Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN VỚI VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ NĂM 2000 - 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.18 KB, 121 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
==============================
ĐỖ THỊ NHƯỜNG
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN VỚI VIỆC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ NĂM 2000 - 2010
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Ngọc Long
HÀ NỘI - 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công
trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu
trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và
trung thực. Kết luận của Luận văn chưa
từng được công bố trong các công trình
khác.
Hà Nội, ngày… tháng… năm 2012
Tác giả
Đỗ Thị Nhường
MỤC LỤC
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là quốc gia thống nhất, đa dân tộc. Phần lớn các dân tộc thiểu
số đều sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa - nơi có vị trí chiến lược về chính
trị, an ninh quốc phòng nhưng đời sống vật chất và tinh thần của người dân
còn nhiều khó khăn; trình độ dân trí còn thấp, nhiều phong tục tập quán lạc
hậu còn tồn tại Chính vì vậy mà các phần tử phản động trong nước và quốc
tế thường triệt để lợi dụng để xâm nhập phá hoại, gây chia rẽ giữa các dân
tộc, gây sự bất ổn về an ninh, chính trị…. tại các địa bàn trọng yếu này. Trước


thực trạng đó, từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến
vấn đề dân tộc, hoạch định nhiều chủ trương, chính sách nhằm thực hiện nhất
quán sự bình đẳng giữa các dân tộc; đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát
triển; không ngừng cải thiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng
bào các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam hơn 80 năm qua đã chứng minh cho thấy
đường lối, chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là đúng
đắn. Những chủ trương, chính sách đó đã góp phần đưa các dân tộc từ thân
phận nô lệ trở thành người chủ của đất nước; từng bước cải thiện môi trường
sống, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu
số ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa kháng chiến cũ. Qua đó làm cho các
dân tộc anh em đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam; phát huy
cao độ truyền thống yêu nước và sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định:
“Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của
nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương
4
yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách,
tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội các vùng
dân tộc thiểu số. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực
hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp.
Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc” [35, tr.244-245]
Thái Nguyên từng là căn cứ địa cách mạng của cả nước; là trung tâm
kinh tế, chính trị, văn hoá của vùng Việt Bắc; đồng thời cũng là địa bàn sinh
sống của nhiều dân tộc anh em, trong đó có một số dân tộc thiểu số ở vùng

sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Vì vậy mà công tác dân tộc và việc
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng luôn được các cấp uỷ Đảng, chính
quyền các cấp tỉnh Thái Nguyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Tuy vậy, việc
lãnh đạo cũng như quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Kết quả
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới; nhận thức của một số cấp uỷ đảng, chính quyền, mặt trận
tổ quốc và các đoàn thể; của một số cán bộ, đảng viên về công tác dân tộc
chưa đúng mức cho nên hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở
Thái Nguyên còn hạn chế. Bởi vậy, việc tiếp tục nghiên cứu và thấm nhuần
hơn nữa quan điểm của Đảng về chính sách dân tộc nhằm tạo ra một sự
chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động là một yêu cầu về lý luận
cũng như về thực tiễn bức thiết hiện nay. Vì lẽ đó mà tôi quyết định chọn vấn
đề “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên với việc thực hiện chính sách dân tộc từ
năm 2000 - 2010” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn cao học của mình.
5
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề dân tộc, quá trình hoạch định và thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng là một đề tài mang tính bức thiết, luôn thu hút sự quan tâm
của giới nghiên cứu. Bởi vậy, liên quan đến đề tài này đã có khá nhiều công
trình khoa học được công bố; trong đó có thể kể đến như:
- Kinh tế miền núi và các dân tộc - Thực trạng, vấn đề, giải pháp của tác
giả Phạm Văn Vang, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, 1996.
- Chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước về dân tộc, Nxb Văn
hóa dân tộc, Hà Nội, 2000.
- Vấn đề dân tộc và định hướng xây dựng chính sách dân tộc trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa do Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc
và miền núi tổ chức nghiên cứu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001.

- Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay do
PGS.TSKH Phan Xuân Sơn và Th.s Lưu Văn Quảng chủ biên, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây
Nguyên của PGS.TS Trương Minh Dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005,
- Xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên của
PGS.TS Trương Minh Dục, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
Các luận văn, luận án có liên quan khác, như: “Mấy suy nghĩ về đổi
mới việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ta” (1995) của tác giả Bùi
Xuân Vinh; “Một số suy nghĩ về vấn đề dân tộc ở tỉnh Yên Bái” (1995)
của tác giả Hà Văn Định; “Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc trên
địa bàn tỉnh Bình Dương và Bình Phước” (2001), Luận án Tiến sĩ Triết
6
học của tác giả Phạm Công Tâm; “Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo thực
hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào Khơme (1996-2004)” (2005),
Luận văn Thạc sĩ Lịch sử của Nguyễn Tấn Thời; “Đổi mới việc thực hiện
chính sách dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
(từ thực tiễn các tỉnh miền núi phía Bắc” của tác giả Nguyễn Thị Phương
Thủy; “Các Đảng bộ tỉnh khu vực Bắc Tây Nguyên lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc từ năm 1996 đến 2005” (2007), Luận văn Thạc sĩ
Lịch sử của Phạm Văn Hồ; “Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở
tỉnh Điện Biên trong giai đoạn hiện nay” (2006), Luận văn Thạc sĩ Triết
học của Vũ Quang Trọng
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu về dân tộc và chính sách dân
tộc được đăng tải trên các tạp chí như: Tạp chí Lịch sử Đảng, Tạp chí Nghiên
cứu lý luận, Tạp chí Cộng sản, Sinh hoạt lý luận, Dân tộc, Quốc phòng toàn
dân
Những công trình khoa học trên đã đề cập đến nhiều phương diện khác
nhau về lý luận cũng như thực tiễn đối với vấn đề dân tộc và thực hiện chính

sách dân tộc của Đảng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, có tính hệ thống về quá trình Đảng
lãnh đạo việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên từ năm 2000 đến năm 2010.
Mặc dầu vậy, những kết quả nghiên cứu nói trên là nguồn tài liệu
quan trọng, là cơ sở để chúng tôi tiếp thu, kế thừa, bổ sung và phát triển
trong quá trình thực hiện luận văn này. Bên cạnh nguồn tài liệu được
xuất bản thành sách, hoặc đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên
ngành, trong quá trình thực hiện luận văn chúng tôi còn tiến hành thu
thập, sử dụng nguồn tư liệu từ các Nghị quyết của Đảng, các nghị quyết
của Tỉnh uỷ và Hội đồng nhân dân, các báo cáo tổng kết của Uỷ ban
7
nhân dân tỉnh, của các ngành, các cơ quan có liên quan đến luận văn tại
các cơ quan lưu trữ của Trung ương và địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Phục dựng quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng từ năm 2000 đến năm 2010;
qua đó rút ra những kinh nghiệm vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có giá trị
thực tiễn đặng góp phần vào việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Trình bày khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa - xã hội và
tình hình dân tộc, dân cư trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Phân tích quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo và chỉ đạo tổ
chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng từ năm 2000 đến năm 2010.
- Đánh giá những kết quả và hạn chế, thiếu sót; từ đó, rút ra những
kinh nghiệm thực tiễn có ý nghĩa chỉ đạo quá trình thực hiện chính sách
dân tộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng từ năm 2000 đến năm 2010.
- Phạm vi :
+ Về không gian : Địa bàn chủ yếu là tỉnh Thái Nguyên. Ngoài ra có thể
mở rộng ra một số địa phương xung quanh để có sự so sánh khi cần thiết.
+ Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh về chính sách dân tộc qua hai kỳ đại hội là Đại hội Đại
8
biểu toàn quốc lần thứ IX, lần thứ X; Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI,
lần thứ XVII (từ năm 2000 đến năm 2010).
5. Cơ sở lý luận, nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
- Quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách
dân tộc và đại đoàn kết dân tộc.
5.2. Nguồn tư liệu
- Các Văn kiện của Đảng, đặc biệt là các Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc, những Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư của Trung ương Đảng và Chính
phủ; các Nghị quyết của Tỉnh uỷ, Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân
tỉnh cũng như các tài liệu của Sở, Ban, Ngành Thái Nguyên về phát triển kinh
tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số.
- Những bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của các đồng chí
lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta về dân tộc thiểu số và đoàn kết dân tộc.
- Kế thừa có chọn lọc các bài viết, luận văn của các tác giả khác xung
quanh chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
- Những kết quả thu được của quá trình nghiên cứu thực tế địa phương
các huyện, thị có dân tộc thiểu số sinh sống ở tỉnh Thái Nguyên.
- Khảo sát thực tiễn qua 25 đổi mới kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào

dân tộc thiểu số tỉnh Thái Nguyên.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc là chủ yếu. Ngoài ra còn
sử dụng một số phương pháp khác như: trao đổi, phỏng vấn, thu thập và
xử lý số liệu thống kê…
9
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá tư liệu về quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo
thực hiện chính sách dân tộc ở vùng dân tộc thiểu số trong thời kỳ 2000 -
2010.
- Cung cấp thêm những tư liệu về thực hiện chính sách dân tộc của Đảng
ở vùng dân tộc thiểu số, giúp các cơ quan của tỉnh nghiên cứu, chỉ đạo việc
hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội ở vùng dân
tộc thiểu số cho phù hợp.
- Góp phần nghiên cứu, tổng kết lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn 2000 - 2010.
- Rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những ý kiến về thực hiện
chính sách dân tộc ở vùng dân tộc thiểu số trong những năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở để Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng
- Chương 2: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách
dân tộc từ năm 2000 đến năm 2010
- Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm
10
Chương 1:
CƠ SỞ ĐỂ ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG

1.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên
1.1.1.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên
Tỉnh Thái Nguyên là trung tâm chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc
nói riêng, của vùng trung du miền núi Đông Bắc nói chung; là cửa ngõ
giao lưu kinh tế xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng
Bắc Bộ; phía Bắc tiếp giáp với tỉnh Bắc Kạn, phía Tây giáp với các tỉnh
Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, phía Đông giáp với các tỉnh Lạng Sơn, Bắc
Giang và phía Nam tiếp giáp với Thủ đô Hà Nội (cách 80 km); diện tích
tự nhiên là 3.562,82 km².
Với vị trí rất thuận lợi về giao thông, cách sân bay quốc tế Nội Bài 50
km, cách biên giới Trung Quốc 200 km và cảng Hải Phòng 200 km, Thái
Nguyên là giao điểm lưu thông của hệ thống đường bộ, đường sắt, đường
sông hình rẻ quạt kết nối với các tỉnh thành, đường Quốc lộ 3 nối Hà Nội đi
Bắc Kạn; Cao Bằng và cửa khẩu Việt Nam - Trung Quốc; Quốc lộ 1B Lạng
Sơn; Quốc lộ 37 Bắc Ninh, Bắc Giang. Hệ thống đường sông Đa Phúc - Hải
Phòng; đường sắt Thái Nguyên - Hà Nội - Lạng Sơn.
Khí hậu của Thái Nguyên chia làm 4 mùa khá rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu,
Đông. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.000mm, cao nhất là vào
tháng 8 (400mm) và thấp nhất vào tháng 1 (dưới 50mm).
Do địa hình thấp dần từ vùng cao xuống vùng núi thấp, trung du, đồng
bằng theo hướng Bắc - Nam, nên khí hậu Thái Nguyên vào mùa Đông được
11
chia thành 3 vùng rõ rệt: vùng lạnh nhiều nằm ở phía Bắc huyện Võ Nhai;
vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hoá, Phú Lương và phía Nam huyện
Võ Nhai, vùng ấm gồm các huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên,
thị xã Sông Công và thành phố Thái Nguyên. Nhiệt độ chênh lệch giữa
tháng nóng nhất (tháng 6: 28,9
0

C) với tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,2
0
C) là
13,7
0
C. Tổng số giờ nắng trong năm dao động trong khoảng 1.300 - 1.750,
phân phối tương đối đều cho các tháng trong năm, thuận lợi cho phát triển
nông - lâm nghiệp. Đặc điểm địa lý, tự nhiên ít nhiều có yếu tố thuận lợi
cho việc chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách dân tộc của Đảng.
1.1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Thái Nguyên
Trong những năm qua, đặc biệt là sau 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVII, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức, song dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự điều
hành quyết liệt của các cấp chính quyền, cùng với sự nỗ lực phấn đấu của
nhân dân các dân tộc trong tỉnh, Thái Nguyên đã đạt được nhiều thành
tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng, xây dựng hệ thống chính trị.
Kinh tế tiếp tục phát triển, tăng trưởng bình quân trên 11,11% hàng năm,
cao gần gấp đôi bình quân chung cả nước; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; trong đó công
nghiệp từ 38,71% (năm 2006) lên 41,6% (năm 2010), khu vực dịch vụ từ
35,08% (năm 2006) tăng lên 37,32% (năm 2010). GDP bình quân đầu người
đạt trên 17,4 triệu đồng, tương đương 950 USD gấp 2,9 lần so với năm 2005.
Sản xuất công nghiệp có bước tăng trưởng khá, giá trị sản xuất công
nghiệp năm 2010 đạt 12.200 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm 18,7%.
Cơ cấu nội ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng
12
các ngành cơ khí, vật liệu xây dựng. Thu ngân sách đạt kết quả khá cao,
năm 2010 đạt trên 2.500 tỷ đồng, đạt 200% kế hoạch Đại hội Đảng bộ

tỉnh lần thứ XVII đề ra.
Tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng và ban hành nhiều cơ chế, chính sách
nhằm đẩy mạnh thu hút đầu tư, tổ chức nhiều cuộc xúc tiến đầu tư trong
và ngoài nước Trong 5 năm (2005 - 2010) tỉnh Thái Nguyên đã thu hút
được trên 428 dự án, với tổng số vốn trên 105 nghìn tỷ đồng, trong đó có
16 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Dịch vụ phát triển cả về quy mô và loại hình, tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm đạt 11,86%. Kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm tăng
17,12%, vượt 2,12% so với chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ
XVII.
Sản xuất công nghiệp có bước phát triển khá. Các nhóm ngành, sản phẩm
có lợi thế so sánh như: luyện kim, cơ khí, sản xuất vật liệu xây dựng, khai
thác chế biến khoáng sản, chế biến lâm sản… đều có bước phát triển khá.
Việc ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, áp dụng các mô hình quản lý
hiện đại, xây dựng thương hiệu, uy tín của sản phẩm hàng hoá bắt đầu được
các doanh nghiệp quan tâm triển khai. Một số sản phẩm đã có chỗ đứng trên
thị trường như thép cán, sản phẩm cơ khí, chè, xi măng… góp phần từng bước
nâng cao sức cạnh tranh và chất lượng phát triển của nền kinh tế. Các chủ
trương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước đều được quán triệt,
tổ chức thực hiện có hiệu quả trên địa bàn tỉnh. Nhiều dự án nâng cấp, cải tạo,
đầu tư sản xuất sản phẩm mới như phôi thép, xi măng, nhiệt điện, gạch tuynel,
dụng cụ y tế, may mặc… được triển khai thực hiện có hiệu quả, làm tăng
thêm sức sản xuất cho nền kinh tế của tỉnh.
Sản xuất nông, lâm nghiệp đã từng bước phát triển theo hướng đổi mới
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ và sản xuất hàng hoá. Kinh tế nông
13
thôn có bước phát triển mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đa
dạng hoá ngành nghề. Tỷ trọng dịch vụ trong nông nghiệp, nông thôn tăng
trên 3%/năm. Nhiều làng nghề nông thôn đang hình thành và phát triển.
Chương trình đổi mới, phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã được triển khai

thực hiện, bước đầu đã có một số mô hình hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của tỉnh được tăng cường. Bình quân
hàng năm đã huy động trên 6.000 tỷ đồng cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh [22, tr.16-17].
Có được những kết quả trên là do Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong lãnh
đạo đã xác định đúng trọng tâm, trọng điểm trong phát triển kinh tế; chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng; phát huy và khơi dậy một cách có hiệu quả
các tiềm năng kinh tế và đặc biệt là tiềm năng con người. Nói chung, kinh tế
và đời sống của nhân dân tỉnh Thái Nguyên trong những năm qua đã có bước
phát triển đáng kể.
Tuy vậy, tình hình kinh tế tỉnh Thái Nguyên trong thời gian qua phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng và vẫn còn bộc lộ một số tồn tại: Tăng
trưởng kinh tế tuy đạt mức khá nhưng chưa vững chắc. Cơ cấu kinh tế đã có
bước chuyển dịch theo hướng tích cực, nhưng chất lượng chưa cao, nhất là
lĩnh vực dịch vụ. Thu ngân sách trên địa bàn còn thấp, không đủ sức để giải
quyết những nhiệm vụ đột xuất phát sinh. Đầu tư nước ngoài vào tỉnh tăng
chậm, quy mô nhỏ. Một số lợi thế như nguồn nhân lực, tài nguyên khoáng
sản, kinh tế đồi rừng, mặt nước… khai thác chưa có hiệu quả. Cơ cấu lao
động, nhất là cơ cấu lao động ở nông thôn chuyển dịch chậm, chất lượng
nguồn nhân lực chưa cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp. Với đặc điểm
kinh tế như trên, đời sống của nhân dân, đặc biệt là của đồng bào các dân tộc
ở vùng núi, vùng căn cứ địa cách mạng có được cải thiện nhưng chưa cao.
14
Đây là một khó khăn trong công tác dân tộc trong quá trình thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Về giáo dục và đào tạo: tỉnh Thái Nguyên đã xây dựng và mở rộng mạng
lưới trường lớp ở các cấp học, ngành học. Tính đến nay, tỉnh đã có 180/180
xã, phường hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở. Ngoài
ra, Thái Nguyên được cả nước biết đến là một trong những trung tâm đào tạo
nguồn nhân lực lớn với 6 trường đại học, 11 trường cao đẳng và trung học

chuyên nghiệp, 9 trung tâm dạy nghề, mỗi năm đào tạo được khoảng gần
100.000 lao động [58, tr.44].
Về y tế: công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân không ngừng được cải
thiện. Mạng lưới y tế đã phủ kín 100% địa bàn cơ sở xã, phường, thị trấn. Với
hệ thống cơ sở y tế gồm: 08 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa; 06 trung tâm,
chi cục tuyến tỉnh; 07 bệnh viện và 9 trung tâm y tế huyện, thành, thị; các
Trung tâm dân số - kế hoạch hóa gia đình và 180 trạm y tế xã phường, năm
2009, ngành y tế Thái Nguyên đã làm tốt công tác chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe cho người dân trên địa bàn. Chỉ tính riêng năm 2009, ngành y tế đã có
những cố gắng vượt bậc, trong đó nổi bật là việc chủ động phòng chống và
kịp thời dập tắt dịch cúm A (H1N1) trên địa bàn, không để xảy ra tử vong do
dịch. Các dịch bệnh nguy hiểm khác như: cúm A (H5N1), dịch tiêu chảy cấp
nguy hiểm, thủy đậu, quai bị cũng được các đơn vị chủ động phòng chống,
đảm bảo sức khỏe cho người dân. Việc thực hiện các chương trình mục tiêu y
tế quốc gia đều đạt và vượt chỉ tiêu trên giao. Các trạm y tế trong toàn tỉnh đã
duy trì tốt hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu, hệ thống y tế từ tỉnh đến cơ
sở tiếp tục được đầu tư, hoàn thiện, tăng cường hoạt động qua đó đã nâng số
lượt người dân trong tỉnh được chăm sóc về y tế từ 1,91 lần/ người/năm 2008
lên 1,94 lần trên người/năm 2009. Công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, bảo
vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em được thực hiện tốt, tỷ lệ phụ nữ đẻ có cán bộ y tế đỡ
15
đạt 99,7% (tăng 0,04 so với năm 2008); tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5
tuổi đã giảm xuống dưới mức 18,6% (chỉ tiêu giao là 20%). Tổng số lượt
bệnh nhân đến điều trị nội trú tại các bệnh viện tuyến tỉnh và huyện là
137.531 lượt (tăng gần 17.000 lượt so với năm 2008) [73, tr.1-2].
Thông qua việc thực hiện chương trình quốc gia về giải quyết việc làm
và lồng ghép các chương trình dự án, các ngành các cấp ở tỉnh Thái Nguyên
đã có những biện pháp tích cực để giải quyết việc làm cho người lao động.
Trong 4 năm từ 2005 - 2008 đã giải quyết việc làm cho trên 60.000 lao động
mới. Công tác xoá đói giảm nghèo được các cấp các ngành quan tâm, đời

sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tỷ lệ hộ nghèo của Thái Nguyên
đã giảm từ 26,85% năm 2005 xuống còn 15% năm 2009. Thực hiện cuộc vận
động xóa nhà tạm, nhà dột nát xây dựng nhà Đại đoàn kết của Uỷ ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tính đến hết năm 2009 tỉnh Thái Nguyên
đã xoá và hỗ trợ cho nhân dân xây mới được hơn 5.000 nhà cho hộ nghèo,
gặp nhiều khó khăn từ quỹ vì người nghèo và 4.201 hộ dân tộc thiểu số được
trợ giúp xây nhà mới. Một số huyện và thị xã đã hoàn thành chương trình xoá
nhà tạm, nhà dột nát cho nhân dân [8, tr.2].
Có thể thấy rằng, cùng với cả nước, Thái Nguyên đã có những bước phát
triển mới về kinh tế - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
cải thiện rõ rệt đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa. An ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững; nhân dân đoàn kết, phấn khởi, tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, tích cực tham gia vào các phong trào hành động cách
mạng trên các lĩnh vực.
1.1.1.3. Đặc điểm dân cư và dân tộc ở Thái Nguyên
Thái Nguyên là tỉnh có mật độ dân số trung bình. Theo số liệu thống kê
dân số của cuộc tổng điều tra dân số năm 2009 thì dân số tỉnh Thái Nguyên
hơn 1,138 triệu người, gồm 8 dân tộc chủ yếu là: Kinh, Tày, Nùng, Sán dìu,
16
Sán Chay, Dao, Mông, Hoa. Đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm 24,76%
dân số, trong đó dân tộc Tày 10,15%, Nùng 5,22%, Sán Dìu 3,57%, Sán
Chay 2,79%, Hoa 2,24%, Dao 2,08%, Mông 0,46%. Các dân tộc thiểu số
sống xen kẽ trong từng bản, làng tập trung đông ở các xã vùng sâu, vùng xa,
phân bố dân cư thưa thớt, mật độ dân số toàn tỉnh là 299 người/km2, huyện
Võ Nhai mật độ dân số 74 người/km
2
, huyện Định Hoá mật độ là 177
người/km
2
. Có những xóm bản chủ yếu có một dân tộc như dân tộc Tày có

267 xóm, bản; Sán Chay có 64 xóm bản; Nùng có 42 xóm bản; Mông có 13
xóm bản [2, tr.1]. Đồng bào các dân tộc cư trú tập trung ở 5 huyện miền núi
phía bắc là: Võ Nhai, Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương, Đồng Hỷ và đại đa số
lại sống ở những xóm, bản vùng sâu, vùng xa còn rất nhiều khó khăn, trình
độ dân trí còn hạn chế, sản xuất chậm phát triển, cơ sở hạ tầng thấp kém, ít
có điều kiện để tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, đặc biệt còn
nhiều hộ là đồng bào dân tộc thiểu số nghèo có khó khăn về nhà ở, đất ở, đất
sản xuất, nước sinh hoạt cần được nhà nước hỗ trợ.
Về phân định khu vực dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát
triển, có 126 xã, thị trấn được xếp vào các khu vực (I, II, III), trong đó có 26
xã KVI, 81 xã KVII, 19 xã KVIII (được công nhận tại Quyết định số
301/2006/QĐ-UBDT ngày 27/11/2006 và Quyết định số 05/207/QĐ-UBDT
ngày 06/9/2007 của Uỷ ban Dân tộc). Trong các xã KVI, KVII có 208 xóm,
bản được công nhận là xóm đặc biệt khó khăn.
Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội nêu trên là một trong những điều kiện
hết sức thuận lợi trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng nhằm phát
huy sức mạnh đại đoàn kết của cả cộng đồng các dân tộc tỉnh Thái Nguyên
cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tuy vậy, điều kiện địa
lý, bản sắc văn hoá, phong tục tập quán, trình độ phát triển của vùng đồng bào
dân tộc thiểu số còn có khoảng cách nhất định; kết cấu hạ tầng, mức độ phát
17
triển giữa các vùng còn có sự chênh lệch khá lớn. Đây cũng là một khó khăn
không nhỏ trong quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc và công tác dân tộc của Đảng.
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và
chính sách dân tộc
1.1.2.1. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc
giải quyết vấn đề dân tộc
Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan
trọng có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn

đề dân tộc là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định,
phát triển hay khủng hoảng, tan rã của một quốc gia, dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ
phận của những vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản.
Do đó, giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản và trên cơ sở
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh
rằng, khi xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng trên lập trường giai
cấp công nhân. Điều này cũng có nghĩa là việc xem xét và giải quyết vấn đề
dân tộc phải trên cơ sở và vì lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc.
Giải quyết vấn đề dân tộc thực chất là xác lập quan hệ công bằng, bình
đẳng giữa các dân tộc trong một quốc gia, giữa các quốc gia, dân tộc trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trên cơ sở tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai
cấp, cùng với sự phân tích vấn đề dân tộc, V.I. Lênin đã nêu ra “Cương lĩnh
dân tộc” với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc
được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi là
cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin.
18
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận không thể
tách rời trong cương lĩnh dân tộc cách mạng của giai cấp công nhân; là tuyên
ngôn về vấn đề dân tộc của Đảng Cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân
tộc. Cương lĩnh này đã trở thành cơ sở lý luận cho việc hình thành chủ
trương, đường lối và chính sách dân tộc của các đảng cộng sản và nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền thiêng liêng của các dân tộc.
Tất cả các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển cao hay
thấp đều có quyền và nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền đặc lợi về kinh
tế, chính trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào.

Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc
phải được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế, trong đó việc
khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân
tộc do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
Trong quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn
liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá
quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối
với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng
trong quan hệ quốc tế.
- Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự
quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình.
Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc
gia dân tộc độc lập (vì lợi ích của các dân tộc, chứ không phải vì mưu đồ và
19
lợi ích cả một nhóm người nào) và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân
tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc cần đứng vững trên
lập trường của giai cấp công nhân: ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên
quyết đấu tranh chống lại những mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết
làm chiêu bài để can thiệp vào công việc nội bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ
dân tộc.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Đây là tư tưởng, nội dung cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của V.I.
Lênin. Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân,
phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp.
Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc chính là đoàn kết gắn bó lực
lượng nòng cốt của phong trào đấu tranh cho tiến bộ, hòa bình và phát triển.
Với bản chất quốc tế và những ưu điểm vốn có, giai cấp công nhân các dân

tộc vừa đại diện cho lợi ích nguyện vọng của giai cấp công nhân nói chung
vừa đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động và lợi ích các dân tộc. Đoàn
kết giai cấp công nhân các dân tộc cũng chính là kết hợp hài hòa giữa chủ
nghĩa yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế cao cả của giai cấp công
nhân các nước là lực lượng trung tâm của phong trào đấu tranh cho độc lập
dân tộc cho hòa bình, tiến bộ và phồn vinh của nhân loại.
Thực hiện Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin là một nguyên tắc nhất
quán, lâu dài trong chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản. Làm trái
những nguyên tắc đó sẽ dẫn đến sai lầm trong chính sách dân tộc, xuất hiện
nguy cơ xung đột dân tộc, ly khai, ly tâm, tan rã đối với nhiều quốc gia, kéo
lùi sự tiến hóa lịch sử. Ngày nay, vấn đề dân tộc đang là một trong những vấn
đề phức tạp. Những xung đột dân tộc, tộc người, những mưu đồ đồng hóa dân
20
tộc vẫn tiếp tục dưới nhiều hình thái tinh vi. Việc giải quyết những tranh chấp
hay mâu thuẫn liên quan đến dân tộc, tôn giáo, đòi hỏi chúng ta phải nhận
thức một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn và vận dụng một cách sáng suốt, cụ
thể những nội dung Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin. Vấn đề quan trọng
không chỉ trong giải quyết các quan hệ dân tộc, quốc gia mà còn là yêu cầu
cần thiết cho việc vạch ra và thực hiện đúng chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước trong một quốc gia đa dân tộc.
1.1.2.2. Những quan điểm, tư tưởng cơ bản của chủ tịch Hồ Chí Minh và
của Đảng ta về sự phát triển của các dân tộc thiểu số và miền núi
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng chính sách dân tộc thiểu số và
miền núi của Đảng, Nhà nước phải chú ý đến tính đặc thù của từng dân tộc,
phải khơi dậy, phát huy khả năng vươn lên của các dân tộc thiểu số. Người
chỉ rõ, nước ta có trên 50 dân tộc anh em là thành viên trong cộng đồng dân
tộc Việt Nam nhưng mỗi dân tộc thiểu số có tâm lý, phong tục, tập quán
riêng. Do vậy, theo Người, chính sách dân tộc thiểu số và miền núi phải lưu ý
đến đặc điểm này không chỉ trong nội dung mà trong hình thức thể hiện cũng
phải phù hợp với đồng bào, phải dễ hiểu để đồng bào dễ làm theo.

Với tầm tư tưởng lớn của vị lãnh tụ thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác
định và nhấn mạnh rằng, việc xây dựng và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính
sách dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ nhằm phát huy sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc, huy động sức người, sức của của các dân tộc phục vụ sự
nghiệp kháng chiến và kiến quốc, phát triển kinh tế, văn hóa của các dân tộc,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của các dân tộc mà còn nhằm đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, chính trị, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng,
Tư tưởng của Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề phát triển các dân tộc
thiểu số và miền núi của nước ta được thể hiện ở mấy nội dung cơ bản sau:
21
Về đoàn kết tất cả các dân tộc. Nước ta là một nước thống nhất đa dân
tộc. Các dân tộc anh em gắn bó ruột thịt với nhau trên một lãnh thổ chung và
trải qua một lịch sử lâu đời cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước. Đại đoàn
kết là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí
Minh đã trở thành chiến lược đại đoàn kết của Đảng ta và là một nhân tố cực
kỳ quan trọng góp phần quyết định thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng trong các giai đoạn lịch sử.
Tư tưởng về một quốc gia đa dân tộc với truyền thống đoàn kết trong
một cộng đồng thống nhất tạo nên một sức mạnh vô song để vượt qua các cơn
phong ba, những lúc nguy nan của đất nước. Tư tưởng đó của Người thể hiện
nhận thức phù hợp với thực tiễn khách quan của lịch sử dân tộc Việt Nam
được thử thách qua những thăng trầm của lịch sử hàng ngàn năm. Đó là “tài
sản vô giá” để phát huy trong thời đại của cách mạng vô sản, Người cho rằng:
Đồng bào các dân tộc không phân biệt lớn nhỏ, phải thương yêu giúp đỡ lẫn
nhau, phải đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà, để cùng nhau xây dựng Tổ
quốc chung, xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho tất cả các dân tộc được hạnh
phúc, ấm no. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh đặc biệt
chú ý giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý thức xây dựng
và giữ gìn sự đoàn kết các dân tộc. Người luôn luôn đánh giá cao vai trò của

nhân dân: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới
không có gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân” [49, tr.276]. Nhân
dân chính là người sáng tạo ra lịch sử do đó muốn thực hiện đại đoàn kết lâu
dài thì phải luôn luôn lấy dân làm gốc. Hồ Chí Minh khẳng định:
Nhờ sức mạnh đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc,
nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được
bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong
một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa.
22
Trước kia các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ
lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa [46, tr. 110]
Người nhấn mạnh: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai
hay Êđê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ
cùng nhau, no đói giúp nhau”[46, tr.217].
Các dân tộc anh em sinh sống trên đất nước Việt Nam phải đoàn kết với
nhau: “Đã gọi là đoàn kết thì phải giúp đỡ lẫn nhau như anh em trong nhà.
Dân tộc nhiều người phải giúp đỡ dân tộc ít người, dân tộc ít người cần cố
gắng làm ruộng. Hai bên giúp đỡ lẫn nhau” [47, tr. 227]
Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi trong sự nghiệp cách mạng
Người đánh giá đúng vị trí, tầm quan trọng, tiềm năng to lớn của miền
núi và các dân tộc nước ta trong sự nghiệp cách mạng: “Miền núi nước ta
chiếm một vị trí quan trọng đối với quốc phòng, đối với kinh tế”[50, tr. 134]
.
Người đánh giá cao bản lĩnh, tính thật thà, chất phác, trọng lẽ phải của đồng
bào các dân tộc: “Đồng bào các dân tộc rất thật thà và rất tốt. Nếu nói đúng
thì đồng bào nghe, đồng bào làm và làm được” [51, tr.138]

Đánh giá đúng vị trí của miền núi và vai trò của đồng bào dân tộc thiểu

số, làm cơ sở để đề ra chiến lược và mục tiêu phù hợp với nhiệm vụ cách
mạng cụ thể trong từng thời kỳ, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III
năm1960, Người đã chỉ rõ: “Vì sự phát triển không đồng đều trong lịch sử,
nên giữa miền xuôi và miền núi, giữa dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số tồn tại
những sự chênh lệnh về trình độ kinh tế - văn hóa. Riêng ở miền núi, giữa
vùng thấp và vùng cao, mức tiến bộ và trình độ sinh hoạt càng có sự chênh
lệnh Đảng và Nhà nước dân chủ nhân dân cần phải làm cho miền núi tiến
kịp miền xuôi, vùng cao và vùng biên giới tiến kịp vùng nội địa, các dân tộc
23
thiểu số tiến kịp dân tộc Kinh, giúp đỡ các dân tộc phát huy tinh thần cách
mạng và năng lực to lớn của mình, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ để tiến lên
chủ nghĩa xã hội” [24, tr.124-125].
Theo Người, muốn thực hiện tốt chính sách dân tộc, công tác dân tộc thì
phải am hiểu về miền núi, về con người miền núi và đồng bào dân tộc thiểu
số, vì mỗi dân tộc thiểu số có nếp sống, tâm lý, bản sắc riêng đa dạng và
phong phú. Muốn tiến hành sự nghiệp cách mạng nói chung và công tác dân
tộc nói riêng, thì phải “nghiên cứu cho hiểu rõ phong tục mọi nơi”[47,
tr410] . Tính đặc thù trong từng dân tộc là yếu tố hết sức cần chú ý khi thực
hiện công tác dân tộc. Các dân tộc sinh sống trong từng vùng (tỉnh, huyện,
xã ) khác nhau thì có những đặc thù khác nhau về trình độ phát triển kinh tế
- xã hội, tâm lý, văn hóa, phong tục tập quán đòi hỏi phải có biện pháp cụ thể
đối với từng vùng. Đây là một luận điểm rất cơ bản mà trong nhiều năm qua
chúng ta chưa chú ý đúng mức đến vấn đề này. Người đã chỉ ra cho cán bộ
làm công tác dân tộc: “Một tỉnh có đồng bào Thái, đồng bào Mèo, thì tuyên
truyền, huấn luyện đối với đồng bào Thái khác, đồng bào Mèo khác, phải có
sự thay đổi cho thích hợp. Bởi vì đời sống, trình độ của đồng bào Mèo và
Thái khác nhau, cho nên tuyên truyền huấn luyện phải khác nhau ”[51,
tr.137]. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải gắn bó thật sự với đồng
bào, nắm vững và phân tích đúng tình hình, hiểu rõ phong tục tập quán mọi
nơi và làm cho đồng bào tin yêu mà tiến hành công tác vận động đồng bào

miền núi cụ thể, thiết thực, phù hợp, dễ hiểu để đồng bào làm được. Các chủ
trương, chính sách, biện pháp phát triển kinh tế, văn hóa ở miền núi đòi hỏi
phải thực hiện khẩn trương, nhưng không thể nóng vội, rập khuôn máy móc
mà phải thận trọng, vững chắc, toàn diện, hiệu quả, đem lại lợi ích cho đồng
bào ta.
24
Hồ Chí Minh xác định vai trò to lớn của Nhà nước, của các cơ quan
đoàn thể và cán bộ đối với sự phát triển của vùng dân tộc và miền núi: Người
luôn nhắc nhở và giao nhiệm vụ cho các cơ quan Trung ương phải có trách
nhiệm đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng miền núi, vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số. Người nói: “Các cơ quan Trung ương phải có kế
hoạch đẩy mạnh phong trào miền núi lên về kinh tế cũng như về văn hóa, tất
cả các mặt”[50, tr.137]. Người yêu cầu: “Trung ương Đảng và Chính phủ mà
trực tiếp là các cấp ủy Đảng, các ủy ban địa phương, các cô, các chú phải làm
sao nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của đồng bào các dân tộc” [50,
tr.134-135] . Trách nhiệm thực hiện công tác dân tộc là của mọi ngành, mọi
cấp, chứ không phải chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan chuyên trách làm công
tác dân tộc. Cán bộ công tác dân tộc, nhất là những người trực tiếp làm việc ở
miền núi, vùng đồng bào dân tộc phải am hiểu phong tục, tập quán, nắm được
tâm tư nguyện vọng của đồng bào “nghe dân nói và nói dân hiểu”. Bác đã
khuyên nhủ chúng ta rằng: Nước ta có nhiều dân tộc, đấy là điều tốt. Thường
mỗi dân tộc có tiếng nói riêng, cán bộ đi làm việc chỗ nào phải học tiếng chỗ
ấy. Cán bộ làm công tác dân tộc phải thật sự “Trọng dân, gần dân, học dân,
hiểu dân và có trách nhiệm với dân”.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
người dân tộc thiểu số và coi đây là nhân tố quyết định để thực hiện thắng lợi
chính sách dân tộc của Đảng, là một yêu cầu khách quan của cách mạng Việt
Nam. Vấn đề cán bộ đã có vị trí đặc biệt quan trọng, đối với miền núi và vùng
dân tộc thiểu số càng quan trọng hơn nhiều vì ở vùng núi dân trí thấp, ít
người biết tiếng phổ thông và chữ phổ thông, việc tuyên truyền phổ biến chủ

trương chính sách của chúng ta lại ít dùng tiếng dân tộc nên khả năng tiếp thu
của đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, ở miền núi và vùng dân tộc thiểu
số, vai trò của cán bộ địa phương có ý nghĩa quyết định trực tiếp. Nhân dân
25

×