Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

LUẬN VĂN: Thu hút vốn đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ ở việt nam hiện nay doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (881.54 KB, 117 trang )








LUẬN VĂN:


Thu hút vốn đầu tư
cho phát triển khoa học và công nghệ
ở việt nam hiện nay












Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, sự phỏt triển kinh tế - xó hội của mỗi nền kinh tế đều phụ thuộc rất
lớn vào khoa học và công nghệ (KH&CN). Nhận thức được điều đó, trong những năm
qua, để thúc đẩy quá trỡnh cụng nghiệp húa, hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước


ta đó rất chỳ trọng đến phát triển KH&CN. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng xác định
KH&CN cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu ở nước ta hiện nay. Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng chỉ rừ: “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục cú nhiều biến đổi, khoa học
và công nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt, kinh tế tri thức sẽ có vai trũ ngày càng nổi bật
trong quỏ trỡnh phỏt triển lực lượng sản xuất. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách
quan, lôi cuốn ngày càng có nhiều nước tham gia”. Cần tạo ra năng lực nội sinh về
KH&CN đủ khả năng ứng dụng các công nghệ hiện đại, tiếp cận trỡnh độ thế giới và tự
phát triển trên một số lĩnh vực, nhất là công nghệ thông tin. Nghị quyết Đại hội X (năm
2006) của Đảng nêu “phát triển mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động khoa học và công
nghệ… tạo động lực đẩy nhanh CNH, HĐH và phát triển kinh tế tri thức”.
Để thực hiện chủ trương này, Nhà nước đó dành một lượng vốn lớn đầu tư cho
phát triển KH&CN. Trong một số năm gần đây, đầu tư cho KH&CN đó chiếm 2% tổng
chi ngân sách tức là khoảng 0,5% GDP của cả nước. Việc quan tâm đầu tư nói trên đó
đem lại những kết quả khích lệ. Tiềm lực KH&CN đó được tăng cường từ việc xây
dựng cơ quan làm việc, các xưởng, trại thực nghiệm, phũng thớ nghiệm đến sửa chữa
nhỏ, tăng cường máy móc thiết bị hiện đại. Nhờ vậy, điều kiện làm việc và nghiên cứu
khoa học được cải thiện một bước. Cán bộ KH&CN đó được đào tạo, nâng cao trỡnh
độ. Đó cú được những đề tài khoa học và sản phẩm công nghệ có giá trị phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, đến nay hoạt động KH&CN của nước ta cũn rất hạn chế. Trong đó,
vấn đề đầu tư cho KH&CN chưa thật sự được chú trọng, nhất là đấu tư cho các dự án
khoa học có điều kiện nghiên cứu và ứng dụng, gắn kết với nhu cầu thực tiễn của các
ngành kinh tế quốc dân, nâng cao năng lực công nghệ nội sinh cũn nhiều bất cập.

KH&CN nên vẫn chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế,
xó hội, chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đó nghiờn cứu được, trỡnh độ công nghệ
cũn thấp nhiều so với các nước xung quanh. Năng lực tạo ra cụng nghệ mới cũn rất cú
hạn, chưa đáp ứng được yêu cầu phỏt triển kinh tế - xó hội của đất nước.
Một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra hạn chế này là nguồn vốn đầu
tư cho hoạt động KH&CN cũn rất thấp. Tỷ lệ vốn đầu tư cho KH&CN nếu tính cả đầu

tư của khu vực ngoài nhà nước mới chỉ khiêm tốn ở mức khoảng 0,6% GDP, trong khi
đó, năm 2004 con số này của các nước EU đó là 1,95% GDP, Nhật Bản là 3,15% GDP,
Trung Quốc là 1,31% GDP, Hoa Kỳ là 2,59% GDP, Hàn Quốc là gần 5% GDP. Nếu
tớnh mức đầu tư cho hoạt KH&CN trên đầu người, thỡ Việt Nam mới đạt khoảng 5
USD (năm 2007), trong khi của Trung Quốc là khoảng 20 USD (năm 2004) và đặc biệt
là Hàn Quốc khoảng 1.000 USD (năm 2007). Đầu tư cho KH&CN của Việt Nam vào
loại thấp nhất trong khu vực kể cả theo tỷ lệ % GDP lẫn tỷ trọng xó hội húa về vốn đầu
tư.
Mức đầu tư thấp là một nguyên nhân khiến cho nhiều đề tài không đủ điều kiện
để nghiên cứu hoàn chỉnh, có đề tài dù đó rất gần tới thành cụng những phải dừng lại,
đành phải “bỏ ngăn kéo”. Tỷ lệ các đề tài nghiên cứu của Việt Nam được áp dụng vào
thực tế cũn rất thấp, số công bố quốc tế và patent được đăng ký cũn rất ớt so với cỏc
nước trong khu vực, nghĩa là hiệu quả nghiên cứu khoa học thấp. Thực tế cho thấy, đầu
tư cho KH&CN ở nước ta vẫn nặng về bao cấp của Nhà nước. Mặc dù từ Đại hội IX
(năm 2001), Đảng ta đó có chủ trương đa dạng hóa đầu tư phát triển KH&CN, nhưng
đến nay hầu như vẫn không có sự quan tâm của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước
vào loại đầu tư này, nhiều nguồn lực KH&CN vẫn cũn bị lóng phớ, trong khi nhu cầu
bức bỏch hiện nay là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Từ thực tế trên, để góp phần vào giải pháp tạo động lực cho phát triển KH&CN,
tôi chọn đề tài: “Thu hút vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện
nay” để nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu

Kể từ năm 1996, khi Đảng ta ban hành Nghị quyết Trung ương 02/HNTW (khóa
VIII) về KH&CN đến nay, ở nước ta đó cú những nghiờn cứu về vấn đề này. Trong
những nghiên cứu liên quan đến vốn đầu tư cho phát triển KH&CN đó cú những cụng
trỡnh như:
Trong các năm 2000 -2003, Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách KH&CN
đó cú những nghiờn cứu bàn luận về nguồn vốn đầu tư cho phát triển KH&CN trong
điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần. Trong đó có đề tài cấp Bộ nghiên cứu về “Chia

sẻ kinh phí giữa nhà nước và cơ sở cho dự án triển khai và đổi mới công nghệ” do
Nguyễn Thanh Hà làm chủ nhiệm, nghiờn cứu tỡnh hỡnh và cơ chế hoạt động của hệ
thống các quỹ hỗ trợ tài chính cho hoạt động KH&CN ở Việt Nam. Hay những đề tài
cấp cơ sở như: “Nâng cao hiệu quả một số chính sách thuế và tín dụng khuyến khích các
doanh nghiệp đổi mới công nghệ” do Hoàng Văn Tuyên làm chủ nhiệm, nghiên cứu về
chính sách thuế và tín dụng cùng một số nỗ lực của Nhà nước tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp trong nghiên cứu và ứng dụng KH&CN vào sản xuất kinh doanh, trên cơ
sở đó đề xuất một số biện pháp chính sách về tài chính đối với doanh nghiệp; đề tài về;
“Nghiờn cứu xõy dựng cỏc hỡnh thức hợp tỏc và cơ chế khuyến khích hợp tác viện –
doanh nghiệp phát triển sản phẩm và công nghệ của doanh nghiệp” do Hoàng Thanh
Hương làm chủ nhiệm nhằm phân tích mối quan hệ giữa hoạt động KH&CN và hoạt
động sản xuất nhằm tỡm ra và kiến nghị cỏc hỡnh thức hợp tỏc và cơ chế khuyến khích
hợp tác cho mối quan hệ này.
Đó cú một số bài viết như: “Thị trường khoa học và công nghệ; đặc trưng của
kinh tế tri thức” của GS Vũ Đỡnh Cự bàn về nhiệm vụ do Đại hội IX của Đảng đặt ra là
phải phát triển thị trường KH&CN ở Việt Nam nhưng thực tế thị trường đó như thế nào,
đó làm được gỡ và kiến nghị giải pháp thúc đẩy phát triển; bài: “Phát triển thị trường
khoa học và công nghệ Việt Nam” của TS Hồ Ngọc Luật nhằm phân tích các yếu tố
cung, cầu, môi trường pháp lý, xó hội cho thị trường này hoạt động trôi chảy, đưa ra
đánh giá bước đầu về sự phát triển thị trường này và kiến nghị các giải pháp thúc đẩy
phát triển. Các nghiên cứu này đó cú những bàn luận về nguồn vốn cho phỏt triển
KH&CN trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần. Một số bài viết về đầu tư phát

triển KH&CN, phân tích thực trạng của hoạt động đầu tư này và kiến nghị giải pháp thúc đẩy
như: “Vốn đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ vẫn chưa có lời giải hữu hiệu” của
Hoàng Văn Dụ trên diễn đàn của Bộ Khoa học và Công nghệ,
Số 2/2003; “Quy chế tài chính không phù hợp với nghiên cứu khoa học và công nghệ” của
Thu Hương, số 1/2004; "Đầu tư cho công nghệ cao cũn quỏ thấp!"
09:18' 01/04/2008; “Mong muốn chính sách khoa học và công nghệ phù hợp” trên diễn đàn
; “éầu tư cho khoa học công nghệ nông nghiệp” của Kiều Linh trên báo

Nhân dân điện tử
Nhỡn chung, cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu khoa học và bài viết hiện cụng bố chưa
phân tích phân tích một cách có hệ thống những cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hút
vốn đầu tư cho KH&CN, chưa phân tích thực trạng thu hút nguồn vốn này cho phát
triển KH&CN ở Việt Nam trong những năm gần đây và kiến nghị những giải pháp cần
thiết cho những năm tiếp theo. Vỡ vậy, đề tài mà học viên lựa chọn là mới, không trùng
lặp với các công trỡnh hiện hiện đó được công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở hệ thống húa lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về thu hút vốn đầu tư
cho phát triển KH&CN trong điều kiện nền kinh tế thị trường, luận văn phân tích và
đánh giá thực tiễn về hoạt động này ở nước ta để đề xuất giải pháp nhằm tạo động lực
thu hút vốn đầu tư cho phát triển KH&CN Việt Nam trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hút vốn đầu tư cho phát triển
KH&CN trong điều kiện của nền kinh tế thị trường.
+ Phân tích và đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư cho phát triển KH&CN ở
nước ta từ khi có Nghị quyết Trung ương hai khóa VIII về KH&CN (năm 1996) đến
nay.
+ Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm thiết thực nhằm tạo động lực mở
rộng việc thu hút vốn đầu tư cho phát triển KH&CN phục vụ đắc lực sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: toàn bộ hoạt động thu hút vốn vốn đầu tư cho phát triển
KH&CN kể cả đầu tư cho các dự án nghiên cứu và triển khai KH & CN lẫn đầu tư xây
dựng cơ cơ vật chất – kỹ thuật cho các cơ quan và tổ chức nghiên cứu KH & CN các
khu công nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: về không gian, đề tài nghiên cứu trên địa bàn cả nước; về
thời gian, kể từ khi có Nghị quyết Trung ương, khóa VIII của Đảng (năm 1996) đến

nay.
Do phạm vi là một đề tài luận văn thạc sĩ, thời hạn thực hiện đề tài ngắn, nên
việc nghiên cứu của học viên chỉ giới hạn trên cơ sở các tài liệu đó cụng bố, tiến hành
khảo sỏt thực tế một số ớt địa bàn phục vụ cho mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. Việc
khảo sát, điều tra trên quy mô lớn về lý luận và thực tiễn sẽ được tiếp tục nghiên cứu ở
các công trình tiếp theo.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
của kinh tế chính trị Mác - Lênin, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam; đồng thời sử dụng những lý thuyết của kinh tế học hiện đại về
vai trò của vốn đầu tư trong phát triển kinh tế – xã hội.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Khái quát lý luận về thu hút vốn đầu tư cho phát triển KH&CN phù hợp với
mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư cho phát triển
KH&CN ở nước ta 10 năm qua, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tạo động lực
kích thích thu hút nguồn vốn này cho phát triển KH&CN của đất nước trong thời gian
tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.

Chương 1
Cơ sở lý luận - thực tiễn về thu hút vốn đầu tư
cho khoA HọC Và CÔNG NGHệ ở việt nam

1.1. vốN ĐầU TƯ CHO KHOA HọC Và CÔNG NGHệ
1.1.1. Vốn đầu tư và đặc điểm vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ
1.1.1.1. Vốn đầu tư
Vốn đầu tư là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế thị trường. Để hiểu khái niệm

này, trước hết phải bắt đầu từ khái niệm vốn.
Theo Từ điển kinh tế hiện đại, thỡ tư bản hay vốn (capital) là một từ dùng để chỉ
một yếu tố sản xuất do hệ thống kinh tế tạo ra. Hàng hoá tư liệu vốn là hàng hoá được
sản xuất để sử dụng như yếu tố đầu vào cho quá trỡnh sản xuất tiếp theo. Vỡ vậy, tư bản
này có thể phân biệt được với đất đai và sức lao động, những thứ không được coi là do
hệ thống kinh tế tạo ra. Do bản chất không đồng nhất của nó mà sự đo lường tư bản trở
thành nguyên nhân của nhiều cuộc tranh cói trong lý thuyết kinh tế" [36, tr 129].
Theo cấu trúc giá trị của hàng hoá trong học thuyết của C. Mỏc, thỡ: Giá trị hàng
hoá = C + V + M; trong đó C là chi phí về tư bản bất biến, V là chi phí về tư bản khả
biến, M là giá trị thặng dư.
Để tiến hành tái sản xuất nhà tư bản cần chi phí về vốn cho cả tư bản bất biến và
tư bản khả biến. Tư bản khả biến ở đây hoàn toàn không đồng nghĩa với người lao động.
Nói cách khác, lao động không phải là vốn đầu tư mà chỉ có sức lao động đó chi ra mới
là yếu tố hỡnh thành vốn đầu tư.
Có quan niệm cho rằng, vốn có nghĩa là nguồn lực cho sản xuất. Muốn tiến hành
tái sản xuất thỡ cần phải chi phí về đất đai, tài chính (vốn) và lao động; theo đó người ta
thường nói: "Lao động là vốn quý", coi "lao động như là chi phí về "vốn".
Tuy nhiên, theo tác giả luận văn thỡ không nên thuần túy đều coi "lao động" là "vốn";
mà chỉ có khả năng lao động, tức là sức lao động khi nó được sử dụng để sản xuất ra các yếu
tố đầu vào cho quỏ trỡnh tỏi sản xuất thỡ mới gọi là vốn.

Vốn là biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đó bỏ ra để đầu tư. Chúng có thể
là của cải vật chất, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động, là các tài sản vật chất
khác.
Các phạm trù vốn, tài sản và đầu tư tồn tại đan xen nhau. Có vốn mới thực hiện
được đầu tư và kết quả của đầu tư lại tạo ra tài sản và vốn. Trong thực tế, người ta
thường gọi vốn cố định là đầu tư dài hạn và vốn lưu động là đầu tư ngắn hạn.
Đầu tư cũng là một khái niệm kinh tế. Theo nghĩa rộng, đầu tư là sự hy sinh các
nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đem lại cho nhà đầu tư các
kết quả nhất định trong tương lai, mà kết quả này thường phải lớn hơn các chi phí về

các nguồn lực đó bỏ ra. Nguồn lực bỏ ra cú thể là tiền, là tài nguyờn thiờn nhiờn, là tài
sản vật chất khỏc hoặc sức lao động. Sự biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đó bỏ
ra trờn đây gọi là vốn đầu tư.
Trong các kết quả đạt được có thể là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ, nguồn nhân
lực tăng thêm, Những kết quả của đầu tư đem lại là sự tăng thêm tài sản tài chính (tiền
vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sỏ, của cải vật chất khỏc), tài sản trớ tuệ (trỡnh
độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật, của người dân). Các kết quả đó đạt được
của đầu tư đem lại góp phần tăng thêm năng lực sản xuất của xó hội.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở
hiện tại nhằm đem lại cho nhà đầu tư hoặc xó hội kết quả trong tương lai lớn hơn các
nguồn lực đó sử dụng để đạt được kết quả đó.
Như vậy, nếu xem xét trên giác độ đầu tư thỡ đầu tư là những hoạt động sử dụng
các nguồn lực hiện có để làm tăng thêm các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và trí tuệ để
cải thiện mức sống của dân cư hoặc để duy trỡ khả năng hoạt động của các tài sản và
nguồn lực sẵn có. Tương ứng với phạm vi đầu tư này có phạm trù tổng vốn đầu tư mà
thường được gọi là vốn đầu tư phát triển, có thời kỳ gọi là vốn đầu tư phỏt triển toàn xó
hội.
Việc xác định vốn đầu tư tùy thuộc vào phạm vi nghiên cứu. Dưới góc độ tài
chính - tiền tệ, vốn đầu tư là tổng số tiền biểu hiện nguồn gốc hình thành của tài sản
được đầu tư trong kinh doanh để tạo ra thu nhập và lợi tức [26, tr.29]. Dưới góc độ tài

sản, vốn đầu tư là những tài sản có khả năng tạo ra thu nhập và bản thân nó cũng được
cái khác tạo ra [39, tr.56]. Để một “hộp đen” của doanh nghiệp hoạt động, vốn là một
trong ba yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất (lao động, đất đai, vốn). Vốn bao gồm các
sản phẩm lâu bền được chế tạo để phục vụ sản xuất (tức là máy móc công cụ thiết bị,
nhà cửa, kho dự trữ, thành phẩm hoặc bán thành phẩm” [39, tr.300]
ở Việt Nam, khái niệm vốn đầu tư được đưa ra trong cuốn “Từ điển tiếng Việt ” của
Viện Ngôn ngữ học như sau: “Vốn là tiền của bỏ ra lúc đầu, dùng trong sản xuất kinh doanh,
nhằm mục tiêu sinh lợi” [39, tr.1126]. Nguồn vốn đầu tư có thể là tiền hay tài sản được trị giá
hoá. Nhưng với tư cách là vốn thì tiền hay tài sản phải được đầu tư vào hoạt động sản xuất,

kinh doanh để tạo ra hàng hoá, dịch vụ nhằm mục tiêu có thu nhập trong tương lai. Nghĩa là
vốn luôn gắn với sự vận động và đảm nhiệm chức năng sinh lời.
Tóm lại, ta có thể hiểu vốn đầu tư từ hai góc độ: Dưới góc độ doanh nghiệp hoặc
các đơn vị sản xuất kinh doanh, nếu khoản đầu tư nào của nhằm đem lại kết quả trong
tương lai (lợi nhuận), kể cả việc đầu tư vào mua sắm tài sản đó qua sử dụng; đầu tư vào
bất động sản; đầu tư vào cầm cố, thế chấp hoặc đầu tư vào thị trường chứng khoán, thỡ
cũng được gọi là vốn đầu tư. Nhưng nếu xột trong toàn bộ nền kinh tế quốc dõn thỡ nú
lại khụng thuộc về vốn đầu tư phát triển. Bởi vỡ, nếu xột trờn phạm vi toàn xó hội, thỡ
những hoạt động này không làm tăng tổng vốn của quốc gia. Nó chỉ là sự chuyển dịch
từ đơn vị này sang đơn vị khác mà thôi.
Từ cách đặt vấn dề như vậy, do tính chất của luận văn là nghiên cứu vốn đầu tư
cho khoa học và công nghệ, nên nội dung của đề tài chỉ tiếp cận nguồn vốn đầu tư dưới
góc độ kinh tế xó hội hay trờn phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dõn, chứ khụng tiếp
cận vốn đầu tư từ góc độ doanh nghiệp.
Trong kinh tế thị trường, vốn đầu tư do là lực nguồn tài chính nên luôn vận động và
đảm nhiệm chức năng sinh lời. Ta có thể nhìn nhận bản chất của vốn đầu tư thông qua các
nội dung sau:
Một là, về hình thái biểu hiện thì vốn đầu tư là hình thái giá trị. Giá trị đó được
ứng ra để chuyển hoá nó thành các yếu tố đầu vào cấu thành quá trình sản xuất. Trải qua
quá trình sản xuất, giá trị của vốn được lớn lên.

Xét về mặt cụ thể, vốn đầu tư được tồn tại ở các dạng: tài sản hữu hình, tài sản vô
hình và tài sản tài chính. Những tài sản này tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình
sản xuất, tạo ra hàng hoá và dịch vụ; đồng thời làm tăng giá trị. Vốn là giá trị thực của tài
sản hữu hình, tài sản vô hình và là tài sản tài chính đưa vào đầu tư để tạo ra hàng hoá,
dịch vụ nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Hai là, vốn đầu tư là một loại hàng hoá đặc biệt. Tính đặc biệt của nó thể hiện ở
chỗ, vốn đầu tư tạo khả năng sinh lời. Với tư cách là hàng hoá đặc biệt, quyền sở hữu
vốn đầu tư và quyền sử dụng vốn đầu tư có thể được tách rời nhau. Đặc điểm này không
thể có ở các loại hàng hoá thông thường. Chủ sở hữu vốn đầu tư sẽ nhận được một

khoản lợi tức (giá bán hay lãi suất quyền sử dụng vốn) khi bán quyền sử dụng vốn cho
người mua (các nhà đầu tư). Nhà đầu tư khi mua quyền sử dụng vốn phải bỏ ra một
khoản gọi là chi phí (giá mua quyền sử dụng vốn) trả cho chủ sở hữu và nhận về mình
quyền sử dụng vốn. Nhờ có sự tách rời giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn
làm cho vốn trở nên linh hoạt trong lưu thông và sinh lời. Do đó, khi sử dụng trong hoạt
động đầu tư, vốn không những không bị “tan biến” giá trị và giá trị sử dụng mà lại được
bảo tồn, phát triển giá trị và giá trị sử dụng của chúng. Theo C.Mác, "Hàng hoá tư bản
có đặc tính là khi giá trị sử dụng của nó được đem tiêu dùng đi, hàng hoá tư bản không
những giữ được giá trị và giá trị sử dụng của nó, mà còn làm cho giá trị sử dụng đó tăng
thêm nữa" [25, tr.537].
Tuy nhiên, để đồng vốn phát sinh lợi nhuận (tăng giá trị), nó phải được đặt trong
môi trường cụ thể, có sự tương tác của các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh. Từ môi
trường này, các nhà đầu tư có thể lựa chọn kênh cung cấp vốn, cơ chế hoạt động và hình
thức đầu tư.
Ba là, vốn đầu tư có quan hệ mật thiết với thời gian. Theo C.Mác, “Tiền không chỉ
được đem lại với hai điều kiện, một là nó sẽ quay về điểm xuất phát sau một thời hạn nhất
định, và hai là, nó sẽ quay về điểm đó với tư cách là tư bản đã thực hiện, nghĩa là sau khi đã
thực hiện được các giá trị sử dụng của nó, thực hiện được các khả năng của nó là sản xuất ra
giá trị thặng dư” [25, tr.525]. Vậy, chủ sở hữu chuyển nhượng lại quyền sử dụng vốn
cho nhà đầu tư trong một khoản thời gian xác định. Sau khi vốn chuyển qua chu kỳ

vận động, nó quay về tay chủ sở hữu, với một lượng giá trị lớn hơn. Lượng giá trị
lớn hơn đó là lợi tức của chủ sở hữu vốn hay lãi suất phải trả của nhà đầu tư khi sử
dụng vốn. Mức lãi tức được tính bằng tỷ lệ phần trăm so với lượng vốn khi chủ sở
hữu vốn nhượng, bán quyền sử dụng vốn theo đơn vị thời gian (tháng, quý, năm ),
phù hợp với nền kinh tế thị trường [31, tr.14]. Thông thường, lãi suất tỷ lệ thuận với
thời gian vay. Có nghĩa là thời gian vay vốn dài thì lãi suất cao và ngược lại thời gian
vay vốn ngắn thì lãi suất thấp.
Từ phân tích những nhận thức về vốn của những nhà kinh tế, có thể hiểu vốn đầu
tư là toàn bộ giá trị của tất cả các yếu tố sản xuất như tiền tệ, máy móc, thiết bị, nhà

xưởng, vị trí kinh doanh, bằng phát minh sáng chế được bỏ vào đầu tư sản xuất, kinh
doanh nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận và làm tăng tổng nguồn vốn quốc gia.
1.1.1.2. Các nguồn vốn đầu tư
Có nhiều cách xác định nguồn vốn đầu tư.
- Cách thứ nhất, xác định nguồn vốn theo hình thái của đầu tư, có vốn hữu hình
và vốn vô hình. Vốn hữu hình là loại vốn đầu tư có hình thái vật chất cụ thể gồm tài sản
hữu hình, tiền mặt, những giấy tờ có giá trị thanh toán. Đối với mọi chủ thể sản xuất
kinh doanh, vốn đầu tư được chuyển hoá phần lớn dưới hình thái vốn hữu hình. Vốn vô
hình là nguồn vốn tiền tệ đã được chi phí nhằm sử dụng những tài sản vô hình để phục
vụ yêu cầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Phần vốn này bao gồm quyền sở hữu vị
trí kinh doanh, chi phí sử dụng bí quyết công nghệ, chi phí cho việc phát minh sáng
chế Trong thực tế, tỷ trọng vốn vô hình ngày càng chiếm phần lớn trong tổng vốn đầu
tư.
- Cách thứ hai, xác định theo thời gian sử dụng, nguồn vốn đầu tư được phân
chia thành: vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và vốn dài hạn. Vốn ngắn hạn, lượng tiền được
sử dụng để đầu tư trong thời hạn 1 năm; vốn trung hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu
tư trong thời hạn từ 1 năm đến 5 năm; và vốn dài hạn là lượng tiền được sử dụng để đầu
tư có kỳ hạn từ 5 năm trở lên.
- Cách thứ ba, xác định theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, có: vốn đầu tư trực
tiếp và vốn đầu tư gián tiếp. Vốn đầu tư trực tiếp là loại vốn được đầu tư vào hoạt động

kinh tế do nhà đầu tư bỏ ra và tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư này
có thể dưới nhiều hình thức khác nhau như hợp đồng, liên doanh, lập công ty cổ phần.
Vốn đầu tư gián tiếp là loại vốn được đầu tư vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại hiệu
quả cho bản thân người có vốn cũng như cho xã hội, nhưng người có vốn không trực
tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư gián tiếp được biểu hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau như mua cổ phiếu, tín phiếu, tín dụng
- Cách thứ tư, xác định theo nguồn gốc xuất xứ, có: nguồn vốn trong nước và
nguồn vốn nước ngoài. Vốn đầu tư trong nước là nguồn vốn được hình thành từ tiết
kiệm trong nước bao gồm tiết kiệm từ ngân sách nhà nước, tiết kiệm của các doanh

nghiệp và tiết kiệm của dân cư. Ngoài ra, còn bao gồm nguồn vốn tín dụng tín dụng nhà
nước, nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tiết kiệm của ngân sách nhà nước là phần vốn
được dành để chi cho đầu tư phát triển, không tính đến các khoản viện trợ không hoàn
lại của chính phủ và các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, các khoản vay trong nước, vay
nước ngoài của chính phủ để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Tiết kiệm của doanh
nghiệp là phần lãi sau thuế được các doanh nghiệp trích lại cho đầu tư phát triển. Nguồn
vốn dành cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp còn bao gồm cả nguồn vốn thu được từ
khấu hao tài sản cố định. Tiết kiệm của dân cư là phần thu nhập để dành chưa tiêu dùng của
các hộ gia đình và cá nhân. Nguồn vốn tín dụng nhà nước, là hình thức vay nợ của Nhà
nước thông qua kho bạc, được thực hiện chủ yếu bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ,
do bộ tài chính phát hành.
Trong trường hợp nhu cầu chi tiêu của ngân sách lớn, nhưng nguồn thu lại không
thể đáp ứng được. Để thoả mãn nhu cầu này chính phủ thường cân đối ngân sách bằng
cách phát hành trái phiếu chính phủ. Cũng có thể chính phủ tiến hành một dự án nào đó,
nhưng không muốn sử dụng vốn ngân sách, thì dự án này có thể được thực hiện bằng
vay vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu chính phủ. Nước ta đã và đang phát hành
các loại trái phiếu chính phủ như: tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc
Vốn tín dụng là nguồn vốn tại các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính
trung gian khác như công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, công ty bảo hiểm Nguồn
vốn này có vai trò rất quan trọng trong đầu tư phát triển. Các tổ chức này có ưu điểm là

thoã mãn được mọi nhu cầu về vốn của pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế, nếu những
đối tượng vay vốn chấp hành đầy đủ những quy chế tín dụng. Sở dĩ các tổ chức này có thể
thu hút, huy động nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế với khối lượng lớn,
bởi vì các tổ chức này đã sử dụng dưới nhiều hình thức huy động khác nhau rất phong
phú và đa dạng. Mặt khác, thời hạn cho vay cũng rất linh hoạt (bao gồm vay ngắn hạn, trung
hạn và dài hạn), tuỳ thuộc vào nhu cầu của người đi vay Bởi vậy, trong lĩnh vực đầu tư phát
triển thì việc tiếp cận vốn qua tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian là một
phương thức rất quan trọng không thể thiếu được.
Vốn nước ngoài là nguồn vốn tài trợ của các quốc gia, các tổ chức quốc tế và cá

nhân người nước ngoài, vốn đầu tư trực tiếp của các nhà sản xuất kinh doanh, vốn tín
dụng của các ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế. Đối với nước ta, còn có vốn do
người Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi về cho gia đình hoặc đầu tư cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh ở trong nước.
Nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (Offcial Development Assistance -
ODA) là nguồn vốn do các cơ quan chính thức của chính phủ một số nước và các tổ
chức quốc tế viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với lãi suất thấp, thậm chí không
có lãi suất. Nguồn vốn này, thường được tập trung vào ngân sách của Chính phủ để
đầu tư phát triển hoặc cho vay. Hình thức viện trợ của nguồn vốn này ngoài vốn
ngoại tệ, thường được đầu tư dưới dạng máy móc, thiết bị, công nghệ, công trình
hoặc chuyên gia, có thể liên quan đến hỗ trợ cơ bản hay hay hỗ trợ kỹ thuật hoặc cả
hai hình thức này. Đây là nguồn vốn có quy mô tương đối lớn, được sử dụng đầu tư
thực hiện các công trình quốc gia như năng lượng, giao thông, nông nghiệp, thuỷ lợi,
thông tin liên lạc Hoặc ưu tiên đầu tư các chương trình y tế, dân số và kế hoạch
hoá gia đình; giáo dục đào tạo và giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm
nghèo, phát triển nông thôn và miền núi Như vậy, ODA là nguồn vốn cực kỳ quan
trọng và có ý nghĩa cho công cuộc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển.
Thông qua dự án ODA, kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội của nước tiếp nhận được
nâng lên. Nếu các nước tiếp nhận đầu tư sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA sẽ là

nhân tố tích cực để nâng cao trình độ dân trí, chất lượng lao động và thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế- xã hội.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là
nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp vào một nước khác để tiến hành kinh doanh
nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Hình thức phổ biến của đầu tư trực tiếp là hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
đồng; doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp đồng xây
dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), xây dựng- chuyển giao - kinh doanh (BTO) và
xây dựng - chuyển giao (BT).
Vốn nước ngoài là nguồn ngoại lực rất quan trọng cho đầu tư phát triển ở một

nước đang phát triển khi mà trình độ kinh tế và thu nhập của dân cư trong nước còn thấp
kém. Trong các nguồn vốn nước ngoài, thì nguồn đầu tư trực tiếp (FDI) có thể bù đắp
được sự thiếu hụt vốn trong nước cho đầu tư tạo việc làm và thu nhập. Qua đó, để tiếp
nhận và chuyển giao công nghệ, mô hình và phương thức quản lý tiên tiến, tìm kiếm thị
trường tiêu thụ và tăng thu ngoại tệ. Tuy nhiên, việc thu hút FDI cũng có thể làm nảy
sinh nhiều vấn đề. Vì khi thu hút FDI, các nước đang phát triển sẽ gặp không ít khó
khăn trước những tác động tiêu cực. Nếu không phát hiện kịp thời và ngăn chặn những
tiêu cực từ nguồn vốn này thì sẽ gây ra hậu quả xấu như phá sản các ngành truyền
thống, gây tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái, nền kinh tế thiếu sự phát triển bền
vững
Vốn của các tổ chức phi chính phủ (NGO) là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức
phi chính phủ chủ yếu là cho các nhu cầu nhân đạo như nhu cầu cung cấp thuốc men,
lương thực, quần áo cho nạn nhân bị thiên tai, dịch bệnh, địch hoạ Ngày nay, hình
thức nguồn vốn này có sự thay đổi: chuyển từ viện trợ nhân đạo sang hỗ trợ cho việc
phát triển các công trình kết cấu hạ tầng có quy mô vừa và nhỏ. Nếu biết tranh thủ, khai
thác nguồn vốn này thì sẽ có tác dụng tốt đối với các công trình có quy mô vừa và nhỏ ở
nông thôn, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Vốn của Việt là nguồn vốn của người Việt Nam sinh sống và làm việc ở nước
ngoài. Hiện nay, có trên 3 triệu người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước

ngoài, hàng năm gửi về nước khoảng 4 - 5 tỷ USD. Đây là một nguồn vốn lớn, góp phần
không nhỏ vào việc đáp ứng yêu cầu về vốn đầu tư của nền kinh tế.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện
hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam, bao gồm: Doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế thành lập theo Luật doanh nghiệp; Hợp tác xó, liờn hiệp hợp tỏc
xó thành lập theo Luật hợp tỏc xó; Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành
lập trước khi Luật này có hiệu lực; Hộ kinh doanh, cá nhân; Tổ chức, cá nhân nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
và các tổ chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài là tổ
chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam.

- Nếu tiếp cận theo góc độ vĩ mô của nền kinh tế, thỡ vốn đầu tư được gọi là vốn
đầu tư phát triển toàn xó hội và được cấu thành bởi ba bộ phận: vốn đầu tư cơ bản, vốn
lưu động bổ sung và vốn đầu tư phát triển khác.
Vốn đầu tư cơ bản là số vốn để tạo ra tài sản cố định, bao gồm vốn đầu tư xây
dựng cơ bản và chi phí cho sửa chữa lớn tài sản cố định. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là
một thuật ngữ đó được sử dụng khá quen thuộc ở nước ta với nội dung bao hàm những
chi phí bằng tiền để xây dựng mới, mở rộng, xây dựng lại hoặc khôi phục năng lực sản
xuất của tài sản cố định trong nền kinh tế. Về thực chất, loại vốn này chỉ bao gồm
những chi phí làm tăng thêm giá trị tài sản cố định. Nó có hai bộ phận hợp thành: vốn
đầu tư để mua sắm hoặc xây dựng mới tài sản cố định và chi phí cho sửa chữa lớn tài
sản cố định. Hai bộ phận này bao gồm: chi phí cho việc thăm dũ, khảo sỏt và quy hoạch
xõy dựng chuẩn bị cho việc đầu tư; chi phớ thiết kế cụng trỡnh; chi phí xây dựng; chi
phí mua sắm, lắp đặt máy móc, thiết bị và những chi phí khác thuộc nguồn vốn đầu tư
xây dựng cơ bản; chi phí cho việc sửa chữa lớn nhà cửa, vật kiến trúc và máy móc thiết
bị, sửa chữa lớn các tài sản cố định khác. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận
của vốn đầu tư cơ bản được sử dụng để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật như đó nờu
trờn.
Vốn lưu động bổ sung là những khoản đầu tư làm tăng thêm tài sản lưu động của
toàn xó hội.

Vốn đầu tư phát triển khác là các khoản đầu tư của xó hội nhằm tăng năng lực
phát triển của xó hội. Sự phỏt triển của xó hội ngoài yếu tố làm tăng tài sản cố định và
tài sản lưu động, cũn phải làm tăng nguồn lực khác như: nâng cao dân trí, hoàn thiện
môi trường xó hội, cải thiện môi trường sinh thái, hỗ trợ cho các chương trỡnh phũng
chống tệ nạn xó hội và cỏc chương trỡnh phỏt triển khỏc.
Vốn đầu tư phát triển khác cũn bao gồm cả những khoản chi phí cho KH&CN,
nghiên cứu và phát triển, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao trỡnh độ nghiên cứu. Do
việc phát triển KH&CN, nghiên cứu và triển khai, đào tạo cán bộ trong xó hội hiện nay
cú mặt ở hầu hết cỏc ngành, cỏc cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những
trung tâm, đơn vị lớn có ngân sách riêng, cũn có rất nhiều cơ quan đơn vị khác phần

ngân sách này là một bộ phận của chi phí sản xuất kinh doanh hoặc kinh phí hoạt động
thường xuyên. Vỡ vậy rất khú cú thể thu thập thụng tin đầy đủ.
1.1.1.3. Đặc điểm của vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ
Khoa học là hoạt động khám phá để sinh ra tri thức. Công nghệ là tập hợp các
phương pháp, quy trỡnh, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện để biến đổi các nguồn
lực thành hàng hóa và dịch vụ mong muốn.
Trước đây, do có không ít người thường cho rằng khoa học là hầu như không
biên giới, cũn cụng nghệ thỡ phải mua bỏn khỏ tốn kộm, cho nên việc đầu tư kinh
doanh chỉ chỳ ý vào lĩnh vực cụng nghệ. Thế nhưng hiện nay, khoảng cách giữa
KH&CN ngày càng được rút ngắn, thậm chí rất ngắn. Ranh giới giữa khoa học và công
nghệ khó tách bạch. Do vậy, đầu tư vào công nghệ hay đầu tư vào khoa học đều mang ý
nghĩa như nhau. Chúng ta phải có cách nhỡn động đối với đầu tư cho KH&CN và đặt
hoạt động đầu tư này trong bối cảnh tổng thể của đầu tư phát triển nói chung và do vậy
khẳng định mối liên hệ mật thiết, sự phụ thuộc chặt chẽ của đầu tư cho KH&CN vào các
hoạt động đầu tư khác trong phát triển kinh tế xó hội.
Vốn đầu tư cho KH&CN là một loại đầu tư phát triển. Nó là nguồn vốn được bỏ
ra để thực hiện mục đích đầu tư phát triển KH&CN nhằm tăng năng lực KH&CN của
một đơn vị và của quốc gia, thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Hoạt
KH&CN bao gồm nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ

khoa học và công nghệ, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản
xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển KH&CN. Đây là hoạt động có tính đặc thù.
Do vậy, vốn đầu tư cho KH&CN cũng mang tính đặc thù cả trong nội dung và phương
thức hoạt động cuả nó. Tính đặc thù này xuất phát từ đối tượng phục vụ của nguồn vốn
là hoạt động KH&CN. Từ cách đặt vấn đề như trên, ta có thể khái quát những đặc điểm
cơ bản của nguồn vốn đầu tư này:
Một là, đối tượng đầu tư không chỉ đơn thuần thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh để nhà đầu tư trực tiếp thu lợi nhuận, thu được một giá trị lớn hơn giá trị vốn đó
bỏ ra, mà khoản đầu tư này cũn lấy đối tượng là phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu,
triển khai tỡm kiếm, phỏt hiện tri thức mới và vận dụng những tri thức đó vào việc tạo

ra những phương tiện, phương pháp mới thúc đẩy sản xuất và nâng cao chất lượng cuộc
sống xó hội. Nó không là bộ phận đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu
động, mà là là bộ phận đầu tư để tăng năng lực sản xuất và để nâng cao chất lượng của
sự tăng trưởng. Đầu tư cho phát triển KH&CN thực chất là đầu tư cho phát triển tri
thức. Bởi vậy, đây là hỡnh thức đầu tư cú tớnh “sống cũn” trong việc nõng cao năng
suất lao động của từng doanh nghiệp cũng như thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế của một quốc gia.
Hai là, xột theo chu trỡnh nghiờn cứu – triển khai – sản xuất, thỡ hoạt động
KH&CN nằm trong giai đoạn trước khi đưa ra sản xuất đại trà (hỡnh 1).
Hỡnh 1.1: Phạm vi của hoạt động KH&CN trong hệ thống sản xuất


Theo cách tiếp cận này, đầu ra của các dự án KH&CN (sản phẩm khoa học và
sản phẩm công nghệ) mới chỉ dừng lại ở sản phẩm loạt nhỏ, không thể bán đại trà và
mới chỉ có khả năng thương mại hóa.
Nghi
ên
cứu

Nghiên
cứu
ứng
d
ụng

Triể
n
khai
Sản
xuất

Ho
ạt
đ
ộng KH&CN


Do mục tiêu của một dự án KH&CN là tạo ra hoặc hoàn thiện các yếu tố liên
quan đến sự khám phá hoặc đến công nghệ (áp dụng, cải tiến, hấp thụ, làm chủ công
nghệ) và sản phẩm của dự án có khả năng chuyển giao (thương mại hóa), nên trong quá
trỡnh thực hiện dự ỏn, bản thõn người trong cuộc sẽ phải có những hoạt động triển khai
cụ thể mà những hoạt động này có thể nằm trong những giai đoạn khác nhau trong chu
trỡnh nghiờn cứu – triển khai – sản xuất.
Sản phẩm của dự án KH&CN có thể là tri thức mới, là công nghệ hoàn chỉnh với
đầy đủ tính năng mong muốn và có khả năng thương mại hóa. Sản phẩm của KH&CN
thực chất là tri thức, chất xám nên khó lượng định, được thể hiện dưới dạng vật chất hữu
hỡnh như bằng phát minh sáng chế hoặc vô hỡnh dưới dạng ý tưởng công nghệ. Việc
xác định giá trị của hàng hóa này là điều rất khó, do lao động sáng tạo ra hàng hóa là lao
động trí óc và tồn tại sự bất đối xứng thông tin giữa bên bán và bên mua. Thực tế cho
thấy, sự thành công trong việc tạo ra tri thức, công nghệ và khả năng chuyển giao,
thương mại hóa phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: kinh tế, kỹ thuật, tài chớnh, xó hội,
v.v Điều này có nghĩa là đầu tư vào các dự án KH&CN thường có độ mạo hiểm và rủi
ro tương đối. Những rủi ro này thường gắn với rủi ro về mặt công nghệ và rủi ro về mặt
thị trường.
Rủi ro về mặt công nghệ gắn nhiều tới các yếu tố kỹ thuật, các yếu tố đầu vào
khác của dự án (kinh tế, tài chính). Ví dụ, Edison – một nhà sáng chế ra dây tóc bóng
đèn điện, đó thất bại hàng nghỡn lần thớ nghiệm mới chế tạo thành cụng dõy túc đèn
điện, Marie Curie cũng thất bại hàng nghỡn lần mới phỏt minh ra chất phúng xạ
uranium. Điều này nghĩa là nếu sử dụng tiền túi tự đầu tư để nghiên cứu thỡ sự mạo
hiểm cú thể dẫn đến nguy hiểm. Thực tế, đó cú nhiều nhà khoa học ở cỏc nước tư bản
công nghiệp bị phá sản vỡ thất bại. Rủi ro về mặt thị trường gắn nhiều tới các yếu tố

liên quan tới cầu (nhu cầu và sức mua) của thị trường.
Đầu tư cho KH&CN tiềm ẩn sự “mạo hiểm”. Ngay cả tại các nước phát triển, tỷ
lệ nghiên cứu thành công có thể áp dụng vào đời sống và sản xuất cũng chỉ khoảng trên
dưới 20%.
Tuy vậy, đi cùng với nó, một dự án khi thành công (tạo ra sản phẩm là tri thức,

công nghệ hoàn chỉnh, đáp ứng được nhu cầu thị trường), thỡ nhà đầu tư sẽ thu được lợi
nhuận lớn, thậm chí là rất lớn nếu đó là những dự án mang tính đột phá. Đây chính là
một điểm khá hấp dẫn các nhà đầu tư.
Ba là, KH&CN là yếu tố “đầu vào” rất quan trọng để biến đổi các nguồn lực sản
xuất, là thước đo trỡnh độ phát triển của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Trong kinh
tế thị trường, do áp lực cạnh tranh và lợi nhuận, từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh
tế đều phải coi phát triển khoa học và đổi mới công nghệ sản xuất là một đũi hỏi cú tớnh
sống cũn. Bí quyết về KH&CN phải có chủ sở hữu. Việc sản xuất và mua bán loại tài
sản này tất yếu sẽ diễn ra, do đó tất yếu hỡnh thành và phát triển thị trường KH&CN.
Kinh tế thị trường càng phát triển, càng thúc đẩy phân công, chuyên môn hóa
sâu. Việc một chủ thể có được một sản phẩm KH&CN cũng không nhất thiết phải do
chính chủ đó tạo ra. Họ có thể mua trên thị trường. Do đó, tồn tại quan hệ cung – cầu về
KH&CN. Dũng chảy của vốn đầu tư cho KH&CN phải tuân theo quan hệ cung – cầu
trên thị trường. Tức là người ta chỉ đầu tư vào lĩnh vực hay dự án KH&CN nào mà xó
hội cú nhu cầu. Theo quy luật về dũng chảy của cỏc nguồn vốn đầu tư sản xuất, kinh
doanh, thỡ sức cầu là một yếu tố quyết định việc chủ kinh tế nên đầu tư vào dự án
KH&CN nào và mức độ nhiều hay ít. Bởi vỡ loại vốn đầu tư này cũng tỡm kiếm lợi
nhuận. Nú sẽ vận động từ nơi hoạt động đầu tư kém hiệu quả đến nơi hoạt động đầu tư
có hiệu quả hơn.
Trên thị trường KH&CN, sự cạnh tranh giữa các cơ sở khoa học với tư cách là
người bán (nghiờn cứu, tỡm kiếm sản phẩm tốt nhất phục vụ khỏch hàng), và cạnh tranh
giữa các chủ doanh nghiệp với tư cách là người mua (lựa chọn sản phẩm tốt nhất của
các cơ sở khoa học phục vụ mục tiêu phát triển). Điều đó có nghĩa là trong kinh tế thị
trường, đầu tư cho phát triển KH&CN không chỉ đơn thuần là công việc được Nhà nước

bao cấp như đó hiểu và làm trước đây ở nước ta. Đầu tư cho KH&CN trước hết phải là
hoạt động đầu tư cho sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp không phân biệt
thuộc thành phần kinh tế nào trong cơ chế thị trường. Vỡ khoản đầu tư này gắn với lợi
ích thiết thân của mỗi chủ kinh tế.

Tuy nhiên, đầu tư vào KH&CN không phải là vỡ bản thõn KH&CN, mà lại vỡ
đầu tư đó có đem lại cho chủ sản xuất kinh doanh một hàng hóa và dịch vụ nào đó có
chi phí thấp hơn và có chất lượng sản phẩm cao hơn năng lực hiện có hay không. Đầu tư
cho KH&CN là khoản đầu tư phái sinh, chỉ xuất hiện khi có nhu cầu đầu tư tạo sản
phẩm mới hoặc làm tăng thêm năng lực sản xuất kinh doanh của một hàng hóa, dịch vụ
nào đó trên thị trường.
Bốn là, do hiệu quả của hoạt động KH&CN có độ trễ nhất định, không dễ thấy,
nên việc đầu tư không thể đũi hỏi nhỡn thấy hiệu quả ngay lập tức. Đầu tư cho KH&CN
là đầu tư phát triển, đầu tư cho tương lai. Nghiên cứu đó mất nhiều thời gian, đưa kết
quả nghiên cứu vào cuộc sống cũng cần có thời gian, để kết quả nghiên cứu phát huy
hiệu quả lại cần thêm thời gian nữa. Đây chính là quá trỡnh “thương mại hóa” kết quả
nghiên cứu.
Trong lịch sử, nhiều phát minh vĩ đại phải hàng chục năm sau mới được xó hội
biết đến. Nhưng nếu không đầu tư cho nghiên cứu hôm nay thỡ khụng bao giờ cú kết
quả ngày mai.
Đầu tư cho KH&CN ngoài hiệu quả trực tiếp, cũn cú hiệu quả tiềm năng (Ví dụ,
đầu thập niên 70 thế kỷ XX, Việt Nam bắt đầu nghiên cứu về ưu thế lai, 25 năm sau
đánh bật được các công ty nước ngoài, giành lại thị phần ngô giống lai ở Việt Nam);
hiệu quả mang tính tích hợp như: Việt Nam chặn đứng được dịch SARS sớm nhất thế
giới là nhờ công của các nhà nghiên cứu siêu vi trùng, dịch tễ học, bác sĩ điều trị; hiệu
quả gián tiếp, như công trỡnh nghiờn cứu sản xuất dõy hàn lừi thuốc bằng vật liệu trong
nước ngoài hiệu quả kinh tế cũn gúp phần vào nõng cao chất lượng đóng tàu của Việt
Nam.
Nhiều sản phẩm khoa học mang lại hiệu quả lớn nhưng là hiệu quả gián tiếp hoặc
vô hỡnh. Vớ dụ, một phần mềm diệt virus mỏy tớnh. Hiệu quả kinh tế trực tiếp của nú

rất khú nhỡn thấy. Nhưng ở một nước có khoảng 10 triệu máy tính cá nhân, nếu không
có phần mềm diệt virus hiệu quả, khi bị virus tấn công trên diện rộng, chi phí sửa chữa
một máy có thể tới vài chục đô la. Nhân lên cả xó hội thỡ tổn thất là rất lớn, chưa kể
thiệt hại do cơ sở dữ liệu quản lý của cả xó hội bị phỏ hủy, trong khi việc bỏ ra vài

nghỡn đôla để đầu tư nghiên cứu phần mềm diệt virus có thể cứu được cả chục triệu cái
máy tính trên, giảm tổn thất cho xó hội hàng nghỡn tỷ đồng.
Một ví dụ khác, nghiên cứu chế tạo thành công hệ thống xylanh nõng hạ thủy lực
tải trọng lớn (400 tấn) ở cụng trỡnh thủy điện Sơn La. Hiệu quả nhỡn thấy được có thể
chỉ là mấy triệu USD tiết kiệm được so với mua của nước ngoài, nhưng hiệu quả vô
hỡnh chớnh là sản phẩm khoa học này đó giỳp rỳt ngắn thời gian thi cụng nhà mỏy,
phỏt điện trước thời hạn 2 năm, cung cấp cho đất nước hàng chục tỷ kWh điện, đem
lại lợi ích kinh tế - xó hội hàng tỷ USD. Đó là chưa kể những lợi ích khác như chúng
ta làm chủ được công nghệ chế tạo, không phụ thuộc vào nước ngoài, có thể sử dụng
cho các công trỡnh khỏc tiếp theo như thủy điện Lai Châu, tiếp tục mang lại hiệu quả
kinh tế cao.
Năm là, đầu tư cho KH&CN cũng là hoạt động đầu tư trong kinh tế thị trường để
tạo ra sản phẩm hàng hóa. Do vậy, nguồn huy động vốn cho hoạt động đầu tư này cũng
tất yếu thông qua thị trường. Các hỡnh thức tớn dụng, cổ phiếu và trỏi phiếu cũng là
kênh dẫn vốn thiết yếu cho hoạt động đầu tư này.
Tuy nhiên, do hoạt động KH&CN có độ trễ, hiệu quả hoạt động của nó là gián
tiếp hoặc vô hỡnh, nờn sự hỗ trợ về tài chớnh của Nhà nước là rất cần thiết cho các hoạt
động KH&CN, nhất là đối với các nghiên cứu cơ bản, có tính chất đột phá nhằm nâng
cao tiềm lực KH&CN quốc gia.
1.1.2. Sự cần thiết phải thu hút vốn đầu tư cho phát triển khoa học và công
nghệ
Vốn đầu tư có tầm quan trọng đặc biệt. Nó là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định
tốc độ tăng trưởng kinh tế, phỏt triển xó hội và bảo vệ, cải thiện mụi trường. Trên bình
diện vĩ mô tất cả các chiến lược, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội đều rất cần
đến vốn đầu tư. Đối với hoạt động KH&CN, vốn đầu tư có vai trũ là điều kiện tiên

quyết. Nếu khụng cú vốn, cỏc dự ỏn KH&CN chỉ cú thể dừng lại ở ý tưởng và sự mong
muốn, chứ không thể trở thành hiện thực. Vốn đầu tư là điều kiện không thể thiếu được
để nâng cao năng lực KH&CN của một doanh nghiệp, một tổ chức và của một quốc gia.
Để thực hiện tốt chức năng và vai trò của KH&CN, yêu cầu đặt ra phải thu hút

vốn đầu tư để tổ chức việc nghiên cứu, triển khai các dự án KH&CN, đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở KH&CN trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân
cũng như trong từng ngành, lĩnh vực kinh tế, xã hội là cần thiết và cấp bách.
1.1.2.1. Tính cấp thiết phải giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư rất lớn cho
KH&CN với tình trạng thiếu vốn và sự hạn hẹp của ngân sách Nhà nước
Nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH phấn đấu đến năm 2020 trở
thành nước công nghiệp. Trong giai đoạn này, phải đẩy mạnh phát triển KH&CN, coi
đó là điều kiện để đẩy nhanh tiến trình và thực hiện CNH, HĐH có hiệu quả. Thực chất
của CNH, HĐH là phát triển KH&CN. Điều này có nghĩa là nguồn vốn đầu tư cho phát
triển KH&CN phải rất lớn mới có thể đáp ứng được yêu cầu.
Theo các nghiên cứu gần đây, để trở thành nước công nghiệp vào năm 2020,
KH&CN nước ta phải đạt trỡnh độ tiên tiến trong khu vực ở các ngành kinh tế trọng
điểm như công nghệ sinh học, sản xuất lương thực, chế biến nông - lâm - hải sản, cơ khí
điện tử, công nghệ thông tin, bưu chính - viễn thông, khai thác và chế biến dầu khí, giao
thông vận tải, xây dựng, vật liệu cơ bản, sản xuất và sử dụng nǎng lượng, y dược. Phát
triển một số ngành công nghiệp biển. ứng dụng có chọn lọc các thành tựu khoa học hiện
đại nhằm tiếp cận với trỡnh độ thế giới trong một số lĩnh vực quan trọng, làm cơ sở
vững chắc cho phát triển các nghành công nghiệp hiện đại. Để đạt được trỡnh độ đó,
mức đầu tư tối thiểu hàng năm cho KH&CN phải trên 2% GDP. Thế nhưng, mức đầu tư
những năm gần đây của nước ta ở nước ta cũn rất khiờm tốn so với cỏc nước trong
vùng.
Ví dụ, năm 2006 nước ta đầu tư 428 triệu USD cho KH&CN, chiếm khoảng
0,17% GDP toàn quốc. Trong khi đó, theo số liệu của UNESCO, Singapore là nước
(trong vùng) mức đầu tư cho KH&CN chiếm 2,2% GDP (tương đương 3,01 tỉ USD),
Malaysia 0,5% GDP hay 1,54 tỉ USD, Thái Lan 0,3% GDP hay 1,79 tỉ USD. Theo số

liệu năm 2004, đầu tư cho KH&CN của EU là 1,95% GDP, Nhật Bản là 3,15% GDP,
Trung Quốc là 1,31% GDP, Hoa Kỳ là 2,59% GDP, Hàn Quốc là gần 5% GDP. Mức
đầu tư cho hoạt động KH&CN tính trên đầu người (per capita) năm 2007 của Việt Nam

khoảng 5USD, trong khi con số đó của Trung Quốc khoảng 20 USD (năm 2004) và đặc
biệt là Hàn Quốc khoảng 1.000USD (năm 2007).
Mức đầu tư của nước ta cho KH&CN thấp như trên là sự phản ánh một thực tế
điểm xuất phát về kinh tế cũn thấp, thu nhập chưa cao, phần tiết kiệm cho đầu tư cũn ở
mức rất khiờm tốn. Nước ta đang đứng trước mâu thuẫn rất gay gắt giữa nhu cầu đầu tư
cho phỏt triển kinh tế - xó hội núi chung, KH&CN núi riờng là rất lớn, nhưng mức đáp
ứng cũn hạn hẹp.
Do thu nhập của dân cư thấp, nên nguồn thu ngân sách Nhà nước cũn ớt. Mặc dự
hàng năm Nhà nước đó cú nhiều cố gắng dành phần lớn ngõn sỏch cho phỏt triển
KH&CN, nhưng không thể đáp ứng được nhu cầu.
Cũng như các nước đang phát triển khác, nước ta đang đứng trước “vũng luẩn
quẩn” của tỡnh trang kộm phỏt triển: thu nhập thấp, dẫn đến tiết kiệm và đầu tư thấp,
dẫn đến tỷ lệ tích luỹ vốn thấp, không đủ vốn cho đầu tư; làm cho năng lực sản xuất
giảm, năng suất của nền kinh tế thấp; điều này dẫn đến kết quả là thu nhập bình quân
thấp và không thể vượt lên mức thu nhập ban đầu. Để phá vỡ vòng luẩn quẩn đó, các
nước đang phát triển phải tạo ra “một bước đột phá” vào một mắt xích nào đó, để rồi
phá vỡ các mắt xích còn lại. Khâu đột phá thường được lựa chọn là tăng nguồn vốn đầu
tư.
Việc thu hỳt cỏc nguồn vốn xó hội cả trong và ngoài nước cho phát triển
KH&CN là đũi hỏi thiết yếu trong quỏ trỡnh đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
1.1.2.2. Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đang diễn ra, chỉ có KH&CN
mới đưa Việt Nam bứt phá
Trong quan hệ kinh tế, lợi thế của một nước có thể từ điều kiện tự nhiên và vị trí
địa lý, nhưng cũng có thể được tạo ra bởi hoạt động của con người. Ngày nay, người ta
đó rỳt ra quy luật: trờn thế giới, khụng phải những nước chiếm giữ nhiều đất đai và tiền
bạc mà chính những nước chiếm giữ đỉnh cao tri thức và công nghệ mới trở thành các

quốc gia phát triển hàng đầu. Điều này nghĩa là, trên toàn cầu, quyền lực KH&CN là
nhân tố quyết định vị trí và thứ bậc phát triển của các quốc gia.

Nếu từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVII, Trung Hoa thực sự là trung tâm và làm thay
đổi thế giới nhờ 4 phát minh công nghệ là thuốc súng, kỹ thuật in, giấy và la bàn
nam chõm, thỡ từ thế kỷ XVIII, vị trớ này khụng cũn nữa do chõu Âu đó vượt qua
nước này về công nghệ bằng cuộc cách mạng công nghiếp lần thứ nhất với phát minh
ra động cơ hơi nước. Nhờ biết thay thế lao động dựa vào sử dụng công cụ thủ công
bằng lao động sử dụng máy móc, nước Anh đó lờn ngụi bỏ chủ thế giới. Một trăm
năm sau, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai trong các lĩnh vực: điện, hóa chất,
dược phẩm, ô-tô, hóa dầu đó khởi phỏt và tới lượt các nước Đức và Mỹ chiếm ưu
thế, cũn nước Anh bị bỏ rơi vỡ không bắt kịp sự phát triển các ngành công nghiệp
mới. Sau 100 năm nữa, vào lúc chuyển giao hai thế kỷ XX và XXI, trong cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ ba, tri thức và việc ứng dụng tri thức vào sản xuất đóng
vai trũ quyết định cho sự giàu có của đất nước. Ngày nay, với mục tiêu phát triển
trong nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa, hầu như tất cả các nước trên thế giới đều
đang thực hiện chủ trương tập trung phát triển KH&CN.
Thực tế đó cho thấy, khoa học - tri thức và công nghệ - ứng dụng tri thức vào sản
xuất chính là những yếu tố quyết định sự phồn vinh của một dân tộc, một đất nước.
Thực tế ở nhiều nước và Việt Nam cũng cho thấy, chính tụt hạng về năng lực KH&CN
là tác nhân lớn nhất làm cho năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của doanh nghiệp và
của quốc gia bị suy giảm. Ví dụ, năm 2004 năng lực cạnh tranh của Việt Nam tụt 17 bậc
so với năm 2003. Nếu xét riêng về công nghệ, thỡ năm 2003 Việt Nam đứng thứ 65,
sang năm 2004 bị đứng vào thứ 92, tức là chỉ sau 1 năm đó tụt xuống 27 bậc.
Để có 20 năm tăng trưởng kinh tế mạnh vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đó “cởi
trúi” nụng nghiệp bằng khoỏn 10, cụng nghiệp bằng luật doanh nghiệp, huy động tối đa
tiềm lực lao động giản đơn. Tuy nhiên, muốn tiến xa hơn, chỉ cũn cỏch phỏt triển
KH&CN. Chỉ có phát triển KH&CN mới có thể làm cho một đất nước phát triển bứt
phá và bền vững. Con đường để đáp ứng đũi hỏi này là phải cú vốn. Xỳc tiến đầu tư
phải coi là một giải pháp chiến lược để thúc đẩy phát triển KH&CN.

1.1.2.3. Việc thu hút vốn đầu tư vào KH&CN còn là cần thiết để nuôi dưỡng
nhân tài, tạo động lực phát triển, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động

Nhõn lực trỡnh độ cao là một yếu tố quyết định tốc độ và hiệu quả phát triển
KH&CN. Ngày nay, mục tiêu phát triển trong nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa đó
được nhiều nước quan niệm: khoa học sử dụng tiền để tạo ra tri thức, cũn cụng nghệ thỡ
sử dụng tri thức để tạo ra tiền. Để có được như vậy, cần phải có nguồn nhân lực đủ trỡnh
độ. Trong xu thế phát triển như vũ bóo của cuộc cỏch mạng KH&CN hiện nay, ngoài việc
mở rộng đào tạo mới để tăng nhanh số lượng nguồn nhân lực KH&CN, thỡ việc trang bị
thờm cỏc kiến thức về phỏp lý, tài chớnh, v.v mỗi nhà quản lý, mỗi nhà khoa học là rất
cần thiết.
Hiện tại, đa phần các nước đang phát triển vẫn là nơi tự nguyện cung cấp lực
lượng lao động và đất đai giá rẻ cũng như tạo các điều kiện thuận lợi về thuế và xuất
khẩu để thu hút đầu tư nước ngoài. Điển hỡnh nhất của tỡnh trạng "công nghiệp hóa phi
công nghệ" là các nước Đông Nam Á. Doanh nghiệp ở các nước này chỉ quan tâm việc
thu lợi nhanh bằng buôn bán bất động sản hơn là bỏ công sức để học tập công nghệ và
xây dựng nhà máy. Rừ ràng là, nếu chớnh sỏch phỏt triển chỉ nhỡn nhận đầu tư theo
phương diện tài chính hoặc số lượng người lao động có việc làm mà không coi trọng
đầu tư để học tập, nâng cao trỡnh độ khoa học và đổi mới công nghệ, đổi mới văn hóa,
thỡ cựng lắm đất nước cũng chỉ thoát nghèo và mói mói vẫn chỉ là nước đang phát triển.
Không phải khi nào chỉ số GDP cũng là thước đo của sự phát triển.
Hiện nay, tỷ lệ lao động tốt nghiệp đại học trên số dân của nước ta không bằng
một nửa tỷ lệ đó ở các nước đông dân như Trung Quốc, Ấn Độ. Các trường đại học ở
Việt Nam có một khoảng cách xa mới đạt tầm của các trường đại học ở các nước trong
khu vực, trong khi các trường đại học ở các nước này cũng cũn lõu nữa mới đạt chuẩn
các trường đại học đẳng cấp quốc tế. Khó khăn lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp
Việt Nam là chưa đủ kiến thức (chất xám) để làm chủ công nghệ, nghiên cứu và ứng
dụng KH&CN vào phát triển kinh tế. Điều này nghĩa là, nếu chúng ta thiếu một cuộc
cách mạng về phát triển con người sẽ rất khó khăn khi đón nhận những lợi ích lâu dài và
to lớn mà đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài, mang lại cho đất nước. Nói cách khác, ngày

nay, trung tâm của mọi tư tưởng, học thuyết hay chính sách, cơ chế sẽ đều phải được
hỡnh thành trờn cơ sở nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Cần phải coi củng cố nguồn

×