Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

LUẬN VĂN:Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với tổ chức và hoạt động của docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (727.4 KB, 96 trang )









LUẬN VĂN:

Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với tổ chức và
hoạt động của HĐND và UBND tỉnh Đồng Nai






MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề có tầm quan trọng to lớn,
có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng, với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Đảng lãnh đạo nhà nước là
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong gần 80 năm
qua, Đảng luôn giữ vai trò lãnh đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng và xã hội Việt Nam. Do
đó, nghiên cứu về bản chất của Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo nhà nước là một trong
những vấn đề chủ yếu của nghiên cứu và tổng kết lý luận về đổi mới và xây dựng CNXH ở
nước ta.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền nhà nước ở địa phương tập trung ở sự
lãnh đạo của cấp uỷ đảng đối với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (HĐND và
UBND) cùng cấp. Đặc biệt ở cấp trung gian-cấp tỉnh, thành, Ban chấp hành đảng bộ tỉnh,


thành (gọi tắt là tỉnh, thành ủy) đề ra chủ trương lãnh đạo cụ thể phù hợp tình hình địa
phương, đảm bảo cho đường lối, chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống.
Trong mối quan hệ với chính quyền cấp tỉnh, Đảng đã từng bước nhận thức đúng vị trí,
vai trò của mình; đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể củng cố bộ máy tổ chức, cán bộ; thực
hiện công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật và thiết lập các quan hệ phối hợp công tác
ngày càng chặt chẽ và hợp lý hơn.
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền địa phương mà cụ thể là
sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với HĐND và UBND cấp tỉnh vẫn còn nhiều bất cập, chưa
bảo đảm tính khoa học và hiệu quả. Sự chồng chéo, trùng lắp giữa lãnh đạo của Đảng và
chính quyền địa phương trên các lĩnh vực làm cho bộ máy cồng kềnh, giảm hiệu lực, kém
hiệu quả. Những hạn chế đó sẽ gây trở ngại không nhỏ trong điều kiện nước ta hiện nay
đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hội nhập ngày càng sâu
hơn vào nền kinh tế quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây
dựng nền kinh tế tri thức; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước cần
phải có sự đổi mới căn bản, chuyển từ lãnh đạo theo phương thức mệnh lệnh, chỉ thị sang

phương thức dân chủ pháp quyền. Vì đặc trưng cơ bản nhất của một nhà nước pháp quyền
là tính tối cao của pháp luật, quyền lực thống nhất, sự thứ bậc trong quan hệ giữa các cơ
quan hành chính. Và điều này đặt ra câu hỏi về vị trí, thẩm quyền của cấp ủy đảng trong
tình hình mới.
Nghị quyết Trung ương V (khóa X) của Đảng đã chỉ rõ những hạn chế, tồn tại trong
phương thức lãnh đạo của Đảng. Trong thực tế hoạt động của Đảng, vẫn đang còn hiện
tượng có nơi cấp ủy bao biện làm thay, có nơi buông lỏng sự lãnh đạo đối với hoạt động
của hệ thống chính trị. Đổi mới phương thức lãnh đạo không quan tâm đến phong cách, lề
lối lãnh đạo đã dẫn đến tình trạng họp hành nhiều, nói không đi đối với làm, nói nhiều làm
ít; né tránh, đùn đẩy, quan liêu, xa rời này. Từ những lý do trên mà bản thân mạnh dạn
chọn đề tài: Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND
tỉnh Đồng Nai cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng với Nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nguyên tắc chủ đạo, chi phối toàn bộ quá trình tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, mà chủ yếu thể hiện ở nội dung và phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng (hoặc cấp uỷ từng cấp) lãnh đạo trên các lĩnh
vực là những mảng đề tài lớn được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu, đặc biệt
trong điều kiện nước ta chỉ một đảng duy nhất cầm quyền:
- Về thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Đảng
lãnh đạo nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam-
những vấn đề lý luận và thực tiễn của PGS.TS Nguyễn Văn Vĩnh (2007); “Thể chế Đảng
Đảng cầm quyền - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do Đặng Đình Tân (chủ biên) (sách
tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2005. “Về xây dựng thể chế Đảng lãnh đạo
Nhà nước hiện nay” của Lê Minh Quân (Tạp chí Cộng sản số 13, tháng 7 năm 2004).
“Phương thức lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” của Nguyễn Sĩ
Nồng, NXB CTQG (2008);“Một số vấn đề về xây dựng đảng trong văn kiện Đại hội X”
của Lê Minh Thông, (sách tham khảo), NXB CTQG, (2008).

- Về phương thức lãnh đạo của Đảng, có rất nhiều bài báo, tạp chí nghiên cứu như:
“Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước” của Trần Đình Huỳnh, Nxb Hà Nội - 2001; “Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền cấp quận” của Vũ Hồng Khanh
(Tạp chí Cộng sản số 23, tháng 8 năm 2002); “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước” của Lê Đức Bình và Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Cộng sản số 19,
tháng 7 năm 2003); “Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ở Đảng bộ Sơn La” của
Nguyễn Văn Thạo (Tạp chí Xây dựng Đảng số 6 - 2004); “Phương thức lãnh đạo của
Đảng với nhà nước và xã hội” của Nguyễn Khánh và Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Cộng
sản số 9 tháng 5-2004); “Châu Thành (Bến Tre) đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp
ủy” của Nguyễn Văn Huỳnh (Tạp chí Xây dựng Đảng số 10 - 2004); “Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa” của Thang Văn Phúc (Tạp chí Cộng sản số 9/5-2006); “Tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước” của Nguyễn Khánh (Báo Nhân dân số: 18620 –
03/8/2006); “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ với Uỷ ban nhân dân tỉnh từ thực

tiễn Tiền Giang” của Xuân Tế - Ngọc Chung (Tạp chí Xây dựng Đảng tháng 9-2006); “Đổi
mới và tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng trước yêu cầu phát triển đất nước”
của Trương Tấn Sang (Tạp chí Cộng sản số 24 tháng 12 – 2006),…
Với các góc độ và phạm vi đề cập khác nhau, các tác giả đều có sự tương đồng về
quan niệm Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền trong điều kiện nền kinh tế mở
và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước cho phù hợp tình hình mới.
Tuy nhiên, dưới góc độ của chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật,
sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền (HĐND và UBND) chưa được đề cập một cách
riêng biệt. Luận văn này dựa trên cơ sở lý luận chung về Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước để đi sâu nghiên cứu nội dung và phương thức
lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với HĐND và UBND cấp tỉnh qua thực tiễn tỉnh Đồng Nai hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích

Trên cơ sở lý luận chung về nhà nước và pháp luật, luận văn đi sâu làm rõ một số
vấn đề lý luận chung về sự lãnh đạo của Đảng đối với HĐND và UBND cấp tỉnh, trên cơ
sở đó, phân tích thực trạng, đề xuất giải pháp đảm bảo sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với
HĐND và UBND tỉnh Đồng Nai.
3.2. Nhiệm vụ
- Luận văn trình bày một số vấn đề lý luận chung về Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước, qua đó rút ra những vấn đề lý luận về Đảng (cụ thể là Tỉnh ủy) HĐND và UBND
cấp tỉnh.
- Phân tích thực trạng, những thành công, hạn chế trong thực tiễn lãnh đạo của Tỉnh
uỷ đối với HĐND và UBND tỉnh Đồng Nai; đề xuất giải pháp đảm bảo và tăng cường sự
lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với HĐND và UBND tỉnh Đồng Nai hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí đảng cầm quyền, vai
trò lãnh đạo nhà nước của Đảng, mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin để xác định vị trí, vai trò của Đảng lãnh đạo Nhà nước, mối quan
hệ cơ bản giữa Đảng và Nhà nước ở địa phương (sử dụng chủ yếu ở chương 1); các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp lịch sử - logic; phương pháp phân tích -
tổng hợp; gắn lý luận với thực tiễn (sử dụng chủ yếu ở chương 2) và một số phương pháp
khác.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận chung về nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước và giới hạn hẹp
của phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với
HĐND và UBND cấp tỉnh, cụ thể là sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với HĐND và UBND
tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sau

đổi mới (từ năm 2000 đến nay) qua thực tiễn lãnh đạo trong hai nhiệm kỳ VII và VIII
gần đây của Đảng bộ tỉnh.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn đã khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về sự lãnh đạo của Đảng đối
với HĐND và UBND cấp tỉnh. Trên cơ sở đó, xác định những giải pháp đảm bảo sự lãnh
đạo của Tỉnh ủy đối với HĐND và UBND tỉnh Đồng Nai một cách có hiệu quả hơn, lãnh
đạo toàn diện, xây dựng uy tín lãnh đạo, tăng tính chủ động của chính quyền nhưng không
giảm sự lãnh đạo của Đảng ở địa phương.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về nội dung, phương
thức lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với HĐND và UBND cấp tỉnh; giúp cho cấp ủy tỉnh Đồng
Nai tiếp cận đầy đủ tính khoa học trong lãnh đạo, quản lý.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo ở địa phương và phục vụ
cho việc nghiên cứu về những vấn đề liên quan.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 6 tiết.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY
ĐỐI VỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN
NHÂN DÂN CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM

1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỐI VỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN
NHÂN DÂN TỈNH
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là
một nguyên tắc cơ bản, thể hiện bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân do dân vì
dân. Đảng cầm quyền bao giờ cũng giữ vai trò lãnh đạo, chi phối toàn bộ hệ thống chính
trị, đặc biệt và trực tiếp nhất là nhà nước; bằng nhà nước và thông qua nhà nước để thực
hiện mục tiêu chiến lược của mình. Trong điều kiện nước ta đang phấn đấu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản là vô cùng quan
trọng, là điều kiện đảm bảo cho nhà nước ta phát triển đúng định hướng và thực sự là nhà
nước của dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam có vị trí, vai trò đặc biệt, là người tổ chức và lãnh đạo
toàn bộ hệ thống chính trị, là hạt nhân chính trị của hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt
Nam thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị. Sự lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện thông qua
quyền quyết định đường lối chính trị và quyền kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối
chính trị trong tất cả các lĩnh vực hoạt động và phát triển của đất nước. Trong mối quan hệ
với Nhà nước, quyền lực của Đảng luôn là quyền lực chính trị.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trở
thành nhân tố chủ yếu đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ ngày
thành lập nước (1945) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền, đảng lãnh

đạo nhà nước và toàn xã hội. Điều đó đã được khẳng định cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn
cách mạng nước ta.

Vai trò lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội của Đảng thể hiện trên thực tế suốt chiều
dài của lịch sử của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Vì Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, nên Đảng là lực lượng
lãnh đạo nhà nước và lãnh đạo xã hội. Nhà nước là trung tâm, trụ cột của hệ thống chính
trị, một thiết chế chủ yếu để quản lý xã hội và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Và
để phát huy vị trí, vai trò của Nhà nước, đồng thời loại bỏ các nguy cơ tha hóa của quyền
lực nhà nước, đảm bảo cho Nhà nước thật sự là tổ chức trung tâm, trụ cột trong hệ thống
chính trị, là hình thức dân chủ tập trung nhất của nhân dân thì Nhà nước phải được đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước trong mối quan hệ với Đảng Cộng sản Việt Nam là
mối quan hệ cơ bản, chi phối các mối quan hệ khác trong hệ thống trị nước ta. Mối quan
hệ giữa Đảng và Nhà nước là mối quan hệ lãnh đạo, nhưng Nhà nước là Nhà nước của
dân, vì thế Đảng không thể áp đặt cho Nhà nước, do vậy, sự lãnh đạo của Đảng là sự lãnh
đạo chính trị.
Đảng trực tiếp nắm bộ máy chính quyền nhà nước và trực tiếp lãnh đạo, xây dựng
và mọi hoạt động của bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua Cương lĩnh,
đường lối, chiến lược định hướng cho mọi hoạt động đối nội và đối ngoại của nhà nước;
Đảng giới thiệu những cán bộ ưu tú của Đảng cho bộ máy nhà nước; Đảng kiểm tra, giám
sát mọi hoạt động của nhà nước theo quan điểm, đường lối của Đảng. Đảng lãnh đạo thông
qua các tổ chức đảng và đảng viên trong bộ máy nhà nước.
Sự lãnh đạo của Đảng là toàn diện. Đảng lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo toàn bộ hệ
thống chính trị, chịu trách nhiệm mọi mặt về đời sống của nhân dân và củng cố nền dân
chủ XHCN. Đó là sự lãnh đạo toàn diện đối với mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đảng
có quyền quyết định Cương lĩnh, đường lối phát triển của đất nước, của xã hội, quyết định
tổ chức bộ máy và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị và phải chịu trách nhiệm về
những quyết định đó. Đảng cầm quyền nghĩa là thực hiện sự lãnh đạo thông qua hệ thống
chính trị, nhất là thông qua nhà nước.

Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay nhà nước. Đảng phát huy vai trò và
quyền chủ động của Nhà nước. Là Đảng cầm quyền, Đảng cộng sản Việt Nam thực hiện

quyền lãnh đạo với nhà nước và với xã hội. Song điều cần nhấn mạnh là Đảng lãnh đạo
nhà nước và xã hội là lãnh đạo về mặt chính trị, bảo đảm giữ vững định hướng chính trị
của sự phát triển phù hợp với chế độ chính trị-xã hội mà đất nước ta, dân tộc ta đã lựa chọn
và kiên định. Là đảng cầm quyền, Đảng tôn trọng và tạo điều kiện, thực hiện sự lãnh đạo
để các cơ quan nhà nước thực hiện tốt chức năng của mình, Đảng không bao biện, làm
thay, “lấn sân” chức năng hoặc can thiệp trực tiếp vào hoạt động thường ngày của các cơ
quan này.
Suốt gần một thập kỷ qua, dù diễn đạt bằng cách nào thì Đảng Cộng sản Việt Nam
vẫn luôn là một Đảng cầm quyền. Đó là sự lựa chọn của lịch sử và của dân tộc ta. Thực
tiễn đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với các tiến trình cách
mạng nước ta đã và đang là một tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo ấy vừa có
cơ sở đạo lý vừa có cơ sở pháp lý.
Tính tất yếu lịch sử của vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được xác
định trong tất cả các giai đoạn của cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay. Bất kỳ trong
điều kiện lịch sử nào, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đứng ở vị trí trung tâm của phong trào
cách mạng, trực tiếp lãnh đạo các tầng lớp nhân dân tiến hành đấu tranh cách mạng giành độc
lập tự do, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vượt qua các thử thách đưa đất nước ngày càng phát
triển.
Sự nghiệp đổi mới đất nước từ Đại hội VI đến nay do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo đã và đang giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, đưa đất nước ta vượt
qua khủng hoảng kinh tế-xã hội, không ngừng phát triển và hội nhập vào nền kinh tế thế
giới. Những thành công to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam trong mấy chục năm qua là những chương trình lịch sử xác lập vai trò và tư
cách lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam không chỉ đối với hệ thống chính trị, mà còn
đối với toàn xã hội Việt Nam.
Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khóa VII), Đảng đã khẳng định
rõ trọng trách lịch sử của mình “là đảng cầm quyền, Đảng ta có trách nhiệm lãnh đạo tất cả

các lĩnh vực đời sống xã hội”. Đến Hội nghị Trung ương lần thứ bảy (khóa VIII), Đảng
tiếp tục chỉ rõ: “với vai trò và trách nhiệm của một Đảng cầm quyền, Đảng phải không

ngừng nâng cao trình độ và năng lực lãnh đạo, không ngừng cải tiến phương thức lãnh đạo
để phát huy được sức mạnh và trí tuệ của toàn dân, toàn đảng, sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị”.
Tính tất yếu khách quan của sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được xác
định bởi lịch sử đấu tranh cách mạng vẻ vang của Đảng, bởi sức mạnh tổ chức, sức mạnh
tư tưởng của Đảng, bởi năng lực lãnh đạo, tầm cao trí tuệ và văn hóa của Đảng, bởi sự gắn
bó máu thịt với nhân dân, niềm tin yêu và sự thừa nhận tự nguyện của đông đảo các tầng
lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Trong mọi giai đoạn phát
triển của cách mạng Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại và trong tương lai, Đảng cộng sản
Việt Nam luôn là lực lượng chính trị duy nhất đủ tư cách và năng lực lãnh đạo cách mạng
Việt Nam phát triển theo định hướng XHCN với mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Tuy nhiên, khi đã trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng
được thực hiện trong mối quan hệ khá phức tạp và nhạy cảm với cơ chế thực hiện quyền
lực nhà nước trong các điều kiện xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCH. Sự tồn tại và
hoạt động của Nhà nước mà biểu hiện tập trung nhất là bộ máy nhà nước đòi hỏi phải phân
định sự lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lý, điều hành của nhà nước. Việc tổ chức hệ
thống chính trị mà trong đó Đảng vừa là lực lượng lãnh đạo toàn bộ hệ thống vừa là thành
viên trong hệ thống chính trị cũng đòi hỏi phải xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, tư
cách thành viên của Đảng trong hệ thống chính trị nhằm đảm bảo vị trí lãnh đạo của Đảng
và khả năng độc lập của mỗi thành viên thuộc hệ thống chính trị trong các quan hệ chính
trị và sinh hoạt dân chủ.
Để cầm quyền lâu dài, không một đảng cầm quyền nào lại không quan tâm nâng
cao năng lực cầm quyền. Năng lực cầm quyền của một đảng cầm quyền thể hiện một cách
tổng hợp, có hệ thống và đồng bộ lý luận cầm quyền, cương lĩnh, đường lối, chiến lược và
chính sách cầm quyền cùng những phương thức, phương pháp cầm quyền và đội ngũ cán bộ
cầm quyền mà đảng sử dụng để lãnh đạo nhà nước và lãnh đạo xã hội, bảo đảm giữ vững và

thực hiện định hướng chính trị đã xác định của sự phát triển đất nước, phát triển xã hội.

Trách nhiệm cao cả và nặng nề trước hết của một Đảng cầm quyền là vạch ra cương
lĩnh, đường lối đúng để lãnh đạo đất nước, dẫn dắt cả dân tộc đi lên, tránh được nguy cơ
sai lầm về đường lối. Đây là vấn đề cốt tử trong toàn công tác xây dựng đảng, đòi hỏi phải
thường xuyên nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và chất lượng công tác lý luận
của Đảng. Đường lối chính trị đúng là đường lối phản ánh đúng quy luật khách quan, đáp
ứng đúng yêu cầu của thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, chỉ ra được mục
tiêu, phương hướng và giải pháp cơ bản của cách mạng, trên cơ sở đó tập hợp, tổ chức,
động viên quần chúng thực hiện một cách có hiệu quả.
Về mặt pháp lý, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được khẳng định trên các
phương diện:
Đảng cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền một cách hợp pháp khi Đảng
lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên
Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Đảng cộng sản Việt Nam là người
sáng lập ra Nhà nước và lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo Nhà nước do mình sáng lập là
hoàn toàn hợp pháp.
Tuy các bản Hiến pháp năm 1946, 1959 không trực tiếp thể chế hóa vai trò cầm
quyền của Đảng cộng sản Việt Nam như thông qua việc xác lập địa vị pháp lý của nguyên
thủ quốc gia, nhưng đã gián tiếp xác lập vai trò cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong Hiến pháp 1945, chủ tịch nước có vị trí pháp lý đặc biệt, vừa là nguyên thủ quốc gia
vừa là người đứng đầu bộ máy hành pháp. Đó là những chế định pháp lý đảm bảo cho sự
lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước trong điều kiện đấu tranh giai cấp gay gắt và
phức tạp, những quy định như vậy đã làm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà
nước được đảm bảo thực hiện trong thực tế. Ở đây sự lãnh đạo của Đảng được đảm bảo
bằng người đứng đầu Đảng, đồng thời là người đứng đầu bộ máy nhà nước. Thông qua đó
mà đường lối, chính sách và quan điểm của Đảng được thực hiện và trở thành hiện thực
trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Thông qua việc xác lập địa vị pháp lý
của nguyên thủ quốc gia đã gián tiếp xác lập vai trò cầm quyền của Đảng cộng sản Việt
Nam.


Cho đến các Hiến pháp năm 1980, 1992, tình hình cách mạngViệt Nam đã có nhiều
thay đổi theo chiều hướng tích cực và thuận lợi, các bản hiến pháp đó đã trực tiếp thể chế
hóa vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và
xã hội. Điều 4 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Hiến pháp năm 1992 đã thể chế hóa đầy đủ và toàn diện đường lối của Đảng về xây
dựng đất nước theo định hướng XHCN. Với những quy định trong Hiến pháp về chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, về văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, về an ninh, quốc
phòng, về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã khẳng định những mục tiêu, đường
lối, chính sách của Đảng đã được Nhà nước thể chế hóa kịp thời trong Hiến pháp và các
văn bản pháp luật khác nhằm xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng
dân chủ văn minh. Do vậy, có thể thấy rằng dù được quy định một cách gián tiếp hay trực
tiếp, vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có cơ sở pháp
lý vững chắc.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với nhà nước được Đảng ta khẳng
định là một nguyên tắc bất di bất dịch của Đảng và của cả hệ thống chính trị, là trụ cột của
cơ chế vận hành của cả hệ thống chính trị nước ta. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị nói
chung và lãnh đạo nhà nước nói riêng là nhân tố, điều kiện để đảm bảo quyền lực của nhân
dân, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Trong điều kiện nước ta xây dựng chế độ nhất nguyên, một Đảng Cộng sản cầm
quyền, lãnh đạo hệ thống chính trị là một nguyên tắc không thể thay đổi. Tuy nhiên, xét về
thể chế lãnh đạo của Đảng với nhà nước nói riêng, với cả hệ thống chính trị và với toàn xã
hội nói chung ở nước ta hiện nay mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc cơ bản của cả phía tổ chức
đảng và phía nhà nước (được ghi ở Lời nói đầu của Hiến pháp 1959 và ở Điều 4 trong các
Hiến pháp 1980 và 1992). Chế định Đảng lãnh đạo nhà nước cũng chưa được cụ thể hóa
thành các đạo luật, các văn bản dưới luật của nhà nước. Về phía tổ chức đảng, các nguyên


tắc, quy tắc, điều lệ, quy chế cụ thể, chưa thành hệ thống hoàn chỉnh để tổ chức thực hiện.
Nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thì vấn đề
quan trọng đặt ra đối với nhà nước là phải quản lý xã hội bằng pháp luật. Tất cả các thành
viên của hệ thống chính trị phải hoạt động trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, kể
cả Đảng - là lực lượng duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị.
Sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng cầm quyền duy nhất, khi đất
nước đã độc lập, tự do là lãnh đạo xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân không phải là
những quan niệm, những việc làm mâu thuẫn nhau, bởi vì nhiệm vụ chủ yếu của Đảng cầm
quyền là xây dựng ,bảo đảm, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cho tất cả quyền
lực thuộc về nhân dân là bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đảng có quyền lực
chính trị được toàn dân thừa nhận, nhưng không biến mình thành cơ quan quyền lực nhà
nước, thành cơ quan quản lý, mà tôn trọng, đề cao, phát huy vai trò, thẩm quyền và hiệu
lực quản lý của Nhà nước. Đảng thừa nhận trách nhiệm trước toàn dân lãnh đạo hệ thống
chính quyền giữ vững bản chất cách mạng, thật sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, ngăn ngừa và khắc phục tệ quan liêu, nạn tham nhũng, tình trạng cán bộ có
chức, có quyền giành đặc quyền, đặc lợi.
Sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng là nhân tố quyết định chất lượng và hiệu
quả của bộ máy nhà nước. Đảng là người đề xướng và lãnh đạo triển khai công cuộc đổi
mới, mà một trong những nội dung chủ yếu là đổi mới, cải cách tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước, xây dựng các cơ quan nhà nước trong sạch, vững mạnh, quản lý có
hiệu lực, hiệu quả. Thực tế cho thấy bản thân cơ quan chính quyền không thể tự đổi
mới, tự cải cách tổ chức và hoạt động của mình đạt kết quả nếu không có sự lãnh đạo
chặt chẽ với tư duy mới và phương thức mới của Trung ương Đảng và các cấp ủy đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước bao gồm
nội dung lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời


kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Đại hội lần thứ VII của Đảng, năm 1991, đã nêu
rõ: Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ
trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và
bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn
thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên
hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Điều lệ Đảng bổ sung, sửa đổi được thông qua tại Đại hội IX của Đảng
(năm 2001) đã cụ thể hóa nội dung Cương lĩnh, dành một chương quy định về phương
thức Đảng lãnh đạo Nhà nước và các đoàn thể chính trị-xã hội. Đây chính là sự tổng kết
thực tiễn và định hướng cho việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước nói chung và đối với chính quyền địa
phương nói riêng là một nguyên tắc hiến định trong điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta.
Trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối
với các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương được xác định trong mối quan hệ
đặc biệt giữa Đảng với Nhà nước theo nguyên lý Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ.
Với vị trí Đảng cầm quyền, vai trò lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa to lớn đến khả
năng và hiệu quả vận hành của cơ chế quyền lực ở tất cả các cấp hành chính - lãnh thổ.
Thực hiện quyền lãnh đạo chính quyền các cấp, các tổ chức đảng ở mỗi cấp chính quyền
thông qua các hình thức đặc thù của phương thức lãnh đạo, đảm bảo tổ chức và hoạt động
của mọi cơ cấu chính quyền phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, thực hiện đúng
đắn và có hiệu quả Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân ở mỗi
cấp địa phương. Sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với các cấp chính quyền địa phương
đảm bảo thực hiện hai mục tiêu cơ bản: “Thực hiện nghiêm túc đường lối, chính sách,
pháp luật của trung ương; và đảm bảo tính tự chủ của mỗi cấp chính quyền địa phương, tạo
điều kiện để mỗi cộng đồng dân cư thực hiện quyền tự quản” [75, tr.307]. Mấy chục năm
qua, sự lãnh đạo của Đảng đối với các cấp chính quyền địa phương luôn là yếu tố có tính


quyết định đối với tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền. Những thành tựu trong
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, ổn định an ninh chính trị của mỗi địa phương gắn liền
với sự lãnh đạo của Đảng.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ thất bại đau xót của cải tổ ở Liên Xô và các
nước Đông Âu là, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải giữ vững được vai trò lãnh đạo
của Đảng Cộng sản trong việc đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước. Nhưng mặt khác,
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng không có nghĩa là hạ thấp vai trò, trách nhiệm của Nhà
nước, không có nghĩa là Đảng làm thay công việc của Nhà nước. Nhất là trong điều kiện
một Đảng duy nhất cầm quyền, dễ dẫn đến tình trạng bao biện, làm thay, biến nhà nước
thành những công cụ thừa hành một cách thụ động, hình thức. Do vậy, cần phải đổi mới
nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng để vừa bảo đảm củng cố vị trí, giữ vững vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, vừa phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, bảo đảm sự
tôn trọng của Đảng đối với tính độc lập nhất định về chức năng, thẩm quyền của các cơ
quan nhà nước trên cơ sở xử lý hài hòa các quan hệ lãnh đạo và quan hệ đối thoại dân chủ
của Đảng đối với Nhà nước trong tư cách Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đồng thời là
thành viên của hệ thống chính trị.
1.2. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY BAN NHÂN
DÂN TỈNH TRONG CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TA
Xét về bản chất, thẩm quyền của chính quyền địa phương là thẩm quyền chung, thể
hiện vai trò và trách nhiệm của một cấp chính quyền trong việc quản lý mọi mặt của đời
sống xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong địa bàn. Cơ sở để xác định thẩm
quyền, trách nhiệm của chính quyền địa phương chính là vị trí, vai trò của mỗi cấp chính
quyền trong bộ máy nhà nước thống nhất, chức năng của chính quyền địa phương và đặc
biệt là mối quan hệ xã hội về phương diện pháp lý thông qua chế độ phân cấp quản lý giữa
trung ương và địa phương.
Ở nước ta hiện nay, trong hệ thống quản lý hành chính nhà nước 4 cấp: Trung ương
- tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương - quận, huyện, thị xã – xã, phường, thị trấn thì có
hai cấp (tỉnh-thành và quận-huyện) thuộc khái niệm địa phương. Nếu hình dung về mặt
lãnh thổ, địa giới thì ngay cả cơ sở cũng nằm trong phạm vi của địa phương. Do đó, trên


phương diện quản lý, địa phương bao chứa trong nó cả một tập hợp lớn các mối quan hệ,
liên hệ chằng chịt, phức tạp, nhiều chiều, nhiều lĩnh vực để tổ chức đời sống của một cộng
đồng dân cư, phát triển sản xuất, kinh tế, văn hóa, xây dựng và củng cố chế độ chính trị.
Mỗi địa phương là một bộ phận của cả nước, là hình ảnh thu nhỏ của xã hội. Chính
quyền cấp tỉnh là hình ảnh thu nhỏ của nhà nước Trung ương, là chính bản thân nhà nước
Trung ương ở địa phương.
Địa phương quan hệ với Trung ương, với cơ sở trong khuôn khổ địa phương và với
các địa phương khác. Đó là hệ thống quản lý theo hệ thống dọc của quản lý và quan hệ
ngang theo lãnh thổ.
Chính quyền địa phương (bao gồm HĐND và UBND) tiếp tục được xây dựng theo
nguyên tắc HĐND do nhân dân địa phương bầu ra và HĐND bầu các thành viên của
UBND. Luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương từng bước được sửa đổi
cho phù hợp hơn với nhiệm vụ chính trị, tình hình thực tế của địa phương. Vai trò, vị trí,
quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan dân cử ở địa phương được tăng cường; chất lượng đại
biểu HĐND các cấp có sự đổi mới và được nâng lên một bước; vị trí, quyền hạn, trách
nhiệm của UBND các cấp đã được bổ sung và quy định rõ hơn nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của các cơ quan này. Việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương
đang thực hiện theo hướng phân cấp mạnh hơn cho địa phương.
Chính quyền cấp tỉnh với tư cách là cầu nối giữa trung ương đến địa phương, liên
kết các đơn vị chính quyền để thực hiện những nhiệm vụ có tính chiến lược ở quy mô toàn
tỉnh.
Trong hệ thống chính quyền địa phương, chính quyền cấp tỉnh là cấp hành chính
đầu tiên trong ba cấp hành chính. Chính quyền cấp tỉnh có nhiệm vụ xây dựng, quyết
định quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội địa phương làm cơ sở
cho hoạt động của chính quyền cấp huyện và cấp xã.
Quy hoạch, kế hoạch, chính sách mà chính quyền cấp tỉnh quyết định ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển nói chung của tỉnh. Trong khi đó, cấp trung ương chỉ có thể ban
hành những chủ trương, chính sách, biện pháp ở tầm vĩ mô mà khó có thể điều tiết ở tầm
vi mô đối với từng tỉnh, thành phố. Do đó, những quy hoạch, kế hoạch, chính sách này sẽ


góp phần phát huy, tận dụng được những thế mạnh, tiềm năng sẵn có, đồng thời hạn chế,
khắc phục những yếu kém, tồn tại của địa phương.
Hiện nay chính quyền cấp tỉnh ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của mình
trong bộ máy chính quyền địa phương nói riêng và bộ máy nhà nước nói chung. Sự đi lên
về kinh tế, sự ổn định về chính trị-xã hội của một tỉnh là điều chứng tỏ rõ nhất về năng lực
hoạt động của bộ máy chính quyền tỉnh đó.
Trong bối cảnh đổi mới cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa quốc tế, cấp tỉnh
ngày càng tỏ rõ là cấp giữ vị trí chiến lược, thể hiện tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa
trên nhiều phương diện về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc
tế…
Vai trò của chính quyền cấp tỉnh có những đặc trưng cơ bản, đó là tính toàn diện,
trực tiếp và là trung tâm điều phối trên mọi lĩnh vực tại địa phương:
Thứ nhất, vai trò của chính quyền cấp tỉnh gắn liền với chức năng quản lý, tổ chức,
điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội tại địa phương. Điều đó thể hiện phạm vi
hoạt động rộng khắp của chính quyền cấp tỉnh. UBND cấp tỉnh có một hệ thống các cơ
quan chuyên môn thực hiện chức năng quản lý trên các lĩnh vực. Hiệu quả hoạt động của
các cơ quan này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động nói chung của chính quyền
cấp tỉnh. Vì vậy các cơ quan chuyên môn đó phải chịu trách nhiệm trước HĐND cấp tỉnh
và UBND cấp tỉnh. Mặt khác hoạt động của chính quyền cấp tỉnh còn được thể hiện một
cách toàn diện ở nhiều phương thức khác nhau, đó có thể là những hoạt động mang tính
pháp lý (ban hành văn bản quy phạm pháp luật…), hoạt động mang tính tổ chức (chỉ đạo,
điều hành, kiểm tra, giám sát…), các hoạt động mang tính chính trị tư tưởng (tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục…).
Thứ hai, vai trò của chính quyền cấp tỉnh luôn gắn trực tiếp với quyền, lợi ích hợp
pháp của những công dân, tổ chức hay những nhóm đối tượng cụ thể. Căn cứ theo pháp
luật quy định, chính quyền cấp tỉnh có quyền áp dụng những biện pháp cần thiết nhằm bảo
vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, có quyền áp dụng các biện pháp phòng ngừa,
ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật xâm hại tới những quan hệ mà pháp luật bảo vệ.


Thứ ba, chính quyền cấp tỉnh luôn giữ vai trò trung tâm và chi phối hoạt động trong
hệ thống chính quyền địa phương. Như chúng ta đã từng khẳng định, tỉnh là cấp chiến
lược, là cầu nối quan trọng để đưa những chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật
của nhà nước vào thực tiễn. Nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương,
trách nhiệm đầu tiên thuộc về chính quyền cấp tỉnh và phải bắt đầu từ cấp chính quyền
này. Hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp tỉnh sẽ có tác động lớn đến hiệu quả hoạt
động nói chung của chính quyền địa phương.
Chính quyền cấp tỉnh là cấp thi hành, quán triệt và vận dụng một cách trung thành,
linh hoạt các nghị quyết của Trung ương sao cho phù hợp đối từng địa phương bằng
phương thức thích hợp.
Về tổ chức bộ máy HĐND và UBND tỉnh
Điều 119 Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định: “HĐND
là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền
làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. HĐND các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước
ở địa phương, nhưng HĐND có vị trí, chức năng khác Quốc hội. Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiến, lập pháp, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân cả nước. HĐND là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vừa là một bộ phận cấu thành, không thể tách rời với
quyền lực nhà nước thống nhất trong cả nước, với quyền làm chủ chung của nhân dân, vừa là
đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền lợi và quyền làm chủ mọi mặt của nhân dân địa
phương. Trong điều kiện phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương và quản lý nhà nước
chủ yếu là hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện, thông qua chính sách, pháp luật thì vai trò đại
diện cho nhân dân nổi trội hơn, và như vây HĐND trở thành cơ quan có vai trò tự quản theo
pháp luật. Nó không chỉ đơn thuần là nhắc lại nghị quyết của cấp trên trong các nghị quyết của
mình, mà toàn quyền quyết định các vấn đề cụ thể của địa phương theo định hướng của cấp
trên và quy định của pháp luật.
Theo Luật Tổ chức, hoạt động của HĐND và UBND thì tổ chức bộ máy của HĐND
tỉnh bao gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Thường trực HĐND tỉnh; các ban của HĐND;


cơ quan chuyên môn giúp việc. Thường trực HĐND tỉnh gồm có Chủ tịch, các Phó Chủ
tịch HĐND, thành viên của HĐND không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng
cấp.
Đại biểu HĐND là hạt nhân cấu thành HĐND; chất lượng đại biểu quyết định hiệu
lực và hiệu quả hoạt động của HĐND. Đại biểu HĐND được phân công sinh hoạt theo tổ
đại biểu, tổ chức theo đơn vị bầu cử hoặc theo đơn vị hành chính để thuận lợi cho việc sinh
hoạt của đại biểu. Thường thì số tổ đại biểu ở mỗi tỉnh tương ứng với đơn vị hành chính
cấp dưới trực tiếp ở tỉnh đó (đơn vị huyện). Các tổ đại biểu HĐND đều bầu Tổ trưởng và
Tổ phó để tổ chức các hoạt động của đại biểu HĐND.
UBND tỉnh do HĐND tỉnh bầu ra, là cơ quan chấp hành của HĐND, là cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, luật, các văn
bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND.
Là cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương, UBND tỉnh
thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước theo lãnh thổ địa giới hành chính tỉnh
đối với mọi ngành, mọi lĩnh vực thuộc địa phương mình, bảo đảm việc thi hành văn bản
pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên và của hội đồng nhân dân tỉnh, giám sát việc
thi hành pháp luật của các đơn vị cơ sở của các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung
ương đóng tại địa phương trong phạm vi những vấn đề thuộc quyền quản lý lãnh thổ. Là
cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung nên thẩm quyền của UBND tỉnh được
xác lập trên cơ sở quyền hạn của tập thể UBND tỉnh và quyền hạn của Chủ tịch UBND
tỉnh. Thẩm quyền của UBND tỉnh được quy định trong Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001
và Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003. Theo đó, UBND tỉnh có các quyền và nghĩa
vụ: Ban hành quyết định, chỉ thị để chấp hành Hiến pháp, luật và các văn bản pháp luật của
các cơ quan nhà nước ở trung ương và nghị quyết của HĐND tỉnh; tổ chức chỉ đạo thực
hiện pháp luật; xứ lý các hành vi vi phạm pháp luật; sắp xếp, quản lý và tổ chức đối với
các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh; báo cáo công tác trước Chính phủ; tuân thủ
triệt để các văn bản pháp luật của Chính phủ và của Thủ tướng Chính phủ; chịu sự kiểm tra
giám sát của Chính phủ.
Việc thiết lập, kiện toàn các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương là một


trong những mối quan tâm hàng đầu của tỉnh uỷ, ban thường vụ tỉnh uỷ: về cơ cấu tổ chức,
nhân sự các thành viên UBND tỉnh (cơ cấu tổ chức thường theo hướng dẫn từ cơ quan có
thẩm quyền Trung ương), lựa chọn các nhân sự chủ chốt của UBND. Theo quy định trong
Đảng, nhân sự ứng cử chủ tịch UBND tỉnh phải do tỉnh uỷ xem xét giới thiệu (tỉnh uỷ phải
báo cáo và có sự đồng ý của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng thì mới chính
thức giới thiệu đến HĐND). Tỉnh uỷ giao cho ban thường vụ tỉnh uỷ xem xét giới thiệu
một số Uỷ viên ban thường vụ tỉnh uỷ và tỉnh uỷ viên ứng cử các chức danh phó chủ tịch
và uỷ viên UBND.
Hệ thống tổ chức của Đảng cũng được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức
hành chính cuả nhà nước. Trong hệ thống các cấp bộ đảng ở địa phương, đảng bộ tỉnh có
vị trí, vai trò rất lớn. Xét cả về mặt khách quan lẫn chủ quan, đảng bộ tỉnh có những
mặt vượt trội hơn đảng bộ các cấp hành chính khác. Về mặt khách quan, một mặt, bản
thân đơn vị hành chính cấp này có thế chiến lược khác hẳn các cấp hành chính khác ở
địa phương; mặt khác, đây là một cấp được Trung ương phân quyền, giao quyền lớn về
các mặt công tác Đảng, áp dụng pháp luật và quản lý hành chính. Về những nhân tố bên
trong, tỉnh uỷ có vị trí, vai trò lãnh đạo quan trọng nhất của hệ thống chính trị ở địa
phương. Tỉnh uỷ chịu trách nhiệm trước Trung ương Đảng lãnh đạo các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở địa phương thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, luật pháp
của Nhà nước. Theo đó, tính nổi trội hơn các cấp uỷ huyện (huyện, thị, thành trực thuộc
tỉnh) và xã (xã, phường, thị trấn) ở chỗ tỉnh uỷ có nhiệm vụ xây dựng chủ trương, biện
pháp thi hành đường lối, nghị quyết, chỉ đạo của Trung ương Đảng. Sự cụ thể hóa, vận
dụng đường lối của Đảng là một trong những đặc điểm lớn của cấp uỷ tỉnh. Đường lối
của Đảng, nghị quyết của Trung ương mang tính quan điểm, tính định hướng và các nội
dung phổ quát cả nước, các tỉnh uỷ muốn tổ chức thi hành có hiệu quả phải biết vận
dụng nó sát với tình hình địa phương và trên cơ sở đó, lãnh đạo chính quyền ban hành
các chính sách, biện pháp thích hợp. Thực tiễn cũng cho thấy, nơi nào tỉnh uỷ có những
chủ trương đúng, lãnh đạo thực hiện tập trung, sáng tạo và quyết liệt thì nơi đó, bộ máy
chính quyền năng động, chỉ đạo thi hành luật pháp có hiệu lực và hiệu quả. Do phụ
trách địa bàn khá rộng với những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội riêng


biệt, các tỉnh uỷ có điều kiện phát hiện sớm những điểm đúng sai các chủ trương của
Trung ương và luật pháp của Nhà nước để đề xuất sửa đổi, bổ sung.
Phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng ở tỉnh chủ yếu là xây dựng cơ chế làm việc
bảo đảm cho sự phân công và phối hợp nhịp nhàng, năng động và có hiệu quả giữa cấp ủy
đảng và chính quyền.
Cấp ủy tỉnh đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành
Trung ương; UBND cấp tỉnh thì dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chính phủ. Những chủ
trương, chính sách và cả những biện pháp lớn của Chính phủ chính là sự thể hiện sự lãnh
đạo toàn diện của Đảng mà các tổ chức cấp dưới phải tuyệt đối chấp hành.
Trong phạm vi tỉnh, cấp ủy đảng thực hiện lãnh đạo toàn diện các vấn đề kinh tế-
xã hội, an ninh-quốc phòng và lãnh đạo cả hệ thống chính trị; đồng thời, phải chịu trách
nhiệm trước Trung ương trong việc lãnh đạo trực tiếp các cấp ủy và tổ chức đảng trực
thuộc tỉnh, trong đó có Đảng đoàn HĐND và Ban cán sự đảng UBND tỉnh, nhằm biến
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trở thành hiện thực ở địa phương. Muốn
thực hiện được điều đó, cấp ủy đảng không những phải có nội dung lãnh đạo đúng, mà
còn phải có phương thức lãnh đạo phù hợp. Phương thức lãnh đạo phù hợp thì hệ thống
chính trị hoạt động có hiệu quả, phương thức lãnh đạo không tốt sẽ có tác dụng ngược
lại.
Từ những đặc điểm về địa giới hành chính, sự phân quyền của Trung ương Đảng và
các chức năng nội tại, tỉnh uỷ có vai trò quan trọng đối với các tổ chức trong hệ thống
chính trị ở địa phương, trước hết là đối với HĐND và UBND tỉnh. Vị trí và tầm quan
trọng của tỉnh uỷ được thể hiện ở sự phân công trách nhiệm và thẩm quyền được quy
định cụ thể trong nội bộ của tỉnh uỷ, tập thể ban thường vụ tỉnh uỷ, thường trực tỉnh uỷ
và các cá nhân lãnh đạo.
1.3. ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH
UỶ ĐỐI VỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN VÀ ỦY
BAN NHÂN DÂN TỈNH
1.3.1. Đặc điểm sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ
Khác với sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương và các cơ cấu lãnh đạo cấp


trung ương của Đảng đối với bộ máy nhà nước, sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với chính
quyền tỉnh là sự cụ thể hóa sự lãnh đạo của Đảng đối với một cấp chính quyền ở địa
phương. Chính quyền tỉnh là cấp chính quyền cao nhất ở địa phương, cho nên sự lãnh đạo
của Tỉnh ủy là sự lãnh đạo tổng hợp, bao trùm nhất đối với địa phương từ tỉnh đến cơ sở,
đó là sự lãnh đạo toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng-an ninh và
trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
Rất giống như mô hình Trung ương Đảng lãnh đạo Nhà nước, tỉnh uỷ lãnh đạo
chính quyền cấp tỉnh bằng toàn bộ các nội dung hoạt động của mình và thông qua tổ
chức đảng (đảng đoàn, ban cán sự đảng) hoặc cán bộ do tỉnh uỷ quản lý và ngay cả
đảng viên trong bộ máy nhà nước. Điểm khác nhau chủ yếu là mức độ, phạm vi, tính
chất của các quyết định và ở sự giới hạn quyền lực. Đối với Trung ương, các quyết định
của Trung ương Đảng được tổ chức đảng và cán bộ Đảng trong các cơ quan Nhà nước
chịu trách nhiệm thể chế hóa thành luật, chính sách, quy định. Đối với địa phương, tỉnh
uỷ lãnh đạo việc cụ thể hóa nghị quyết của Trung ương, tổ chức thi hành pháp luật và
phối hợp với cơ quan quản lý ngành dọc chịu trách nhiệm trước Trung ương về sự lớn
mạnh hay yếu kém của cơ quan nhà nước. Điểm giới hạn ở chỗ, tỉnh uỷ không thể có
những quyết định riêng và đặt yêu cầu tổ chức đảng hoặc cá nhân đảng viên trong cơ
quan nhà nước thi hành những quyết sách đó nếu nó vượt quá thẩm quyền và trái với
các quy định hiện hành của cơ quan nhà nước. Trong trường hợp này, tỉnh uỷ chỉ có thể
tự mình hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước thuộc quyền kiến nghị với cấp có thẩm quyền.
Nói tóm lại, tỉnh uỷ vừa có quyền, vừa không toàn quyền đối với cơ quan nhà nước do
mình phụ trách.
Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy đối với chính quyền địa phương rất đa dạng thông qua
nhiều tầng nấc theo quy định của Đảng và Nhà nước ở Trung ương như Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy và cá nhân người đứng đầu là
Bí thư Tỉnh ủy.
Nội dung lãnh đạo của Tỉnh ủy bao gồm lãnh đạo việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
của chính quyền địa phương, lãnh đạo bằng công tác cán bộ và kiểm tra việc thực hiện
nghị quyết. Sự lãnh đạo của Tỉnh ủy vừa mang tính chất lãnh đạo, chỉ đạo, vừa mang tính


chất hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng trên thực tế.
Về phương thức lãnh đạo, Tỉnh uỷ sử dụng các hình thức, phương pháp để thực
hiện các nội dung lãnh đạo như: xây dựng các chủ trương, công tác tổ chức và cán bộ, hoạt
động kiểm tra, giám sát. Đồng thời, tỉnh uỷ còn thực hiện các hình thức, biện pháp: sơ kết,
tổng kết công tác; chế độ đi cơ sở; hội nghị, hội họp và tự phê bình, phê bình, chất vấn.
Nếu so với huyện uỷ và đảng uỷ xã (gọi tắt của ban chấp hành đảng bộ xã), tỉnh uỷ
lãnh đạo HĐND và UBND tỉnh vừa có thẩm quyền rộng, vừa có nội dung và phương thức
tác động toàn diện hơn. Đặc điểm chung của cấp huyện và xã là không có tổ chức đảng ở
cơ quan nhà nước (đảng đoàn, ban cán sự đảng). Cấp uỷ ở hai cấp này lãnh đạo HĐND và
UBND theo phương thức chung về Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng trong phạm vi thẩm
quyền hạn chế, do vậy, sự giám sát chính quyền, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên trong
việc thi hành pháp luật, việc thực thi nghị quyết của cấp uỷ cấp trên, nghị quyết của cấp uỷ
cấp mình là chủ yếu.
Tỉnh uỷ lãnh đạo HĐND và UBND là định hướng và bảo đảm để HĐND quyết định
các nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở địa phương, tạo điều kiện cho UBND, người đứng đầu cơ
quan hành chính nhà nước địa phương quản lý và tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
đề ra. Từ những vấn đề đã nêu cho thấy, trách nhiệm của tỉnh uỷ ở địa phương là rất quan
trọng.
Đảng lãnh đạo nhà nước trước hết là bằng đường lối, chính sách, chủ trương. Ở cấp
trung ương, Đảng trực tiếp quyết định đường lối, ban hành chính sách. Còn ở địa phương,
từ cấp tỉnh, thành đến cơ sở, thì tổ chức đảng chỉ quyết định nhiệm vụ chính trị của địa
phương và thảo luận, đóng góp ý kiến để Trung ương quyết định, ban hành đường lối,
chính sách phù hợp với địa phương. Xác định nhiệm vụ của địa phương không được trái
với đường lối, chủ trương do Trung ương Đảng ban hành, không được trái với pháp luật,
nghị định, quy định của nhà nước. Đồng thời địa phương cụ thể hóa đường lối đó và lãnh
đạo tổ chức thực hiện đường lối đó thông qua tổ chức đảng và đảng viên, thực hiện nhiệm
vụ kiểm tra, giám sát. Ở Trung ương, BCH Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo xây dựng
bộ máy nhà nước ở cả cùng cấp, cả cấp dưới. Chính vì vậy mà “Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý” phải được hiểu và thực thi ở các cấp độ không giống nhau. Lẫn lộn chức năng


lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của Nhà nước là sai, nhưng tách biệt hoàn toàn
hai chức năng lãnh đạo và quản lý, nhất là ở cấp độ địa phương cũng là một sai lầm lớn.
Nếu không phân biệt được thì dễ dẫn đến bao biện, cấp ủy quyết định quá nhiều công việc
thuộc chức năng thẩm quyền của chính quyền, thành cơ quan hành chính, đánh mất sứ
mệnh lãnh đạo, vai trò “đầu não” của mình. Đồng thời, chính quyền nhà nước sẽ thụ động,
ỷ lại, chờ đợi thực hiện các sứ mệnh của Đảng - không thực hiện được chức năng quản lý,
không phát huy được quyền làm chủ, tính năng sáng tạo của nhân dân. Nếu tách biệt chức
năng lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước ở cấp địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở,
phường – xã, thực chất là bỏ rơi lãnh đạo hoặc buông lỏng lãnh đạo, hình thức, không hiệu
quả. Điều đó, vừa không đảm bảo được sự lãnh đạo, vị trí, vai trò của Đảng, vừa không
phát huy thực sự vai trò của Nhà nước, của nhân dân. Do vậy, phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với chính quyền nhà nước ở các cấp, từ Trung ương đến cơ sở, có nguyên tắc,
tính chất, nội hàm chung, nhưng hình thức thể hiện và nội dung công việc có sự khác
nhau. Đương nhiên càng xuống thấp cơ sở, việc lựa chọn, quy định rạch ròi việc gì
thuộc lãnh đạo của Đảng, việc gì thuộc quyền quản lý của Nhà nước là hết sức khó
khăn. Ở đây, Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân gắn quyện với nhau thành một khối
thống nhất, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Đảng bộ tỉnh quyết định các nhiệm vụ chính trị mang tầm chủ trương, chính sách
để xây dựng và phát triển địa phương thông qua các kỳ đại hội và các hội nghị của Tỉnh
ủy. Đó là nội dung lãnh đạo đầu tiên và thông qua đó lãnh đạo chính quyền thực hiện. Để
quyết định nhiệm vụ chính trị đúng đắn, phản ánh được năng lực trí tuệ, trình độ lý luận,
phù hợp với thực tiễn, Đảng bộ phải lãnh đạo các cơ quan tham mưu của Tỉnh ủy và các
sở, ngành thuộc UBND cùng nghiên cứu, phân tích để cung cấp các cứ liệu và luận cứ
khoa học, thực tiễn.
Một nội dung khác là lãnh đạo chính quyền đề ra kế hoạch, chương trình cụ thể để
tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ. Đối với các
cơ quan thuộc khối chuyên môn như tư pháp, an ninh-quốc phòng, vừa lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị do đảng bộ địa phương đề ra, vừa thực hiện các chủ trương, chính sách
được cụ thể hóa qua các kế hoạch, chương trình hành động của chính quyền cấp - tỉnh,


thành, vừa thực hiện các chủ trương, chỉ thị của ngành dọc. Riêng đối với nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc, cấp ủy địa phương quyết định những vấn đề chung, còn kế hoạch cụ thể, các
phương án phòng thủ do ngành dọc quyết định. Đối với lĩnh vực tư pháp, cấp ủy địa
phương lãnh đạo, chỉ đạo về tư tưởng, ý chí đấu tranh chống tiêu cực, chống tội phạm, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Về xét xử thì chỉ đạo phương hướng, quan
điểm xử lý cho phù hợp với pháp luật, không can thiệp vào việc xét xử, tuyên án.
Như vậy là, phương thức lãnh đạo chính quyền bằng chủ trương, chính sách được
thực hiện ở cấp tỉnh, thành có những điểm khác với Trung ương. Không phải thông qua
một kênh trực tiếp như cấp trung ương mà thông qua nhiều kênh (cấp ủy đối với chính
quyền cùng cấp, tổ chức đảng thông qua cơ quan nhà nước cấp trên). Do vậy, một vấn đề
quan trọng để đảm bảo được sự lãnh đạo của Đảng đồng thời nâng cao được hiệu lực quản
lý và điều hành của chính quyền, phát huy được trách nhiệm và tính chủ động trong việc tổ
chức, thực hiện các chủ trương, nghị định, pháp luật của từng bộ phận cấu thành cơ quan
nhà nước cấp tỉnh, thành là phải có sự phối hợp đồng bộ giữa cấp ủy địa phương và tổ
chức đảng trong các bộ phận cấu thành cơ quan nhà nước ở cấp trung ương. Sự phối hợp
ấy phải được cụ thể hóa bằng quy chế, các chương trình làm việc và có kiểm tra, tổng kết.
Nếu xét trong tổng thể chung về tính chất của mối quan hệ giữa cấp ủy đảng và
chính quyền địa phương, sự lãnh đạo của Tỉnh ủy là tính chất chủ đạo trong mối quan hệ
giữa Tỉnh ủy và HĐND, UBND tỉnh. Điều đó được xác định dựa vào vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của HĐND, UBND tỉnh, nó chi phối nội dung, phương thức lãnh đạo của
Tỉnh ủy đối với HĐND, UBND tỉnh và từ đó sẽ quyết định tính chất của mối quan hệ đó,
thể hiện:
Một là, sự gần gũi, phối hợp chặt chẽ trong mối quan hệ giữa Tỉnh ủy với HĐND,
UBND tỉnh. Cấp ủy đảng mà không hiểu dân, không gần dân, không lắng nghe tâm tư,
nguyện vọng của dân thì không thể có được những nghị quyết đúng đắn, dẫn đến vai trò
lãnh đạo bị giảm sút. Hoặc nếu cấp ủy đảng và HĐND, UBND không có sự đoàn kết,
không tôn trọng nhau sẽ dẫn đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động kém.
Hai là, mối quan hệ giữa Tỉnh ủy với HĐND, UBND tỉnh mang tính thực tiễn, tính
tác chiến cao. Công việc đa dạng và phức tạp ở địa phương đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải

×