Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

LUẬN VĂN: Nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tỉnh Thái Bình hiện nay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.03 KB, 100 trang )













LUẬN VĂN:
Nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong
quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các
trường THPT tỉnh Thái Bình hiện nay













Mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 21, đất nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển
mới: thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN,
hướng tới kinh tế tri thức và mở rộng hội nhập quốc tế với nhiều thuận lợi và khó khăn,
thử thách phải vượt qua. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII đã khẳng định: “Lấy việc phát triển nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự
phát triển nhanh và bền vững”. Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng nhấn mạnh: tiếp tục
“phát huy nhân tố con người” và “tăng cường nguồn lực con người” để “từng bước phát
triển kinh tế tri thức”. Bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát
triển, đầu tư cho con người chính là tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển, là bảo đảm
vững bền cho sự phồn thịnh của mỗi quốc gia. Việc phát triển nguồn nhân lực là “chìa
khóa” quyết định thành công của giai đoạn cách mạng mới trên đất nước ta.
GD-ĐT có vị trí quan trọng để phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục trong hệ thống trường
học với chủ thể là đội ngũ nhà giáo là con đường ngắn nhất và khoa học nhất để truyền
thụ tri thức cho học sinh một cách cơ bản có hệ thống và hiệu quả. Hệ thống giáo dục
nước ta hiện nay có nhiều cấp học, ngành học được xây dựng chặt chẽ và mang tính phát
triển, đội ngũ nhà giáo là lực lượng nòng cốt thực hiện mục tiêu GD-ĐT, là người xây dựng
cho học sinh thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, trang bị cho học sinh tri thức và phương
pháp tư duy khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo. Vì vậy, vai trò của đội ngũ nhà
giáo rất quan trọng, công việc của họ sẽ để lại dấu ấn trong tương lai. Khi nói về vai trò của
đội ngũ nhà giáo, tại hội nghị giáo dục ở Australia năm 1993 các đại biểu đã đưa ra nhận
định “Người giáo viên sẽ là người có trách nhiệm làm thay đổi thế giới”. Đảng ta cũng
xác định “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh”
[10, tr.38-39].
Nằm trong cấu trúc chung của hệ thống giáo dục quốc dân, các trường THPT là một cấp
học, một bộ phận hữu cơ của giáo dục phổ thông, là cầu nối giữa bậc tiểu học, THCS với
bậc đại học. Nếu giáo dục đại học là khâu trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao tham gia quá trình CNH, HĐH đất nước, thì giáo dục
THPT là khâu chuẩn bị cho học sinh THPT – bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực tiếp


tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động. ở cấp học này, đội ngũ nhà giáo có vai trò rất
quan trọng trong việc đào tạo học sinh thành nguồn nhân lực có tri thức, có năng lực và
phẩm chất, có đủ điều kiện để tiếp cận bậc GD-ĐT cao hơn hoặc lao động ở một ngành
nghề cụ thể khi chưa có khả năng học tiếp. Nhưng hiện nay trong các trường THPT, “đội
ngũ nhà giáo vừa thiếu lại vừa thừa, một bộ phận nhỏ nhà giáo chưa đạt chuẩn đào tạo,
một số thiếu năng lực giảng dạy và tinh thần trách nhiệm. Đáng lo ngại là tác động tiêu
cực của cơ chế thị trường đã làm xói mòn phẩm chất của một số nhà giáo gây ảnh hưởng
xấu đến uy tín người thầy trong xã hội” [4, tr.21]. Điều đó làm hạn chế việc thực hiện vai
trò đào tạo nguồn nhân lực của đội ngũ nhà giáo, là một trong những nguyên nhân chủ
yếu dẫn tới thực trạng: nhiều học sinh kiến thức lệch lạc, thiếu hiểu biết các vấn đề chính
trị - xã hội, một bộ phận học sinh suy thoái về đạo đức, lối sống; phần lớn học sinh sau
khi tốt nghiệp THPT thiếu khả năng tự tìm kiếm việc làm, chưa vững vàng trước những
biến đổi phức tạp của cuộc sống. Chất lượng đào tạo ở cấp học này chưa thực sự đáp ứng
được mục tiêu đặt ra. Đặc biệt, vào thời điểm hiện nay dấu hiệu một cuộc khủng hoảng
GD-ĐT đã đến mức khiến xã hội phải lên tiếng.
Là người đã từng trực tiếp tham gia công tác giáo dục ở một trường THPT thuộc tỉnh
Thái Bình, mong muốn qua việc khảo sát vai trò của đội ngũ nhà giáo ở một tỉnh để có
thể phát hiện những tiềm năng đang tiềm tàng, khơi dậy năng lực sáng tạo, nhiệt tình
cống hiến của đội ngũ nhà giáo trong công tác giáo dục thế hệ công dân mới của đất
nước, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình
đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tỉnh Thái Bình hiện nay” .
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, nhận thức được tầm quan trọng của GD-ĐT và vai trò của đội
ngũ nhà giáo đối với việc phát triển nguồn nhân lực nên ở nước ta đã có một số công
trình nghiên cứu khoa học đề cập tới các khía cạnh khác nhau của vấn đề nhà giáo và vai
trò của đội ngũ nhà giáo:
Những công trình có tính chất định hướng cho việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa
GD-ĐT với việc phát triển nguồn nhân lực và đội ngũ nhà giáo trong mối quan hệ đó
như: “Con người Việt Nam, mục tiêu và động lực phát triển KT-XH” mã số KX.07 do
GS.TS Phạm Minh Hạc chủ biên với nhiều vấn đề được phân tích trong đó có các vấn

đề phát triển GD-ĐT, bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực, gia đình - nhà trường

- xã hội với việc phát hiện, tuyển chọn, giáo dục và đãi ngộ người tài; “Chiến lược
phát triển giáo dục trong thế kỷ 21, kinh nghiệm của các quốc gia” của Viện nghiên
cứu phát triển giáo dục, Nxb Chính trị quốc gia, là tập hợp những kết quả nghiên cứu
của các nhà khoa học có liên quan đến lĩnh vực chiến lược phát triển giáo dục.
Những công trình nghiên cứu khoa học ít nhiều có đề cập đến đặc điểm, vai trò của đội
ngũ nhà giáo trong giai đoạn hiện nay như: “Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác-
Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay” của Phạm Văn Thanh, công trình chủ
yếu bàn về đội ngũ nhà giáo Mác-Lênin và vai trò của đội ngũ này trong các trường đại
học; “Trí thức giáo dục đại học Việt nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH” của
Nguyễn Văn Sơn với nội dung bàn về việc xây dựng đội ngũ nhà giáo ở các trường đại
học đáp ứng yêu cầu của giáo dục đại học trong giai đoạn hiện nay; “Giáo dục đạo đức
cho học sinh THCS tại thành phố Hồ Chí Minh trong điều kiện đổi mới hiện nay” của Đỗ
Tuyết Bảo đi sâu nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của GD-ĐT đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách cho học sinh THCS trong điều kiện mới; “Kinh tế thị với sự hình thành
và phát triển nhân cách của người thầy giáo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của
Nguyễn Như Thơ đã lý giải những biến đổi trong quá trình hình thành và xây dựng nhân
cách sư phạm cho đội ngũ nhà giáo; “Giáo dục đạo đức XHCN qua bộ môn GDCD cho
học sinh THPT ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu” của Nguyễn Sỹ Quyết Tâm với những giải pháp
đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh THPT
Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về vai trò của
đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT trên địa bàn
một tỉnh, trong đó có tỉnh Thái Bình. Do vậy, trên cơ sở kế thừa những thành quả của các
công trình khoa học đi trước, đứng ở giác độ chuyên ngành CNXHKH chúng tôi đã chọn
đề tài: “Nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực
ở các trường THPT tỉnh Thái Bình hiện nay” để thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và vai trò của đội
ngũ nhà giáo, luận văn làm rõ thực trạng vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào

tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT tỉnh Thái Bình, từ đó đưa ra giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các
trường THPT của tỉnh.

Nhiệm vụ: Luận văn có 3 nhiệm vụ cụ thể sau:
Làm rõ những khái niệm: đội ngũ nhà giáo, nguồn nhân lực, học sinh THPT, từ đó phân
tích đặc điểm, vai trò của đội ngũ nhà giáo với tư cách là chủ thể quan trọng trong quá
trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT.
Đánh giá đúng thực trạng vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân
lực ở các trường THPT tại tỉnh Thái Bình hiện nay.
Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo
nguồn nhân lực ở các trường THPT tỉnh Thái Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu đội ngũ nhà giáo dưới góc độ chính trị - xã hội thể hiện trong
quá trình đào tạo nguồn nhân lực.
- Phạm vi: Vai trò của đội ngũ này trong thời kỳ đổi mới nhất là trong những năm gần
đây.
- Địa bàn nghiên cứu: Các trường THPT tỉnh Thái Bình.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá
trình đào tạo nguồn nhân lực từ lực lượng học sinh THPT.
* Cơ sở thực tiễn:
Luận văn nghiên cứu toàn bộ hoạt động của đội ngũ nhà giáo ở các trường THPT tỉnh
Thái Bình hiện nay trong mối quan hệ với quá trình đào tạo nguồn nhân lực.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử kết hợp
với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, kế thừa, logic và lịch sử, thống kê, điều tra
xã hội học…, gắn lý luận với thực tiễn chính trị - xã hội của vấn đề.

6. Những đóng góp mới của luận văn
Xác định các xu hướng biến động về vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo
nguồn nhân lực ở các trường THPT hiện nay.
Xác định quan điểm và hệ thống giải pháp để nâng cao vai trò của đội ngũ nhà giáo trong
quá trình đào tạo nguồn nhân lực ở các trường THPT trong thời gian tới.

7. ý nghĩa của luận văn
ở mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nhận thức đầy đủ hơn về
vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực; làm cơ sở để xây
dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo ở các trường THPT; làm tài liệu tham
khảo cho ngành GD-ĐT mà trước hết là ngành GD-ĐT Thái Bình. Góp phần làm tài liệu
tham khảo, nghiên cứu một số vấn đề về trí thức, con người, nguồn nhân lực.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành
3 chương 6 tiết.

Chương 1
Học sinh trung học phổ thông - Bộ phận
của Nguồn nhân lực và Vai trò của đội ngũ nhà giáo trong quá trình đào tạo bộ
phận nhân lực này

1.1. Học sinh trung học phổ thông - Bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực
1.1.1. Nguồn nhân lực
1.1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, quốc gia nào cũng nhận
thức rõ nguồn nhân lực là nhân tố quyết định đến sự phát triển KT-XH của đất nước.
Nhiều quốc gia đã xây dựng cho mình chiến lược phát triển nguồn nhân lực và coi đó là
vấn đề cốt lõi cho sự phát triển.
Khi nói đến “nguồn nhân lực” tức là muốn nói đến một tài sản quý, vốn quý có khả năng
sinh sôi nảy nở và có thể đem ra sử dụng. Tài sản quý, vốn quý đó gắn liền với con người

- một đơn vị tế bào tạo nên nguồn nhân lực, là đối tượng cần được đầu tư, được giáo dục
và được đào tạo. Có thể hiểu nguồn nhân lực ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, nói tới nguồn nhân lực là nói tới con người hiện thực và chất lượng phát triển
của con người gắn liền với bản chất xã hội.
Các nhà triết học mácxít đã khẳng định: con người hiện thực là một chỉnh thể sinh học -
xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người. Kết hợp hai mặt
sinh học và xã hội, con người có một năng lực tiềm ẩn (tiềm năng), khi được sử dụng và
gặp môi trường thuận lợi thì tiềm năng ấy được phát huy, lúc đó con người trở thành
động lực cho sự phát triển KT-XH. Môi trường đó chính là hoạt động lao động - hoạt
động bản chất nhất của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ cho cuộc sống:
“Lao động là điều kiện cơ bản, đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người và như thế đến
một mức mà trên một nghĩa nào đó chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân
con người”[26, tr.641]. Và, mặc dù: “Bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và
đầu óc, chúng ta là thuộc về tự nhiên, chúng ta nằm trong lòng giới tự nhiên”[26, tr.665]
nhưng nhờ có lao động mà: “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát
khỏi trạng thái thuần túy là loài vật” [26, tr.673]. Lao động mang ý nghĩa nhân bản sâu xa
bởi trong lao động con người đã làm biến đổi tự nhiên, biến đổi cả bản thân mình và đã

làm nên lịch sử của cả xã hội loài người. Điều đó cho thấy, nếu con người là sản phẩm
của hoàn cảnh lịch sử - xã hội thì đặc trưng bản chất nhất của nguồn nhân lực là sự phản
ánh trình độ phát triển, mức độ hoàn thiện con người trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Chính các hoạt động nhận thức thực tiễn của con người đã làm hoàn thiện nhân cách,
trình độ, trí tuệ và thể lực của con người, giúp con người thực hiện các chức năng xã hội
của mình. Vì vậy, khi đào tạo nguồn nhân lực cần phải phát triển cả mặt sinh học (sức
khỏe, nuôi dưỡng, vệ sinh, môi trường ) và mặt xã hội (kiến thức, kỹ năng, đạo đức, lối
sống ) cho con người. Đây là điều kiện để tạo ra những khả năng, tiềm năng của nguồn
nhân lực đồng thời cũng là cơ sở để có giải pháp phát huy vai trò của nguồn nhân lực.
Thứ hai, nói tới nguồn nhân lực là nói tới con người trong tư cách cá nhân và cá thể tồn
tại, hoạt động, sống và tự biểu hiện đời sống của mình trong mối liên hệ với những người
khác, với cả cộng đồng, chịu ảnh hưởng cũng như sự tác động của các quan hệ xã hội và

điều kiện lịch sử - xã hội mà cá nhân đó đang sinh sống.
Khi xem xét mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh, các nhà triết học
mácxít đã chứng minh được: con người là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng thời là chủ thể
sáng tạo ra hoàn cảnh. Nhưng hoạt động sáng tạo ra hoàn cảnh của con người lại chỉ được
thực hiện trong mối quan hệ với cộng đồng. Xã hội và quan hệ xã hội là điều kiện để con
người thể hiện bản tính phong phú và tư duy sáng tạo của mình. Do đó, khả năng của con
người hay của nguồn nhân lực được huy động vào quá trình phát triển xã hội sẽ trở thành
những thông số quan trọng để nghiên cứu và điều chỉnh một cách có ý thức nguồn nhân
lực của từng quốc gia hoặc từng địa phương.
Thứ ba, nói đến nguồn nhân lực cần nhấn mạnh đến vai trò tích cực, sáng tạo của con
người trong hoạt động thực tiễn, nó thể hiện ở vai trò chủ thể sáng tạo trong quá trình
phát triển đồng thời cũng là khách thể của quá trình phát triển, thể hiện trong việc con
người cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo bản thân.
Các nhà mácxít khẳng định: sự thay thế của các hình thái KT-XH trong lịch sử là do sự
phát triển của LLSX. Mà trong LLSX, con người là yếu tố cách mạng và năng động nhất.
Chính con người đã làm nên những biến đổi về tính chất và trình độ của LLSX để rồi đưa
xã hội tiến lên. Với luận điểm, xã hội tạo ra con người ở mức độ nào thì con người cũng
tạo ra xã hội ở mức độ đó đã cho thấy: trong tiến trình các cuộc cải biến xã hội, con
người luôn là mục tiêu đồng thời là động lực của tiến trình đó. Thực tế đã chứng minh, ở

đâu các lực lượng cách mạng có ý thức đầy đủ về vai trò của con người, có giải pháp hiện
thực hóa vai trò của con người thì sự nghiệp cách mạng ở đó sẽ giành thắng lợi. Với ý
nghĩa đó, xét trong quá trình phát triển thì con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực.
Kế thừa và phát triển những luận điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp tục nghiên cứu
và khẳng định, con người là những cá nhân cụ thể, vừa tồn tại với tư cách cá nhân với
những nhu cầu, khát vọng và năng lực tiềm tàng lại vừa tồn tại với tư cách là những
thành viên của gia đình, của cộng đồng dân tộc. Bằng năng lực và trách nhiệm đối với xã
hội, con người có vai trò to lớn, quyết định tới thành công của cách mạng, tiến bộ của xã
hội, tiền đồ của dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Người viết: “Vô luận việc gì đều do
con người làm ra”[32, tr.113]. Rằng “Phải bồi dưỡng, đào tạo và phát huy năng lực của

con người, của từng cá nhân và của cả cộng đồng dân tộc [34, tr.56].
Từ cơ sở đó có thể quan niệm rằng: Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng của con
người trong một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địa phương đã được chuẩn bị ở mức
độ nào đó, có khả năng huy động vào quá trình phát triển KT-XH của đất nước hoặc một
vùng, một địa phương cụ thể. Nguồn nhân lực là nơi cung cấp sức lao động cho xã hội, là
bộ phận quan trọng nhất của dân số, của các nguồn lực, có khả năng tạo ra các giá trị vật
chất và tinh thần cho xã hội. Cấu trúc nguồn nhân lực của một quốc gia gồm những người
nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, không kể đến trạng thái có hay không
làm việc. ở Việt Nam, theo Luật lao động, nam tuổi từ 15-60; nữ tuổi từ 15-55, có khả
năng lao động đều thuộc nguồn nhân lực.
1.1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội
Để phát triển KT-XH cần có nhiều nguồn lực, trong đó nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết
định sự phát triển, vì con người vừa là một nguồn lực, vừa là chủ thể của các nguồn lực
khác. Con người bằng lao động sáng tạo đã phát hiện ra ngày càng nhiều nguồn lực trong
tự nhiên và từ nguồn lực tự nhiên tạo thành những nguồn lực mới, làm tăng lên những
khả năng có thể có của đất nước, của dân tộc cho sự phát triển. Mặt khác do đặc tính lao
động sáng tạo của con người mà nguồn nhân lực trở nên sinh động và không cạn kiệt,
hơn nữa nguồn nhân lực có khả năng phát triển, tái sinh và tự nhân mình lên gấp bội. Vì
vậy, để đảm bảo cho sự phát triển bền vững thì cần phải quan tâm bồi dưỡng, phát triển
nguồn nhân lực cả về trí tuệ, năng lực, thể lực và đạo đức.

Cách đây hơn 150 năm, Mác đã đề cập tới phát triển con người toàn diện, lấy đó làm cơ
sở cho sự phát triển xã hội CSCN. Ông cho rằng sự phát triển LLSX xã hội trước hết là:
“Phát triển sự phong phú của bản chất con người, như là một mục tiêu tự thân”[28,
tr.168]. Theo Mác-Ăngghen, cuộc đấu tranh của những người cộng sản chống lại trật tự
tư sản chính là nhằm mục đích “tạo ra hoàn cảnh có tính người” để “phát triển những
năng lực phẩm chất người”. Kết quả của cuộc đấu tranh đó là sự xuất hiện một liên hợp,
trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi
người”. Nguồn nhân lực vừa là một yếu tố của sản xuất, của tăng trưởng kinh tế, vừa là
mục tiêu của sự phát triển, “phát triển nguồn nhân lực chính là hoạt động đầu tư, là quá

trình bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực nhằm tạo ra
cho lực lượng này những năng lực, phẩm chất cần thiết, đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của sự nghiệp phát triển KT-XH”. Việc phát hiện và làm bộc lộ tiềm năng của
nguồn nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của con người chỉ có thể thông qua
hoạt động thực tiễn, qua đó làm tích cực hóa nguồn nhân lực, tạo ra sự giải phóng cho
tiềm năng của con người để dẫn tới sự sáng tạo của con người. Vấn đề là phải phát triển
một nguồn nhân lực như thế nào, làm thế nào để khơi dậy và phát huy được vai trò của
của nguồn nhân lực đó?
Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, để xây dựng CNXH và CNCS cần phải có
một nguồn nhân lực có chất lượng, nguồn nhân lực đó chính là những con người mới
XHCN. Thời Mác-Ăngghen, tuy chưa có những điều kiện khách quan cho sự ra đời của
con người mới XHCN nhưng qua việc nghiên cứu những quy luật phát triển nội tại của
CNTB, các ông đã phác họa những nét chính của con người mới đại diện cho nguồn nhân
lực của chế độ xã hội mới. Đó là những con người phát triển toàn diện, không bị trói
buộc suốt đời vào một sự phân công lao động nào, những con người lấy lao động làm
nguồn hứng thú duy nhất trong đời sống, ngày càng có đầy đủ năng lực và phẩm chất để
làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân. Lênin cũng nói đến con người
mới khá cụ thể, đó là những con người có tinh thần làm chủ tập thể, có năng lực làm chủ,
hăng say lao động, coi trọng sản xuất, coi trọng của công, có kỷ luật tự giác cao, có tri
thức khoa học, có khả năng tiếp thu những thành tựu mới nhất của nền văn minh hiện đại
vì “người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản sau khi làm giàu trí tuệ của mình bằng sự
hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”[22, tr.8]. Chủ tịch Hồ Chí

Minh cho rằng, để xây dựng thành công CNXH thì phải có những con người XHCN, đó
là những con người vừa “hồng vừa chuyên”, “vừa có đức vừa có tài”, những con người
phát triển toàn diện cả về nhận thức, tình cảm và ý chí, những con người yêu nước, yêu
chủ nghĩa quốc tế vô sản. Những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh là cơ sở lý luận của Đảng CSVN trong vấn đề đào tạo một nguồn nhân lực với
những con người cường tráng về thể chất, trong sáng về tinh thần, có trí tuệ, phẩm chất
đạo đức và nhân cách đáp ứng được sự nghiệp cách mạng của đất nước trong giai đoạn

hiện nay. Việc tạo ra nguồn nhân lực để xây dựng xã hội là sự nghiệp của nhiều “binh
chủng”, trong đó ngành GD-ĐT đóng vai trò quyết định.
1.1.1.3. Giáo dục - đào tạo là nhân tố có ý nghĩa quyết định chất lượng nguồn nhân
lực
Nguồn nhân lực được phát triển bằng nhiều con đường khác nhau, song GD-ĐT là con
đường có hiệu quả nhất. GD-ĐT là hoạt động đặc biệt chỉ có trong xã hội loài người, đó
là hoạt động có tổ chức của xã hội nhằm bồi dưỡng và phát triển các phẩm chất và năng
lực cho con người cả về tư tưởng, đạo đức, khoa học, sức khỏe và nghề nghiệp. Ngay từ
khi CNXH còn là học thuyết, Mác-Ăngghen đã đánh giá cao vai trò của sự nghiệp giáo
dục, các ông cho rằng giáo dục là nhiệm vụ cần thiết, bắt buộc đối với mọi người. Trong
tác phẩm “Nguyên lý của CNCS” Mác-Ăngghen đã nói tới chế độ giáo dục trong một xã
hội tổ chức theo nguyên tắc CSCN là “giáo dục công cộng, không mất tiền cho tất cả trẻ
em”, giáo dục toàn diện cả “trí dục, thể dục” và “kỹ thuật bách khoa”. Các ông nhấn
mạnh: sự nghiệp xây dựng xã hội mới trong đó cùng với phát triển kinh tế còn phải xây
dựng văn hóa, đào tạo con người, vì thế cần phải chú ý đến nhiệm vụ giáo dục, coi đó là
biện pháp hàng đầu để đào tạo con người mới với tư cách là chủ thể sáng tạo có ý thức
của xã hội mới. Lênin đã vận dụng quan điểm của Mác-Ăngghen để phát triển giáo dục ở
nước Nga ngay sau Cách mạng Tháng Mười. Trong lúc nước Nga còn đang rất khó khăn,
nghèo về kinh tế, lạc hậu về văn hóa, …Lênin đã nhận thấy việc nâng cao trình độ văn
hóa, giáo dục và kỹ thuật là vô cùng cần thiết để thoát khỏi tối tăm, nghèo nàn, bệnh tật.
Ông nhấn mạnh: lúc này Nhà nước Xô Viết phải coi phát triển giáo dục là một nhiệm vụ
trọng tâm; tất cả mọi người, đặc biệt là thanh niên phải có nhiệm vụ “học tập” vì nếu
không xây dựng được một nền học vấn hiện đại thì “CNCS cũng chỉ là một nguyện vọng
mà thôi”[23, tr.175]. Những luận điểm của Mác-Ăngghen và Lênin cùng những kinh

nghiệm thực tiễn về tầm quan trọng của giáo dục trong quá trình đào tạo con người mới
để xây dựng xã hội mới đến nay vẫn còn nguyên giá trị và tiếp tục soi sáng cho các dân
tộc muốn có sự phát triển nhanh và bền vững.
Việt Nam là một dân tộc hiếu học, trọng tri thức, trọng học vấn. Từ ngàn xưa ông cha ta
đã đúc kết nên bài học lịch sử: để xây dựng xã tắc vững bền, để quốc gia cường thịnh thì

phải chăm lo cho nguồn lực trí tuệ của dân tộc. Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng khẳng
định “phí trí bất hưng”, nhà chí sỹ yêu nước Phan Bội Châu cũng cho rằng “người Việt
Nam phải ngẩng cao đầu để tự cứu lấy mình bằng tài năng và trí tuệ của mình, bằng việc
khai trí và chấn hưng tân học”. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trong quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam đã học tập lý luận và kinh nghiệm thế giới, kế thừa và phát
triển truyền thống dân tộc trong việc xây dựng một nền giáo dục tiến bộ phục vụ sự
nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường và mục tiêu đã lựa chọn.
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị
chúng ta… Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch
chống nạn mù chữ” [34, tr.8]. Rằng phải xây dựng một nền giáo dục mới, “Vì lợi ích
mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”, vì “Muốn xây CNXH
phải có con người XHCN” [37, tr.159].
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn vai trò của nguồn nhân
lực, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển KT-XH, con
người là nguồn vốn, là tài sản quý giá nhất. Đảng ta khẳng định: “Để đáp ứng yêu cầu về
con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời
kỳ CNH, HĐH, cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục”[12, tr.201], vì
“Phát triển GD-ĐT là một trong những động lực quan trọng của sự nghiệp CNH, HĐH, là
điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững”[12, tr.108]. Với phương châm “giáo dục là quốc sách
hàng đầu”, Đảng ta nhấn mạnh: một quốc gia phát triển cần có một nền kinh tế phát triển,
một nền kinh tế có sức mạnh để phát triển cần phải tạo ra được một nguồn nhân lực với
một trình độ trí tuệ ngang tầm thời đại và một nguồn chất xám cũng như nhân lực kỹ
thuật đủ để luôn đổi mới sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phát triển các hoạt động
dịch vụ, hoạt động văn hóa, tinh thần, tất cả những điều này đều phụ thuộc vào GD-ĐT.

Hơn nữa GD-ĐT đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành con người lao động mới -
người công dân Việt Nam có lý tưởng XHCN, có lòng tự hào dân tộc, có khả năng tiếp
thu những tiến bộ của KH&CN và tinh hoa văn hóa của nhân loại, có khả năng lao động

và tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Với ý nghĩa đó Đảng ta chỉ rõ: GD-
ĐT nguồn nhân lực là một một khâu chủ yếu trong toàn bộ quá trình phát triển nguồn lực
của đất nước. Trên nền tảng học vấn phổ thông về tự nhiên, xã hội và nhân cách…, GD-
ĐT nguồn nhân lực phải hướng tới việc hình thành, phát triển kiến thức, kỹ năng lao
động phù hợp với cách thức tổ chức, phân công lao động xã hội theo từng giai đoạn phát
triển, trong các lĩnh vực hoạt động và điều kiện cụ thể.
Những quan niệm trên là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về một bộ phận quan trọng
của nguồn nhân lực, đó là học sinh THPT - đối tượng tác động và cũng là sản phẩm lao
động của đội ngũ nhà giáo ở các trường THPT.
1.1.2. Học sinh trung học phổ thông - nguồn nhân lực đang được đào tạo
1.1.2.1. Một số đặc điểm của học sinh trung học phổ thông
Theo điều 4 Luật Giáo dục (2005), giáo dục THPT là một bộ phận hữu cơ của giáo dục
phổ thông, nằm trong cấu trúc chung của hệ thống giáo dục quốc dân. Căn cứ vào điều 83
Luật Giáo dục (2005), những người đang học tập tại các cơ sở giáo dục phổ thông (gồm
bậc tiểu học và bậc trung học, trong bậc trung học có 2 cấp là cấp THCS và cấp THPT)
và giáo dục nghề nghiệp (gồm các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề) được
gọi là học sinh.
Kết hợp điều 4 và điều 83, có thể hiểu học sinh THPT là những người đang theo học ở
cấp THPT, cấp học kế tiếp sau cấp THCS và “được thực hiện trong ba năm học, từ lớp 10
đến lớp 12. Học sinh vào học lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp THCS, có tuổi là mười lăm
”[21, tr.20]. Điều lệ trường trung học (2000) cũng quy định rõ tuổi của học sinh THPT
“là 15 đến 19”[14, tr.26].
Theo quy định của luật Lao động nước ta, với lứa tuổi trên học sinh THPT là lực lượng
nằm trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và là bộ phận quan trọng của nguồn
nhân lực. Đây là lứa tuổi có sự phát triển phức tạp cả về mặt sinh học và mặt xã hội, là
thời kỳ học sinh bước vào giai đoạn cuối của quá trình chuẩn bị nền tảng cho sự tham gia
của họ vào hoạt động nghề nghiệp và các dạng lao động xã hội. Xem xét nguồn nhân lực
trên cả hai phương diện cá thể và xã hội thì học sinh THPT với tư cách là một bộ phận

của nguồn nhân lực cũng được xem xét trên hai phương diện đó với những đặc điểm tâm

sinh lý, những hoạt động đặc trưng và nhân cách xác định.
Với độ tuổi từ 15 đến 19, học sinh THPT là những con người đang trưởng thành, có khả
năng phát triển mạnh mẽ về trí tuệ và nhanh chóng về thể lực. ở góc độ sinh học, đây là
lứa tuổi đang dần hoàn thiện về cơ thể, là giai đoạn các em phát triển về chiều cao, trọng
lượng và thể trạng với tốc độ nhanh. So với các thế hệ cha anh trước đây, học sinh THPT
ngày nay do được sống trong hòa bình, do đời sống ngày một nâng cao và nhu cầu dinh
dưỡng được đáp ứng ngày càng đầy đủ nên có sự phát triển tốt hơn về thể lực. Các em đã
có một thể hình đẹp hài hòa, một sức khỏe dồi dào có thể đáp ứng được những đòi hỏi về
sự hao phí các sức lực thần kinh, cơ bắp trong lao động với những đặc thù nghề nghiệp
khác nhau. Hơn nữa ở độ tuổi này tính chủ định phát triển mạnh, khả năng quan sát, ghi
nhớ đạt ở mức độ khá cao và giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, khả năng tư duy
lý luận, tư duy trừu tượng cũng như năng lực tư duy độc lập sáng tạo được hình thành,
phát triển và ngày càng hoàn thiện. Đây chính là cơ sở để học sinh THPT có thể tiếp nhận
và xử lý một khối lượng lớn tri thức, là điều kiện để bồi dưỡng trí tuệ, tay nghề, để trang
bị chuyên môn, nghề nghiệp và là giá đỡ cho tiềm năng sáng tạo của các em trong tư cách
nguồn nhân lực. ở góc độ tâm lý, học sinh THPT thích cái mới, thích khám phá, sáng tạo,
giàu óc tưởng tượng, nhiều ước mơ, hoài bão, có nhu cầu tìm hiểu, nhu cầu tình bạn, tình
yêu…Những đặc điểm này đã tác động rất mạnh đến sự hình thành tư tưởng của các em,
khi các em xác định được niềm tin, lý tưởng thì các em có thể xả thân vì lý tưởng và phấn
đấu với niềm lạc quan, với sức sống mạnh mẽ để đạt được niềm tin và lý tưởng đó. ở các
em không có tính bảo thủ, trì trệ, dễ thích ứng với đường lối đổi mới, rất quan tâm đến
tương lai nên cũng rất quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, của thời cuộc. Đây
là điều kiện để học sinh THPT xác định được phương hướng tiến thân, lập nghiệp và xây
dựng sự nghiệp cho mình.
Với tư cách là nguồn nhân lực trẻ, đang được chuẩn bị để thực hiện chức năng của một
công dân có học vấn, được quyền tham gia vào các hoạt động lao động, học tập và các
mối quan hệ xã hội, nhân cách của học sinh THPT được hình thành trong quá trình xã hội
hóa và giải quyết các mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa sự phát triển mạnh mẽ về thể lực,
trí lực và những mơ ước nhiều chiều với khả năng thực hiện những mơ ước đó theo định
hướng xác định phù hợp với năng lực và điều kiện vốn có của bản thân, của gia đình;


giữa lượng thông tin lớn về kinh tế, chính trị, xã hội… với tiềm năng tiếp nhận, xử lý,
chọn lọc những thông tin đó; giữa khối lượng lớn những tri thức phải học ở giai đoạn
cuối của các trường phổ thông với những nhu cầu hoạt động của tuổi trẻ; giữa tính phong
phú, đa dạng của nghề nghiệp xã hội, của tri thức với quỹ thời gian và điều kiện học tập
có hạn của học sinh…Quá trình giải quyết những mâu thuẫn đó khiến cho học sinh THPT
phát triển mạnh mẽ về các mặt, nhất là về tình cảm đạo đức, thẩm mỹ, nhu cầu giao tiếp
và xu hướng nghề nghiệp. Đây là thời kỳ của sự hình thành, ổn định về tính cách để
chuẩn bị cho các em tiến dần tới vị trí xã hội của một người công dân đích thực trong giai
đoạn tiếp theo. Điểm nổi bật trong nhân cách của học sinh THPT là sự tự ý thức, tự
khẳng định mình về mặt sinh học, biết nhìn nhận và suy nghĩ về hành vi của mình so với
chuẩn mực của tập thể, biết đánh giá cái đúng sai trong hành vi của mình và những cá
nhân khác. Tuy nhiên sự đánh giá đó thường bị thiên lệch, hoặc đề cao quá mức bản thân
dẫn tới sự kiêu căng, hoặc lý tưởng hóa người khác một cách quá mức dẫn tới mặc cảm
tự ty với chính mình. Làm cho các em biết người biết ta một cách khách quan là cả một
quá trình đòi hỏi nghệ thuật sư phạm của đội ngũ nhà giáo. ở học sinh THPT, nhu cầu
được sống trong một tập thể mạnh, có uy tín tốt đã tạo cho hoạt động giao tiếp của các
em mang tính xã hội rõ nét, các em đã biết được lợi ích của những việc mình làm, biết tự
điều chỉnh khi xảy ra xung khắc trong giao tiếp. Cùng với giao tiếp, đời sống tình cảm
của các em ngày càng phong phú, nó không chỉ dừng lại ở những sở thích sinh hoạt
thường nhật mà còn được xây dựng trên những mục đích lâu dài như phấn đấu trong học
tập và tu dưỡng, trong các phong trào tập thể… Trong quan hệ với người lớn tuổi, các em
tự tin hơn, các em không chỉ biết đòi hỏi người lớn phải ưu ái những quyền lợi của cá
nhân mà còn thấy được trách nhiệm của bản thân trước gia đình, dòng họ, làng xóm. Tình
cảm nam nữ cũng được nảy sinh ở giai đoạn này. Có thể thấy mỗi nhân cách là một thế
giới riêng, đặc biệt là trong vấn đề tình cảm, do đó việc nhận biết, bồi dưỡng hoặc khắc
phục những biểu hiện sai lệch trong đời sống tình cảm của các em là công việc hết sức
nhạy cảm, đòi hỏi sự tỷ mỷ, cần mẫn và tấm lòng nhân ái bao dung của các nhà giáo
trong mọi tình huống giáo dục.
Học sinh THPT là nguồn nhân lực đang bước qua lứa tuổi vị thành niên để trở thành một

công dân trong cộng đồng xã hội, là nguồn nhân lực chuẩn bị bổ sung vào lực lượng lao
động có tri thức của xã hội, cho nên hoạt động của các em rất đa dạng về loại hình và tính

chất. Các hoạt động giao lưu, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao trở thành nhu cầu thường
trực song hoạt động học tập vẫn là hoạt động chủ đạo. Thái độ, động cơ lựa chọn đối với các
môn học để thỏa mãn các khuynh hướng nghề nghiệp là nét đặc thù so với học sinh cấp
THCS. Vì thế, hoạt động của học sinh THPT mang tính năng động, độc lập và chủ động hơn.
Đối tượng hoạt động của học sinh THPT được mở rộng, nó không chỉ đóng khung trong
khuôn khổ nhà trường mà ngày càng tiếp cận với những hoạt động phong phú ngoài xã hội
thông qua những nội dung sinh hoạt chính khóa, ngoại khóa và sự mở rộng giao lưu của các
em. Hoạt động của học sinh THPT diễn ra trong môi trường và những điều kiện đã được
thiết kế một cách có kế hoạch để chuẩn bị cho các em kết thúc giai đoạn học tập ở phổ thông
chuyển sang giai đoạn học đại học, học nghề, lập nghiệp. Sự nghiêm túc của các kỳ thi vào
các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp mà học sinh THPT phải trải qua là những điều kiện khách
quan ràng buộc các em vào hoạt động học tập. Như vậy, hoạt động của học sinh THPT là
quá trình nhằm đạt tới mục đích hoàn thiện kiến thức phổ thông, chuẩn bị cho việc tiếp thu
kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở mức cao hơn. Điều này đòi hỏi ở các em tính tự lập, chủ
động, hoạt động lý trí của bản thân và cách nhìn đúng đắn hơn những giá trị xã hội và những
gì vốn có của cá nhân. Do đó, đội ngũ nhà giáo cần hiểu rõ hoạt động đặc trưng của học
sinh ở cấp học này để có thể định hướng cho hoạt động đó theo mục tiêu đã xác định.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: học sinh THPT là lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ em
sang người lớn, đó là lứa tuổi nở rộ sức mạnh thể chất, tinh thần và trí tuệ, lứa tuổi với
những hoạt động đặc trưng để hình thành nhân cách và phẩm chất của một công dân,
hình thành thế giới quan và lý tưởng, là lứa tuổi luôn luôn tự tìm hiểu bản thân mình và
tìm hiểu người khác, lứa tuổi tự khẳng định và tìm cách xác định vị trí, vai trò của mình
trong xã hội.
1.1.2.2. Vai trò của học sinh trung học phổ thông
Nếu con người là nguồn lực quý giá nhất của sự phát triển xã hội thì học sinh THPT là bộ
phận kế cận nguồn lực ấy. Sinh lực của một dân tộc, một quốc gia thể hiện ở chính lực
lượng này, trong tương lai các em sẽ là lực lượng có khả năng “dời non lấp biển”, là

“rường cột của nước nhà”, là “mùa xuân của nhân loại”. Là những thanh niên, lực lượng
giàu tiềm năng phát triển, học sinh THPT chính là nguồn tài sản vô giá của đất nước hôm
nay và mai sau.

Trước đây trong lý luận về con người, chủ nghĩa Mác-Lênin rất quan tâm đến thanh niên, đánh
giá cao vai trò của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng thế giới. C.Mác đã hình dung thấy
“tương lai của cả loài người phụ thuộc vào thế hệ công nhân đang lớn”, còn Lênin đã chỉ rõ vai
trò của thanh niên khi ông khẳng định nhiệm vụ của nhà trường là “phải đào tạo được một thế
hệ có khả năng thực hiện vĩnh viễn CNCS”[22, tr.9]. Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, vai trò
của thanh niên trong đó có học sinh THPT luôn gắn với vận mệnh của dân tộc. Sẽ không thể
giải phóng được dân tộc khỏi cuộc sống nô lệ nếu không thức tỉnh được thế hệ trẻ. Người viết:
“Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất nếu đám thanh niên già cỗi của Người
không sớm hồi sinh”[32, tr.173]. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Người khẳng định “công học tập của các cháu” sẽ góp
“một phần lớn” để đem lại tương lai tươi sáng cho dân tộc. Người xác định rõ vai trò của thế
hệ trẻ là “chủ nhân tương lai của đất nước” bởi vì “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một
phần lớn là do thanh niên”[39, tr.185].
Ngày nay, Đảng ta đánh giá rất cao vai trò của thế hệ trẻ trong đó có học sinh THPT.
Đảng ta đã khẳng định, họ là những người giữ “vai trò xung kích trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”[12, tr.126], họ chính là nguồn nhân lực đầy tiềm năng đáp ứng
được yêu cầu ngày càng cao của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, phát triển kinh
tế tri thức, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Vai trò đó được khẳng định bởi những
yếu tố sau:
Một là, với tư cách là một bộ phận hợp thành nguồn nhân lực, học sinh THPT đang học
tập, tiếp thu tri thức, rèn luyện phẩm chất đạo đức để sau này tham gia vào các lực lượng
lao động xã hội, góp phần quyết định “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không,
dân tộc Việt nam có bước tới đài vinh quang hay không”[34, tr.33].
Hai là, học sinh THPT phần lớn là những Đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
họ có sức khỏe, có tri thức, là cánh tay đắc lực “là đội dự bị tin cậy của Đảng, thường
xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Đảng, kế thừa sự nghiệp vẻ vang của Đảng và Hồ Chủ

Tịch”[11, tr.59].
Ba là, học sinh THPT là những người có học vấn phổ thông hoàn chỉnh, là lực lượng
quan trọng hàng năm bổ sung vào lực lượng học sinh trong các trường trung học chuyên
nghiệp, các trường dạy nghề, sinh viên các trường cao đẳng, đại học ở nước ta. Với tiềm
năng trí tuệ khá cao, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với thử thách, học sinh THPT

sẽ là lực lượng lao động có trí tuệ trong tương lai. Đây là đặc điểm có ý nghĩa nổi bật của
học sinh THPT.
Bốn là, học sinh THPT là nguồn nhân lực kế thừa và phát triển truyền thống dân tộc, kế
thừa những thành quả của các thế hệ đi trước, đồng thời chuẩn bị đầy đủ tri thức, đạo
đức, sức khỏe, năng lực nghề nghiệp để sau này trực tiếp tiếp bước cha anh xây dựng đất
nước giàu mạnh, đồng thời có nhiệm vụ vẻ vang là chăm lo dìu dắt thiếu niên nhi đồng
để tạo ra sự thống nhất, nối tiếp, kế thừa giữa các thế hệ nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
Tóm lại, học sinh THPT với độ tuổi phát triển mạnh mẽ về thể chất, trí tuệ và tâm hồn, họ
là lực lượng có khả năng nhận thức nhanh, trí nhớ tốt, độ nhạy cảm cao để tiếp nhận
những tri thức khoa học cơ bản, liên tục, hệ thống từ nhiều nguồn khác nhau. Họ là một
bộ phận của nguồn nhân lực, có vai trò quan trọng đối với tương lai của nước nhà, được
GD-ĐT theo yêu cầu của quá trình đào tạo nguồn nhân lực, họ sẽ trở thành những con
người toàn diện, có tài, có đức, có sức khỏe, có năng lực, thẩm mỹ và nghề nghiệp, là
nguồn nhân lực đảm bảo cho sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
1.2. Vai trò của đội ngũ nhà giáo trong việc đào tạo nguồn nhân lực ở các trường
trung học phổ thông
1.2.1. Nhà giáo và đội ngũ nhà giáo trong các trường trung học phổ thông
1.2.1.1. Nhà giáo và đội ngũ nhà giáo
Giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội, đã xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất
hiện và tồn tại của xã hội loài người. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là chuẩn bị cho thế
hệ trẻ đi vào cuộc sống trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và phát triển những kinh nghiệm, tri
thức mà nhân loại đã tích lũy được. Nhiệm vụ đặc biệt đó từ thời cổ đại đến nay đã trở
thành một chức năng chuyên biệt và được giao cho các nhà giáo.
Trong đời sống tinh thần của dân tộc ta, nhà giáo là một chức danh xã hội được xếp đầu

tiên và không hàm nghĩa giới tính. Theo từ điển Tiếng Việt, nhà giáo là “Những người
làm nghề dạy học”[57, tr.516]. Nếu hiểu như vậy thì có thể nói rằng đất nước ta là đất
nước của nghề dạy học, vì ở nước ta cứ biết chữ là có thể đi dạy học, điều này thường
thấy và rất phổ biến ở thời kỳ phong kiến và thời kỳ Pháp thuộc. Thời phong kiến, những
người làm nghề dạy học gọi là thầy giáo (Về danh hiệu được gọi là “thầy đồ” – thời nhà
Lê gọi tắt là “sinh đồ”, thời nhà Nguyễn là “tú tài”). Đây là những người rất được coi

trọng, được xếp ở vị trí rất cao, vị trí thứ hai trong ba bậc “quân, sư, phụ”, trước cả cha
mẹ. Nhiều gia đình nghề dạy học là một nghề truyền thống: cả ông cháu, cha con đều nối
nghiệp làm thầy, có người thi đỗ cao nhưng không chịu làm quan chỉ nhất quyết làm thầy
giáo, có người làm quan rồi cũng rời bỏ quan trường để lui về dạy học. Với quan niệm
“nhất tự vi sư, bán tự vi sư” đã làm thầy giáo, tự nhiên là được tất cả mọi người trong
làng xóm kính trọng, kể cả những thầy giáo không có danh tiếng hoặc đức hạnh không
cao.
Sau Cách mạng tháng Tám, nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập ra đời. Nền giáo
dục đó đòi hỏi phải có đội ngũ thầy giáo đáp ứng được nhiệm vụ “diệt giặc dốt”- một
trong những loại giặc nguy hiểm không kém “giặc đói” và “giặc ngoại xâm”. Hưởng ứng
lời kêu gọi toàn dân tham gia “chống nạn thất học” của Hồ Chủ Tịch, người chưa biết
chữ phải coi học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của mình, người biết chữ có nghĩa vụ phải
dạy người chưa biết chữ. Các lớp bình dân học vụ, các trường lớp bổ túc văn hóa, các
trường lớp sư phạm kháng chiến được tổ chức, thu hút được hàng triệu trẻ em, người lớn
đi học, hàng vạn người biết chữ tham gia dạy học. Người thầy giáo trong giai đoạn này là
những người làm công tác xóa mù chữ cho nhân dân để từng bước nâng cao dân trí phục
vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến và kiến quốc, xây dựng và phát triển đất nước.
Vừa tiến hành chiến dịch chống mù chữ, Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển giáo
dục phổ thông, trung học chuyên nghiệp và đại học. Chủ trương cải cách nền giáo dục
thành nền giáo dục phát triển những năng lực sẵn có của thế hệ trẻ, đào tạo thế hệ trẻ
thành nguồn nhân lực có trình độ, thành những người công dân hữu ích cho đất nước.
Nền giáo dục đã tiến dần từ mục tiêu nâng cao dân trí là chủ yếu sang mục tiêu đào tạo
nhân lực, nhân tài cho đất nước. Người thầy giáo giai đoạn này không chỉ đơn thuần là

những người biết chữ đi dạy cho mọi người biết đọc, biết viết mà phải là một đội ngũ
những người có trình độ, có năng lực, có nghệ thuật sư phạm, tiến hành dạy học trong
một tổ chức chặt chẽ theo một chương trình, kế hoạch, mục tiêu cụ thể. Những nhà giáo
thời nay phải có đủ điều kiện để đào tạo được một lớp người có tri thức, sức khỏe, đạo
đức, tay nghề, đào tạo được một nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao đáp ứng
yêu cầu của đất nước trong giai đoạn cách mạng mới. Vì vậy, để làm rõ hơn khái niệm
nhà giáo là “Những người làm nghề dạy học” đồng thời quy định địa vị pháp lý của nhà
giáo, tại điều 70 của Luật Giáo dục nước CHXHCN Việt Nam đã đưa ra định nghĩa pháp

lý đầy đủ về nhà giáo: “Nhà giáo là những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong
nhà trường, cơ sở giáo dục khác” [21, tr.56]. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, những
người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong hệ thống giáo dục nói chung được gọi là
nhà giáo. Những nhà giáo ở bậc đại học được gọi là giảng viên, những nhà giáo ở cơ sở
giáo dục mầm non, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục phổ thông trong đó có giáo dục THPT
được gọi là giáo viên. Như vậy, thầy giáo, giảng viên hay giáo viên chính là nhà giáo (từ
đây trong luận văn những thuật ngữ tương đương trên được dùng với nghĩa như nhau).
Về “ Đội ngũ nhà giáo”, thuật ngữ “đội ngũ” được hiểu chung nhất là tập hợp một số
đông người cùng đặc điểm, chức năng hoặc nghề nghiệp được tổ chức thành một lực
lượng xã hội. Do đó, đội ngũ nhà giáo là tập hợp những người làm nghề dạy học hay
những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác,
được tổ chức thành lực lượng và hoạt động theo mục đích của ngành GD-ĐT đề ra.
Hai khái niệm “Nhà giáo” và “Đội ngũ nhà giáo” có mối liên hệ với nhau nhưng không
hoàn toàn đồng nhất. Trước hết cả hai khái niệm đều phản ánh những mặt, những khía
cạnh liên quan đến cùng một đối tượng là những người làm nghề dạy học. Song, khái
niệm “Nhà giáo” phản ánh mối liên hệ và thuộc tính bản chất, phổ biến của những người
làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường với tính cách là những cá nhân nói
chung, từ đó giúp chúng ta phân biệt được một người nào đó trong xã hội có phải là nhà
giáo hay không. Còn khái niệm “Đội ngũ nhà giáo” phản ánh mối liên hệ, thuộc tính bản
chất, phổ biến về sức mạnh, vai trò của nhà giáo với tính cách là cộng đồng được tổ chức
thành lực lượng để thực hiện các hoạt động có mục đích. Khái niệm này giúp chúng ta

nhận biết và phân biệt về quy mô, các hình thức tồn tại, vận động, biến đổi, cơ chế sắp
xếp trong một tổ chức nhất định và ở những thời điểm cụ thể. Cả hai khái niệm đều là
phương tiện giúp chúng ta nhận định, đánh giá tương đối toàn diện và chính xác vai trò
của “Nhà giáo” với cả tính cách cá nhân và cộng đồng để từ đó có những giải pháp nâng
cao vai trò của lực lượng này trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực.
1.1.2.2. Nhà giáo trong các trường trung học phổ thông, một số đặc điểm và yêu cầu
Thời cổ đại, mỗi nhà giáo vừa tự xác định mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục,
vừa trực tiếp lựa chọn người học và truyền thụ nội dung giáo dục cho học trò của mình.
Ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội nói chung và giáo dục nói riêng những chức
năng đó không còn tập trung ở một nhà giáo, mặc dù chỉ mang tính tương đối nhưng sự

phân công chức năng này đã được phân hóa và hình thành ở ba nhóm chức năng: có
những nhà giáo đảm nhiệm chức năng nghiên cứu những vấn đề mục tiêu, nội dung,
phương pháp (ta gọi là nhà giáo nghiên cứu giáo dục); có những nhà giáo đảm nhiệm
công việc truyền thụ những nội dung giáo dục cho người học sau khi những nội dung đó
đã được cơ quan quản lý có thẩm quyền quyết định (ta gọi là nhà giáo dạy học); có những
nhà giáo chuyên hay chủ yếu làm việc ở những cơ quan quản lý giáo dục (ta gọi là nhà
giáo quản lý). Trong các trường THPT, nhà giáo đảm nhiệm cả ba chức năng trên chỉ là
số ít, còn số đông các nhà giáo chủ yếu đảm nhiệm việc dạy học, vì thế trong luận văn,
chúng tôi chủ yếu bàn về “đội ngũ nhà giáo dạy học” ở các trường THPT.
Giáo dục phổ thông là một bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân, và là một bộ phận
quan trọng của hệ thống đào tạo nhân lực. Mục tiêu của giáo dục phổ thông: “giúp học
sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản,
phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người
Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục học lên, hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [21,
tr.21].
Cấp THPT là một bộ phận hữu cơ của giáo dục phổ thông, là cầu nối giữa cấp tiểu học,
THCS với bậc đại học. Đây là cấp học làm cho hệ thống GD-ĐT nước ta mang tính chỉnh
thể, hệ thống và liên thông. Bởi lẽ:

Nếu cấp tiểu học có mục tiêu hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho
sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các
kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học THCS, cấp THCS có mục tiêu giúp
học sinh củng cố, phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học, có học vấn ở
trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp
tục học THPT, thì mục tiêu của cấp THPT là giúp cho học sinh củng cố và phát
triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có
những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát
huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao
đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động [21, tr.21-22].
Như vậy, THPT là cấp học cuối cùng của giáo dục phổ thông, là thời đoạn xác định chất
lượng, hiệu quả của giáo dục phổ thông và góp phần quyết định đến chất lượng của giáo

dục đại học sau này. Từ cấp học này sẽ cho ra đời một lực lượng lao động có văn hóa, có
điều kiện học hỏi nâng cao tay nghề và cũng là cơ sở để lựa chọn và đào tạo đội ngũ trí
thức cho đất nước. Chất lượng và hiệu quả của giáo dục THPT sẽ là trình độ đích thực
của nền dân trí, là tiềm năng của nguồn nhân lực nước ta. Lực lượng chủ chốt góp phần
thực hiện thắng lợi mục tiêu của giáo dục THPT chính là đội ngũ nhà giáo ở các trường
THPT. ở nước ta, đội ngũ nhà giáo THPT được đào tạo để làm công tác giảng dạy, giáo
dục cho các em học sinh lớp 10, 11, 12, với nhiệm vụ truyền thụ tri thức và uốn nắn học
sinh theo những chuẩn mực đạo đức tiến bộ, đội ngũ nhà giáo có tác động nhất định (có
khi là quyết định) tới tương lai của các em: sự lựa chọn công việc, tạo động cơ phấn đấu,
khắc sâu trong các em ý thức thực hiện các nghĩa vụ trong cuộc sống, giúp các em tiếp
tục học lên hoặc bước vào cuộc sống lao động.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra nhận định: Đội ngũ nhà giáo THPT là một bộ phận của đội
ngũ nhà giáo Việt Nam, đó là những người làm công tác giảng dạy, giáo dục ở các trường
THPT, có chức năng chủ yếu là trực tiếp truyền bá tri thức văn hóa, rèn luyện nhân cách cho
học sinh THPT nhằm chuẩn bị cho các em đi tiếp tục học tập ở cấp đại học, cao đẳng hoặc đi
vào cuộc sống lao động sản xuất, cuộc sống xã hội, làm nghĩa vụ công dân với tư cách là bộ
phận của nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Là một bộ phận của đội ngũ nhà giáo Việt Nam nên đội ngũ nhà giáo THPT cũng có đầy
đủ những phẩm chất, nhân cách của nhà giáo Việt Nam, đồng thời xuất phát từ yêu cầu
giáo dục và đối tượng giáo dục của cấp THPT, đội ngũ nhà giáo ở cấp học này có một số
điểm đáng lưu ý sau đây:
Một là, đội ngũ nhà giáo THPT là những người trực tiếp tham gia vào quá trình giáo dục
ở các trường THPT, những người đạt chuẩn đào tạo theo quy định và chủ yếu được đào
tạo tại các trường đại học sư phạm trong nước.
Là nhà giáo thì ở cấp học nào, bậc học nào cũng phải đạt chuẩn đào tạo theo quy định,
điều này được căn cứ vào mục tiêu giáo dục và đặc điểm đối tượng tác động của nhà giáo
ở từng cấp học, bậc học. ở cấp THPT, mục tiêu giáo dục của nhà giáo là giúp cho học
sinh hoàn thiện học vấn phổ thông, có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và
hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân, có đủ tiềm năng di chuyển nghề
nghiệp và dễ dàng thích nghi với đời sống hiện đại đầy năng động và thách thức. Đối
tượng tác động của nhà giáo trong các trường THPT là một nguồn nhân lực đang ở giai

đoạn bộc lộ và phát triển những năng lực về thể lực, trí lực và nhân cách, đó là những học
sinh “không còn là trẻ con nhưng cũng chưa phải là người lớn”, rất ham hiểu biết, muốn
thử sức nhưng lại dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh. Lao động của nhà giáo liên
quan trực tiếp đến việc khai thác và phát huy năng lực nội sinh của từng cá nhân. Vì vậy, để
thực hiện được mục tiêu giáo dục với đối tượng nhạy cảm trên, để quá trình lao động đạt
được hiệu quả đòi hỏi nhà giáo ở cấp học này phải là những người có trí lực phát triển tốt, có
kiến thức khoa học chuyên ngành vững chắc, có sự hiểu biết không chỉ bó hẹp trong khuôn
khổ những gì mình giảng dạy, mà còn phải có trình độ “kỹ thuật bách khoa” hiểu rõ những
loại hình lao động khác nhau thì mới có thể thực hiện được chức năng hướng nghề, hướng
nghiệp cho học sinh. Chỉ có các trường đại học mà chủ chốt là trường đại học sư phạm mới
đủ điều kiện và khả năng đào tạo đội ngũ nhà giáo cấp THPT. Hơn nữa chỉ có tốt nghiệp các
trường ĐHSP thì đội ngũ nhà giáo này mới có đủ điều kiện để hiểu rõ đối tượng tác động,
xác định rõ mục tiêu giáo dục và có khả năng bằng những thiết kế khoa học, những tác động
sư phạm hợp quy luật để tác động vào học sinh, làm biến đổi học sinh theo mục tiêu đào tạo
của cấp THPT đồng thời tạo điều kiện cho học sinh phát huy được năng lực của mình với tư

cách là một nguồn nhân lực trẻ, khỏe, năng động, có tri thức phổ thông - điều kiện cần cho
một nguồn nhân lực có trình độ cao của một quốc gia đang phát triển. Vì vậy tại điều 77 của
Luật Giáo dục sửa đổi năm 2005 đã ghi rõ về chuẩn đào tạo của nhà giáo THPT như sau:
“Có bằng tốt nghiệp ĐHSP hoặc bằng tốt nghiệp đại học và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm đối với giáo viên THPT” [21, tr.59].
Hai là, đội ngũ nhà giáo THPT vừa là nhà sư phạm, nhà phương pháp vừa là nhà khoa
học, nhà chính trị.
Thông thường hoạt động sư phạm của nhà giáo có thể phân ra làm hai mặt: giảng dạy và
giáo dục. ở cấp THPT, hai mặt hoạt động sư phạm này liên hệ chặt chẽ với nhau, thâm
nhập vào nhau và là một quá trình thống nhất. Nhà giáo THPT vừa giảng dạy một môn
học nào đó, vừa dựa trên tài liệu đang giảng dạy để dần dần dẫn học sinh tiếp cận thế giới
quan duy vật, tới những vấn đề nhân loại và xã hội đang quan tâm, tới những việc các em
được làm và không được làm, tới lòng tự hào về những truyền thống quý báu của dân tộc,
tới cách ứng xử, giao tiếp trong cuộc sống. Từ đó học sinh không chỉ lĩnh hội một khối
lượng kiến thức nhất định mà còn hiểu được những kiến thức đó cần thiết để làm gì, có ý
nghĩa như thế nào trong đời sống và vận dụng những kiến thức đó vào thực tế như thế

nào. Muốn làm được như vậy thì bản thân nhà giáo không chỉ có năng lực nắm vững nội
dung, hệ thống những tri thức khoa học mình giảng dạy và những kiến thức liên quan,
không chỉ hiểu rõ những quy luật của quá trình giáo dục và đối tượng giáo dục mà họ còn
phải có nghệ thuật sư phạm, có sự hiểu biết và niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, vào đường lối của Đảng và sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Hơn
nữa, nhà giáo THPT dẫn dắt học sinh nắm vững tri thức, tiếp cận chân lý một cách tích
cực chủ động không phải bằng cách phán truyền những chân lý có sẵn mà phải bằng cách
thiết kế, tổ chức quá trình học tập của học sinh thông qua việc sử dụng hiệu quả các
phương pháp giảng dạy, phương pháp sư phạm và kỹ năng dạy học. Một nhà sư phạm
người Đức đã từng nói: Người thầy giáo tồi là người mang đến chân lý có sẵn, còn người
thầy giáo giỏi là người biết dạy học sinh đi tìm chân lý. Để dạy cho học sinh đi tìm chân
lý thì người thầy phải có phẩm chất và năng lực của một nhà sư phạm, nhà phương pháp,
nhà khoa học và nhà chính trị.

Ba là, nhà giáo ở các trường THPT là những người cần và phải có khả năng tổ chức các
hoạt động xã hội, là những người có tâm hồn tươi trẻ, ân cần chu đáo, có sức hấp dẫn,
đầy khát vọng đẹp đẽ và sôi nổi cho dù nhà giáo đó là những giáo viên mới vào nghề hay
đã công tác lâu năm trong nghề.
Có lẽ đây là nét nổi bật của nhà giáo THPT so với nhà giáo ở các cấp học, bậc học khác.
Điều này xuất phát từ chính đặc điểm tâm lý lứa tuổi của đối tượng mà nhà giáo THPT
trực tiếp đào tạo, đó là những học sinh THPT. Các em là những thanh niên đang ở giai
đoạn trưởng thành về mặt thể lực, tâm lý đã mang nhiều nét của người lớn nhưng vần còn
có một vài đặc điểm của tuổi thiếu niên thậm chí cả của tuổi ấu thơ. Tất cả những phẩm
chất đó thể hiện ở khả năng tri giác rõ ràng, ở những rung cảm mãnh liệt, ở tính tích cực
mạnh mẽ và ở ngọn lửa nhiệt tình sôi nổi của tuổi trẻ. Nhà giáo THPT cần biết quý trọng
những phẩm chất này, không dập tắt ngọn lửa nhiệt tình của tuổi trẻ, ủng hộ ý thức mạnh
dạn dám nghĩ, dám làm của các em. Chính sự sôi nổi nhiệt tình, và những khát vọng đẹp
đẽ của tuổi trẻ đã thẩm thấu vào suy nghĩ, tình cảm và hành động của nhà giáo khiến cho
họ trở nên gần gũi, thân thiết với học sinh vừa như người cha, người mẹ, người anh,
người chị lại vừa như người bạn tâm giao để từ đó bằng năng lực sư phạm của mình
thông qua các hoạt động học tập, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao hướng các
em vào con đường đúng đắn. Chỉ có những nhà giáo giàu tâm huyết và tài năng mới có

thể làm được điều đó, mới đóng góp hiệu quả cho sự phát triển và đào tạo một nguồn
nhân lực với những con người có đủ phẩm chất, năng lực tạo ra mọi giá trị cho cuộc sống
hôm nay và mai sau.
Tóm lại, đội ngũ nhà giáo THPT là những người có hiểu biết khá sâu rộng về xã hội, về
con người và có kinh nghiệm cuộc sống phong phú. Với trình độ chuyên môn theo quy
định của Luật Giáo dục, với phẩm chất chính trị vững vàng và nhân cách nhà giáo, họ
chính là lực lượng quan trọng góp phần hoàn thành mục tiêu giáo dục ở cấp THPT và đào
tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Vai trò của đội ngũ nhà giáo ở các trường trung học phổ thông trong quá
trình đào tạo nguồn nhân lực
Khi nói về vai trò của nhà giáo, Lênin nhấn mạnh: “Đội quân giáo sư phải tự đặt cho

mình nhiệm vụ lớn lao là truyền bá văn minh và trước hết phải là đội quân chủ yếu trong
công tác giáo dục XHCN” [20, tr.185], Cômenski, nhà giáo dục vĩ đại người Tiệp từng
nói: “Dưới mặt trời không có chức vụ nào ưu việt hơn!” [19, tr.68], Maiacốpski - nhà thơ
Nga vĩ đại cũng từng ca tụng:
Trên mặt trận thứ ba,
Như ngọn núi chót vót,
Trên mặt trận học tập,
Trên mặt trận sách vở,
Người giáo sư
Khác nào
Người chiến sỹ anh hùng.
Đó là một kỵ binh như kiểu Bu-đi-on-ni,
Đó là một chiến sỹ ở tiền phương [19, tr.13].
Vai trò của người thầy quan trọng là như thế, cho nên trong tất cả các chế độ xã hội khác
nhau, từ xưa đến nay, từ đông sang tây, nhà giáo là người được quý trọng nhất. “Phải đề
cao uy tín của người giáo viên, làm cho mọi lứa tuổi và mọi giới phải kính trọng người
giáo viên một cách sâu sắc, bao trùm chung quanh người giáo viên một cái hào quang của
sự quý mến chung” (Diễn văn đọc tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đoàn thanh
niên cộng sản Liên-xô của Calinin, ngày 8-5-1940) [19, tr.13].

×