình. Lúc này các quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu không chỉ tồn tại một cách
khách quan với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế nữa, mà những quan hệ này đã bị ràng
buộc bởi những quy phạm pháp luật và làm xuất hiện khái niệm quyền thừa kế.
Nếu thừa kế là một phạm trù kinh tế tồn tại khách quan thì quyền thừa kế là một
phạm trù pháp lý chỉ phát sinh khi có nhà nước và pháp luật. Nếu thừa kế là một quan hệ

xã hội phát sinh ngay cả khi xã hội chưa phân chia giai cấp, chưa có nhà nước và pháp
luật, thì quyền thừa kế lại là một quan hệ pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội đã
phân chia giai cấp và dẫn tới sự ra đời của nhà nước.
Quyền thừa kế được xem xét rất nhiều góc độ. Với tính chất là một chế định pháp
luật dân sự, quyền thừa kế bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển tài sản từ người
chết sang cho người khác còn sống theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định do pháp
luật quy định. Đồng thời, quy định quyền và nghĩa vụ cũng như các phương thức bảo vệ
các quyền và nghĩa vụ đó của những chủ thể trong quan hệ thừa kế.
Với tính chất là một quyền năng dân sự, quyền thừa kế là những quyền năng cụ
thể của chủ thể trong việc để lại di sản thừa kế và nhận di sản thừa kế. Đó là những khả
năng mà các chủ thể được phép xử sự theo quy định của pháp luật: Được để lại di sản thừa
kế như thế nào, việc lập di chúc phải tuân thủ những yêu cầu gì, ai là người được nhận di sản
thừa kế, khi nào thì bị tước quyền hưởng di sản thừa kế Trong các quan hệ về thừa kế,
các chủ thể chủ động hiện thực hóa những quyền năng đó để biến nó thành những quyền
dân sự cụ thể qua đó đáp ứng được nhu cầu và thực hiện được lợi ích cho bản thân mình.



Nói tóm lại, quyền thừa kế là một chế định của Luật dân sự, bao gồm tổng hợp các
quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người khác còn sống dựa trên
cơ sở ý chí của người để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật.
ở mỗi một chế độ khác nhau, tùy thuộc vào tính chất của chế độ sở hữu, thông qua
pháp luật, nhà nước quy định một chế định thừa kế và coi đó là một phương tiện để bảo vệ
quyền lợi cho các cá nhân cũng như quyền lợi của giai cấp lãnh đạo xã hội.
Trong nhà nước chủ nô, quyền để lại thừa kế về nô lệ của giai cấp chủ nô là sự
chuyển lại quyền sở hữu đối với những "công cụ biết nói" và cũng chính là sự truyền lại
quyền lực chính trị để duy trì sự áp bức bóc lột của giai cấp chủ nô đối với nô lệ.
Trong nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản, giai cấp bóc lột luôn sở hữu

những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và di sản mà họ để lại cho con cháu cũng chính
là những di sản ấy, việc thừa kế chỉ là sự thay thế kẻ thống trị này bằng kẻ thống trị khác
trong cùng một giai cấp mà thôi.
Pháp luật thừa kế ở nước ta trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động,
tôn trọng thành quả lao động do họ làm ra cũng như chuyển thành kết quả đó cho những
người thừa kế sau khi họ chết. Mặt khác, quyền thừa kế ở nước ta là một trong những
phương tiện để củng cố và phát triển các quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi
chính đáng của các chủ thể trong quan hệ thừa kế, đặc biệt bảo vệ lợi ích của người chưa
thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Qua đó góp phần bảo
đảm quyền sở hữu cho mọi cá nhân trong xã hội.
Tóm lại, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang cho người
còn sống theo những trình tự luật định. Quyền thừa kế của một cá nhân gắn bó chặt chẽ
với quyền sở hữu của cá nhân đó. Quyền sở hữu là tiền đề, là cơ sở của quyền thừa kế và
ngược lại, quyền thừa kế là căn cứ thiết lập quyền sở hữu mới. Vì vậy, hệ thống pháp luật
dân sự của tất cả các nước trên thế giới bao giờ cũng qui định về vấn đề thừa kế như là một
phương thức bảo đảm quyền sở hữu của chủ sở hữu.
1.1.2. Di sản thừa kế



Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà
nước bảo hộ. Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở…
Khi còn sống họ có quyền đưa các loại tài sản của mình lưu thông dân sự hoặc lập di chúc
cho người khác hưởng tài sản của mình sau khi chết. Trường hợp công dân có tài sản thuộc
quyền sở hữu riêng, không lập di chúc sau khi chết, tài sản này được chia theo luật và toàn
bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết được gọi là di sản thừa kế.
Theo Từ điển tiếng Việt: "Di sản là của cải, tài sản của người chết để lại" [51].
Điều 634 BLDS năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng của người
chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác" [9].
Di sản được Điều 634 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng khá đầy đủ và có

tầm khái quát cao, không dùng phương pháp liệt kê bao gồm những tài sản gì như những
quy định trước đây. Bởi lẽ, quyền tài sản đã nằm trong khái niệm tài sản được quy định tại
Điều 163 BLDS: "Tài sản bao gồm vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [9].
Như vậy, di sản là toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người
đã chết cũng như các quyền về tài sản của người đó bao gồm:
- Tư liệu sinh hoạt.
- Tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý được dùng làm đồ trang sức hoặc dùng làm
của cải để dành, tiền tiết kiệm ngân hàng, tiền lương, tiền thưởng chưa lĩnh.
- Nhà ở thuộc sở hữu của người chết.
- Vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của người chết.
- Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu.
- Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng lợi trên đất đó.
- Các quyền về tài sản đó là quyền đòi nợ đồ vật đã cho mượn, cho thuê, chuộc lại
tài sản đã cầm cố, quyền đối với tài sản đã thế chấp, đã bồi thường thiệt hại về tài sản,
hưởng những quyền lợi của tác giả hoặc chủ sở hữu văn bằng, bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp, quyền tác giả đối với tác phẩm. Tuy nhiên, quyền tài sản gắn với nhân thân của
người chết như tiền cấp dưỡng, tiền lương hưu không được coi là di sản thừa kế.



- Theo quy định của pháp luật, để khắc phục những rủi ro xảy ra cá nhân có thể
mua bảo hiểm cho bản thân mình. Trên cơ sở đóng phí bảo hiểm và khi có sự kiện bảo
hiểm thì cơ quan bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm dựa trên mức đóng phí bảo hiểm. ở
loại hình bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm tuổi thọ của con người và khi người đó
chết sẽ được hưởng số tiền bảo hiểm đó. Và lúc này số tiền bảo hiểm trở thành một phần
trong tổng tài sản của người chết để lại cũng là di sản thừa kế.
- Phần tài sản của người chết trong khối tài sản với người khác. Sự phát triển của
đời sống xã hội khiến cho tài sản của mỗi người càng trở nên phong phú và đa dạng hơn.
Ngoài tài sản riêng có được do thu nhập hợp pháp, của để dành hoặc do được thừa kế thì
một loại tài sản nữa của người chết là một phần tài sản của người này trong khối tài sản

chung với người khác, có thể do vợ chồng cùng tạo lập hoặc nhiều người cùng góp vốn để
sản xuất kinh doanh.
Trong thời kỳ hôn nhân mọi tài sản của vợ chồng đều thuộc sở hữu chung hợp pháp.
Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) 2000 quy định: "Tài sản chung của vợ
chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà
vợ chồng được thừa kế chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung" [30]. Khối tài sản đó được cả vợ và chồng cùng nhau tạo lập, phát triển bằng công
sức của mỗi người nên khó có thể phân định được phần của mỗi người là bao nhiêu. Do
đó, cả hai vợ chồng đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung. Khi một bên chết trước nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng
thì chia làm đôi, một nửa khối tài sản chung đó là tài sản của người chết được chuyển
thành di sản thừa kế và được chia cho người thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa
kế.
- Khác với hình thức sở hữu chung hợp nhất, hình thức sở hữu chung theo phần
được hình thành khi có nhiều người cùng góp vốn để cùng sản xuất kinh doanh. Khi đó tài
sản có được thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người, nếu một trong số những người đó
chết thì di sản của người chết còn bao gồm cả phần tài sản thuộc sở hữu của người đó đã
đóng góp trong khối tài sản chung.



Đặc biệt, thừa kế quyền sử dụng đất là một vấn đề mới được đưa vào chương VI
phần 4 BLDS 1995 và tiếp tục được ghi nhận và mở rộng tại chương XXXIII phần 5
BLDS năm 2005. Qui định thừa kế quyền sử dụng tại chương XXXIII phần 5 BLDS năm
2005 đáp ứng các qui định quyền của người sử dụng đất được qui định tại Luật Đất đai
năm 2003, Nghị định 181/2004/ NĐ-CP ngày 29/10/2004, đã tạo điều kiện thuận lợi cho
những người có nhu cầu trực tiếp sử dụng đất và có quyền thừa kế quyền sử dụng đất.
Tóm lại, di sản được Điều 634 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ
và có tính khái quát cao. Điều này thể hiện trình độ và kỹ thuật lập pháp của nước ta đã đạt

được một kết quả nhất định.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp và có liên quan đến nhiều vấn đề khác trong
quan hệ thừa kế mà chỉ được quy định trong một điều luật nên khi nghiên cứu cũng như khi
xét xử phải đặt nó trong mối liên hệ biện chứng với các quy phạm pháp luật khác liên quan
trực tiếp đến việc xác định và phân chia di sản.
Bởi vậy, việc xác định quyền sở hữu của một người để từ đó xác định di sản khi
người đó chết còn gặp nhiều vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
1.1.3. Người để lại di sản thừa kế
Quyền để lại thừa kế là một quyền cơ bản của cá nhân được pháp luật Việt Nam
ghi nhận và bảo hộ. BLDS năm 2005 quy định rõ: "Cá nhân có quyền lập di chúc để định
đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật" (Điều
631) và "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác"
(Điều 632) [9].
Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của mọi công dân đối với những thu nhập hợp pháp
của mình. Theo đó bất kỳ ai cũng có quyền quyết định đối với số phận của các loại tài sản
thuộc quyền sở hữu riêng của mình. Vì thế cá nhân có quyền lập di chúc cho người khác
hưởng tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình sau khi mình chết, nếu không có di chúc
tài sản này thì chia theo pháp luật.



Như vậy, BLDS năm 2005 ghi nhận quyền định đoạt tài sản của người chết thông
qua việc lập di chúc để chỉ định thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế. Phần
lớn những người được hưởng thừa kế theo di chúc là những người có quan hệ thân thiết
với người lập di chúc như: Cha, mẹ, vợ, chồng, con. Tuy nhiên, pháp luật cho phép người
lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, vì thế họ có quyền chỉ định bất cứ ai có thể là
cá nhân trong hay ngoài diện thừa kế theo quy định của pháp luật, thậm chí cũng có thể là
nhà nước hoặc tổ chức nào đó. Ngoài ra, pháp luật về thừa kế còn cho phép người lập di
chúc được truất quyền hưởng di sản của một người thừa kế nào đó cho dù họ có đủ các
điều kiện để có thể thừa kế tài sản theo pháp luật.

Cần lưu ý rằng, người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, không thể là các pháp
nhân hay tổ chức. Các pháp nhân hay tổ chức được thành lập với những mục đích và
nhiệm vụ khác nhau và tài sản của các pháp nhân, tổ chức đó nhằm để phục vụ cho các
hoạt động của chính mình. Khi các pháp nhân, tổ chức đó đình chỉ hoạt động của mình
(phá sản, giải thể ) tài sản của các pháp nhân, tổ chức được giải quyết theo các quy định
của pháp luật. Các pháp nhân, tổ chức chỉ tham gia quan hệ thừa kế với tư cách là người
được hưởng di sản theo di chúc.
1.1.4. Người thừa kế
Người thừa kế là người hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của
pháp luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, tổ chức nhưng người thừa kế theo
pháp luật chỉ có thể là cá nhân và phải có quan hệ hôn nhân, gia đình hoặc nuôi dưỡng đối
với người để lại di sản. Giữa người để lại di sản và người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ
pháp lý với nhau. Người thừa kế có quyền sở hữu đối với phần di sản thừa kế, đồng thời
họ phải gánh vác những nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản.
Điều 635 BLDS năm 2005 quy định:
Người thừa kế phải là cá nhân còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di sản chết



Trong trường hợp người thừa kế là cơ quan tổ chức thì phải là cơ quan
tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế [9].
Như vậy, pháp luật quy định chỉ những người còn sống mới có năng lực hưởng
thừa kế. Tuy nhiên, đối với những người sắp sinh ra pháp luật cũng quy định họ cũng có
thể là người thừa kế nếu vào thời điểm mở thừa kế (lúc người để lại di sản chết) họ đã
thành thai. Nếu một người chưa thành thai vào thời điểm mở thừa kế hoặc thành thai trước
thời điểm mở thừa kế nhưng sinh ra không sống thì không được hưởng di sản thừa kế.
Pháp luật quy định: "Người thừa kế đang là thai nhi nếu sinh ra sau khi mở thừa
kế và phải còn sống". Thực tế khó xác định được như thế nào là sinh ra và còn sống. Nghị

định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch quy định: nếu
thai nhi sinh ra chết sau một ngày vừa phải khai sinh và vừa phải khai tử. Trường hợp chết
trong vòng một ngày không phải khai sinh và khai tử. Do vậy, có thể coi trường hợp này
nhà nước chưa quản lý về hộ tịch của đứa trẻ dưới một ngày. Như vậy có thể hiểu rằng,
đứa trẻ sinh ra sau một ngày thì coi như là còn sống.
Có quan điểm cho rằng, một đứa trẻ sinh ra phải có những căn cứ pháp lý, đó là
giấy khai sinh mới được coi là một cá nhân trong xã hội. Thực tế, ở nhiều gia đình do
không có điều kiện nên chưa làm giấy khai sinh được thì đứa trẻ sinh ra được coi là một cá
nhân trong xã hội hay chưa? Có được thừa kế hay không? Thông thường một đứa trẻ cất tiếng
khóc chào đời đã là một con người trong xã hội. Vì vậy, không có lý do gì mà không thừa
nhận sự tồn tại của chúng trong xã hội. Vấn đề này cũng cần được quy định cụ thể để tránh
hiểu lầm và có căn cứ áp dụng pháp luật thống nhất. Vì vậy, để bảo đảm quyền lợi cho người
thừa kế là trẻ sơ sinh nên chăng cần quy định cụ thể việc xác định một đứa trẻ sinh ra bao lâu
được coi là còn sống. Nhưng cần quy định một khoảng thời gian cụ thể để xác định đứa trẻ
sau khi sinh được coi là còn sống, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những thai
nhi thuộc diện thừa kế.
Người hưởng thừa kế theo di chúc còn có thể là các cơ quan, tổ chức có tư cách
pháp nhân vào thời điểm mở thừa kế.



Bên cạnh việc quy định cụ thể về người thừa kế, pháp luật còn ghi nhận một số
trường hợp người không được quyền nhận di sản, người thừa kế từ chối nhận di sản, người
thừa kế bị truất quyền hưởng di sản và trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc.
* Trường hợp người không được quyền nhận di sản
Là những trường hợp người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật bị tước quyền
hưởng di sản vì họ không xứng đáng được hưởng quyền đó. Khoản 1 Điều 643 BLDS năm
2005 quy định những trường hợp sau đây không được quyền hưởng di sản [9]:
- "Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi

ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự,
nhân phẩm của người đó".
Những hành vi nói trên phải do Tòa án xét xử, kết án và có bản án có hiệu lực pháp
luật, không phụ thuộc vào loại hình phạt và dù rằng đã được xóa án.
- "Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi người để lại di sản".
Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con
chưa thành niên và con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có
khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình (Điều 36 khoản 1); Anh, chị em có
nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha, mẹ hoặc cha mẹ không có
điều kiện nuôi dưỡng con (Điều 48); Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng
cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình và không có ai nuôi
dưỡng (Điều 47); người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng là người có khả năng mà không
nuôi dưỡng, làm cho người thân thích và hàng xóm xung quanh bất bình. Trong trường
hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng chứng minh được họ không có thu nhập để thực hiện
nghĩa vụ thì không bị coi là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng.
- "Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng".



Trường hợp này cũng cần phải có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án. Nếu giết người thừa kế khác không nhằm mục đích hưởng di sản thì không rơi vào
trường hợp này.
- "Người đã có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong
việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc
toàn bộ di sản trái vớí ý chí của người để lại di sản".
Mặc dù những trường hợp nói trên là những trường hợp không được quyền hưởng
di sản nhưng khoản 2 Điều 643 BLDS quy định những người đó vẫn được hưởng di
sản"nếu người để lại di sản biết những hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ

hưởng thừa kế theo di chúc".
Việc không cho hưởng quyền nhận di sản được thực hiện sau khi mở thừa kế.
Trong thực tế xảy ra trường hợp làm giả mạo giấy tờ về người thừa kế khác từ chối nhận di
sản thừa kế để cho người đó được hưởng nhiều hơn. Giấy tờ này không có giá trị pháp lý
nhưng pháp luật không quy định trường hợp này là trường hợp không được hưởng quyền
nhận di sản. Đây là một vấn đề mà các nhà lập pháp cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện
pháp luật hơn nữa.
* Trường hợp người thừa kế từ chối nhận di sản
Điều 642 BLDS năm 2005 quy định về việc người thừa kế có quyền từ chối nhận
di sản từ thời điểm mở thừa kế. Nếu người thừa kế theo pháp luật được thừa kế theo di chúc
mà từ chối nhận di sản theo di chúc thì họ vẫn có quyền thừa kế theo pháp luật. Pháp luật
quy định người thừa kế không bắt buộc phải nhận thừa kế. Vì vậy khoản 1 Điều 642 BLDS
quy định: "Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm
trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác" [9].
Tuy nhiên, người thừa kế phải thể hiện rõ ý chí của mình bằng văn bản, báo cho
những người thừa kế khác biết, người phân chia di sản, cơ quan công chứng nhà nước hoặc
ủy ban nhân dân (UBND) xã, phường, thị trấn nơi mở thừa kế. Pháp luật cũng không quy
định người thừa kế nào có quyên từ chối nhận di sản. Vậy trường hợp người dưới mười
tám tuổi có quyền từ chối nhận di sản hay không? Nếu dưới mười tám tuổi mà từ chối



nhận di sản phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý mới hợp lý vì thực tế những
người dưới mười tám tuổi chưa đủ năng lực hành vi để quyết định mọi việc.
Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng kể từ thời điểm mở thừa kế. Việc quy
định này cũng là điều bất hợp lý vì có trường hợp người được thừa kế không biết thời điểm
mở thừa kế ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, kể từ thời điểm mở thừa kế người hưởng thừa
kế phải thực hiện nghĩa vụ đối với người chết. Do vậy, pháp luật quy định thời hạn sáu
tháng là chưa hợp lý.
Người thừa kế không được từ chối nhận di sản nếu việc từ chối nhằm trốn tránh

việc thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người khác
Việc nhận hay không nhận di sản thừa kế là quyền của người thừa kế. Tuy nhiên,
khi thực hiện quyền này người thừa kế phải tuân theo những quy định của pháp luật.
* Trường hợp người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản
Người bị truất quyền hưởng di sản khác với người không được quyền hưởng di sản
ở chỗ: Các trường hợp không có quyền hưởng di sản là do pháp luật quy định và dự liệu
trước, còn người bị truất quyền hưởng di sản là do ý chí của người để lại di sản không
muốn cho hưởng.
Tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người để lại di sản thừa kế thì họ có
quyền định đoạt đối với tài sản đó nghĩa là họ có quyền quyết định cho ai? Cho cái gì? Và
họ cũng có quyền truất quyền thừa kế của những người thừa kế mà không cần phải có lý
do.
Theo quy định tại Điều 648 BLDS năm 2005, người để lại di sản có quyền lập di
chúc truất quyền hưởng di sản của những người mà theo quy định của pháp luật họ sẽ được
hưởng thừa kế khi người để lại di sản chết. Pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt của
người để lại di sản thừa kế. Họ có quyền để lại di chúc để cho một người hưởng một phần
hay toàn bộ di sản, hoặc cho hưởng ít hơn phần lẽ ra người thừa kế được hưởng. Đặc biệt
hơn họ còn có thể truất bỏ quyền thừa kế của người thừa kế. Có quan điểm cho rằng,
những người không được chỉ định trong di chúc cũng gián tiếp bị truất quyền. Quan điểm
này là không chính xác vì truất quyền hưởng di sản là sự trừng phạt của người có di sản để



lại đối với người thừa kế khi người này có những hành vi bất kính với người để lại di sản
hoặc giữa người để lại di sản và người thừa kế đã tồn tại những mâu thuẫn. Việc không chỉ
định trong di chúc cũng có thể do người không được chỉ định trong di chúc đã có cuộc
sống ổn định không cần đến di sản nữa. Hai trường hợp này về bản chất là khác biệt nhau
hoàn toàn và nếu hiểu như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những người không
được chỉ định trong di chúc. Thực tế người không được chỉ định trong di chúc vẫn có
quyền thừa kế tài sản của người chết theo pháp luật đối với những phần tài sản chưa được

định đoạt trong di chúc hoặc người thừa kế theo di chúc không nhận phần di sản theo di
chúc thì phần tài sản này được cho những người thừa kế khác không có tên trong di chúc.
* Trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Nhằm đảm bảo lợi ích của một số các thành viên trong gia đình pháp luật còn quy
định một số trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Điều 669 BLDS năm
2005, quy định rõ con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng hoặc con đã thành niên mà không
có khả năng lao động vẫn được hưởng di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế
theo luật nếu họ không thuộc trường hợp từ chối nhận di sản hoặc không có quyền hưởng di
sản. Quy định này phù hợp với phong tục tập quán, truyền thống đạo đức của người Việt
Nam.
1.2. Diện và hàng thừa kế
1.2.1. Khái quát chung về diện và hàng thừa kế
* Diện thừa kế
Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định thừa kế, tuy
nhiên vấn đề này lại chưa được các nhà làm luật quy định cụ thể, chi tiết trong luật. Khái
niệm diện thừa kế chỉ được quan tâm nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý. Còn luật
thực định từ trước đến nay chưa có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này. BLDS
1995 cũng như BLDS năm 2005 chưa có nội dung nào quy định về khái niệm diện thừa kế
là gì và diện thừa kế bao gồm những ai? Đây là một vấn đề cần được khắc phục trong quá
trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam.



Theo các tác giả của giáo trình Luật dân sự - Đại học Luật Hà Nội khái niệm diện
thừa kế được hiểu là "phạm vi những người có quyền hưởng di sản của người chết theo
quy định của pháp luật" [54, tr. 266].
Nhìn chung, khái niệm nêu trên đã phản ánh đầy đủ nội dung cũng như bản chất
của diện thừa kế.
Diện thừa kế chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế theo pháp luật. Mà pháp luật
phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển xã hội. Vì thế ở mỗi

một chế độ xã hội nhất định mà phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật lại
được quy định ở diện rộng hẹp khác nhau.
Tiếp cận và tìm hiểu những quy định của pháp luật của một số nước trên thế giới
về diện thừa kế cho thấy mặc dù có sự khác nhau về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội nhưng nhìn chung dù ở chế độ xã hội nào những người thuộc diện thừa kế theo pháp
luật đều có đặc điểm chung là những người thân thích gần gũi với người để lại di sản thừa
kế và do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối.
Pháp luật của Nhật và các nước Nam Mỹ quy định diện thừa kế bao gồm các con
của người chết; cha, mẹ, anh, chị, em ruột của người chết; bà con xa, gần khác.
Một số nước như Đức, áo, Thụy Sĩ quy định: Bà con bậc trên, thế hệ trên của
người chết như: cha, mẹ, cố, cụ; bà con bậc dưới, thế hệ dưới của người chết như con,
cháu.
Điều 1629 Bộ luật thương mại Thái Lan quy định diện thừa kế là: Con cái; bố, mẹ;
anh, chị, em cùng huyết thống; anh, chị, em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà;
chú, bác, cô, dì; người vợ (hoặc người chồng còn sống).
ở nước ta, trước năm 1945 dưới chế độ thực dân phong kiến, tư tưởng trọng nam
khinh nữ nặng nề đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc xác định diện thừa kế. Địa vị của người
vợ trong quan hệ gia đình luôn bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và người chồng
trong những quan hệ xã hội thông thường và ngay cả trong quan hệ thừa kế.



Ngược lại với bản chất pháp luật của chế độ thực dân, phong kiến, pháp luật thừa
kế dưới chế độ mới ở nước ta đã được thể hiện rõ bản chất ngay trong bản Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Điều 9 Hiến pháp 1946 quy định: "Đàn bà
ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" [24], trong đó người vợ có quyền thừa kế
như những người con khác khi chồng chết trước. Đặc biệt, khi sắc lệnh số 97-SL ngày 22
tháng 5 năm 1950 được ban hành, diện thừa kế theo pháp luật theo tinh thần của Điều 10 và
Điều 11 bao gồm: con cháu, vợ hay chồng của người để lại di sản [15].
Như vậy, diện thừa kế theo pháp luật dưới chế độ mới ở nước ta kể từ năm 1945

đến nay luôn được xác định theo quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi
dưỡng giữa người để lại di sản và người thừa kế.
Một người có thể trở thành người thừa kế theo pháp luật đối với di sản của người chết
thì giữa họ phải có mới quan hệ nhất định khi người để lại di sản còn sống. Mối quan hệ này là
sợi dây ràng buộc họ bởi quyền của người này và nghĩa vụ của người kia hoặc là bổn phận và
trách nhiệm giữa họ khi người để lại di sản còn sống. Những mối quan hệ được bắt nguồn từ
sâu xa của giá trị đạo đức truyền thống cùng sự phù hợp với pháp luật của một chế độ xã hội
nhất định.
Theo BLDS hiện hành thì những người thuộc diện thừa kế gồm: Vợ, chồng, cha
đẻ, mẹ đẻ, mẹ nuôi, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; ông nội, bà nội, ông ngoại,
bà ngoại, anh, chị, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông
nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Tóm lại, diện thừa kế bao gồm các cá nhân còn sống có quan hệ hôn nhân, quan hệ
huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được tính đến thời điểm mở thừa
kế của người đó và những cá nhân sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã
thành thai trước khi người để lại di sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế
được xác định theo số người được pháp luật chỉ định trong các hàng thừa kế theo pháp luật
của người để lại di sản.
* Hàng thừa kế



Khác với thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật phải xác định được người thuộc
diện thừa kế là ai? Nhưng không phải tất cả những người thuộc diện thừa kế đều được
hưởng di sản thừa kế như nhau, mà theo mức độ quan hệ với người để lại di sản thừa kế,
pháp luật phân những người thuộc diện thừa kế thành các hàng thừa kế.
Hàng thừa kế là những nhóm, người thừa kế được pháp luật xếp trong cùng một
hàng. Việc chia hàng thừa kế có ý nghĩa thiết thực, đảm bảo để những người thừa kế cùng
hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng

thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước đó đã chết, hoặc do không có quyền hưởng
di sản; hoặc bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Nghiên cứu và phân tích một số các quy định về hàng thừa kế theo pháp luật của
một số nước trên thế giới cho thấy việc xác định hàng thừa kế ở mỗi nước có khác nhau
nhưng cũng như diện thừa kế, việc quy định hàng thừa kế cũng đều dựa trên quan hệ huyết
thống, hôn nhân và nuôi dưỡng.
Điều 731 BLDS Pháp quy định hàng thừa kế được chia thành bốn lớp:
+ Lớp thứ nhất gồm: con, cháu của người chết
+ Lớp thứ hai gồm: cha, mẹ và anh, chị, em ruột … của người chết
+ Lớp thứ ba gồm: Ông, bà, cụ, kỵ của người chết.
+ Lớp thứ tư gồm: cháu chú, cháu bác, cháu cậu, cháu dì, cháu già của người chết
[6].
Khái niệm hàng thừa kế là gì cũng không được quy định cụ thể trong hệ thống
pháp luật của Việt Nam và cũng chưa có tác giả nào đưa ra khái niệm chính xác, đầy đủ
thể hiện rõ nội dung của hàng thừa kế
Điều 676 BLDS năm 2005 quy định những người thừa kế theo pháp luật được sắp
xếp theo ba hàng thừa kế sau đây:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ,
con nuôi của người chết



Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột,
em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu
ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại [9].
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng thừa kế cũng được sắp xếp dựa
trên cơ sở mức độ thân thích với người để lại di sản. Những người thừa kế ở hàng thứ nhất và
hàng thứ hai đều có mối quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng với người để lại di sản,

giữa họ đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giám hộ và đại diện đương nhiên của nhau khi thỏa
mãn các điều kiện phải giám hộ cho nhau nhất định. Những người thừa kế ở hàng thứ ba
được cơ cấu gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau theo quan hệ huyết thống
nhưng giữa họ không có sự ràng buộc về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau.
Với mục đích làm nổi bật tính độc lập và tính hiện đại của pháp luật thừa kế Việt
Nam quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật, cần thiết phải có sự so sánh với một
số nội dung cơ bản pháp luật thừa kế một số nước trên thế giới nhằm làm rõ những nét đặc
thù của pháp luật Việt Nam.
Theo BLDS của Nhật Bản, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Con (cháu) trực hệ.
Khác với pháp luật dân sự của Việt Nam, Nhật Bản quy định hàng thừa kế thứ nhất chỉ dựa
trên quan hệ huyết thống. Vợ hoặc chồng của người để lại di sản không được quy định cụ thể
trong một hàng thừa kế nào mà phụ thuộc vào các hàng và bậc thừa kế theo quan hệ huyết
thống nội tộc của người để lại di sản. Theo đó, phần di sản người vợ hoặc chồng chết trước
để lại sẽ tùy thuộc người vợ hoặc chồng còn sống được xếp vào cùng hàng thừa kế với
những người có quan hệ huyết thống ở các bậc khác nhau của người để lại di sản [10].
Quan hệ nuôi dưỡng không phải là cơ sở để xác định diện và hàng thừa kế. Ngoài
ra, có những người cùng được hưởng thừa kế cùng một lúc nhưng lại không được hưởng di
sản như nhau vì pháp luật Nhật Bản quy định: Trong trường hợp có hai người cùng hàng,
thì phần mà người chồng góa hoặc người vợ góa của người để lại di sản được hưởng theo



nguyên tắc nhất định Ví dụ: khi vợ, (chồng) và các con là người thừa kế thì phần cho các
con là hai phần ba và phần cho vợ (chồng) là một phần ba.
Theo BLDS của Cộng hòa Pháp, quyền thừa kế đầu tiên đối với di sản của người
chết là những người bề dưới, không phân biệt độ tuổi, giới tính và không phụ thuộc vào
hình thức hôn nhân của cha mẹ đều được hưởng di sản. Như vậy, ở hàng thừa kế thứ nhất
chỉ là các con của người để lại di sản [6]. Điều đó thể hiện Luật thừa kế của Cộng hòa
Pháp dựa trên quan hệ duy nhất là quan hệ huyết thống, là quan hệ chủ đạo trong việc xác
định người thừa kế theo pháp luật. Vợ góa hoặc chồng góa không thuộc hàng thừa kế nào

của người để lại di sản. Vợ, chồng chỉ được hưởng di sản thừa kế của nhau trong trường
hợp không còn thân thuộc của bên vợ hoặc bên chồng chết trước có thể thừa kế. Như vậy,
khả năng vợ chồng có thể thừa kế của nhau rất khó xảy ra.
Quan hệ nuôi dưỡng cũng không được coi là cơ sở để xác định diện và hàng thừa
kế. Sự khác nhau giữa những quy định pháp luật thừa kế của Nhật Bản, Cộng hòa Pháp so
với Việt Nam xuất phát từ phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa, cơ sở vật chất và
hoàn cảnh xã hội khác nhau của mỗi nước tác động mạnh mẽ đến việc xây dựng pháp luật.
Căn cứ vào những yếu tố khác biệt trên đã tạo nên sự khác nhau khi quy định về hàng thừa
kế theo pháp luật giữa các nước.
Như vậy, pháp luật Việt Nam quy định những người thừa kế theo hàng dựa trên
quan điểm khác với nhiều ở các nước phương Đông cũng như các nước phương Tây. Pháp
luật thừa kế của Việt Nam luôn đứng trên tinh thần bảo vệ quyền lợi cho những người có
quan hệ huyết thống, hôn nhân hoặc nuôi dưỡng.
1.2.2. Cơ sở của việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật
BLDS Việt Nam hiện hành cũng quy định diện và hàng thừa kế dựa trên ba cơ sở:
quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng.
* Quan hệ huyết thống



Lễ giáo và truyền thống đạo đức của người Việt Nam vốn rất coi trọng dòng dõi
cũng như tổ tiên đã sinh ra mình. Vì vậy quan hệ huyết thống là cơ sở quan trọng, cơ bản
quy định diện thừa kế theo luật.
Quan hệ huyết thống là quan hệ do sự kiện sinh ra cùng chung một gốc, Ví dụ:
như quan hệ giữa cụ và ông bà, giữa ông bà và bố mẹ, giữa bố mẹ đẻ và con, giữa anh, chị,
em cùng bố cùng mẹ, cùng bố khác mẹ, cùng mẹ khác bố.
Những người có quan hệ huyết thống luôn có trách nhiệm thương yêu, đùm bọc,
giúp đỡ lẫn nhau. Điều 36 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: "Cha mẹ có nghĩa vụ và
quyền cùng nhau chăm sóc nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật
mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi

mình" [30]. Điều 47 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định:
Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ và quyền trông nom, chăm sóc,
giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu. Trong trường
hợp các cháu chưa thành niên hoặc cháu thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
mà không có người nuôi dưỡng thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi
dưỡng cháu [30].
Điều 48 Luật HN&GĐ 2000 quy định: "Anh, chị, em có bổn phận thương yêu, chăm
sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc nuôi dưỡng nhau trong trường hợp
không còn cha mẹ, hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc giáo
dục con" [30].
Theo mức độ quan hệ với người để lại di sản, BLDS năm 2005 phân những người
thuộc diện thừa kế theo huyết thống vào các hàng thừa kế khác nhau.
* Quan hệ hôn nhân
Hôn nhân là sự gắn bó giữa nam và nữ để trở thành một gia đình, một tế bào của
xã hội. Trong đó họ phải cùng nhau tạo dựng những nền tảng vững chắc về mặt kinh tế để
đảm bảo cho cuộc sống gia đình ổn định và việc nuôi dạy con cái tốt. Đồng thời, họ cũng



phải có những trách nhiệm và bổn phận đối với nhau do pháp luật quy định và trên cơ sở
đạo đức truyền thống của người Việt Nam.
Kết hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ chồng theo những quy định của pháp
luật, đặc biệt là Luật HN&GĐ. Theo Luật HN&GĐ năm 2000, nam nữ kết hôn phải tuân
theo các quy định về điều kiện kết hôn, không vi phạm những điều cấm, và tiến hành đúng
trình tự, thủ tục luật định.
Khi kết hôn, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng phát sinh và được pháp luật bảo
vệ. Việc kết hôn không chỉ gắn bó giữa hai người với nhau về tình cảm mà còn làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai người, ngoài ra hai bên còn có quan hệ tài sản, khoản 1
Điều 31 Luật HN&GĐ 2000 quy định: "Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo

quy định của pháp luật về thừa kế" [30]. Vợ chồng là hàng thừa kế thứ nhất của nhau theo
qui định tại khoản 1 Điều 676 BLDS năm 2005.
* Quan hệ nuôi dưỡng
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ được xác lập dựa trên cơ sở nuôi con nuôi được
pháp luật thừa nhận. Mối quan hệ này nhằm đảm bảo cho trẻ em quyền được chăm sóc,
nuôi dưỡng; tránh những điều bất hạnh thiệt thòi cho những đứa trẻ vốn đã không được
hưởng điều kiện và sự quan tâm từ chính cha mẹ mình. Xuất phát từ bổn phận của người
nuôi dưỡng đối với con nuôi quan hệ nuôi dưỡng trở thành một cơ sở cần thiết cho việc
xác định diện thừa kế theo pháp luật. Tại khoản 1 Điều 67 Luật HN&GĐ năm 2000 quy
định: "Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con
nuôi và người được nhận làm con nuôi bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được
trông nom nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Một người có
nhận một hoặc nhiều người làm con nuôi" [30].
Việc nuôi con nuôi nhằm gắn bó tình cảm giữa người nuôi và con nuôi trong quan
hệ cha, mẹ và con cái, bảo đảm người con nuôi chưa thành niên được nuôi dưỡng chăm
sóc tốt.
Trong quan hệ nuôi dưỡng điều kiện để cha, mẹ nuôi và con nuôi được thừa kế tài
sản của nhau là việc con nuôi được pháp luật thừa nhận. Pháp luật chỉ thừa nhận và xác



định quan hệ nuôi dưỡng giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi trong trường hợp nhận con nuôi
không trái với luân thường đạo lý, mục đích xã hội như bóc lột sức lao động dùng con nuôi
vào mục đích xấu xa phạm pháp Điều kiện quan trọng để việc nhận con nuôi là hợp pháp
là phải tuân theo các nguyên tắc của Luật HN&GĐ năm 2000 và phải được UBND công
nhận và ghi vào sổ hộ tịch.
Ngoài ra, giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi
dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì cũng được thừa kế di sản của nhau.
Mối quan hệ giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi và mối quan hệ giữa con riêng với
cha dượng, mẹ kế nếu được pháp luật thừa nhận thì họ sẽ là hàng thừa kế thứ nhất của

nhau.
Các quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng là những quan hệ tình cảm có mối
quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Pháp luật nước ta dựa vào ba quan hệ này để xác định
diện và hàng thừa kế theo pháp luật.

×