LUẬN VĂN:
Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lạnh đạo
thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ
1992 - 2000
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước ta là một quốc gia đa dân tộc, theo thống kê hiện nay nước ta có 54 dân
tộc, đa số là dân tộc Kinh chiếm 86,2% dân số, còn 53 dân tộc thiểu số chiếm 13,8% dân
số.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay luôn luôn khẳng định tầm
quan trọng của vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Đảng và Bác Hồ đã xem xét và giải quyết
vấn đề dân tộc trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin. Bác Hồ đã nghiên cứu nghiêm túc và
vận dụng sáng tạo tư tưởng lý luận của
C. Mác và V.I. Lênin để đề ra những quan điểm đúng đắn giải quyết những vấn đề phát
triển của các dân tộc thiểu số nước ta theo phương hướng là đoàn kết các dân tộc trong
đại gia đình Việt Nam trên nguyên tắc bình đẳng, thương yêu và giúp đỡ nhau để đấu
tranh cho độc lập, tự do hạnh phúc chung. Tư tưởng bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ của các dân tộc được nêu từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930, đã
được các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể hóa, bổ sung và
phát triển vì nguyện vọng tha thiết của tất cả nhân dân các dân tộc nước ta là thực hiện
độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về chính sách dân tộc
đã thu được những thành tựu quan trọng. Trong 15 năm đổi mới (1986 - 2000), kinh tế
- xã hội ở vùng dân tộc đã phát triển tương đối nhanh, toàn diện. Những thành tựu đó
góp phần quan trọng vào sự ổn định chính trị xã hội của đất nước. Kế thừa truyền
thống quí báu của dân tộc, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn
dân. Đó là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định:
Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong
sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa
đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn
hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa
các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều
khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực
hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số.
Động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc
và ở địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn,
dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc
[29, tr. 127-128].
Ninh Thuận là một tỉnh có đông dân tộc thiểu số cùng sinh sống - có 27 dân tộc
anh em. Thực hiện tốt chính sách đối với các dân tộc thiểu số là một trong những nhiệm
vụ quan trọng, thường xuyên của cấp ủy, chính quyền các cấp trong tỉnh.
Từ sau ngày giải phóng, nhất là từ khi có Chỉ thị số 121-CT/TW ngày 26 tháng
10 năm 1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Về công tác đối với đồng bào Chăm,
Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị ngày 27 tháng 11 năm 1989 Về một số chủ trương chính
sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VI, VII, VIII, IX và các Nghị quyết của Đảng trong thời gian gần đây, Đảng bộ tỉnh
Thuận Hải trước đây và Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận (1992) đã vận dụng sáng tạo vào điều
kiện cụ thể của địa phương, lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số góp
phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trên địa bàn của tỉnh.
Quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng ở vùng dân tộc thiểu số là một việc làm cần thiết để trên cơ sở đánh giá đúng
thực trạng, rút ra những kinh nghiệm làm căn cứ phát triển cho những năm tới.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: "Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lónh đạo thực
hiện chính sách dân tộc thời kỳ 1992 - 2000" để viết luận văn thạc sĩ lịch sử, chuyên
ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề dân tộc thiểu số cũng như văn hóa của các dân tộc thiểu số, chính sách
dân tộc của Đảng từ trước đến nay đã có nhiều bài viết, nhiều công trình đề cập đến với
nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Tiêu biểu là những công trình sau:
Nguyễn Văn Diệu, Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp với: Văn hóa các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1997;
Nông Quốc Chấn (cùng nhiều tác giả): Văn hóa và sự phát triển của các dân tộc
ở Việt Nam, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1997;
Phạm Văn Vang: Kinh tế miền núi và các dân tộc - Thực trạng, vấn đề, giải
pháp, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, 1996;
Phan Văn Dốp: Tôn giáo của người Chăm Việt Nam, Viện Khoa học xã hội
Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.
Gần đây nhất là công trình nghiên cứu về Lễ hội Chăm ở Ninh Thuận do Sở Văn
hóa thông tin Ninh Thuận thực hiện.
Còn rất nhiều bài trong các báo và các tạp chí khoa học đề cập đến chính sách
dân tộc, văn hóa các dân tộc thiểu số như các Nghị quyết của Tỉnh ủy và Hội đồng nhân
dân, các báo cáo tổng kết của ủy ban nhân dân tỉnh, của các ngành, các cơ quan. Nhưng
chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu sâu về lĩnh vực khoa học lịch sử Đảng
và quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo, thực hiện chính sách dân tộc. Các công
trình nghiên cứu và một số tài liệu liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài luận văn
chúng tôi tiếp thu, kế thừa những kết quả đó trong quá trình nghiên cứu Đảng bộ tỉnh
Ninh Thuận lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới (1992 - 2000).
Đây là một đề tài nghiên cứu dưới góc độ lịch sử Đảng nhằm tìm hiểu kết quả thực hiện
đường lối phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số qua 15 năm đổi mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
- Làm rõ đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc
của Đảng trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2000 và nhất là sự vận dụng vào thực tế ở tỉnh
Ninh Thuận.
- Thông qua thực tế phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số sẽ tạo ra
niềm tin vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với các dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau đây:
- Trình bày có hệ thống quá trình vận dụng chính sách dân tộc của Đảng vào
thực tế vùng dân tộc thiểu số ở tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 1992 - 2000.
- Nêu rõ những thành tựu, thiếu sót và những kinh nghiệm chủ yếu từ sự lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận về thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở vùng dân tộc
thiểu số trong 15 năm đổi mới.
4. Giới hạn của luận văn
- Luận văn làm rõ đường lối đổi mới về chính sách dân tộc của Đảng từ 1986 -
2000 từ đó tập trung nghiên cứu sự vận dụng của Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận vào thực tế
vùng dân tộc thiểu số để phát triển kinh tế - xã hội.
- Thời gian nghiên cứu của luận văn tập trung chỉ trong thời gian tái lập tỉnh
(1992 - 2000), nhưng để làm cơ sở cho vấn đề chính, luận văn còn đề cập một cách khái
quát tình hình kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số ở tỉnh Thuận Hải trước đó.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận để nghiên cứu là dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
- Quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách dân tộc và
đại đoàn kết dân tộc.
5.2. Nguồn tư liệu
- Nguồn tư liệu được sử dụng chủ yếu trong luận văn là các Văn kiện của Đảng,
đặc biệt là các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, những Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư
của Trung ương Đảng và Chính phủ; các Nghị quyết của Tỉnh ủy, Quyết định, Chỉ thị của
ủy ban nhân dân tỉnh cũng như các tài liệu của Sở, Ban, Ngành nói về phát triển kinh tế -
xã hội vùng dân tộc thiểu số.
- Những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước ta về dân tộc thiểu số và đoàn kết dân tộc.
- Kế thừa có chọn lọc các bài viết, luận văn của các tác giả khác xung quanh
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
- Những kết quả thu được của quá trình nghiên cứu thực tế địa phương các
huyện, thị có dân tộc thiểu số sinh sống ở tỉnh Ninh Thuận.
- Khảo sát thực tiễn qua 15 năm đổi mới kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số của tỉnh Ninh Thuận.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp tác phương pháp: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc,
trao đổi, phỏng vấn, thu thập và xử lý số liệu thống kê Trong đó đi sâu sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu lịch sử như: phương pháp nghiên cứu tư liệu, phương pháp so
sánh lịch sử, phương pháp liên ngành trong nghiên cứu lịch sử, phương pháp tổng kết
thực tiễn.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Trình bày có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo, thực hiện
chính sách dân tộc ở vùng dân tộc thiểu số trong thời kỳ 1992 - 2000.
- Cung cấp thêm những tư liệu về thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở vùng
dân tộc thiểu số, giúp các cơ quan của tỉnh nghiên cứu, chỉ đạo việc hoạch định các chủ
trương chính sách cho phù hợp.
- Góp phần nghiên cứu, tổng kết lịch sử Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 1992
- 2000.
- Khái quát những thành tựu, thiếu sót từ đó rút ra những kinh nghiệm, đề xuất
những ý kiến về thực hiện chính sách dân tộc ở vùng dân tộc thiểu số trong những năm
tiếp theo.
- Luận văn góp phần vào nội dung và chương trình giảng dạy, đào tạo của
Trường Chính trị tỉnh Ninh Thuận.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được chia làm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
Vấn Đề DÂN Tộc Và Thực Hiện Chính Sách
DÂN Tộc ở Tỉnh NINH Thuận Thời Kỳ 1992 - 1996
1.1. Tình hình dân tộc thiểu số của tỉnh Ninh Thuận
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, xã hội tỉnh Ninh Thuận
Ninh Thuận là một tỉnh thuộc cực Nam Trung bộ, nằm
ở vị trí địa lý từ 11
0
18’14’’ đến 12
0
09’15’’ độ vĩ Bắc và từ 108
0
09’08’’ đến
109
0
14’25’’ độ kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Nam giáp tỉnh
Bình Thuận, phía Tây giáp tỉnh Lâm Đồng và phía Đông giáp biển Đông. Là
một tỉnh nằm ở vị trí trung điểm giao thông dọc theo quốc lộ 1A, đường sắt
Thống Nhất và quốc lộ 27 lên Tây Nguyên. Có diện tích tự nhiên 3.360,06 km
2
.
Dân số theo điều tra 01/04/1999 là 505.327 người [8, tr. 23].
Địa hình tỉnh Ninh Thuận bao gồm ba mặt là núi, phía Bắc và phía Nam là hai
dãy núi cao lan ra sát biển, phía Tây là vùng núi cao của tỉnh Lâm Đồng. Có ba dạng:
miền núi, đồng bằng và miền ven biển. Vùng đồng bằng hình thành như một vùng trũng.
Địa hình tương đối dốc và có hướng thấp dần từ Tây sang Đông, từ Tây Bắc xuống Đông
Nam. Đất sản xuất nông nghiệp đã sử dụng 60.372,7 ha. Ngoài đất sản xuất trồng được
những giống lúa có năng suất cao, đã hình thành các vùng sản xuất chuyên canh trồng các
loại cây có giá trị kinh tế cao như: nho, mía, thuốc lá, bông vải Cùng với đất trồng trọt,
Ninh Thuận có 2.600 ha đầm, hồ thuận lợi cho nuôi trồng thủy sản. Một trong những đầm
lớn nhất là Đầm Nại với diện tích
650 ha đã và đang khai thác vào nuôi trồng thủy sản.
Bờ biển Ninh Thuận dài 105 km có cửa biển Ninh Chữ, Đông Hải, Cà Ná thuận
lợi cho du lịch, tắm biển, nghỉ điều dưỡng. Ninh Thuận còn có một ngư trường đánh bắt
hải sản rộng gần 18.000 km
2
với trữ lượng trên 120.000 tấn/năm. Có nhiều hải sản quí có
giá trị kinh tế cao như tôm, mực, cá thu, cá mú Ngoài ngư nghiệp ra Ninh Thuận còn có
ưu thế về sản xuất muối công nghiệp ở các vùng như: Cà Ná, Đầm Vua, Quán Thẻ
Bên cạnh tài nguyên đất, rừng, biển Ninh Thuận là tỉnh có một ít tài nguyên
khoáng sản nằm rải rác ở các địa phương trong tỉnh nên khó khai thác ở qui mô công
nghiệp. Khí hậu Ninh Thuận mang tính nhiệt đới gió mùa, có đặc trưng khô nóng và gió
nhiều.
Về tổ chức hành chính từ năm 1693, phủ Ninh Thuận thuộc trấn Thuận Thành.
Năm 1698 Chúa Nguyễn đổi trấn thành phủ và sau đó đổi thành dinh Bình Thuận. Từ
năm 1832 Nhà Nguyễn đổi dinh Bình Thuận thành tỉnh có hai phủ: Hàm Thuận và Ninh
Thuận. Phủ Ninh Thuận có hai huyện Yên Phước và Tuy Phong. Năm Đồng Khánh thứ
III (1888) phủ Ninh Thuận thuộc tỉnh Khánh Hòa. Năm Thành Thái thứ XIII (1901) phủ
Ninh Thuận tách khỏi Khánh Hòa lập thành tỉnh lấy tên là tỉnh Phan Rang. Đến năm
1913 triều Nguyễn bỏ tỉnh Phan Rang cắt phần đất phía bắc Ninh Thuận nhập vào Khánh
Hòa, còn phần đất phía nam nhập vào Bình Thuận. Tháng 7/1922 phần đất nhập vào
Khánh Hòa được tách ra thành lập Đạo có huyện An Phước Chàm, 5 tổng ở đồng bằng:
Mỹ Tường, Đắc Nhơn, Vạn Phước, Phú Quí, Kinh Dinh và 2 tổng miền núi: é Lâm Hạ, é
Lâm Thượng. Đứng đầu tỉnh là một viên Quản đạo (tỉnh nhỏ) của Nam Triều, dưới sự
điều khiển của một công sứ người Pháp. Đến khi Nhật đảo chính Pháp lập chính phủ bù
nhìn, Ninh Thuận là đơn vị hành chính cấp tỉnh. Sau Cách mạng tháng Tám 1945 ta chia
Ninh Thuận thành ba huyện: Ninh Hải Hạ, Ninh Hải Thượng và Ninh Sơn. Đến tháng
06/1946 thành lập 6 khu hành chính ở đồng bằng và đến tháng 02/1947 đổi thành 6 vùng,
đối với vùng núi và vùng đồng bào Chăm sinh sống lập Phòng quốc dân thiểu số (có năm
phân phòng) đến tháng 08/1948 giao vùng sáu (Cam Ranh) cho Khánh Hòa và sáp nhập
các vùng thành các huyện Thuận Nam, Thuận Bắc và An Phước. Đầu năm 1950 giải tán
huyện Thuận Nam, Thuận Bắc thành lập các xã lớn trực thuộc tỉnh. Đồng thời năm 1950
thành lập khu căn cứ Bác ái, đến năm 1951 đổi thành huyện và năm 1953 thành lập
huyện Anh Dũng. Khi chuyển sang cuộc kháng chiến chống Mỹ, các xã lớn trước đây
được tổ chức thành 5 vùng. Riêng thị xã Phan Rang cùng huyện Bác ái, Anh Dũng vẫn
giữ nguyên. Đến cuối năm 1960 liên tỉnh ba sáp nhập Bác ái với hai huyện Khánh Sơn,
Khánh Vĩnh (Khánh Hòa) thành khu căn cứ 50 (tức căn cứ ái Vĩnh Sơn). Đến tháng
08/1961 khu ủy 6 được thành lập và đến cuối năm khu 6 giải tán, khu căn cứ 50 giao Bác
ái lại cho Ninh Thuận, lúc bấy giờ khu căn cứ Bác ái tách thành hai huyện: Bác ái Đông
và Bác ái Tây. Sau ngày 30/04/1975, miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất
Ninh Thuận được sáp nhập với Bình Thuận, Tuyên Đức, Lâm Đồng thành tỉnh Thuận
Lâm. Đầu năm 1976 tỉnh Thuận Lâm được tách ra thành hai tỉnh Lâm Đồng và Thuận
Hải. Thực hiện chủ trương của Quốc hội khóa VIII tháng 04/1992 tỉnh Thuận Hải được
tách ra thành hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Tỉnh Ninh Thuận tính đến cuối năm
2000 có ba huyện: Ninh Phước, Ninh Sơn, Ninh Hải và Thị xã Phan Rang - Tháp Chàm.
Kinh tế - xã hội Ninh Thuận chậm phát triển, ở nông thôn và miền núi còn lạc
hậu, đói nghèo chiếm tỷ lệ khá cao. Ninh Thuận có 18 xã trên tổng số 56 xã, phường
thuộc diện đặc biệt khó khăn. Thói làm ăn manh mún, dựa vào kinh nghiệm là chính,
trông chờ vào may rủi của kinh tế tiểu nông, tâm lý ỷ lại vào Nhà nước của thời bao cấp
còn nặng nề.
1.1.2. Đặc điểm tình hình dân tộc thiểu số của tỉnh Ninh Thuận
Trong lịch sử hình thành và phát triển của mình Ninh Thuận đã hội tụ trong lòng
mình các dân tộc Kinh, Chăm, RagLai, Chu, K
’
Ho Có tất cả 27 dân tộc anh em cùng
sinh sống. Trong đó đông nhất là người Kinh 394.018 người - chiếm 78%; tiếp đến là
người Chăm 58.770 người - chiếm 11,6%; rồi đến người RagLai 45.137 người - chiếm
8,93%; các dân tộc còn lại 7.402 người - chiếm 1,47%.
Trong luận văn này chúng tôi tập trung phân tích đặc điểm của dân tộc Chăm và
RagLai.
Người Chăm là một trong 54 dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam,
hiện có 99.000 người, thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo, cư trú tập trung
ở các tỉnh Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận ngoài ra còn có ở các tỉnh Bình Định,
tỉnh Phú Yên, tỉnh Đồng Nai, tỉnh An Giang và Thành phố Hồ Chí Minh [45,
tr. 34-35].
Riêng ở Ninh Thuận hiện có 58.770 người, chiếm 59,36% so với tổng số người
Chăm trong cả nước. Người Chăm ở Ninh Thuận cư trú xen kẽ với các dân tộc anh em ở
22 thôn thuộc 12 xã của 4 huyện, thị trong tỉnh, nhưng tập trung ở huyện Ninh Phước có
đến 18 thôn của 8 xã. Hình thái cư trú của người Chăm phổ biến là ở đồng bằng tập trung
lại thành từng khu vực riêng biệt gọi là Plây Chăm (làng Chăm) thông thường mỗi Plây
Chăm là một cộng đồng người Chăm cùng theo một tôn giáo.
Về kinh tế: Người Chăm chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, họ thành thạo các kỹ
thuật làm ruộng lúa nước mà tiêu biểu là trình độ thủy lợi, đắp đập chứa dẫn nước vào
ruộng khá hoàn chỉnh, là một trong những dân tộc có nghề trồng lúa nước phát triển nhất
và xa xưa nhất ở Việt Nam. Hiện nay ở Ninh Thuận vẫn còn những đập nước cổ của
người Chăm như đập Nha Trinh trên sông Cái, đập Lâm Cấm trên sông Dinh vẫn tiếp tục
tưới cho các cánh đồng lúa của người Chăm lẫn người Kinh ở các huyện Ninh Hải, Ninh
Sơn và Thị xã Phan Rang - Tháp Chàm. Ngoài ra còn có các hệ thống thủy lợi được làm
mới trên nền các đập nước cổ của người Chăm như hệ thống đập Sông Pha, hệ thống
Sông Lu 1, Sông Lu 2
Ngoài ra còn trồng cây ăn quả và cây công nghiệp như cây điều, cây nho, cây
mía, cây bông vải và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Chỉ có hai thôn làm nghề thủ công,
làm gốm ở thôn Vĩnh Thuận và dệt thổ cẩm ở thôn Mỹ Nghiệp đều thuộc Thị trấn Phước
Dân huyện Ninh Phước.
Về văn hóa: Dân tộc Chăm là một thành phần trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam có nền văn hóa phát triển rực rỡ, tiêu biểu là nền văn
hóa Sa Huỳnh. Trải qua hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, dân tộc Chăm đã xây dựng
cho mình một nền văn hóa có sắc thái riêng biệt, độc đáo và
đa dạng.
Kho tàng văn học dân gian Chăm rất phong phú với nhiều thể loại khác nhau như
thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ đặc biệt là truyện thơ (Ariya) là loại hình ngâm - kể
chuyện đặc sắc của người Chăm. Trong sinh hoạt văn nghệ các loại nhạc cụ Chăm cũng rất
phong phú và độc đáo như các loại trống có Ghi-năng, Paranưng, kèn Sa-ra-nai, các điệu
múa Chăm, dân ca Chăm Lễ hội của người Chăm lớn nhất hàng năm là lễ hội Katê của
đồng bào theo Bà la môn giáo và lễ hội Ramadan của đồng bào theo Hồi giáo.
Người Chăm theo đạo Bà la môn đã để lại những tháp Chăm rất độc đáo. Điển
hình là thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Hiện
nay ở tỉnh Ninh Thuận còn lại ba quần thể tháp Chăm: tháp PoKlông Gia Rai, tháp Pô lô
mê và tháp Hòa Lai đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn
hóa.
Về tôn giáo: Qua lịch sử phát triển của Vương quốc Chăm Pa chúng ta nhận
thấy, ngay từ những ngày lập quốc, các vương triều Chăm Pa cổ đã gắn chặt với một số
tín ngưỡng tôn giáo và các tín ngưỡng tôn giáo ấy đã tác động mạnh mẽ chi phối công
việc triều chính cũng như các sinh hoạt thường ngày của người dân Chăm Pa. Từ thế kỷ I
đến thế kỷ II, khi Phạm Thệ - một vị vua của người Chăm đã thống nhất hai tiểu quốc đầu
tiên của người Chăm là Nam Chăm và Bắc Chăm (tức là bộ lạc Cau-pi-nang và bộ lạc
Dừa-li-u trước đây) thành một nhà nước độc lập đầu tiên của người Chăm vào năm 192
mở đầu cho vương triều Lâm ấp tồn tại đến giữa thế kỷ thứ VII. Trải qua chín đời vua
của Vương triều này, hầu như đất nước Chăm Ơa cổ đã chịu ảnh hưởng rất lớn nền văn
hóa ấn Độ và ấn độ giáo (Bà la môn giáo, Hin đu giáo). Bà la môn giáo trở thành tôn giáo
chính thống đóng một vai trò rất quan trọng và chi phối mạnh mẽ đời sống xã hội của
cộng đồng người Chăm. Vị trí chính thống của Bà la môn giáo dù có những lúc thịnh, lúc
suy nhưng vẫn được tiếp tục duy trì cho đến vương triều Vijaga (Si-Pi-Nừi) từ 1036 -
1400. Trải qua hàng chục thế kỷ, Bà la môn giáo đã có những ảnh hưởng sâu đậm và toàn
diện đối với đời sống người Chăm. Tuy nhiên, khi du nhập vào cộng đồng người Chăm -
một dân tộc có bề dày văn hóa đặc sắc, Bà la môn giáo đã không còn giữ nguyên vẹn
những đặc điểm nguyên thủy mà được "Chăm hóa" để phù hợp với điều kiện tự nhiên,
nhu cầu tín ngưỡng của người Chăm. Nhưng dẫu sao Bà la môn giáo cũng đã để lại
những dấu ấn đậm nét trong đời sống xã hội của người Chăm. Đặc biệt là trên lĩnh vực
đời sống văn hóa tinh thần thông qua những công trình kiến trúc (tháp Chăm), âm nhạc,
điêu khắc cũng như những phong tục, tập quán của người Chăm.
Bên cạnh Bà la môn giáo, Phật giáo cũng đã từng bước du nhập vào cộng đồng
người Chăm và có một thời kỳ từ cuối thế kỷ IX đến đầu thế
kỷ X thuộc Vương triều Đồng Dương (Indrapura) Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Nó
thực sự chiếm ưu thế tuyệt đối trong vương quyền. Đồng thời cũng lan rộng và chi phối
hầu hết các lĩnh vực hoạt động xã hội của vương quốc Chăm Pa. Trong đó Indravarman
II là một vị vua người Chăm rất sùng bái Phật giáo, chính ông là người đã cho xây Phật
viện (Vihara) rất lớn tại Đồng Dương vào năm 875. Song Phật giáo với triết lý khổ hạnh
và cao siêu đã không đáp ứng được nhu cầu đời sống tâm linh cũng như đời sống vật chất
trong cuộc sống hiện thực của đông đảo quần chúng nhân dân nên nó dần dần suy yếu và
nhường lại vai trò cho Bà la môn giáo đã có từ trước đó và Hồi giáo ở những giai đoạn
sau.
Hồi giáo là một tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trên thế giới (900.000.000
người có mặt ở hơn 50 nước khắp các châu lục) nhưng ở Việt Nam đạo Hồi không lớn
chỉ có vài vạn tín đồ mà chủ yếu là người Chăm và một số rất ít người Kinh. Hồi giáo do
Môhamet (573 - 632) sinh tại Mecca người bộ lạc Carét sáng lập ra. Đạo Hồi được truyền
bá vào người Chăm khoảng từ thế kỷ XIII - XV bằng con đường hòa bình cùng với sự tan
rã của quốc gia Chiêm Thành (Chăm Pa) và sự suy giảm dần của đạo Hin Đu (Bà la môn)
tôn giáo chính thống của người Chăm. Đạo Hồi khi du nhập vào người Chăm đã phải
nhượng bộ và tiếp thu một số yếu tố của tín ngưỡng dân gian Chăm và của Bà la môn
giáo, tạo nên nét riêng biệt của đạo Hồi trong cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận. Có
những điểm khác nhau rất cơ bản đối với Hồi giáo chính thống. Chẳng hạn về giáo luật
qui định có năm cốt đạo, cốt đạo thứ ba qui định: "Ăn chay tháng Ramadan, một năm
phải ăn chay trong tháng này (tháng 9 Hồi lịch) ban ngày nhịn chay, chờ đến đêm mới
được ăn (trừ trẻ nhỏ, người già, người ốm)". Nhưng người Chăm theo Hồi giáo ở Ninh
Thuận đến tháng Ramadan chỉ những người có chức sắc trong tôn giáo mới phải ăn chay,
còn lại họ vẫn ăn uống bình thường. Quá trình ảnh hưởng của Hồi giáo đối với dân tộc
Chăm có những thay đổi. Do những biến cố của lịch sử một bộ phận người Chăm đến
định cư ở vùng Châu Đốc (An Giang), số người Chăm di cư đến nơi sinh sống mới có
điều kiện tiếp xúc gần gũi với người Mã Lai Hồi giáo, tạo thành một cộng đồng Hồi giáo
có nhiều yếu tố gần gũi với Hồi giáo chính thống nên được gọi là Hồi giáo Islam (Hồi
giáo mới). Người Chăm Hồi giáo ở lại vùng Ninh Thuận, Bình Thuận được gọi là Hồi
giáo cũ (hay gọi là Chăm Bà ni để phân biệt với Chăm Bà la môn). Bà ni là cách gọi xuất
phát từ tiếng ả rập là "Be Ni" có nghĩa là "con trai của đấng tiên tri". Không phải như tác
giả Bùi Thiết gọi Hồi giáo cũ là Hồi Ba Li [45, tr. 36].
Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận theo đạo Bà la môn có 34.637 người
(58,93%), Hồi giáo Bà ni là 21.798 người (37,09%), Hồi giáo Islam 1.735 người (2,98%),
còn lại theo một số đạo khác như Tin Lành, Công giáo khoảng 700 người (1,1%).
Giữa Bà la môn giáo và Hồi giáo có những điểm khác nhau cơ bản. Bà la môn
giáo thờ đa thần mà chủ yếu là thờ giáo chủ Bramaha và thần Siva. Trong ăn uống họ
kiêng ăn thịt bò, khi chết tiến hành hỏa táng. Ăn tết Katê hàng năm vào tháng 7 Chăm
lịch (khoảng tháng 9 âm lịch). Hồi giáo thờ độc thần là thánh Allah. Trong ăn uống họ
kiêng ăn thịt lợn, khi chết tiến hành địa táng. Ăn tết hàng năm vào tháng Ramadan.
Tuy vậy giữa người Chăm Bà la môn và người Chăm Hồi giáo vẫn có quan hệ
khăng khít với nhau trên cơ sở cùng một cộng đồng dân tộc có chung tiếng nói, chữ viết,
cùng có những phong tục tập quán tín ngưỡng bản địa của dân tộc Chăm có từ ngàn xưa.
Chẳng hạn, người Chăm vẫn lưu giữ nhiều lễ hội dân gian Chăm từ những lễ nghi của cư
dân trồng lúa nước như lễ liên quan đến thủy lợi (lễ PLaoSah, lễ Ông cai đập, Ông cai
mương) đến lễ dựng chòi, lễ mừng lúa mới đến những lễ hội lớn như Ramadan, Katê.
Người Chăm đến nay vẫn theo quan hệ mẫu hệ, con gái lấy họ mẹ, con trai theo
họ cha. Trong hôn nhân bao giờ cũng do đàng gái chủ động trong lễ hỏi, lễ cưới. Người
con trai được người con gái cưới về nhà mình. Chính xuất phát từ điểm này trong dân tộc
Chăm bao giờ con trai cũng
được học hành chu đáo, học lên các lớp cao hơn con gái vì người Chăm cho rằng phải
cho con trai mình học hành chu đáo để khi về "làm dâu" nhà gái không bị coi thường.
Trong hôn nhân vẫn có phân biệt giữa hai tôn giáo, vẫn có sự cấm kỵ, nhưng trong thực
tế thì trai, gái hai tôn giáo vẫn có sự kết hôn với nhau.
Về chính trị: Trong lịch sử người Việt và người Chăm đã có truyền thống đoàn
kết chống giặc ngoại xâm: như cuộc chiến đấu chống xâm lược nhà Hán từ những năm
đầu công nguyên, cuộc chiến đấu đánh đuổi quân Java vào thế kỷ thứ VIII, chống quân
Mông Nguyên vào thế kỷ XIII.
Tháng 12 năm 1282 quân Mông Nguyên xâm lược Chăm Pa, nhân
dân Chăm Pa anh dũng kháng chiến và phối hợp với cuộc kháng chiến của
nhân dân Đại Việt. Cuộc kháng chiến thắng lợi của Đại Việt vào năm 1285 đã
góp phần giải phóng hoàn toàn Chăm Pa [46, tr. 86].
Cùng sát cánh bên nhau dưới ngọn cờ khởi nghĩa của phong trào Tây Sơn chống
lại tập đoàn phong kiến Nhà Nguyễn vào cuối thế kỷ XVIII. Đến khi vương triều cuối
cùng của vương quốc Chăm Pa tan rã, dân tộc Chăm trở thành một bộ phận của gia đình
các dân tộc Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trải qua các cuộc kháng chiến
chống giặc ngoại xâm, tiêu biểu nhất là hai thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
dân tộc Chăm luôn đoàn kết với các dân tộc anh em trong tỉnh, đã đóng góp sức người
sức của vào sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Nhiều cơ sở cách mạng đã
hình thành và phát triển trong các thôn xóm người Chăm như thôn Hậu Sanh (xã Phước
Hữu), thôn Như Bình (xã Phước Thái), thôn Vĩnh Thuận (thị trấn Phước Dân). Nhiều
gương sáng tiêu biểu: có anh hùng liệt sĩ Đổng Dậu, liệt sĩ Phú Như Lập, Tài Đại Thông,
Từ Hậu, Lưu Đặng và nhiều tên tuổi khác.
Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng, dân tộc và tôn giáo luôn luôn là những vấn đề
phức tạp và hết sức nhạy cảm của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trước giải phóng
(30/04/1975) chế độ Mỹ - Ngụy đã áp dụng
một số biện pháp để lôi kéo người Chăm như chúng thành lập "Hiệp hội Chàm Hồi giáo
Việt Nam" vào ngày 10/10/1961; Mặt trận giải phóng các dân tộc thiểu số gọi tắt là
Fulrô. Sử dụng đội ngũ trí thức Chăm vào trong bộ máy cai trị từ thượng viện, hạ viện
xuống trưởng ti sắc tộc, quận trưởng, quận phó
Chế độ Mỹ - Ngụy còn tạo điều kiện cho linh mục người Pháp là Moussay sử
dụng tiền tài trợ của tổ chức thiên chúa giáo ở Pháp xây dựng Trung tâm nghiên cứu văn
hóa Chăm tại Phan Rang, trường Trung học PôKlông (1971) để thu hút tập hợp trí thức
Chăm, tiến hành giáo dục, đào tạo thanh niên Chăm. Trong nội dung giảng dạy của
Trường có đề cập văn hóa Chăm, lịch sử dân tộc Chăm nhưng đã bị bóp méo sai sự thật
nhằm kích động, nuôi dưỡng tư tưởng kỳ thị dân tộc
Tháng 04/1975 khi ta tiến hành giải phóng miền Nam bọn cầm đầu Fulrô Chăm
như Huỳnh Ngọc Sắng, Vạn Thanh Bình, Đổng Thẹo tự xưng là lực lượng thứ ba đòi
đứng ra tiếp quản các vùng Chăm. Không được ta tiếp nhận chúng đã tiến hành xuyên tạc
cách mạng trong dân tộc Chăm, gây hoang mang dao động trong các tầng lớp nhân dân -
nhất là những gia đình có con em tham gia chính quyền cũ, đánh vào tâm lý hoài nghi của
những trí thức cũ được Mỹ - Ngụy đào tạo Đồng thời lôi kéo kêu gọi thanh niên trí thức
Chăm mang súng ra rừng gia nhập Fulrô và phát động chiến dịch "Chế Bồng Nga" để
đánh phá cách mạng.
Nhưng âm mưu gây rối và phá hoại của chúng bị ta phát hiện và tiêu diệt. Đến
năm 1977, lực lượng Fulrô đã hoàn toàn tan rã. Một số chạy về đầu thú làm ăn lương
thiện, một số trốn sang lưu vong ở nước ngoài nhưng vẫn tìm cách móc nối liên lạc với
những người Chăm ở trong nước. Những người này đã lôi kéo một số trí thức, chức sắc
trong các tôn giáo thường xuyên liên lạc thư từ với các trí thức cũ người Chăm ở nước
ngoài, bày tỏ tâm trạng bất mãn với chế độ, viết tin bài nói xấu chế độ ta, vu cáo Nhà
nước ta phân biệt đối xử với dân tộc Chăm hoặc nhờ những trí thức cũ người Chăm ở
nước ngoài can thiệp với nước sở tại và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
bảo lãnh cho họ ra nước ngoài sinh sống hoặc yêu cầu viện trợ kinh phí để xây dựng, sửa
chữa những thánh thất. Những trí thức cũ người Chăm còn tổ chức, gợi ý cho những trí
thức trẻ trong dân tộc mình thành lập những đội, nhóm "bình thơ" để công khai tụ tập với
nhau, trao đổi thông tin, thảo luận tình hình, thời cuộc, khơi dậy tinh thần dân tộc cực
đoan, nhắc lại quá khứ đau buồn của dân tộc mình gây ra tâm lý hoang mang hoài nghi
chế độ và tiền đồ tương lai của chính họ trong tầng lớp sinh viên, thanh niên dân tộc
Chăm.
Tỉnh Ninh Thuận có 29 xã miền núi, vùng cao, chia thành ba khu vực: Khu vực I
có 4 xã; khu vực II có 10 xã và khu vực III có 15 xã. Trong đó có 18 xã đặc biệt khó khăn
được đầu tư theo chương trình 135 của Chính phủ. Tổng diện tích tự nhiên 257.844 ha
(đất nông nghiệp 31.790 ha). Có 29.834 hộ, 160.953 nhân khẩu, đông nhất là dân tộc
RagLai.
RagLai: Là một trong 54 dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam
hiện có 70.000 người, thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai - Đa Đảo, sinh sống tập
trung ở phía Nam tỉnh Khánh Hòa và tỉnh Ninh Thuận với nhiều tên gọi khác
nhau như RagLai, Rai (hay Krai), Noang, Na oang, Orang, Glai [45, tr. 160].
Riêng ở Ninh Thuận có 45.137 người chiếm 64,5% so với tổng số người RagLai
trong cả nước.
Vùng cư trú của người RagLai Ninh Thuận trước đây gọi là é Lâm, giữa é Lâm
có thung lũng bằng phẳng chạy từ Nam sang Đông Bắc chia đôi é Lâm thành é Lâm Hạ
và é Lâm Thượng. é Lâm dựa vào vùng núi cao của tỉnh Lâm Đồng và nối liền với miền
núi phía Tây tỉnh Khánh Hòa (thuộc hai huyện Khánh Sơn và Khánh Vĩnh). Khu vực này
có địa hình hiểm trở bởi có nhiều núi cao, vực sâu, bị nhiều sông suối chia cắt nên rất khó
khăn trong phát triển kinh tế nhưng thuận lợi cho ta làm căn cứ trong kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ cũng như trong công cuộc phòng thủ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bản
làng cư trú của người RagLai gọi là Palây, nằm trên những khu đất cao, bằng phẳng và
gần nguồn nước. Mỗi Palây có từ 20 - 30 nhà sàn, nhà có cấu trúc đơn sơ, mỗi nhà
thường gồm cha mẹ và con cái chưa lập gia đình, đứng đầu Palây là một Popalây (trưởng
làng) thường là người có công lập làng, chịu trách nhiệm làm lễ cúng trời mỗi khi có dịch
hạn.
Trong cộng đồng dân tộc RagLai còn có đội ngũ thầy cúng (Bojan) mỗi Palây có
thể có nhiều thầy cúng. Ngoài cúng lễ thầy cúng còn kiêm luôn chức năng chữa bệnh.
Người RagLai quan niệm thầy cúng là nhân vật trung gian giao tiếp giữa người với thần
linh, với Giàng.
Xã hội cổ truyền của người RagLai có sự biến đổi khi chính quyền nhà Nguyễn
thiết lập sự thống trị và đặc biệt là khi thực dân Pháp bình định xong các tỉnh phía Nam
nước ta. Tổ chức hành chính được thành lập gồm có: Sách, Lý, Tổng nhằm quản lý dân
cư, thu thuế và thực hiện các biện pháp bóc lột khác. Sách là đơn vị cơ sở, nhiều Palây
ghép lại thành một Sách. Lý là cấp trung gian quản lý, người đứng đầu gọi là Lý trưởng
và trên nữa là Tổng, người đứng đầu gọi là Chánh tổng. Những người đứng đầu các Sách,
Lý, Tổng tham gia đắc lực vào bộ máy chính quyền phong kiến trở nên giàu có và dựa
vào quyền lực để bóc lột hà hiếp nhân dân nên bị nhân dân gọi là "đầu lớn" chứ không
gọi là người đứng đầu theo phong tục.
Hôn nhân và gia đình: Gia đình (BokSang) của người RagLai là những gia đình
lớn mẫu hệ. Trong gia đình lớn mẫu hệ đứng đầu gia đình là một người phụ nữ lớn tuổi
nhất (gọi là Posang hay Mú Sang). Posang quyết định mọi vấn đề trong gia đình như: giữ
lại hoặc cho sử dụng tài sản chung, quyết định việc phân chia và thừa kế tài sản, hôn
nhân, thờ cúng, phân xử các thắc mắc trong gia đình
Hôn nhân theo chế độ mẫu hệ, con theo họ mẹ, phụ nữ là chủ nhà, thường thì con
gái đi tìm hiểu con trai, ưng thì cưới về làm chồng và ở bên nhà vợ, ông Cậu có vai trò
quan trọng trong việc cháu gái lấy chồng. Người RagLai không có những ràng buộc khắt
khe trong hôn nhân, khi người vợ chết người chồng có thể về nhà mẹ đẻ và đi lấy vợ khác
hoặc vẫn ở nhà vợ nhưng phải lấy em hoặc chị vợ. Khi người chồng chết, người vợ có thể
lấy chồng khác và có thể lấy anh hoặc em trai người chồng cũ.
Hoạt động kinh tế đã tồn tại từ lâu đời được người RagLai ở Ninh Thuận áp dụng
trên nhiều vùng đất đai khác nhau là phát rừng làm rẫy dưới hình thức du canh du cư,
chuyển đổi đất canh tác theo tập quán sản xuất cổ truyền lạc hậu. Người RagLai phát
rừng làm rẫy, trỉa hạt, trồng bắp, trồng lúa tùy thuộc vào đất rẫy xấu hay tốt, sau 3 - 5
năm dời đi nơi khác và 15 - 20 năm sau mới quay trở lại. Ngô là cây lương thực chính.
Chăn nuôi chủ yếu là gia cầm như gà, vịt, gia súc không nhiều chủ yếu là trâu và dê, chăn
nuôi thả rông quanh nhà.
Nghề thủ công của người RagLai nhìn chung đơn sơ, chủ yếu tiến hành trong các
gia đình như đan lát, rèn, gốm. Sản phẩm chủ yếu là công cụ sản xuất và đồ dùng sinh
hoạt. Người RagLai không biết dệt vải. Kinh tế dân tộc RagLai chủ yếu là kinh tế tự cung
tự cấp.
Đời sống tín ngưỡng của người RagLai: Giàng (ông Trời) được coi là vị thần tối
cao của thế giới thần linh, bao gồm cả thần thiện và thần ác, con người sau khi chết vẫn
tồn tại linh hồn.
Về văn hóa: Người RagLai có một kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian phong
phú với nhiều trường ca, truyện thần thoại, truyện cổ tích, truyền thuyết lịch sử, sinh hoạt
văn nghệ, ca hát đối đáp, nhạc cụ có mả la (chiêng, cồng), đàn đá (đã phát hiện ra đàn đá
Bác ái, đàn đá Khánh Sơn), kèn môi, đàn Chapi (đàn làm bằng ống tre). Lễ hội lớn nhất
hàng năm để tạ ơn Giàng được tổ chức trọng thể sau mùa thu hoạch.
Nét nổi bật ở người RagLai là truyền thống đoàn kết, cộng đồng, dân chủ, quan
tâm, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, tính cách thật thà, chất phác, dũng cảm.
Trải qua các cuộc đấu tranh chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người RagLai theo Đảng và Bác
Hồ tham gia vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc Việt Nam và đã viết nên những
trang sử vẻ vang về truyền thống cách mạng của dân tộc mình. Với vị trí của vùng rừng
núi Ninh Thuận, dựa vào lòng dân RagLai Đảng ta đã xây dựng căn cứ kháng chiến ở
đây. Các cán bộ, chiến sĩ người Kinh, Chăm đã sát cánh cùng đồng bào RagLai xây
dựng Bác ái, Anh Dũng thành căn cứ kháng chiến vững mạnh toàn diện, trở thành trung
tâm của hai cuộc kháng chiến ở tỉnh Ninh Thuận và cực Nam Trung Bộ. Người RagLai
đánh giặc giỏi, gan dạ, sáng tạo ra nhiều loại vũ khí (trong đó nổi tiếng với bẫy đá Pi
Năng Tắc), thành thạo trong tác chiến ở vùng rừng núi, đã gây cho địch nhiều nỗi kinh
hoàng. Dân tộc RagLai là một dân tộc trung kiên và thủy chung với cách mạng. Dân tộc
RagLai đã chiến đấu không tiếc máu xương cho công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước. Được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
cho huyện Bác ái, xã Phước Kháng, Phước Chiến, Phương Hải (huyện Ninh Hải), xã
Phước Hà, xã Nhị Hà (huyện Ninh Phước), các anh hùng lực lượng vũ trang như Pi Năng
Tắc, Pi Năng Thạnh, Cha Ma Léa Châu Và nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Giữa dân tộc Chăm và dân tộc RagLai có mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị. Đúng
như Lênin đã viết: "Trong chừng mực mà các dân tộc khác nhau còn chung sống trong
một quốc gia, thì họ gắn bó với nhau bằng hàng ức, hàng triệu mối quan hệ kinh tế, pháp
luật và tập quán" [34, tr. 221].
Trong lễ hội Katê có lễ đón rước y phục của Nữ thần Pônưga, vị thần dạy nghề
trồng lúa, trồng bông dệt vải. Trong không khí vừa trang nghiêm, vừa rộn ràng, réo rắt
của tiếng trống Ghi-năng và tiếng kèn Sa-ra-nai hòa cùng những điệu múa uyển chuyển
của các thiếu nữ Chăm, mọi người chứng kiến cuộc đón rước và trao báu vật của nữ thần
giữa người RagLai và người Chăm.
Ngày nay chúng ta bắt gặp khá nhiều di chỉ văn hóa Chăm ở khu vực miền núi
như Tháp Yang Prang ở EaSúp (Đắc Lắc), Yang Mun ở AjunPa (Gia Lai), Tháp Chăm ở
Kon tum, Lâm Đồng không phải là những cố đô Chăm Pa, mà có lẽ như nhà nghiên
cứu Condominas đã viết: "Các vua Chăm cuối cùng đã giao cho những người miền núi
trung thành này canh gác các kho tàng của họ trước khi những kẻ mạnh chiến thắng ".
Ngoài hai dân tộc Chăm và RagLai đã nêu các dân tộc thiểu số còn lại ở Ninh
Thuận rất ít như người Hoa chỉ chiếm 0,49%; người Nùng 0,11%; người Tày 0,02%;
người Mường 0,01% sống xen kẽ với người Kinh và các dân tộc khác.
1.2. Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận cụ thể hóa và thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng
1.2.1. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
1.2.1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập một cách toàn diện vấn đề dân tộc và
đề ra những giải pháp triệt để giải quyết vấn đề dân tộc
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc gắn bó chặt chẽ
với nhau, khẳng định sự áp bức bóc lột của giai cấp này với giai cấp khác là nguồn gốc
áp bức của dân tộc này đối với dân tộc khác. C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu lên luận
điểm nổi tiếng: "Một dân tộc đi áp bức dân tộc khác thì dân tộc ấy không thể có tự do"
[37, tr. 625]. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi chủ nghĩa đế quốc bóc lột và nô dịch
nhân dân toàn thế giới, vấn đề dân tộc càng trở nên quan trọng và cấp thiết, mối quan hệ
giữa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản và cuộc đấu tranh của các
dân tộc thuộc địa, bị áp bức chống đế quốc ngày càng trở nên chặt chẽ. V.I. Lênin và
Quốc tế cộng sản đã phát triển học thuyết của C.Mác và PĂngghenen về vấn đề dân tộc
và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đề ra khẩu hiện: "Vô sản tất cả các nước và các dân
tộc bị áp bức đoàn kết lại".
Ngày nay, sau khi Liên Xô tan rã, cục diện đối đầu hai cực trên thế giới không
còn, vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trên thế giới đang trở thành một vấn đề chính trị -
xã hội phức tạp, là nguy cơ gây mất ổn định, làm bùng nổ những xung đột ở nhiều nơi.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực đen tối cũng đang triệt để lợi dụng những mâu thuẫn
dân tộc để thực hiện âm mưu bành trướng, bá quyền, áp đặt chế độ chính trị, mở rộng
phạm vi ảnh hưởng và khống chế các dân tộc trên thế giới, dưới chiêu bài "nhân quyền
cao hơn chủ quyền" để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác. Vì vậy, vấn đề
dân tộc vẫn luôn luôn là vấn đề thường trực và chính sách dân tộc có tầm quan trọng đặc
biệt đối với nhiều quốc gia. Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin vẫn tiếp tục soi sáng cho
các Đảng Cộng sản giải quyết đúng đắn các vấn đề dân tộc. Cương lĩnh về vấn đề dân tộc
của V.I. Lênin bao gồm ba nội dung cơ bản:
- Các dân tộc có quyền bình đẳng: Bình đẳng dân tộc là quyền của mọi dân tộc
không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ kinh tế, văn hóa cao hay thấp, không phân
biệt chủng tộc, màu da Quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả các lĩnh vực
trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đây cũng là cơ sở pháp lý chung giải
quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới, trong các khu vực hay trong một quốc gia. Theo
V.I. Lênin: "Nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn gắn liền chặt chẽ với việc bảo đảm quyền
lợi của các dân tộc thiểu số bất cứ một thứ đặc quyền nào giành riêng cho một dân tộc
và bất cứ một sự vi phạm nào đến quyền lợi của một dân tộc thiểu số, đều bị bác bỏ" [34,
tr. 179].
- Các dân tộc có quyền tự quyết: Cương lĩnh về vấn đề dân tộc rất chú trọng đến
vấn đề tự quyết dân tộc. Quyền tự quyết của các dân tộc chính là quyền tự chủ đối với
vận mệnh và con đường phát triển của các dân tộc, bao gồm quyền tự quyết định về thể
chế chính trị kể cả quyền phân lập về mặt chính trị (vì mục đích chung của dân tộc - quốc
gia và dân tộc - tộc người) hoặc quyền tự nguyện liên hiệp lại thành khối liên minh các
dân tộc đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động các dân tộc và vì mục tiêu
phát triển hòa bình, phồn thịnh, hữu nghị giữa các dân tộc.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: Để thực hiện tốt quyền bình đẳng và
quyền tự quyết, cần phải đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc, các quốc gia. Đoàn kết
giai cấp công nhân các dân tộc chính là đoàn kết gắn bó lực lượng nòng cốt của phong
trào đấu tranh cho tiến bộ, hòa bình và phát triển. Với bản chất quốc tế và những ưu điểm
vốn có, giai cấp công nhân các dân tộc vừa đại diện cho lợi ích nguyện vọng của giai cấp
công nhân nói chung vừa đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động và lợi ích các dân
tộc. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc cũng chính là kết hợp hài hòa giữa chủ
nghĩa yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế cao cả của giai cấp công nhân các nước là
lực lượng trung tâm của phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc cho hòa bình, tiến bộ và
phồn vinh của nhân loại.
Thực hiện Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin là một nguyên tắc nhất quán, lâu
dài trong chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản. Làm trái những nguyên tắc đó sẽ
dẫn đến những sai lầm trong chính sách dân tộc, xuất hiện nguy cơ xung đột dân tộc, ly
khai, ly tâm, tan rã đối với nhiều quốc gia, kéo lùi sự tiến hóa lịch sử. Ngày nay, vấn đề
dân tộc đang diễn biến vô cùng phức tạp. Những xung đột dân tộc, tộc người, những mưu
đồ đồng hóa dân tộc vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều hình thái tinh vi. Việc giải quyết
những tranh chấp hay mâu thuẫn liên quan đến dân tộc, tôn giáo, đòi hỏi chúng ta phải
nhận thức một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn và vận dụng một cách sáng suốt, cụ thể những
nội dung Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin. Vấn đề quan trọng không chỉ trong giải quyết
các quan hệ dân tộc, quốc gia mà còn là yêu cầu cần thiết cho việc vạch ra và thực hiện
đúng chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong một quốc gia đa dân tộc.
1.2.1.2. Những quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự phát triển của các dân
tộc thiểu số và miền núi
Hồ Chí Minh là người đảng viên Đảng Cộng sản đầu tiên của nhân dân các dân
tộc nước ta xem xét và giải quyết các vấn đề dân tộc trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nghiêm túc và vận dụng sáng tạo tư tưởng lý luận của
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin để đề ra những quan điểm đúng đắn giải quyết vấn đề
phát triển của các dân tộc thiểu số và miền núi nước ta theo phương hướng là đoàn kết
các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam trên nguyên tắc bình đẳng, thương yêu và giúp
đỡ lẫn nhau để đấu tranh cho độc lập, tự do và hạnh phúc chung. Tư tưởng bình đẳng,
đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc được nêu từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930. Tư tưởng của Hồ Chí
Minh trong giải quyết vấn đề phát triển các dân tộc thiểu số và miền núi của nước ta được
thể hiện trên mấy nội dung cơ bản sau:
Một là, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tất cả các dân tộc. Nước ta là một
nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Các dân tộc anh em trong nước ta gắn bó ruột thịt với
nhau trên một lãnh thổ chung và trải qua một lịch sử lâu đời cùng nhau lao động và đấu
tranh để xây dựng Tổ quốc tươi đẹp. Đại đoàn kết dân tộc là một tư tưởng lớn của Hồ Chí
Minh. Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã trở thành chiến lược đại đoàn kết của Đảng
ta và là một nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần quyết định thắng lợi trong sự nghiệp
cách mạng của Đảng ở mọi thời kỳ.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý
giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý thức xây dựng và giữ gìn sự
đoàn kết các dân tộc. Hồ Chí Minh xuất phát
từ truyền thống của dân tộc và chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh luôn luôn đánh giá
cao vai trò của nhân dân. Không có lực lượng nào mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân. Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Muốn thực hiện đại đoàn kết lâu dài thì
luôn luôn lấy dân làm gốc. Hồ Chí Minh viết:
Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt
Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc
Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân
chia nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải
đoàn kết bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa [38, tr.
110].
Người khẳng định: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay
ÊĐê, XêĐăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là
anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau"
[38, tr. 217].
Các dân tộc anh em sinh sống trên đất nước Việt Nam phải đoàn kết với nhau:
"Đã gọi là đoàn kết thì phải giúp đỡ lẫn nhau như anh em trong nhà. Dân tộc nhiều người
phải giúp đỡ dân tộc ít người, dân tộc ít người cần cố gắng làm ruộng. Hai bên phải giúp
đỡ lẫn nhau" [39, tr. 227].
Hai là, Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng của đồng bào dân tộc
thiểu số và miền núi trong sự nghiệp cách mạng của cả nước. Theo Hồ Chí Minh: "Miền
núi nước ta chiếm một vị trí quan trọng đối với quốc phòng, đối với kinh tế" [40, tr. 134].
Và là một khu vực rất quan trọng cả về công nghiệp và nông nghiệp, về bảo vệ môi
trường sinh thái và khai thác tài nguyên. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Miền núi có tài nguyên rất
phong phú, có nhiều khả năng để mở mang nông nghiệp và công nghiệp. Những điểm đó
nói rõ rằng miền núi có một địa vị cực kỳ quan trọng về kinh tế, chính trị và quốc phòng
của cả nước ta" [39, tr. 608]. Vùng núi là nơi sinh sống của phần lớn đồng bào các dân
tộc. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ và đồng bào các dân tộc cả
nước phải coi trọng vấn đề dân tộc và nhìn nhận đó là bộ phận quan trọng có tính chất
chiến lược của cách mạng Việt Nam, liên quan trực tiếp đến sự ổn định và phát triển của
đất nước.
Ba là, Hồ Chí Minh và Đảng ta rất coi trọng việc đề ra các biện pháp và những
bước đi thích hợp là có ý nghĩa vô cùng to lớn để xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa ở
vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Theo Hồ Chí Minh điều quan trọng trước hết cần
hiểu mỗi dân tộc có bản sắc riêng rất phong phú rất đa dạng cho nên trong công tác chỉ
đạo, tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc thiểu số phải đặc biệt lưu ý tính đặc thù dân
tộc, hiểu biết đầy đủ những khác biệt cụ thể của từng vùng, từng dân tộc mà bổ khuyết
chính sách, tránh những biểu hiện chủ quan, áp đặt. Hồ Chí Minh nhắc nhở: "Một tỉnh có
đồng bào Thái, đồng bào Mèo thì tuyên truyền huấn luyện đối với đồng bào Thái khác,
đồng bào Mèo khác, phải có sự thay đổi cho thích hợp. Bởi vì đời sống, trình độ của đồng
bào Mèo và Thái khác nhau, cho nên tuyên truyền huấn luyện phải khác" [40, tr. 128].
Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải gắn bó thật sự với đồng bào, nắm vững và phân
tích đúng tình hình, hiểu rõ phong tục tập quán mọi nơi và làm cho đồng bào tin yêu mà
tiến hành công tác vận động đồng bào miền núi cụ thể, thiết thực, phù hợp, dễ hiểu để
đồng bào làm được. Các chủ trương, chính sách, biện pháp phát triển kinh tế, văn hóa ở
miền núi đòi hỏi phải thực hiện khẩn trương, nhưng không thể nóng vội, rập khuôn máy
móc mà phải thận trọng, vững chắc, toàn diện, hiệu quả, đem lại lợi ích cho đồng bào ta.
Bốn là, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm khẳng định kịp thời những thành công
đã đạt được của đồng bào các dân tộc về kinh tế, văn hóa, giữ gìn an ninh quốc gia và
động viên đồng bào các dân tộc miền núi tiếp tục phấn đấu vươn lên. Hồ Chí Minh rất
vui mừng khi thấy: "Đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi đã có nhiều tiến bộ, về
cả hai mặt vật chất và tinh thần" [40, tr. 132]. Hồ Chí Minh biểu dương từng thành tựu
của đồng bào các dân tộc thiểu số và tin tưởng vào thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền núi. Theo Hồ Chí Minh việc gì khả năng điều kiện cho phép thì địa
phương miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số phải tự giải quyết, tự vươn lên, ví như
công trình thủy lợi nhỏ, các đường giao thông nhỏ. Trung ương có trách nhiệm xây dựng,
trang bị những công trình lớn. Hồ Chí Minh nhắc nhở đồng bào các dân tộc thiểu số
"cũng phải khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc, người
dân tộc lớn dễ mắc bệnh kiêu ngạo. Cán bộ địa phương, nhân dân địa phương lại dễ cho
mình là dân tộc bé nhỏ, tự ti, cái gì cũng cho là mình không làm được rồi không cố gắng"
[40, tr. 136]. Hồ Chí Minh đặt một niềm tin sâu sắc và nêu rõ: "Đồng bào các dân tộc rất