LUẬN VĂN:
Quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của
Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cấp
huyện ở tỉnh Bình Phước hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là một tổ chức chính trị- xã hội của
thanh niên do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và
rèn luyện; có hệ thống tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến cấp xã cùng đội ngũ cán bộ
chuyên trách và bán chuyên trách đông đảo. Đoàn bao gồm những thanh niên tiên tiến, tự
nguyện phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ và giàu mạnh
theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn
quan tâm đặc biệt đến công tác cán bộ và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ngày càng lớn
mạnh, trưởng thành, là nhân tố quyết định thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hay thất
bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Trong đó, cán bộ đoàn thuộc nhóm cán bộ lãnh đạo đoàn
thể chính trị -xã hội, là cán bộ kế cận của Đảng, là cán bộ của Đảng trực tiếp làm công
tác thanh, thiếu nhi. Xây dựng đoàn thực chất là góp phần xây dựng Đảng trước một
bước, cán bộ đoàn là nguồn cung cấp cán bộ cho cả hệ thống chính trị. Do đó cần phải
xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn chuyên trách vững mạnh trên các mặt công tác nhằm đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác đoàn và phong trào thanh, thiếu nhi trong giai đoạn mới;
đội ngũ cán bộ đoàn là nhân tố then chốt quyết định đến sự vững mạnh của các tổ chức
Đoàn, Hội, Đội; đồng thời tích cực tham gia xây dựng Đảng và chính quyền trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ đoàn cần tuân thủ các quy trình của công tác
cán bộ nói chung, trong đó công tác quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của
công tác cán bộ bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa
đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Quy hoạch cán bộ là nền tảng của công tác cán
bộ, bản chất của quy hoạch cán bộ là chú trọng tới việc phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo và
sử dụng nhân tài cho đất nước; là tạo nguồn cán bộ cho cả hiện tại và tương lai, đây là
công việc thường xuyên của Đảng, của các tổ chức chính trị, xã hội các cấp.
Bình Phước là một tỉnh trung du miền núi, nông nghiệp, biên giới và đa sắc tộc,
gồm 08 huyện, thị vừa được tái lập từ ngày 01/01/1997. Ở giai đoạn đầu sau khi tái lập
tỉnh, đội ngũ cán bộ đoàn chuyên trách thiếu trầm trọng, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng còn nhiều khó khăn. Đến nay cơ bản đội ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn ổn
định, được củng cố, kiện toàn thường xuyên và chất lượng ngày một nâng cao. Ngoài ra,
các cấp bộ đoàn đã chủ động tham mưu với cấp uỷ Đảng trong việc lựa chọn, quy hoạch,
đào tạo bồi dưỡng, bố trí sử dụng và từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ chuyên trách
của Đoàn theo tiêu chuẩn, quy định của Trung ương và của Tỉnh. Bên cạnh đó, công tác
quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn thanh niên cấp huyện còn bị động, lúng
túng, chưa chặt chẽ, thiếu tính khoa học; mang tính hình thức, chưa vận dụng và phát huy
tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong quy hoạch cán bộ; quy hoạch cán bộ đoàn cấp
dưới chưa là cơ sở cho quy hoạch cấp trên và quy hoạch cấp trên chưa tạo động lực cho
quy hoạch cán bộ đoàn cấp dưới bởi công tác quy hoạch cán bộ chuyên trách của Đoàn
cấp huyện còn khép kín, nguồn đưa vào quy hoạch chưa phong phú, chưa đảm bảo được
nguyên tắc “động” và “mở” trong quy hoạch cán bộ; trong công tác chỉ đạo, hướng dẫn
thực hiện quy hoạch cán bộ đoàn giữa cấp uỷ Đảng và Ban chấp hành tỉnh Đoàn chưa có
sự thống nhất chung trong chỉ đạo các huyện, thị đoàn dẫn đến tình trạng chồng chéo
trong quy hoạch cán bộ, lúng túng trong quy trình thực hiện về các mốc thời gian, giữa
nhiệm kỳ Đại hội của Đảng và của Đoàn thanh niên; thậm chí một số đơn vị chưa nhận
thức đầy đủ về vai trò của công tác quy hoạch cán bộ chuyên trách của đoàn cấp huyện;
trong tiến hành quy hoạch cán bộ đoàn chỉ chú ý đến quy hoạch “đầu vào” mà chưa quan
tâm nhiều đến quy hoạch “đầu ra”cho đội ngũ cán bộ đoàn; khâu tuyển chọn đầu vào của
cán bộ đoàn tương đối hỗn hợp với nhiều ngành nghề khác nhau nên công tác quy
hoạch cán bộ chuyên trách của Đoàn càng khó khăn và phức tạp. Ngoài ra, thẩm
quyền phê duyệt quy hoạch chưa có sự phân định rõ ràng, gây lúng túng trong công
tác quy hoạch cán bộ chuyên trách của Đoàn thanh niên cấp huyện.
Từ khi Nghị quyết 42 của Bộ chính trị, khóa X về “Công tác quy hoạch cán bộ
lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ra đời, Đoàn thanh
niên tỉnh Bình Phước đã được Tỉnh uỷ chọn là đơn vị làm điểm về công tác quy hoạch
cán bộ chuyên trách của Đoàn và từ kết quả quy hoạch trên để triển khai trong toàn hệ
thống tổ chức của Đoàn và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Triển khai, thực
hiện tinh thần nghị quyết của Bộ chính trị, công tác quy hoạch cán bộ chuyên trách
của Đoàn thanh niên cấp huyện đã được tiến hành bài bản, có tính hệ thống và cơ sở
khoa học hơn, tuân thủ đầy đủ các bước, các quy trình của công tác quy hoạch cán bộ.
Mặc dù, quy hoạch cán bộ chuyên trách của Đoàn đã được các cấp, các ngành quan
tâm chỉ đạo thực hiện nhưng bước đầu chưa đạt được yêu cầu; vẫn còn một số vấn đề
chưa được làm sáng tỏ và có những điểm bất cập cần tiếp tục nghiên cứu tháo gỡ để
thực hiện tốt quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn thanh niên cấp huyện
trong thời gian tới.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với đội ngũ cán bộ đoàn chuyên trách cấp
huyện; đồng thời tổ chức Đoàn các cấp cần chú trọng thực hiện tốt công tác quy hoạch
cán bộ chuyên trách của Đoàn nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ công tác trong thời kỳ mới. Chính từ thực tế nêu trên, tác giả mạnh dạn
chọn đề tài: “Quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn Thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh cấp huyện ở tỉnh Bình Phước hiện nay” làm luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có nhiều đề tài nghiên cứu về công tác cán bộ cũng như công tác đánh
giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chính sách cán bộ; đặc biệt công tác quy
hoạch cán bộ có nhiều đề tài khoa học, nhiều bài viết, luận văn, luận án nghiên cứu:
1- “Xác định cơ cấu, tiêu chuẩn và chính sách đối với đội ngũ cán bộ Đoàn - Hội
trong điều kiện của công cuộc đổi mới” (1993) – Báo cáo khoa học của Trường cán bộ
Thanh thiếu nhi Trung ương, Chủ nhiệm đề tài: PTS. Phạm Đình Nghiệp. Nội dung chính
của đề tài là làm rõ thực trạng cơ cấu, tiêu chuẩn và chính sách đối với cán bộ Đoàn –
Hội; phân biệt sự khác nhau giữa cán bộ đoàn với cán bộ Đảng, khẳng định hoạt động có
tính đặc thù của cán bộ đoàn, từ đó đề ra các nhóm giải pháp trong từng lĩnh vực xác định
cơ cấu, tiêu chuẩn và chính sách cán bộ Đoàn- Hội.
2- Đề tài KTN – 96 – 02: Báo cáo tổng hợp “Mô hình tổ chức và hoạt động của
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh ở cơ sở” (1996), Chủ nhiệm đề tài PTS. Trần
Văn Miều. Nội dung chính của đề tài là phân tích lý luận và thực tiễn hoạt động của Đoàn
thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh ở cơ sở, tìm ra những nguyên nhân thành công và chưa
thành công trong quá trình tự đổi mới về tổ chức, hoạt động của Đoàn thanh niên ở cơ sở;
khái quát thành những bài học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức, triển khai công tác
đoàn và phong trào thanh thiếu nhi.
3- “Đổi mới đội ngũ cán bộ Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cấp huyện
trong điều kiện hiện nay. (Qua thực tế một số tỉnh miền trung)” (1999) - Luận án tiến sĩ
của Lê Văn Cầu. Nội dung chính của đề tài là chủ yếu bàn về hệ thống tổ chức hoạt động
và đội ngũ cán bộ đoàn cấp huyện; phân tích thực trạng và tổng kết thực tiễn đội ngũ cán
bộ huyện đoàn, trên cơ sở đó đề ra phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ huyện đoàn trong thời kỳ mới.
4- Đề tài KTN 98 – 02: Báo cáo chung “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng và củng cố tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong tình hình mới”
(1999), chủ nhiệm đề tài Nguyễn Văn Tùng- tổng biên tập Ban biên tập lịch sử Đoàn và
phong trào thanh niên, Trung ương Đoàn. Nội dung chính của đề tài là vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh trong xây dựng củng cố tổ chức Đoàn Thanh niên trong tình hình mới, chủ
yếu đề cập trên lĩnh vực xây dựng đoàn về tổ chức.
5- “Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện Tỉnh uỷ
quản lý ở Tỉnh Đồng Nai” (2000) - Luận văn thạc sĩ của Trần Minh Thấu. Nội dung
chính của đề tài là đề cập đến công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện
Tỉnh ủy Đồng Nai quản lý, trên cơ sở phân tích thực trạng và đề ra các giải pháp để nâng
cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
6- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước (2001): “Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” do GS, TS Nguyễn Phú Trọng PGS, TS Trần Xuân Sầm đồng chủ nhiệm. Nội
dung chính của đề tài là đưa ra những cơ sở lý luận về cán bộ, công tác cán bộ; phân tích
thực trạng đội ngũ cán bộ nói chung và đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ.
7- Đề tài KTN 2003 – 03: Kỷ yếu hội thảo khoa học về công tác cán bộ Đoàn
trong thời kỳ mới (2003)- Chủ nhiệm đề tài Nguyễn Thị Hà - Trưởng ban tổ chức Trung
ương Đoàn. Nội dung chính của đề tài là trên cơ sở lý luận chung về cán bộ và công tác
cán bộ; thực trạng công tác cán bộ đoàn để làm căn cứ phân tích, đánh giá chất lượng cán
bộ đoàn hiện nay (ưu điểm, hạn chế) đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng
công tác cán bộ đoàn và xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn vững mạnh.
8- Bài viết của Nguyễn Thọ Ánh đăng trên tạp chí Xây dựng đảng số 10, năm
2004: “Đổi mới công tác đào tạo cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh”. Nội
dung chính của bài viết tập trung phân tích thực trạng và đề ra các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh.
9- Bài viết của Ngô Minh Tuấn đăng trên tạp chí Xây dựng đảng số 9, năm 2004:
“Quy hoạch cán bộ ở cơ quan Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh”.
Nội dung chính của bài viết nêu rõ thực trạng công tác quy hoạch cán bộ ở cơ quan Trung
ương Đoàn- những thuận lợi, khó khăn; đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng công
tác quy hoạch cán bộ tại cơ quan chuyên trách của Trung ương Đoàn.
10- Bài viết của TS. Phạm Quang Nghị đăng trên tạp chí Xây dựng đảng số 18,
năm 2004: “Mối quan hệ giữa quy hoạch, đánh giá với luân chuyển cán bộ”. Nội dung
bài viết làm rõ mối quan hệ giữa quy hoạch, đánh giá với luân chuyển cán bộ, sự tác động
qua lại giữa các yếu tố trên trong quy trình thực hiện công tác cán bộ.
11- “Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (2006) - Luận văn Thạc sĩ của Lê
Thành Can. Nội dung chính của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận, những vấn đề
cơ bản về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta thời gian qua; đồng thời
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ.
Các đề tài nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở khâu quy hoạch cán bộ nói chung và
đổi mới, xây dựng đội ngũ cán bộ đoàn, xây dựng tổ chức Đoàn vững mạnh mà chưa
đề cập đến công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn Thanh niên
cộng sản (TNCS) Hồ Chí Minh cấp huyện ở tỉnh Bình Phước. Chính từ lý do trên,
việc chọn đề tài này để nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ và phong phú thêm cả về
mặt lý luận và thực tiễn trong quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn thanh
niên cấp huyện tỉnh Bình Phước giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:khẳng định vị trí, vai trò của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
nói chung và cán bộ chuyên trách của Đoàn thanh niên cấp huyện nói riêng; từ đó thấy rõ
vị trí quan trọng của công tác quy hoạch cán bộ đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, khảo sát đội ngũ cán bộ đoàn chuyên trách, nghiên
cứu thực trạng công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn cấp huyện ở
tỉnh Bình Phước. Ngoài ra, luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu và kiến nghị nhằm
thực hiện tốt công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ đoàn chuyên trách cấp huyện để tạo
nguồn cán bộ phong phú, đa dạng cho hiện tại và chiến lược cán bộ đoàn tương lai.
* Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài luận văn: đặc điểm, vị trí, vai
trò, nguyên tắc, quy trình… của công tác quy hoạch cán bộ đoàn.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn
thanh niên cấp huyện ở tỉnh Bình Phước từ năm 1997 đến nay; nêu nguyên nhân của thực
trạng và những kinh nghiệm.
- Dự báo về công tác quy hoạch cán bộ chuyên trách của Đoàn cấp huyện, đồng thời
đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm làm tốt quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của
Đoàn thanh niên cấp huyện ở tỉnh Bình Phước hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của
Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cấp huyện ở tỉnh Bình Phước từ năm 1997 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác –Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm đường lối, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, của Đoàn
thanh niên về công tác cán bộ và quy hoạch cán bộ đoàn; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng bộ
và Đoàn thanh niên tỉnh Bình Phước về công tác cán bộ và quy hoạch cán bộ chuyên trách
của đoàn cấp huyện. Các báo cáo, đề tài nghiên cứu tổng kết thực tiễn về công tác cán bộ
đoàn cấp huyện, công tác quy hoạch cán bộ chuyên trách của Đoàn cấp huyện.
* Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp chặt chẽ giữa phương pháp lôgic - lịch sử;
giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, phương pháp khảo sát, phân tích, tổng
hợp, thống kê, tham khảo, kế thừa có chọn lọc các tài liệu, tư liệu và các công trình
nghiên cứu khoa học có liên quan.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong công tác quy
hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cấp
huyện ở tỉnh Bình Phước giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh cấp huyện ở tỉnh Bình Phước hiện nay.
- Tìm ra nguyên nhân của thực trạng, những kinh nghiệm thực tiễn và những giải
pháp mang tính khả thi nhằm thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ đoàn chuyên trách
cấp huyện tỉnh Bình Phước.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho công tác quy hoạch
đội ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cấp huyện ở
tỉnh Bình Phước.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể gợi mở cho các cấp có thẩm quyền quan
tâm về những cơ chế, chính sách, quy định cụ thể và rất riêng theo đặc thù của công tác
thanh niên từ khâu tuyển chọn, đánh giá cán bộ đoàn đến quy hoạch và bố trí sắp xếp đội
ngũ cán bộ chuyên trách của Đoàn thanh niên cấp huyện đảm bảo thực hiện có hiệu quả
các quy trình của công tác cán bộ. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ
cho việc sơ, tổng kết một giai đoạn tiến hành quy hoạch đội ngũ cán bộ chuyên trách của
Đoàn cấp huyện sau 10 năm tái lập tỉnh; mặt khác có thể dùng làm tài liệu hướng dẫn, bồi
dưỡng và huấn luyện cán bộ đoàn trong hệ thống tổ chức Đoàn cấp huyện đến cơ sở.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHUYÊN TRÁCH
CỦA ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH CẤP HUYỆN Ở TỈNH
BÌNH PHƯỚC HIỆN NAY - NHỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. ĐẶC ĐIỂM TỈNH BÌNH PHƯỚC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
QUY HOẠCH ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHUYÊN TRÁCH CỦA ĐOÀN CẤP HUYỆN
HIỆN NAY
1.1.1. Khái quát về đặc điểm tỉnh Bình Phước và đặc điểm cấp huyện ở tỉnh
Bình Phước
1.1.1.1. Đặc điểm tỉnh Bình Phước
Dưới thời Phong kiến nhà Nguyễn, Bình Phước thuộc trấn Biên Hòa. Đến
giữa thế kỷ XIX, sau khi đặt ách đô hộ tại sáu tỉnh Nam Kỳ, Thực dân Pháp chia
Nam Kỳ thành bốn khu vực lớn là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long và Bát –Xắc. Vùng
đất Bình Phước thuộc khu vực Sài Gòn, trong đó vùng đất phía Đông thuộc tiểu khu
Biên Hòa, vùng đất phía Tây Nam và phía Nam thuộc tiểu khu Thủ Dầu Một. Năm
1889, thực dân Pháp đổi các tiểu khu thành các tỉnh, Bình Phước lúc này thuộc địa
phận tỉnh Biên Hòa và tỉnh Thủ Dầu Một. Từ đó cho đến hết thời Pháp thuộc bộ máy
hành chính cơ bản không thay đổi. Sau năm 1954, trải qua hàng chục năm chiến
tranh, vùng đất Bình Phước bị chia cắt, sáp nhập nhiều lần tùy theo nhu cầu cai trị
của thực dân Đế quốc trong từng giai đoạn lịch sử như tỉnh Thủ Dầu Một được tách
ra thành hai tỉnh mới là Tỉnh Bình Dương và Bình Long; tỉnh Phước Long nằm trên
phần đất phía Bắc của tỉnh Biên Hòa và một phần của tỉnh Thủ Dầu Một. Thời kháng
chiến chống Mỹ cứu nước, trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, ta lập chiến khu
VII, gồm các tỉnh Bà Rịa, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Long Khánh, Bình
Long và Phước Long.
Từ năm 1960 trở đi, Đảng bộ Phước Long, Bình Long lần lượt được thành lập.
Trải qua nhiều lần thay đổi, lúc thuộc khu 1, khu 6, khu 10, đến ngày 30/1/1971, Trung
ương Cục miền Nam quyết định thành lập phân khu Bình Phước và cuối năm 1972, phân
khu Bình Phước giải thể, tỉnh Bình Phước chính thức được thành lập gồm tỉnh Bình Long
và Phước Long, là tiền thân của tỉnh Bình Phước ngày nay. Địa bàn tỉnh Bình Phước là
khu vực an toàn cho hai cơ quan đầu não là Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt
Nam và Chính Phủ cách mạng lâm thời miền NamViệt Nam. Sau kháng chiến chống Đế
quốc Mỹ thắng lợi, để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, ngày 2/7/1976, Quốc
hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Quyết định thành lập tỉnh Sông Bé bao
gồm tỉnh Thủ Dầu Một, Bình Phước và ba xã thuộc huyện Thủ Đức (thành phố Hồ Chí
Minh), chia thành 07 huyện, thị. Ngày 6/11/1996, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX
quyết định điều chỉnh địa giới hành chính của một số tỉnh. Trong đó, tỉnh Sông Bé được
tách làm 2 tỉnh Bình Dương và Bình Phước. Sau 20 năm hợp nhất, tỉnh Bình Phước được
tái lập vào ngày 01/01/1997 và đi vào hoạt động theo đơn vị hành chính mới. Bình Phước
là một tỉnh miền núi dân tộc và biên giới ở khu vực Đông Nam Bộ, phía đông giáp tỉnh
Đắc Nông và Lâm Đồng, phía nam giáp tỉnh Đồng Nai và Bình Dương, phía Tây giáp
Tây Ninh, phía bắc và tây bắc giáp nước bạn Campuchia, với đường biên giới dài 240km.
Diện tích tự nhiên: 6.874,62km
2
, dân số năm 2008 là 855.131người, mật độ dân số
124 người/km2, trong đó đồng bào các dân tộc 155.493 người, chiếm 18,2% dân số toàn
tỉnh, với 41 dân tộc anh em cùng sinh sống trên địa bàn, nhưng đông nhất là người kinh
và người S’tiêng (chiếm 49,98% trong các thành phần dân tộc) – là dân tộc bản địa của
Bình Phước và cũng là địa bàn có người S’tiêng tập trung đông nhất trên cả nước. Có thể
nói Bình Phước ngày nay là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam, với những nét văn hóa
đa dạng, đặc sắc – đó là văn hóa Cồng Chiêng, bởi Cồng Chiêng có vị trí hết sức quan
trọng trong đời sống văn hóa của đồng bào Stiêng, được xem là gia bảo cha truyền con
nối thể hiện sự giàu có của từng gia đình, từng dòng tộc, cộng đồng. Đặc điểm văn hóa
của các dân tộc bản địa Bình Phước có sự giao thoa và chịu ảnh hưởng lẫn nhau.
Biểu đồ 1.1: Tỷ lệ dân tộc thiểu số tỉnh Bình Phước
49.98%50.02%
Dân tộc S'tiêng Dân tộc khác
Bình Phước có vị trí chiến lược quan trọng và truyền thống đấu tranh anh dũng,
bất khuất. Tỉnh có hai trục giao thông chiến lược là Quốc lộ 13 và Quốc lộ 14, nối liền
Bình Phước với Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, với các tỉnh Nam Trung Bộ, Nam
tây Nguyên và nước bạn Campuchia. Bên cạnh hai con đường chiến lược còn có đường
ĐT741, ĐT748, ĐT749, ĐT750… các đường dọc ngang ở từng huyện, xã đã tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân so với thời kỳ mới vừa tái lập tỉnh rất khó
khăn. Đến nay, các đường giao thông trên địa bàn đã được sửa chữa, nâng cấp, làm mới
và trong tương lai, khi đường Xuyên Á được xây dựng và tuyến đường sắt Lộc Ninh –Sài
Gòn được khôi phục sẽ góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và
giao thông của địa phương.
Bình Phước là một trong những tỉnh có tiềm năng lớn về phát triển kinh tế, nên
xác định cơ cấu kinh tế của tỉnh là Nông lâm nghiệp – Dịch vụ - Công nghiệp; với tổng
diện tích đất nông nghiệp 177.452 ha, chiếm 26% diện tích toàn tỉnh. Tỉnh ủy và Ủy ban
nhân dân tỉnh đã xác định nhiệm vụ của địa phương coi nông, lâm nghiệp vẫn là mặt trận
hàng đầu thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Bình Phước nằm
cạnh khu kinh tế năng động, tốc độ tăng trưởng cao; có lợi thế về vị trí, cơ sở hạ tầng,
môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng
Nai…nhằm giúp địa phương hòa nhập, kêu gọi đầu tư góp phần phát triển địa phương
185497
150300
93543
85395
37926
76125
41906
1677
65888
145268
12718
50885
118005
19259
81295
7402
0
20000
40000
60000
80000
100000
120000
140000
160000
180000
200000
Thị xã
Đồng
Xoài
Huyện
Đồng
Phú
Huyện
Phước
Long
Huyện
Lộc
Ninh
Huyện
Bù Đốp
Huyện
Bù
Đăng
Huyện
Bình
Long
Huyện
Chơn
Thành
Diện tích
Dân số
thành một tỉnh giàu về kinh tế, mạnh về quốc phòng, đời sống nhân dân được cải thiện và
có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Về đội ngũ cán bộ công chức Bình Phước hiện nay, theo biên chế phân bổ của
Trung ương năm 2009 là 937 cán bộ công chức, tổng số cán bộ công chức toàn tỉnh là
1087 đồng chí (bao gồm biên chế dự phòng và cán bộ Hội cựu chiến binh các cấp hưởng
90% lương ngân sách nhà nước); trong đó các đoàn thể có 107 cán bộ công chức, riêng
của Đoàn Thanh niên cộng sản (TNCS) Hồ Chí Minh cấp tỉnh có 27 cán bộ đoàn chuyên
trách.
1.1.1.2. Đặc điểm cấp huyện tỉnh Bình Phước
Biểu đồ 1.2: Tỷ lệ về dân số và diện tích tự nhiên của các huyện, thị
Giai đoạn đầu tái lập tỉnh, Bình Phước có 5 huyện: Đồng Phú, Bù Đăng, Phước
Long, Bình Long, Lộc Ninh; với 64 xã, thị trấn. Hiện nay, tỉnh gồm 8 đơn vị hành chính
cấp huyện: Thị xã Đồng Xoài và 7 huyện: Đồng Phú, Phước Long, Lộc Ninh, Bù Đăng,
Bình Long, Chơn Thành, Bù Đốp, với 104 xã, phường, thị trấn. Trung tâm tỉnh lỵ đặt tại
thị xã Đồng Xoài, ở phía tây bắc của tỉnh trên Quốc lộ 13 nối liền Bình Dương, Bình
Phước, Thành phố Hồ Chí Minh và các huyện Chơn Thành, Bình Long, Lộc Ninh, Bù
Đốp; ở phía nam trên Quốc lộ 14 có các huyện Đồng Phú, Phước Long, Bù Đăng. Với vị
trí địa lý và giao thông thuận lợi đã góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế -văn
hóa- xã hội tỉnh nhà. Về dân số và diện tích tự nhiên cao nhất là huyện Phước Long; diện
tích thấp nhất là Thị xã Đồng Xoài nhưng mật độ dân số lại cao nhất 441 người/km2, dân
số thấp nhất là huyện Bù Đốp; dân số nông thôn chiếm tỷ lệ cao (83,6%); qua phân tích
điều kiện tự nhiên của các huyện, thị nhận thấy dân số Bình Phước phân bổ không đồng
đều và tập trung nhiều ở khu vực nông thôn còn nhiều khó khăn. Do vậy, đoàn viên thanh
niên (ĐVTN) nông thôn cũng chịu tác động, ảnh hưởng trên con đường mưu sinh, lập
nghiệp, thanh niên thiếu việc làm việc, thu nhập thấp và gặp nhiều trở ngại trong cuộc
sống. Vì vậy, ĐVTN tham gia các phong trào, các hoạt động do Đoàn – Hội hạn chế và
khó tập hợp, đoàn kết thanh niên nông thôn vào tổ chức.
Về hệ thống tổ chức của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh gồm 4 cấp: tổ chức cơ sở
Đoàn; huyện và tương đương; Tỉnh và tương đương; Trung ương. Cho nên, tổ chức Đoàn
cấp huyện còn gọi tắt là huyện Đoàn, giữ vai trò đặc biệt quan trọng là cầu nối trong công
tác lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh Đoàn đến cơ sở. Đoàn thanh niên cấp huyện có nhiệm vụ
nắm vững các chủ trương, đường lối của Đảng, nghị quyết của Đoàn cấp trên; đồng thời
nắm vững đặc điểm địa phương để triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ, mục tiêu đề ra.
Huyện Đoàn được thành lập tương ứng theo địa giới hành chính của huyện, dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của Huyện ủy, với các đầu mối cơ sở Đoàn trực thuộc gồm: Đoàn
xã, phường, thị trấn; Đoàn cơ sở các trường học; Đoàn trong các đơn vị hành chính sự
nghiệp; đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ…Ban chấp hành huyện Đoàn do Đại hội đại
biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh toàn huyện bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm/ lần, có cơ quan
chuyên trách giúp việc do Tỉnh ủy quyết định biên chế từ 6 – 8 người.
Đoàn thanh niên cấp huyện giữ vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị ở cấp
huyện với việc định hướng tư tưởng cho tuổi trẻ, huy động tài năng sức trẻ tham gia tích
cực các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện; đồng thời chịu trách nhiệm trước
Huyện ủy về toàn bộ công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi của địa phương. Đặc
biệt, vai trò chỉ đạo của huyện Đoàn rất quan trọng, nên huyện Đoàn cần nắm vững tình
hình địa phương, đặc điểm đối tượng và thực lực sơ sở và tìm chọn những biện pháp chỉ
đạo, lãnh đạo thật sự khoa học, thiết thực để Đoàn hoạt động hiệu quả. Ngoài ra, huyện
Đoàn có vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa các chủ trương, Nghị quyết của Đoàn cấp
trên phù hợp với điều kiện thực tiễn của mỗi huyện đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính
đáng của ĐVTN huyện nhà. Huyện đoàn ngoài vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng cho
Đoàn cơ sở, còn giữ vai trò chủ đạo, là cơ quan thường trực có trách nhiệm phối hợp với các
ban ngành của huyện cùng tổ chức các hoạt động tập trung tại địa phương.
Mặt khác, huyện Đoàn cần duy trì tốt chế độ báo cáo thường xuyên với tỉnh Đoàn
về các hoạt động của mình và chịu sự lãnh đạo, kiểm tra, đánh giá công tác của Ban chấp
hành (BCH) tỉnh Đoàn. Việc thành lập hay giải thể tổ chức Đoàn cấp huyện do tỉnh Đoàn
quyết định. Đối với công tác cán bộ - Ban thường vụ (BTV) tỉnh Đoàn có thẩm quyền
chuẩn y kết quả bầu BCH, BTV huyện Đoàn theo quy định của Điều lệ Đoàn; cùng phối
hợp, thỏa thuận với Huyện ủy về công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
luân chuyển, bố trí sắp xếp cán bộ đoàn chuyên trách.
Theo quy định của Điều lệ Đoàn từ cấp huyện trở lên, Đoàn được lập cơ quan
chuyên trách giúp việc ở cấp huyện; cấp tỉnh do BTV trung ương Đoàn quy định và quy
chế làm việc của cơ quan cấp nào do Bí thư, Thủ trưởng cơ quan cấp đó quyết định. Các
cơ quan chuyên trách của Đoàn là cơ quan hành chính được lập ra nhằm thực hiện công
tác quản lý, điều hành các công việc ở cơ quan hành chính, thực hiện chức năng tham
mưu, giúp việc, phục vụ cho BCH, BTV Đoàn các cấp chỉ đạo, lãnh đạo, tổ chức công
tác đoàn và phong trào thanh, thiếu nhi. Cơ quan chuyên trách của Đoàn làm việc theo
chế độ thủ trưởng, cấp phó giúp việc cho cấp trưởng, nhân viên làm việc theo sự phân
công của lãnh đạo. Cơ quan chuyên trách của Đoàn cấp huyện gồm Bí thư, từ 1 đến 2
Phó Bí thư và một số cán bộ chuyên trách, có nhiệm vụ giúp BCH, BTV huyện Đoàn chỉ
đạo các cơ sở Đoàn trên từng lĩnh vực công tác như công tác tuyên truyền giáo dục, đặc
biệt là giáo dục lý tưởng cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị cho ĐVTN, triển khai
thực hiện tốt cuộc vận động “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”; xây dựng,
củng cố, phát triển tổ chức cơ sở Đoàn –Hội, mở rộng mặt trận tập hợp, đoàn kết thanh
niên, làm tốt công tác xã hội hóa thanh niên, công tác xây dựng Đoàn và Đoàn tham gia
xây dựng Đảng; chăm sóc, giáo dục thiếu niên nhi đồng và xây dựng Đội thiếu niên tiền
phong Hồ Chí Minh vững mạnh.
1.1.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ Đoàn chuyên trách cấp huyện và quan
niệm về quy hoạch đội ngũ cán bộ đoàn chuyên trách cấp huyện ở tỉnh Bình Phước
1.1.2.1. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ đoàn chuyên trách cấp huyện
Đội ngũ cán bộ đoàn luôn giữ vai trò then chốt trong quá trình đổi mới, nâng cao
chất lượng hoạt động của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nói chung và cấp huyện nói riêng; là
lực lượng nòng cốt trong đoàn kết, tập hợp thanh niên vào tổ chức Đoàn – Hội và tạo
nguồn lực quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất
nước. Chính vì vậy, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng
(khóa VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là then
chốt trong xây dựng Đảng”. Đặc biệt trong thời kỳ hội nhập, mở cửa hiện nay, với nhiệm
vụ chính trị mới càng nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng phải xây dựng đội
ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ IX đã xác
định: “Chất lượng cơ sở là trọng tâm, cán bộ là then chốt, đoàn kết thanh niên là nhiệm
vụ hàng đầu”. Đồng thời khẳng định tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 02 của
BCH Trung ương Đoàn khóa VIII về “Công tác cán bộ Đoàn trong thời kỳ mới”. Chú
trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở Đoàn đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu công
tác thanh niên trong điều kiện mới, đặc biệt quan tâm đến việc tạo nguồn, quy hoạch đào
tạo, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ đoàn cơ sở.
Xuất phát từ quan niệm về công tác cán bộ: Công tác cán bộ của Đảng và Chính
phủ là ở chỗ mạnh dạn đề bạt lực lượng mới, thu hút rộng rãi hơn nữa phụ nữ, người
ngoài Đảng vào công tác lãnh đạo, khéo phối hợp xen kẽ nhân viên công tác già với nhân
viên công tác trẻ…công tác cán bộ là phân phối (sắp xếp, quy hoạch) cán bộ một cách đúng
đắn theo đường lối chính trị của Đảng. Vì mục đích của công tác phân phối cán bộ chính là
để thực hiện triệt để đường lối đó. Tính chất kế hoạch của công tác phân phối cán bộ là ở chỗ
đảm bảo cung cấp kịp thời những lực lượng ưu tú cho các ngành chủ chốt có liên quan rất
lớn tới việc hoàn thành nhiệm vụ kinh tế chính trị. Muốn phân phối cán bộ có kế hoạch,
trước hết cần phải sử dụng họ một cách hợp lý, làm cho mỗi nhân viên công tác trong trường
hợp không cần thiết thì không rời khỏi chức vụ trực tiếp của mình, làm cho họ có thể cống
hiến tất cả năng lực cá nhân, sự tu dưỡng và kinh nghiệm công tác của họ vào sự nghiệp
chung [11, tr.17-18].
Từ tầm quan trọng của công tác cán bộ thời gian qua, các cấp ủy Đảng đã quan
tâm, chỉ đạo thông qua các Nghị quyết chuyên đề về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác thanh niên, về công tác quy hoạch cán bộ…cùng với sự chủ động của
các cấp bộ Đoàn trong tham mưu, chăm lo, xây dựng đội ngũ cán bộ, góp phần từng bước
hình thành nên đội ngũ cán bộ Đoàn đông đảo, vừa chuyên trách và bán chuyên trách có
bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn, kiến thức văn hóa, có năng lực hoạt
động thực tiễn; là lực lượng nòng cốt triển khai các chủ trương công tác của Đoàn trong
toàn hệ thống. Qua thực tiễn hoạt động, nhiều cán bộ đoàn đã trưởng thành, là nguồn cán
bộ kế cận đông đảo, chất lượng cho tổ chức Đảng, nhà nước và các đoàn thể quần chúng
cấp huyện và cấp tỉnh.
Đội ngũ cán bộ đoàn có vai trò quan trọng trong việc chủ động tạo lập và mở rộng
các mối quan hệ phối hợp hoạt động với các ban, ngành vì lợi ích, nguyện vọng của đông
đảo ĐVTN nhằm đẩy nhanh quá trình xã hội hóa công tác thanh niên, bằng việc làm thiết
thực và sự chăm lo của toàn xã hội đối với công tác thanh niên. Nhờ sự nhạy bén về
chính trị, luôn tìm tòi học hỏi và chủ động, sáng tạo trong công tác tham mưu nên đội ngũ
cán bộ đoàn đã đưa ra nhiều sáng kiến, ý tưởng hay giúp tổ chức Đoàn khắc phục mọi
khó khăn, đề ra các chương trình hoạt động đoàn phù hợp, thiết thực, thật sự có vóc, có
hình, phù hợp với nguyện vọng của ĐVTN không dừng lại ở lý luận chung chung trừu
tượng. Những kết quả, thành tích tổ chức Đoàn đạt được ở từng địa phương, đơn vị đều
có vai trò đóng góp tích cực, quan trọng của lực lượng cán bộ đoàn chuyên trách, bởi vì
“cán bộ nào thì phong trào ấy”. Đây là sự ghi nhận một cách chính xác công trạng, vai
trò của cán bộ đoàn, danh hiệu đó không phải họ tự phong, mà do xã hội thừa nhận, qua
kết quả công tác thực tế của từng cá nhân cán bộ đoàn.
Cán bộ đoàn là người nhiệt tình công tác xã hội, chăm lo lợi ích cho quần chúng
thanh niên. Đặc trưng này phản ánh sở thích, năng khiếu, lòng say mê hoạt động chính
trị- xã hội trong thanh, thiếu niên. Đó là tiêu chí để thanh niên suy tôn, tin tưởng và lựa
chọn cán bộ đoàn vào công việc chung, là tiêu chuẩn để đánh giá toàn bộ hoạt động của
cán bộ đoàn trên cương vị công tác khác nhau trong hệ thống tổ chức Đoàn. Nhờ có kỹ
năng công tác thanh thiếu nhi và nghiệp vụ Đoàn, Hội, Đội; có khả năng thiết kế, tổ chức
các hoạt động và nghệ thuật giao tiếp ứng xử tốt. Cho nên, cán bộ đoàn đóng vai trò tổ
chức, châm ngòi, giữ lửa nhiệt huyết, khởi xướng cổ vũ và thúc đẩy phong trào hành
động cách mạng của quần chúng thanh niên. Theo giáo sư, tiến sĩ Sêpen, Viện Hàn Lâm
khoa học Liên Xô đã khẳng định: “Người cán bộ hoạt động chính trị - xã hội nhất thiết
phải có được sức hấp dẫn cá nhân, mà cơ sở của nó là năng khiếu bẩm sinh, lý trí và kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng tự rèn luyện trau dồi bản thân”. Qua đó, đánh giá năng lực của
người cán bộ hoạt động chính trị, gồm nhiều yếu tố xây dựng nên uy tín phong cách của
người cán bộ hoạt động đoàn, trong đó năng khiếu bẩm sinh chỉ là một phần, không phải
là yếu tố quyết định; mọi tài năng đều trải qua quá trình rèn luyện, thử thách lâu dài mới
đạt được những thành quả tốt đẹp.
Cán bộ đoàn là lớp người trẻ tuổi, đây là nét đặc thù của những người làm công
tác thanh, thiếu nhi do đó yêu cầu cán bộ đoàn phải trẻ cả về độ tuổi, tư duy và tâm hồn;
đồng thời là những người dễ gần, dễ mến, chân tình, cởi mở, dễ hòa mình cùng thanh
niên, là người bạn đồng hành và thân thiết của thanh niên. Có làm được như vậy, cán bộ
đoàn mới đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Người cán bộ đoàn phải hiểu sâu
sắc về đối tượng tuyên truyền vận động của mình là ĐVTN; phải có năng lực tranh thủ sự
ủng hộ, tạo lập và mở rộng các quan hệ phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội cùng
quan tâm đến công tác thanh niên. Ngoài ra, cán bộ đoàn phải là người nhạy bén về chính
trị, luôn ủng hộ cái mới, cái tiến bộ, tích cực từ đó đề ra nội dung, phương pháp công tác
phù hợp với từng giai đoạn.
Đội ngũ cán bộ đoàn còn thể hiện vai trò của mình thông qua công tác cán bộ,
trong quyết định tuyển chọn, cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt;
chủ động tham mưu trong công tác quy hoạch cán bộ đoàn; lựa chọn và giới thiệu đoàn
viên ưu tú cho tổ chức Đảng xem xét kết nạp; tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Đảng
và góp ý cho từng cá nhân đảng viên; chủ trì sắp xếp, phân công cán bộ, bổ nhiệm cán bộ
theo phân cấp, thẩm quyền quy định. Cán bộ đoàn còn là người quyết định các khâu trong
hoạt động phong trào thanh, thiếu nhi. Đoàn thanh niên cấp huyện chỉ phát huy được vai
trò của mình trong công tác thanh niên và góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương phát
triển vững chắc khi nơi đó có tầm nhìn xa về chiến lược cán bộ, thực hiện quy hoạch cán
bộ bài bản, khoa học và xây dựng nên đội ngũ cán bộ đoàn trẻ trung, năng động, có phẩm
chất đạo đức tốt, năng lực, kỹ năng, nghiệp vụ, nhiệt tình say mê với công tác vận động
thanh, thiếu nhi.
Xuất phát từ vị trí, vai trò, nhiệm vụ và nội dung hoạt động của Đoàn TNCS Hồ
Chí Minh cấp huyện, đòi hỏi cán bộ đoàn chuyên trách cấp huyện phải có năng lực chỉ
đạo thực tiễn - khả năng nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nghị
quyết của Đoàn nhằm trực tiếp hướng dẫn các tổ chức cơ sở Đoàn thực hiện tốt nhiệm vụ
chính trị. Ngoài ra, cán bộ đoàn chuyên trách cần có khả năng chỉ đạo điểm, tổng kết,
nhân rộng điển hình, đồng thời vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối chính sách của
Đảng vào hoàn cảnh cụ thể trong mỗi đối tượng thanh niên đặc thù. Cho nên, đòi hỏi
người cán bộ đoàn chuyên trách cấp huyện không những giỏi trong công tác chỉ đạo mà
còn phải giỏi về thiết kế hoạt động và tổ chức thực hiện.
Cán bộ huyện Đoàn được phân chia thành hai loại chủ yếu: cán bộ đoàn chuyên
trách làm việc tại cơ quan huyện Đoàn và các ủy viên BCH, BTV huyện Đoàn (kiêm
nhiệm). Họ có thể là cán bộ đoàn chuyên trách hoặc không chuyên trách, tham gia vào
quá trình lãnh đạo tập thể của BCH, BTV huyện Đoàn. Đội ngũ cán bộ huyện Đoàn giữ
vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình triển khai, tổ chức các hoạt động của Đoàn cấp
huyện. Họ là lực lượng quyết định đến việc nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức
đoàn, đa dạng hóa các loại hình hoạt động; giữ vai trò nòng cốt trong đoàn kết, tập hợp
thanh, thiếu nhi; tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước góp phần phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương. Là đội ngũ cán bộ kế thừa phong phú cho
Huyện ủy, Ủy ban nhân dân, các ban, ngành, đoàn thể của huyện và của tỉnh. Do vậy,
Đoàn cần chủ động làm tốt công tác tham mưu cho Đảng trong việc quy hoạch, đào tạo,
bố trí, sắp xếp, sử dụng cán bộ chuyên trách của Đoàn tránh bỏ qua một lớp cán bộ đã
được thử thách, đào luyện trong môi trường thực tiễn sinh động.
Cần tìm hiểu nhiệm vụ của từng chức danh cán bộ chuyên trách của Đoàn TNCS
Hồ Chí Minh cấp huyện để khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của cán bộ đoàn cấp
huyện:
+ Bí thư huyện, thị Đoàn: là người đứng đầu tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
cấp huyện, vừa là thủ trưởng cơ quan chuyên trách huyện Đoàn; là người có nhiệm vụ
làm công tác đối nội, đối ngoại, thay mặt cho Đoàn thanh niên cấp huyện giữ mối quan
hệ với các ban, ngành, đoàn thể của huyện. Bí thư được cơ cấu vào Huyện ủy, chịu trách
nhiệm trước Huyện ủy và Đoàn cấp trên về công tác đoàn và phong trào thanh thiếu nhi
trong toàn huyện; có nhiệm vụ điều hành toàn bộ hoạt động của BCH, BTV, cơ quan
chuyên trách huyện Đoàn. Bí thư thường xuyên quan tâm đến công tác tư tưởng, cùng
BCH, BTV huyện Đoàn tham mưu, đề xuất với Huyện ủy về các giải pháp xây dựng tổ
chức đoàn vững mạnh; đặc biệt quan tâm đến vấn đề tổ chức bộ máy chuyên trách, các
quy trình công tác cán bộ: Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng
cán bộ chuyên trách của Đoàn. Nhất là công tác quy hoạch cán bộ phải được chú trọng,
quan tâm đặc biệt trong quy hoạch cả “đầu vào” và “đầu ra” cho đội ngũ cán bộ đoàn
chuyên trách.
+ Phó Bí thư huyện Đoàn: theo Điều lệ Đoàn quy định, cấp huyện có thể bầu từ
1đến 2 phó Bí thư,….riêng ở Bình Phước mỗi huyện, thị đoàn có 2 Phó Bí thư. Đây là lực
lượng kế cận trực tiếp chức danh Bí thư, giữ trách nhiệm và quyền Bí thư khi Bí thư đi
học tập dài hạn hoặc luân chuyển công tác, nhưng chưa kịp thời được kiện toàn, bổ sung,
thay thế. Các Phó Bí thư là người giúp việc, chuẩn bị các nội dung công tác trong quan hệ
đối nội, đối ngoại; Phó Bí thư thường trực giúp Bí thư điều hành trực tiếp các công việc
sự vụ hàng ngày trong cơ quan chuyên trách, thay mặt giải quyết công tác khi Bí thư đi
vắng và khi được ủy quyền; phụ trách một lĩnh vực công tác của Đoàn tại đơn vị và theo
sự phân công của BTV đoàn cùng cấp.
+ Ủy viên thường vụ: có nhiệm vụ phụ trách một lĩnh vực công tác của Đoàn,
chỉ đạo một cụm, một đơn vị cụ thể do BCH cùng cấp phân công hoặc có thể trực tiếp
làm một Bí thư Đoàn cơ sở có vị trí quan trọng trong địa bàn huyện. Đa phần ủy viên
BTV đều là cán bộ chuyên trách huyện Đoàn và từ một đến hai ủy viên thường vụ cơ
cấu tại một số đơn vị đặc thù. Ngoài nhiệm vụ chính được phân công, các ủy viên
thường vụ phải tham gia trực hàng ngày, hàng tuần do BTV phân công để giải quyết
các công việc thường xuyên của cơ quan trên lĩnh vực công tác phụ trách. Ủy viên
BTV được Bí thư và Phó Bí thư ủy quyền, giao nhiệm vụ giải quyết các công việc
quan trọng trên tất cả các mặt công tác của Đoàn; cùng với BTV chuẩn bị nội dung
các kỳ họp BCH, BTV huyện Đoàn; đồng thời tích cực tham mưu cho Huyện ủy về
công tác quy hoạch cán bộ chuyên trách của Đoàn cấp huyện, nhằm đảm bảo việc tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên theo tinh thần Nghị quyết hội
nghị lần thứ 7 của BCH trung ương Đảng khóa X.
+ Ủy viên BCH huyện Đoàn: do Đại hội đại biểu huyện Đoàn bầu ra hoặc do hội
nghị BCH huyện Đoàn bầu bổ sung khi khuyết. Các ủy viên BCH có thể là chuyên trách,
bán chuyên trách hay cán bộ Đoàn chuyên trách ở cơ sở. Nhiệm vụ tham gia lãnh đạo tập
thể cùng BCH, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đoàn cấp huyện, có thể phụ trách một nội
dung công tác hoặc tham gia chỉ đạo một điểm hay trực tiếp làm Bí thư Đoàn cơ sở. Mặt
khác, các ủy viên BCH còn tham gia chỉ đạo cơ sở, tham gia có hiệu quả vào các tiểu ban
do BCH lập ra; chịu trách nhiệm trước huyện Đoàn về các mặt công tác của Đoàn trong
toàn huyện; định kỳ kiểm điểm tự phê bình và phê bình bằng văn bản hoặc trong các kỳ
sinh hoạt của Đoàn.
+ Cán bộ đoàn chuyên trách huyện đoàn: (có thể là các chuyên viên, cán bộ phòng
ban nghiệp vụ) là những người chuyên làm công tác thanh thiếu niên, chủ yếu nghiên
cứu, tham mưu cho BCH, BTV và lãnh đạo chủ chốt của huyện Đoàn nhằm chỉ đạo mọi
hoạt động của Đoàn thanh niên cấp huyện. Họ có năng lực tiếp thu các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng và chủ trương công tác của Đoàn cấp trên, vận dụng phù hợp yêu cầu thực tế
địa phương để tổ chức các hoạt động thiết thực phù hợp với ĐVTN, góp phần tham gia
gián tiếp vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước và địa phương. Trong tổ
chức Đoàn cấp huyện và tương đương thì cán bộ chuyên trách của Đoàn không nhất thiết
phải là ủy viên BCH, BTV huyện Đoàn; họ có thể là những chuyên viên - cán bộ phòng
nghiệp vụ, chuyên làm công tác thanh niên, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Ở đây
muốn đề cập đến đội ngũ cán bộ chuyên trách huyện Đoàn không phải là ủy viên BCH,
BTV huyện Đoàn (số cán bộ này chiếm số ít trong đội ngũ cán bộ chuyên trách của
huyện Đoàn), vì chiếm số ít nên họ chưa được quan tâm nhiều trong công tác quy hoạch
cán bộ tại đơn vị. Trong thực tế, đa số cán bộ chuyên trách huyện Đoàn thường được cơ
cấu là ủy viên BCH, BTV để thuận lợi trong công tác tham mưu, chỉ đạo hoạt động ở các
cơ sở. Tuy không phải là ủy viên BCH, BTV nhưng nhiệm vụ của cán bộ chuyên trách
cấp huyện rất nặng nề, trước hết họ là thành viên của cơ quan huyện Đoàn, có trách
nhiệm tham mưu, giúp việc, cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của BCH, BTV huyện
Đoàn và Đoàn cấp trên triển khai đến các đơn vị trực thuộc. Trên cơ sở nhiệm vụ chuyên
môn được phân công phụ trách, họ phải nổ lực, sâu sát, nắm chắc cơ sở mới có thể tham
mưu tốt, đề xuất kịp thời các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động đoàn và chất
lượng đoàn viên. Cán bộ chuyên trách có trách nhiệm tham gia công tác đoàn và thực
hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước ở cấp huyện; chấp hành
nghiêm các quy định, nguyên tắc hành chính, nội quy, quy chế cơ quan đề ra; tích cực
tham gia các hoạt động do các tổ chức đoàn thể trong cơ quan, đơn vị phát động.
Mỗi cán bộ đoàn phải lựa chọn cho mình một hệ thống phương pháp công tác phù
hợp để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Phương pháp công tác của cán bộ đoàn là
nghệ thuật, khả năng thiết kế, tổ chức thực hiện và khả năng giao tiếp, xử lý, giải quyết
tốt các vụ việc ở hai vấn đề chính là nghiệp vụ xây dựng đoàn và nghiệp vụ công tác
thanh niên. Phương pháp công tác của từng cán bộ đoàn rất khác nhau, đồng thời phụ
thuộc nhiều vào trình độ, năng lực, năng khiếu, kinh nghiệm; phẩm chất đạo đức, lòng
say mê trong công tác vận động thanh, thiếu nhi; môi trường, hoàn cảnh sống của con
người đó tác động đến việc hình thành phong cách riêng của người cán bộ đoàn. Đó là
nhân tố quyết định đến hệ phương pháp người đó sử dụng trong công việc và giao tiếp
ứng xử hàng ngày. Cán bộ huyện đoàn có phương pháp công tác tốt, sau khi trưởng thành
được chuyển sang các lĩnh vực công tác khác, sẽ nhanh chóng thích nghi và thành công
trong nhiệm vụ mới. Qua mỗi hoạt động, đội ngũ cán bộ đoàn tham gia vào quá trình
tuyên truyền vận động, đoàn kết, tập hợp thanh thiếu nhi mà vai trò, vị trí, uy tín của họ
càng được khẳng định trong hệ thống tổ chức Đoàn và trong cộng đồng, xã hội.
1.1.2.2. Quan niệm về quy hoạch đội ngũ cán bộ đoàn chuyên trách cấp huyện
ở tỉnh Bình Phước
- Quan niệm về cán bộ trong “Đại bách khoa toàn thư” của Liên Xô: Cán bộ là
những nhân viên thường trực cơ bản trong những nhân viên công tác được huấn luyện
khá của tổ chức Đảng xô viết, tổ chức kinh tế, công đoàn, đoàn thanh niên và các tổ chức
khác; đồng thời trong những người công tác khoa học và văn hóa, quân nhân lục quân và
hải quân, nhân viên công tác chuyên nghiệp trong các ngành kinh tế quốc dân [11, tr.5].
Trong Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 1999, cán bộ có hai nghĩa là
người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước, Đảng và đoàn thể. Là
người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người
không có chức vụ. Trong tổ chức Đảng và đoàn thể, từ cán bộ có nghĩa là để chỉ những
người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở đến trung ương (cán bộ lãnh đạo)
để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên, hội viên. Là những người làm công tác
chuyên trách có hưởng lương trong các tổ chức Đảng và đoàn thể.
- Quan niệm về quy hoạch cán bộ:
* Theo Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 1999: Quy hoạch là bố trí,
sắp xếp toàn bộ theo một trình tự hợp lý trong từng thời gian, làm cơ sở cho việc lập kế
hoạch dài hạn (như quy hoạch đào tạo cán bộ).
* Quy hoạch cán bộ được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau. Tương ứng với mỗi
góc độ sẽ có quan niệm về quy hoạch cán bộ khác nhau. Hiện nay có nhiều quan niệm về
quy hoạch cán bộ, sau đây là ba quan niệm cơ bản về quy hoạch cán bộ:
+ Xem xét dưới góc độ tạo nguồn, dự báo cán bộ.
Quy hoạch cán bộ là “quá trình thực hiện đồng bộ các chủ trương, biện pháp để tạo
nguồn, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
trên cơ sở dự báo nhu cầu cán bộ nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trong
thời gian nhất định” [23, tr.69].
Việc tạo nguồn cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức được thể hiện trên
các phương diện chủ yếu sau:
Đối với đội ngũ cán bộ, công chức: tạo nguồn, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
cho từng cấp, từng ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị.
Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu: tạo nguồn, xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là
người đứng đầu các tổ chức ấy ở các cấp, các ngành.
Đối với đội ngũ cán bộ công chức làm công tác tham mưu, tổng hợp: tạo nguồn,
xây dựng đội ngũ cán bộ này có phẩm chất, năng lực, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ được giao.
Như vậy, theo quan niệm này thì quy hoạch cán bộ bao gồm quy hoạch tạo nguồn
cán bộ, công chức và quy hoạch tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý. Quy hoạch tạo
nguồn cán bộ công chức sẽ bổ sung cho quy hoạch tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Vì vậy phải đồng thời quan tâm đến cả hai loại quy hoạch này.
+ Xem xét dưới góc độ lập dự án xây dựng, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ.
“Quy hoạch cán bộ là việc lập dự án xây dựng đội ngũ cán bộ; dự kiến bố trí, sắp
xếp tổng thể đội ngũ cán bộ theo một mục tiêu nhất định, trong một thời gian nhất định,
làm cơ sở cho việc lập kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ” [23, tr.70].
Quan niệm này nhấn mạnh mối quan hệ mật thiết giữa quy hoạch cán bộ với kế
hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Quy hoạch cán bộ
phải gắn liền với kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ; trên cơ sở quy hoạch cán bộ để lập
kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ phải theo quy hoạch cán bộ và kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ, đây là
khâu quan trọng để thực hiện quy hoạch cán bộ.
+Xem xét dưới góc độ sự quán triệt, vận dụng các quan điểm, nguyên tắc của
Đảng và nhà nước về tổ chức cán bộ vào địa phương, đơn vị.
“Quy hoạch cán bộ là sự thể hiện tập trung và cụ thể mức độ quán triệt và vận
dụng các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, nhà nước về tổ chức, cán bộ vào công tác cán
bộ của một địa phương, đơn vị” [23, tr.70].
Quan niệm này quan tâm và nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa quy hoạch cán bộ
với các khâu khác của công tác cán bộ và việc thực hiện quy hoạch cán bộ. Công tác
cán bộ có nhiều khâu như tạo nguồn, quy hoạch cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá,
quản lý, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ và thực hiện chính sách cán bộ…Việc
quán triệt các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, nhà nước về tổ chức, cán bộ vào các
khâu của công tác cán bộ ở mỗi địa phương, đơn vị và thực hiện tốt các khâu đó có tác
dụng rất lớn đến việc thực hiện quy hoạch cán bộ. Trong đó, cần quan tâm đến tạo
nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý đảm bảo các yêu cầu, tiêu chuẩn, để trẻ hóa đội ngũ
cán bộ, cải thiện cơ cấu giai cấp, dân tộc, giới tính; quan tâm hơn đến đào tạo, đào tạo
lại theo quy hoạch các chức danh cán bộ và cán bộ dự nguồn; đồng thời tích cực nâng
cao chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Tóm lại, quy hoạch cán bộ là toàn bộ hoạt động trên cơ sở quán triệt, vận dụng các
quan điểm, nguyên tắc của Đảng, nhà nước về tổ chức, cán bộ vào công tác cán bộ của
từng địa phương, cơ quan, đơn vị để tạo nguồn cán bộ, lập dự án xây dựng, bố trí, sắp
xếp tổng thể đội ngũ cán bộ có chất lượng trong một khoảng thời gian nhất định, nhằm
tạo ra đội ngũ cán bộ có chất lượng tốt, đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng,
nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ sở.
Trong Chiến lược cán bộ thời kỳ CNH, HĐH đất nước đã khẳng định: Quy hoạch
cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi
vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
Theo Nghị quyết 42 của Bộ chính trị, quy hoạch cán bộ được hiểu là một hoạt
động tổng thể cả ở tầm vĩ mô và vi mô, bao hàm nhiều loại quy hoạch khác nhau. Quy
hoạch cán bộ là nền tảng của công tác cán bộ. Bản chất của quy hoạch cán bộ là chú
trọng tới việc phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo và sử dụng nhân tài cho đất nước, có ở tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội, an ninh quốc phòng, khoa học công
nghệ… do đó quy hoạch cán bộ là việc tạo nguồn cán bộ cho cả hiện tại và tương lai, đây
là công việc thường xuyên trong đời sống chính trị của Đảng cầm quyền. Cũng có khả
năng xảy ra khủng hoảng về cơ cấu cán bộ nếu chúng ta không làm tốt công tác quy
hoạch cán bộ. Xã hội có sự phát triển bền vững khi chúng ta chủ động được vấn đề cán
bộ và ngược lại sẽ khủng hoảng cán bộ có thể dẫn đến khủng hoảng xã hội.
- Quan niệm về Cán bộ Đoàn chuyên trách:
Theo Nghị quyết 06 của Ban thường vụ Trung ương Đoàn, năm 1976, cho rằng
Cán bộ Đoàn thanh niên là một bộ phận cán bộ của Đảng… là cán bộ chính trị, cán bộ
vận động thanh niên, với nhiệm vụ chủ yếu là giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ