Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

LUẬN VĂN: Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.55 KB, 104 trang )









LUẬN VĂN:

Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở Lạng Sơn hiện nay









Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một thực thể xã hội ra đời từ
hàng nghìn năm nay và sẽ tồn tại cùng với loài người trong một thời gian khó đoán định.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính
trị, văn hóa, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc,
nhiều quốc gia.
Vào những năm gần đây, tình hình tôn giáo trên thế giới có nhiều diễn biến phức
tạp. Nằm trong dòng chảy của lịch sử nhân loại, Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo,


bên cạnh các tôn giáo lớn có tổ chức với số lượng tín đồ đông đảo còn có các sinh hoạt
tín ngưỡng dân gian truyền thống. Tôn giáo đã và đang trở thành nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, các hoạt động của tôn giáo được khôi phục và phát triển mạnh
mẽ, số người theo tôn giáo ngày càng tăng. Hiện nay, ngoài xu hướng hành đạo đồng
hành cùng dân tộc, thuần túy tôn giáo, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật cũng đã xuất hiện
các hoạt động tôn giáo không bình thường, có phần lấn lướt chính quyền, vi phạm một số
qui định của Nhà nước về hoạt động tôn giáo: Một số chức sắc tôn giáo ngấm ngầm hoạt
động chống đối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, có tư tưởng vọng ngoại,
tìm mọi cách cung cấp thông tin sai lệch về tình hình tôn giáo ở trong nước; Hội thánh
Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đã từ chối không tham gia lễ diễu hành cùng các tổ chức
tôn giáo trong dịp lễ Quốc khánh 2/9/2005 với lý do là Nhà nước đối xử không bình đẳng
với Hội thánh, gây hiệu ứng tiêu cực về chính trị; các tổ chức tôn giáo, nhất là đạo Tin
lành gia tăng các hoạt động truyền đạo vào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số; một số tôn giáo lợi dụng việc đòi lại đất đai cơ sở thờ tự để có những hoạt động
chống đối chính quyền, gây khiếu kiện rất phức tạp, hoặc gây điểm nóng tôn giáo; có
giáo phái đòi tách khỏi Giáo hội và sự quản lý của Nhà nước; nhiều tổ chức đội lốt tôn
giáo nhằm tập hợp lực lượng chống lại chính quyền, tạo cớ để các thế lực thù địch bên
ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta… Trước tình hình đó, Đảng và Nhà
nước ta đã xác định phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo để


vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống
địch lợi dụng tôn giáo để đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Bắc có vị trí chiến lược về địa chính trị, kinh
tế, an ninh quốc phòng. Là địa đầu biên cương của Tổ quốc, đây cũng là một trong những
địa bàn trọng điểm mà các thế lực thù địch tập trung hoạt động chống phá.
Số lượng tôn giáo ở Lạng Sơn có qui mô không lớn, hiện nay chỉ có ba tôn giáo
chính: Phật giáo, Công giáo và Tin lành. Nhìn chung các tín đồ theo đạo đại bộ phận là
những người dân sống tốt đời đẹp đạo. Đường hướng chung của các tôn giáo ở Lạng Sơn
hiện nay đều tập trung củng cố đức tin, tuyên truyền phát triển đạo. Song ở Lạng Sơn,

điều cần quan tâm là sự phát triển của đạo Tin lành. Tin lành được truyền vào Lạng Sơn
từ năm 1938, chủ yếu tập trung ở khu vực đồng bào dân tộc Dao sinh sống (huyện Bắc
Sơn). Thời gian qua sự phát triển của đạo Tin lành ở khu vực này đã gây những ảnh
hưởng tiêu cực về nhiều mặt, xáo trộn cuộc sống bình thường của người dân, gây chia rẽ
đoàn kết nội bộ các dân tộc thiểu số, giữa người theo và không theo đạo Tin lành. Đáng
chú ý là những phần tử xấu vì lợi ích cá nhân hoặc bất mãn đã lợi dụng đạo Tin lành để
chia rẽ quần chúng với Đảng, Chính quyền hoặc cản trở việc thực hiện nghĩa vụ công dân
của tín đồ.
Trong những năm vừa qua, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
Lạng Sơn đã có nhiều tiến bộ và đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng bên cạnh đó
cũng còn một số tồn tại: Một bộ phận cán bộ đảng viên nhận thức về chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cấp, các
ngành còn thiếu tập trung và đồng bộ; việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo
còn kéo dài, gây tâm lý phản cảm cho quần chúng tín đồ và các chức sắc tôn giáo, tạo ra
những sơ hở không đáng có cho một số phần tử xấu lợi dụng. Đặc biệt việc thực hiện
chức năng quản lý nhà nước đối với tôn giáo của chính quyền ở nhiều lúc, nhiều nơi, nhất
là ở cơ sở còn quá cứng nhắc; các đoàn thể nhân dân vùng đồng bào có đạo nói chung
hoạt động còn kém hiệu quả; công tác xây dựng lực lượng cốt cán, đào tạo bồi dưỡng cán
bộ làm công tác tôn giáo còn chưa được quan tâm đúng mức; việc thực hiện Chỉ thị số 01
của Thủ Tướng Chính phủ “Về một số công tác đối với đạo Tin lành” còn gặp nhiều khó


khăn, nhận thức đối với tôn giáo và hoạt động tôn giáo của đảng ủy, chính quyền ở một số
nơi còn chưa thống nhất.
Trước tình hình đó, Tỉnh ủy đã quan tâm và tăng cường chỉ đạo công tác quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Một mặt nhằm nâng cao nhận thức về tín ngưỡng,
tôn giáo, vai trò của nó trong đời sống tinh thần của nhân dân và trong sự nghiệp phát
triển kinh tế, xã hội của tỉnh nhà; mặt khác để thực hiện đầy đủ, nghiêm túc đường lối
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo và hoạt động tôn
giáo, chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, cản

trở sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Từ tình hình đặt ra nói trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Quản lý Nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ khoa học tôn giáo. Hy
vọng rằng với đề tài này, tôi sẽ góp sức vào một vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn cấp
bách không chỉ trước mắt mà còn lâu dài đối với công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn
giáo trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
2. Tình hình nghiên cứu
Quản lý Nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về tôn giáo nói riêng là một trong
những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, từ khi có Nghị quyết 24- NQ/TW (năm
1990) của Bộ Chính Trị, việc đi vào nghiên cứu tôn giáo, đề ra chủ trương chính sách đối
với tôn giáo ngày càng được quan tâm ở nhiều góc độ khác nhau trên bình diện cả nước,
thể hiện ở nhiều công trình như: GS Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và
tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nhà xuất bản CTQG; PGS. TS Nguyễn Đức Lữ - Chủ
nhiệm đề tài (2002) Đổi mới chính sách tôn giáo và Nhà nước quản lý tôn giáo hiện nay-
những bài học kinh nghiệm và kiến nghị cụ thể, Đề tài nhánh thuộc đề tài cấp Nhà nước;
TS Ngô Hữu Thảo-Chủ nhiệm đề tài (1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo
trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ; TS Hoàng Minh Đô - Chủ
nhiệm đề tài (2002), Đạo Tin lành ở Việt Nam- Thực trạng, xu hướng phát triển và những
vấn đề đặt ra hiện nay trong công tác lãnh đạo, quản lý, Thuộc đề tài độc lập cấp Nhà


nước; Trung tâm Tư liệu- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1995), Tôn giáo,
Tín ngưỡng hiện nay- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết,…
Về vấn đề liên quan trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo có các đề tài sau: TS Nguyễn Hữu Khiển (2001), Quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo trong điều kiện xây dựng Nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện
nay, Nxb Công an nhân dân; TS Trần Minh Thư (2005), “Quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo là một yêu cầu khách quan”, Tạp chí Công tác tôn giáo số 3; Lê Minh
Quang (2000), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay- Vấn

đề và giải pháp, Luận văn thạc sĩ khoa học tôn giáo; Võ Thị Mộng Thu (2001), Vấn đề
quản lý nhà nước đối với hoạt động Công giáo ở Đồng Nai hiện nay, Luận văn Thạc sĩ
khoa học tôn giáo và một số luận văn của các lớp Cử nhân chính trị, Cao cấp chính trị tại
Học viện CTQG Hồ Chí Minh viết về công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở một số tỉnh, thành trong cả nước,…
Những công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề tôn
giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Các công trình đó sẽ được tác giả kế
thừa sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo trực tiếp cho đề tài luận văn này.
ở tỉnh Lạng Sơn, vì nhiều lý do khác nhau nên hiện nay vấn đề nâng cao hiệu quả
công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo chưa có đề tài nào đi sâu
nghiên cứu cụ thể, vấn đề mới chỉ được đề cập trong các báo cáo tổng kết của Ban Dân
vận Tỉnh ủy, Phòng tôn giáo Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh… qua các năm. Vì vậy
hướng đề tài mà tôi lựa chọn, hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn vấn đề quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay, đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn
* Mục tiêu:
Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh
Lạng Sơn, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh.
* Nhiệm vụ:


Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể như sau:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo.
Hai là, làm rõ tình hình thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở tỉnh Lạng Sơn.
Ba là, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong tình hình mới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Lạng
Sơn.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn.
Về thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn từ sau khi có
Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính Trị về đổi mới công tác tôn giáo trong tình hình
mới (từ năm 1990 đến nay).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận và thực tiễn:
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước
đối với tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn thời gian qua.
* Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương
pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp so sánh, phương
pháp phân tích, thống kê và tổng hợp, đặc biệt chú trọng đến phương pháp tổng kết thực
tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn


- Trên cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, bước đầu luận
văn làm sáng tỏ một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị cơ bản có tính khả thi góp phần nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay.
7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây dựng chủ trương,

biện pháp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Lạng
Sơn.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập tại trường
Chính trị tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được chia ra làm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
Một số vấn đề Lý luận về quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo và tình hình tôn giáo
ở lạng sơn

1.1. Một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
nước ta
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng của công
tác tôn giáo. Các quan điểm, đường lối của Đảng về công tác tôn giáo qua các thời kỳ
lịch sử đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lĩnh vực này. Nghị quyết số 25-NQ/TW
ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo tiếp
tục khẳng định cần “Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo” [ 31, tr.53].
Để nhận thức tốt công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, về mặt lý
luận cần phải nhận thức rõ một số vấn đề cơ bản sau đây.
1.1.1. Một số khái niệm


1.1.1.1. Khái niệm quản lý
Hoạt động quản lý đã xuất hiện từ lâu, nhưng thuật ngữ “quản lý” cho đến nay vẫn
còn nhiều cách hiểu khác nhau. Tùy từng mục tiêu và dưới các góc độ nghiên cứu, người
ta có thể đưa ra những quan niệm khác nhau về quản lý. Có quan điểm coi quản lý là quá
trình bao gồm các khâu lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra những nỗ lực của các
thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau của tổ chức để đạt

được mục tiêu đã định trước. Cũng có quan điểm cho rằng quản lý là sự tác động định
hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù
hợp với những qui luật nhất định.
Mặc dù có nhiều quan niệm, song thuật ngữ quản lý được thống nhất ở hai nội dung
chủ yếu sau:
Thứ nhất, quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của chủ thể quản
lý tới đối tượng quản lý.
Thứ hai, mục tiêu của quản lý là nhằm làm cho đối tượng quản lý hoạt động phù
hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trước.
Nói đến quản lý trước hết là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của chủ thể quản lý
tới đối tượng quản lý. Sự tác động này không mang tính đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ
chức, tính mục đích rõ ràng. Mục đích mà chủ thể quản lý đặt ra là hướng đối tượng quản lý
hoạt động phù hợp với ý chí của mình.
Từ hai nội dung nêu trên có thể đưa ra khái niệm về quản lý: “Quản lý là sự tác
động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được
mục tiêu đã được đặt ra từ trước” [8, tr.21].
1.1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước
Hoạt động quản lý xuất hiện từ lâu và bao gồm nhiều loại, trong đó quản lý xã hội
là một dạng quản lý đặc biệt. Quản lý xã hội được đặt ra từ khi lao động của con người
bắt đầu được xã hội hóa. Quản lý xã hội là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều khiển,
hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phù hợp với ý chí của
chủ thể quản lý và qui luật khách quan. Quản lý xã hội do nhiều chủ thể tiến hành. Khi


Nhà nước xuất hiện, những công việc quản lý xã hội quan trọng nhất do Nhà nước đảm
nhiệm.
Quản lý nhà nước hiện nay được hiểu theo hai nghĩa:
Nghĩa rộng: Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, sử dụng quyền
lực Nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do
tất cả các cơ quan Nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) tiến hành để thực hiện các

chức năng của Nhà nước đối với xã hội.
Nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền lực Nhà nước
với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan
trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp).
1.1.1.3. Tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, xã hội xuất hiện từ lâu trong lịch sử, có tài liệu
thống kê đến nay có hàng trăm khái niệm về tôn giáo, tùy cách tiếp cận và mục tiêu
nghiên cứu khác nhau người ta đưa ra những khái niệm khác nhau về tôn giáo.
- Quan điểm trước Mác về tôn giáo:
Trước khi xuất hiện đạo Kitô, bên cạnh những hình thức tôn giáo sơ khai, việc các
nhà nước độc lập sùng bái các vị thần rất phổ biến, với những nghi thức và niềm tin có
quan hệ đến cái thiêng liêng. Con người vừa kính trọng, vừa sợ hãi những lực lượng siêu
nhiên, nên họ đã thực hiện những nghi lễ hiến tế nhằm tỏ lòng tôn kính và cầu xin sự che
trở, giúp đỡ của đấng siêu nhiên tối cao, để làm “tăng thêm sức mạnh của bản thân và của
cộng đồng, vượt qua một cách thắng lợi những thách thức, khó khăn, hy vọng các thần
linh giúp đỡ để tránh những tai họa đang hoặc sẽ dẫn đến” [ 67, tr.22].
Khi tư tưởng nhà thờ thống trị những “đêm trường trung cổ” ở Châu âu đã bắt con
người tìm kiếm chỗ dựa tinh thần ở niềm tin tôn giáo, đó là sự phụ thuộc vào các bậc tiên
tri và các đấng siêu phàm. Trong tôn giáo con người thoát khỏi thời gian, vì tôn giáo là
lĩnh vực tri thức giải đáp mọi điều bí ẩn của thế giới quan, gạt bỏ mọi mâu thuẫn thầm
kín trong tư tưởng con người, do vậy tôn giáo là lĩnh vực của chân lý vĩnh cửu. Nhà triết
học cổ điển Đức Wil Helm Frie Hegel cho rằng tôn giáo là tri thức thần thánh, là tri thức


của con người về thần thánh, vì vậy ông đã kết luận: Trong tôn giáo con người tự do
trước thần thánh, vì ý chí của con người hòa đồng với ý chí của Thượng đế.
L. Feuer bach, một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đưa ra
luận điểm: Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ không phải tôn giáo sáng tạo ra con
người. Trong tác phẩm “ Bản chất của Ki tô giáo” ông đã cho rằng cái mà ý thức tôn giáo
quan niệm là Thượng đế không phải là cái gì khác hơn sự “phóng rọi” của chính bản thân

con người, con người suy nghĩ ra sao, tâm tư thế nào, thì Thượng đế của họ đúng như
vậy, con người có bao nhiêu giá trị thì Thượng đế cũng chỉ có bấy nhiêu. Từ Thượng đế
có thể suy ra con người, và từ con người có thể suy ra Thượng đế, Thượng đế là cái tự
thân đã được biểu hiện ở con người, tôn giáo là sự vén mở trang trọng những kho tàng ẩn
giấu của con người, là sự thừa nhận những ý nghĩ thầm kín nhất, là sự thú nhận công khai
những bí mật tình yêu của con người.
Quan điểm của L.Feuer bach là một bước tiến dài trong quá trình nhận thức tôn giáo
mà C.Mác đã kế thừa, song C.Mác đã chỉ ra rằng khi nhìn nhận về con người L.Feuer
bach có những hạn chế vì con người mà L.Feuer bach chỉ ra là con người trừu tượng,
chung chung chứ không đề cập đến “con người lịch sử thực sự”, chưa thấy được “tinh
thần tôn giáo” bản thân nó là sản phẩm xã hội và con người trừu tượng mà ông phân tích,
trên thực tế, bao giờ cũng thuộc về một hình thái nhất định, một cộng đồng người nhất
định.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo:
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những vị lãnh tụ lỗi lạc của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, các ông đã để
lại những tư tưởng lý luận quý báu về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, trong
đó có những nhận định khoa học và cách mạng về vấn đề tôn giáo.
Khi nghiên cứu về nguồn gốc của tôn giáo, C.Mác đã chỉ ra rằng:
Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự tri giác của con người chưa tìm thấy bản
thân mình hoặc lại đánh mất bản thân mình một lần nữa. Con người chính là
thế giới những con người, là Nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản
sinh ra tôn giáo, không phải tôn giáo sáng tạo ra con người mà chính con người


sáng tạo ra tôn giáo. Tôn giáo biến bản chất con người thành tính hiện thực, ảo
tưởng, vì bản chất con người không có tính hiện thực thật sự. Tôn giáo là tiếng
thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim,
cũng giống như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội không có tinh thần;
tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân [38, tr.58].

Còn trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph. Ăngghen đã đưa ra khái niệm về tôn
giáo “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con
người, của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế” [
38, tr.13].
Với những nhận định như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tìm được câu trả lời cho
các nhà tư tưởng đương thời là cái quyết định của sự phát triển xã hội loài người nói
chung, tôn giáo nói riêng chủ yếu là yếu tố kinh tế hay tinh thần. C.Mác và Ph.Ăngghen
đã cho rằng, cái quyết định của sự phát triển xã hội là yếu tố kinh tế, nhưng hai ông cho
đó không phải là yếu tố duy nhất. Chính trong bộ “Tư bản”, khi giải thích tại sao ở thời
cổ Hy Lạp, chính trị đóng vai trò chủ yếu, còn bước sang thời kỳ trung cổ ở Châu âu, thì
vai trò ấy lại do đạo Kitô nắm giữ, C.Mác cho rằng, chỉ có phân tích điều kiện kinh tế thì
mới giải đáp được câu hỏi đó.
Qua sự phản ánh của tôn giáo, những lực lượng tự phát của tự nhiên và xã hội trở thành
sức mạnh siêu nhiên có quyền uy tối thượng và đã tác động đến một cộng đồng, một nhóm
xã hội có tổ chức. Tôn giáo chỉ ra đời khi xuất hiện giai cấp và có đấu tranh giai cấp. Do đó
khi nói về tôn giáo, V.I. Lênin đã định nghĩa: “Tôn giáo là một trong những hình thức áp bức
về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì
phải lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng và cô độc” [65,
tr.169].
- Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo đã được Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng và Nhà nước ta vận dụng sáng tạo trong điều kiện lịch sử cụ thể ở Việt Nam.
Qua đó đã phát huy được tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quản lý hoạt động tôn giáo trong


khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Động viên, khích lệ bà con giáo dân phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tuy nhiên hiện nay ở nước ta, trong các văn bản pháp luật quản lý nhà nước về tôn
giáo chưa có tài liệu nào giải thích cụ thể về khái niệm này. Mặc dù việc giải thích khái
niệm tôn giáo chưa đồng nhất, song nói đến một tôn giáo hoàn chỉnh thì có mấy dấu hiệu

cơ bản sau:
+ Nói đến tôn giáo là nói đến cộng đồng người có chung niềm tin vào thế lực siêu
nhiên, huyền bí;
+ Có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi;
+ Có tổ chức hoạt động từ Giáo hội xuống cơ sở khá chặt chẽ.
1.1.1.4. Hoạt động tôn giáo
Điều 3, Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo đã khẳng định: Hoạt động tôn giáo là việc
truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo [60, tr.2].
Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền những lý lẽ
về nguồn gốc sự ra đời, luật lệ của tổ chức tôn giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo,
niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng cố, luật lệ trong tôn giáo của tín đồ được thực
hiện. Đối với những người chưa phải là tín đồ, hoạt động truyền đạo giúp họ hiểu, tin
theo tôn giáo và thông qua hoạt động truyền đạo để phát triển thêm số lượng tín đồ.
Thực hành giáo luật, lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín đồ, nhà tu
hành, chức sắc tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật, thỏa mãn đức tin tôn giáo của cá
nhân tôn giáo hay cộng đồng tín đồ.
Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo (còn gọi là quản đạo) nhằm thực hiện qui định
của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự,
hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Trong các hoạt động trên, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền đạo với
hoạt động hành đạo cũng chỉ là tương đối, có không ít trường hợp trong hoạt động hành
đạo có hoạt động truyền đạo.
1.1.1.5. Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo


Từ các khái niệm như đã trình bày ở phần trên, ta có thể đưa ra khái niệm về quản
lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo theo hai nghĩa như sau:
Nghĩa rộng: Là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền Lập pháp, Hành pháp,
Tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo qui định của pháp luật để tác động, điều chỉnh,
hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo

diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Là một dạng quản lý xã hội mang tính chất nhà nước, chức năng nhiệm
vụ của nhà nước, là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các
cơ quan trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi
hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo qui định của pháp luật.
1.1.2. Yêu cầu khách quan của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
nước ta hiện nay
Quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo nói
riêng là công việc bình thường của mọi nhà nước, trong đó có Nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Trong quá trình quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo có một số quan điểm
cho rằng, hoạt động tôn giáo là hoạt động mang tính nội bộ của tôn giáo, nhà nước không
cần phải quản lý, nếu có sự quản lý của nhà nước thì tự do tôn giáo sẽ không còn. Nhưng
thực tế hiện nay cho thấy, ở bất cứ quốc gia nào, nhà nước nào, ở đâu có hoạt động tôn
giáo thì ở đó có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên ở mỗi quốc gia đều có sự điều chỉnh
khác nhau, nếu vì trật tự an toàn xã hội, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc thì sự quản lý,
điều chỉnh của nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là cần thiết.
Yêu cầu của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo không chỉ xuất phát từ ý
chí của nhà nước mà còn xuất phát từ thực tế khách quan của sự hình thành, tồn tại, phát
triển và những ảnh hưởng của tôn giáo trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Tôn giáo là
một hình thái ý thức xã hội, đồng thời là thực thể xã hội, tôn giáo luôn biến động, phản
ánh sự biến đổi của lịch sử nhân loại. Tôn giáo ra đời từ những tiền đề kinh tế-xã hội, từ
nguồn gốc tâm lý và nhận thức, trong đó nguồn gốc kinh tế- xã hội giữ vai trò quyết định.
Khi những nguồn gốc làm phát sinh tôn giáo chưa được giải quyết, tôn giáo vẫn còn tồn


tại. Thừa nhận những thực tế khách quan này, một mặt nhà nước cần tăng cường quản lý
các hoạt động của tôn giáo để tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp
luật theo phương châm “tốt đời, đẹp đạo”, mặt khác cần tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân.

Tuy nhiên trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu
sắc đến nhiều lĩnh vực thuộc đời sống xã hội của nhiều quốc gia. Tôn giáo có nhiều chức
năng đối với xã hội như chức năng thế giới quan, chức năng liên kết cộng đồng, chức
năng đền bù hư ảo, điều chỉnh hành vi đạo đức của con người,…Thực hiện các chức năng
này, tôn giáo đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người, đoàn kết những người bị áp bức
trong cuộc đấu tranh chống lại những bất công của xã hội, khuyên răn con người hướng
thiện, làm điều nhân đức, tránh điều bất nghĩa, bất nhân “… tín ngưỡng, tôn giáo là nhu
cầu của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điểm phù hợp với công cuộc
xây dựng xã hội mới” [18, tr.2].
Nhưng đồng thời tôn giáo cũng mang những hạn chế, tiêu cực, như hạn chế trong
việc nhận thức thế giới khách quan, các nhà kinh điển Mácxít đã chỉ ra “Nhưng tất cả mọi
tôn giáo chẳng qua là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người” [38, tr.75]. Tôn
giáo thường bị những kẻ xấu lợi dụng vì mục đích chính trị đen tối, tôn giáo có khả năng
liên kết con người trong một cộng đồng cùng tín ngưỡng, nhưng cũng có thể đẩy người ta
đến chỗ nghi kị, đối đầu, hận thù và xung đột gây nên những thảm họa cho nhân loại…
Để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, phát huy những mặt
tích cực, hạn chế những tiêu cực trong tôn giáo, nhà nước cần tăng cường công tác quản
lý, để các hoạt động tôn giáo diễn ra phù hợp với ý chí của nhà nước, phù hợp với sự phát
triển chung của xã hội và nhu cầu tâm linh tinh thần của quần chúng.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, cần thiết phải tăng cường công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, quá trình đổi mới ở đất nước ta đang diễn ra sâu rộng trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo. Trong lĩnh vực tôn giáo, ngay khi hòa
bình được lập lại ở miền Bắc, Nhà nước ta đã khẳng định “Chính phủ bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được vi phạm quyền tự do ấy.


Mỗi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo
nào” [9, tr.112]. Trong những năm gần đây, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn
đề tôn giáo ngày càng rõ ràng và chứa đựng những nội dung mới, các Nghị quyết của

Đảng và chính sách của Nhà nước đều nhìn nhận “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc” [31, tr.48 ]. Đồng thời Đảng, Nhà nước ta đã khẳng định rõ: “Công dân có quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do
ấy. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật” [45, tr.1].
Quán triệt những quan điểm chỉ đạo của Đảng, công tác quản lý nhà nước đối với
các hoạt động tôn giáo cần phải được tăng cường để đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
đổi mới đất nước, đáp ứng các quá trình cải biến cách mạng trên tất cả các mặt, các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Thứ hai, thực tiễn quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở nước ta trong thời
gian vừa qua đã cho thấy, chính quyền và đội ngũ cán bộ có trách nhiệm ở một số nơi
chưa nhận thức đúng và quán triệt đầy đủ các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về vấn đề tôn giáo. Trong quản lý có nơi còn chủ quan, nóng vội và đơn
giản khi giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến tôn giáo, dẫn đến vi phạm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; có nơi lại thụ động, buông lỏng quản lý dẫn tới các hoạt
động tôn giáo lấn lướt chính quyền, kỷ cương, phép nước không được giữ nghiêm.
Vì những lý do trên, cần phải tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo,
một mặt khắc phục được những lệch lạc, phiến diện trong công tác quản lý; mặt khác vừa đảm
bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và góp phần đưa các hoạt động của tôn
giáo theo đúng qui định của pháp luật.
Thứ ba, hiện nay trước yêu cầu cải cách nền hành chính nhà nước và yêu cầu xây
dựng, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp về quản lý các hoạt động tôn giáo đang đặt
ra rất cấp thiết.


Nhà nước Việt Nam từ khi xây dựng theo con đường dân chủ, cộng hòa và sau này
là Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa, thì hệ thống pháp luật chính là cơ sở cho quản lý
nhà nước đối với các hoạt động xã hội nói chung và đối với hoạt động tôn giáo nói riêng.

Ngày nay Nhà nước ta đang tiến hành đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, nhiều lĩnh vực hoạt động của xã hội đã được luật hóa một cách cụ thể.
Trong đó quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được Đảng và Nhà nước ta xác
định là những chính sách xã hội quan trọng, có tính đặc thù, vì vậy cải cách hệ thống
pháp luật quản lý các hoạt tôn giáo là một yêu cầu khách quan.
Hệ thống luật pháp về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một bộ phận
của hệ thống pháp luật Việt Nam. Hiện nay hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động
tôn giáo ở nước ta đã có những bước phát triển đáng kể, ngày càng hoàn thiện, cơ bản
đáp ứng được yêu cầu đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Cụ thể từ
khi có Nghị quyết 24-NQ/TW/1990 của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo
trong tình hình mới ra đời, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản luật nhằm quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo. Đặc biệt năm 2004, Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo
được ban hành, đây là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất về quản lý và điều
chỉnh mọi hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo. Bên cạnh đó những qui định pháp lý liên
quan đến hoạt động tôn giáo còn nằm trong những qui định của văn bản pháp luật về dân
sự, về đất đai, về bảo tồn, bảo tàng, về xây dựng…Đây là những cơ sở pháp lý để Nhà nước
ta thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo và là những minh
chứng cụ thể đấu tranh với các thế lực thù địch vu cáo ta vi phạm tự do tôn giáo, vi phạm
nhân quyền, góp phần ngăn chặn hành vi lợi dụng tôn giáo.
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, “Hệ thống pháp luật về tôn giáo đang trong quá trình
hoàn thiện nên chưa bao quát hết được một số nội dung những hoạt động tôn giáo” [7
tr.17]. Vì vậy trước yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân, và trước yêu cầu của công tác tôn giáo hiện nay, việc xây dựng hệ thống pháp luật
về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo cần tiếp tục được củng cố và hoàn thiện.


Thứ tư, xuất phát từ âm mưu và hoạt động triệt để lợi dụng các sơ hở thiếu sót của
ta trong quản lý nhà nước đối với tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo của các thế
lực thù địch.
Hiện nay các Nghị quyết của Đảng, Nghị định, Pháp lệnh của Nhà nước đã qui định

cụ thể từng lĩnh vực của hoạt động tôn giáo. Nhưng do nhận thức của một số cán bộ đảng
viên chưa thống nhất, nên các giải pháp chỉ đạo và thực hiện đã nảy sinh nhiều ý kiến
khác nhau.
Việc xem xét sinh hoạt của một số cơ sở đạo Tin lành ở Tây Nguyên và Tây Bắc
không được đảng bộ và chính quyền sở tại chấp nhận, thậm chí không muốn thừa nhận
việc theo đạo của một số đồng bào; các cấp ủy còn chưa quan tâm lãnh đạo đúng mức
việc xây dựng lực lượng quần chúng cốt cán; một số nơi lực lượng nòng cốt chính trị
mỏng, nên hoạt động lúng túng và khả năng tập hợp quần chúng thấp; công tác tranh thủ
chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo chưa được quan tâm, nên công tác này không thường
xuyên và kém hiệu quả; bộ máy làm công tác tôn giáo của các cấp chính quyền ở nhiều
địa phương chưa được chú trọng, vì vậy công tác quản lý các hoạt động tôn giáo còn
nhiều bất cập, buông lỏng. Với những lý do trên đã cho thấy công tác quản lý nhà nước
đối với hoạt động tôn giáo của chúng ta vẫn còn nhiều thiếu sót, tạo kẽ hở cho kẻ xấu lợi
dụng, lôi kéo quần chúng để phát triển đạo trái pháp luật.
Hiện nay một số phần tử chống đối, cực đoan trong tôn giáo đang tổ chức lực
lượng, câu kết với nước ngoài, tích cực tìm hiểu và khai thác những sơ hở thiếu sót trong
công tác tôn giáo của ta. Chúng đưa ra những kết luận sai sự thật, cho rằng Việt Nam vi
phạm tôn giáo, vi phạm nhân quyền, với mục đích duy nhất là chống phá chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Việc tuyên truyền phát triển đạo Tin lành trái phép vào đồng bào
dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và một số nơi khác vẫn diễn
biến phức tạp. Tuy các địa phương đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để ngăn chặn,
nhưng trên thực tế hiệu quả đạt còn thấp.
Từ những thực tế như phân tích ở trên, đòi hỏi chúng ta phải tăng cường quản lý
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, qua đó nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo


chính đáng của nhân dân, mặt khác, phải luôn cảnh giác chống lại âm mưu lợi dụng tôn
giáo của các thế lực thù địch.
1.1.3. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo

1.1.3.1. Mục tiêu quản lý
* Mục tiêu tổng quát:
Nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng có đạo, đồng thời
chống lại những âm mưu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo vì mục đích phi tôn giáo, làm cho
những hoạt động tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ pháp luật, việc thực hiện đúng chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo.
* Mục tiêu cụ thể:
Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, cần hướng tới và đạt được
những mục tiêu chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trước hết phải bảo đảm được
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm cho các hoạt động tôn giáo được
diễn ra bình thường theo đúng qui định của pháp luật Nhà nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản của con người
đã được Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên Hợp quốc nghi
nhận. Trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước,
Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, coi
đó là một trong những quyền cơ bản của công dân. Năm 1945, chỉ một ngày sau khi đọc
“Tuyên ngôn độc lập” ở Quảng trường Ba Đình, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ lâm thời, Hồ Chủ Tịch đã phát biểu: “Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín
ngưỡng tự do Lương Giáo đoàn kết” [37, tr 53]. Ngày nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất
quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật…” [30, tr 128].


Cùng với bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, phải bảo đảm
cho các tổ chức, cá nhân tôn giáo được thực hiện các hoạt động tôn giáo và hành đạo một
cách thuận lợi, nhằm đảm bảo quyền này, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo đã qui định:
“Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ

cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và
học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo” [60, tr.3].
Đồng thời trong quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo, cần phân biệt rõ giữa
hoạt động tôn giáo thuần túy với hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để đề ra những biện
pháp quản lý phù hợp, tránh những hành động can thiệp vào công việc nội bộ của tôn
giáo mà vẫn quản lý được các hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường trong khuôn khổ
pháp luật. Bên cạnh đó, trong hoạt động tôn giáo, cần yêu cầu các tổ chức tôn giáo, tín
đồ, chức sắc, nhà tu hành chấp hành tốt các qui định của pháp luật.
Thứ hai, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được những
mặt tích cực, khắc phục được những hạn chế, tiêu cực của tôn giáo đối với sự phát triển
của xã hội.
Tính hai mặt của tôn giáo ở nước ta hiện nay là rất rõ, do đó quản lý nhà nước đối
với với hoạt động tôn giáo, phải phát huy và khơi dậy được những yếu tố tích cực của tôn
giáo, như tính hướng thiện, từ bi, bác ái “thương người như thể thương thân” của tôn
giáo trong các mối quan hệ của xã hội. Tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tôn giáo tham
gia cùng nhà nước giải quyết những vấn đề của xã hội như: Hoạt động từ thiện, cứu trợ
nhân đạo, xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế… Thông qua quản lý nhà nước đối với
các hoạt động tôn giáo phải giúp cho quần chúng tăng cường tri thức khoa học và xã hội
để từng bước xóa bỏ những nhận thức lệch lạc về thế giới quan và nhân sinh quan, những
điều khắt khe, phi khoa học trong tôn giáo. Bên cạnh đó, chúng ta phải tăng cường cảnh
giác đề phòng những âm mưu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống lại chế độ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Thứ ba, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải thực hiện được mục tiêu
đoàn kết đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng, tôn giáo,


tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Mục tiêu đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết lương, giáo luôn là truyền thống quí
báu và bài học quan trọng, là tiền đề của mọi thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc

trước kia và công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ
Chí Minh “Đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết - thành công, thành công đại thành công”.
Trong công tác tôn giáo, mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết giữa những người có
tín ngưỡng, tôn giáo với những người không có tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề quan trọng
khi tôn giáo luôn là công cụ, phương tiện để các thế lực phản động trong và ngoài nước
lợi dụng nhằm thực hiện âm mưu thâm độc chia rẽ dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng
với Nhà nước.
Thứ tư, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải đảm bảo sự tăng cường
vai trò của nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động tôn giáo.
Trong thực tế, tổ chức, cá nhân tôn giáo là một bộ phận của xã hội, được nhà nước
thừa nhận, do vậy phải đặt dưới sự quản lý của nhà nước. Hoạt động tôn giáo phải tuân
thủ những qui định của nhà nước. Mọi hành vi nhằm biến các tổ chức tôn giáo thành lực
lượng đối trọng với nhà nước, thoát ly khỏi sự quản lý của nhà nước đều là bất hợp pháp.
Hoạt động tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ pháp luật của nhà nước đều phải bị xử lý theo
qui định của pháp luật. Thực hiện tốt được những điều trên, một mặt vai trò quản lý của
nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được tăng cường, mặt khác đưa các hoạt động tôn
giáo theo đúng qui định của pháp luật, định hướng cho tín đồ, chức sắc tôn giáo đồng
hành cùng nhân dân cả nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.3.2. Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo không ngoài mục đích bảo đảm cho
hoạt động tôn giáo diễn ra trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật vì lợi ích chung,
trong đó có cả lợi ích của đồng bào có đạo và lợi ích của các Giáo hội.
Quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo có một số nguyên tắc chính sau:
Một là, nguyên tắc đảm bảo cho mọi công dân được bình đẳng trước Hiến pháp và
pháp luật


Đây là nguyên tắc của thể chế dân chủ, có tính phổ quát ở nhiều quốc gia. Nhà nước
ta là nhà nước dân chủ, đến nay Hiến pháp Việt Nam đã được bổ sung nhiều lần với
những qui định rõ ràng về các quyền con người được Hiến pháp bảo vệ trên tất cả các

mặt dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; các quyền riêng trong xã hội, đặc biệt là
quyền trẻ em, phụ nữ, các dân tộc thiểu số, quyền bình đẳng trước pháp luật của các tôn
giáo.
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của
các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp
luật và chính sách của nhà nước [60, tr.70].
Chỉ thị 37- CT/TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới của Bộ chính trị ngày
02/7/1998 cũng đã khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về quyền
lợi và nghĩa vụ trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và người không theo đạo,
cũng như giữa các tôn giáo khác nhau” [9, tr.118].
Vì vậy, không phân biệt nghĩa vụ và quyền lợi của công dân vì lý do tín ngưỡng,
tôn giáo, công dân theo tôn giáo và không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật,
được hưởng mọi quyền lợi công dân, đồng thời có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công
dân. Đây là nguyên tắc đồng thời cũng là nội dung quan trọng của quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Hai là, nguyên tắc đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân
Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của con người đã xuất hiện từ xa xưa
trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người. Tín ngưỡng là hoạt động thể
hiện sự tôn thờ tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng
đồng, thờ cúng thần thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng
dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội. Tuy
nhiên mức độ của niềm tin, sự tôn thờ ấy ở mỗi con người, mỗi cộng đồng người, mỗi
giai đoạn lịch sử là khác nhau. Niềm tin tôn giáo khó áp đặt cũng không dễ tước đoạt, nó


tồn tại như nhu cầu khách quan của đời sống hiện thực. Vì vậy tự do tín ngưỡng cũng có
nghĩa là con người được tự nguyện hướng tới một lực lượng siêu nhiên, đồng thời cũng

có quyền khước từ hoặc loại bỏ niềm tin đã có. Tự do tín ngưỡng cũng có nghĩa là không
chấp nhận sự độc tôn hoặc tham vọng thôn tính của tôn giáo này đối với tôn giáo khác,
càng không thể áp đặt hoặc gạt bỏ thông qua quyền lực chính trị.
Tuy nhiên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là vô giới hạn, vì quyền của
người này, cộng đồng này khi vượt qua giới hạn nào đó có thể vi phạm vào quyền chính
đáng của những người khác. Tự do theo nghĩa chân chính của nó là tự do của người này,
cộng đồng này không vi phạm đến tự do của người khác và cộng đồng khác. Điều 8 Pháp
lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo đã khẳng định:
Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa
bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến
tranh, tuyên truyền trái pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân,
chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các
hành vi vi phạm pháp luật khác [60, tr.3].
Chính vì những lý do trên nhà nước có trách nhiệm quản lý và điều chỉnh các hoạt
động của cá nhân và tổ chức tôn giáo sao cho những hoạt động ấy diễn ra trong khuôn
khổ của pháp luật, không ảnh hưởng đến xã hội.
Ba là, nguyên tắc về tính thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá trị văn
hóa
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bao giờ cũng thể hiện qua sinh hoạt vật chất của con
người. Tín ngưỡng, lòng tin tôn giáo được vật chất hóa trong đời sống xã hội thể hiện qua
kinh sách, luật lệ, lễ nghi… Các cơ sở thờ tự của tôn giáo thường là nơi thờ phụng của tín
đồ các tôn giáo, đồng thời cũng là nơi giữ gìn văn hóa vật thể và phi vật thể. Những công
trình kiến trúc, những tác phẩm hội họa, điêu khắc, những bản nhạc, bài ca, y phục đến
trang trí, bày biện… thực hiện các nghi thức tôn giáo đều thể hiện nét văn hóa đặc trưng
của từng tôn giáo cụ thể. Vì vậy, sự tồn tại của tôn giáo cũng có nghĩa là sự bảo lưu văn


hóa. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc không thể không quan tâm đến sinh

hoạt tín ngưỡng dân gian và tôn giáo truyền thống mà nhân dân ta lưu giữ qua nhiều đời
nay.
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị văn hóa đích thực không thiếu những hiện tượng
phản văn hóa có trong tôn giáo, những hủ tục cũ trỗi dậy, mê tín dị đoan gia tăng, thương
mại hóa trong tôn giáo phát triển… những hiện tượng ấy trà trộn, thẩm thấu vào sinh hoạt
tôn giáo làm vẩn đục bầu không khí sinh hoạt tôn giáo lành mạnh. Nhà nước quản lý hoạt
động tôn giáo làm sao vừa giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời loại bỏ dần
những hiện tượng phản văn hóa trong sinh hoạt tôn giáo.
Bốn là, nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất, hài hòa lợi ích cá nhân, cộng đồng và lợi
ích quốc gia, xã hội
Người có tín ngưỡng, tôn giáo và người không có tín ngưỡng, tôn giáo thường có
nhiều nhu cầu xuất hiện trong đời sống xã hội. Đối với tín đồ các tôn giáo, nhu cầu tâm
linh của họ được nhà nước coi trọng và tạo mọi điều kiện để họ đáp ứng nhu cầu ấy.
Nhưng ở vào một thời điểm nào đó đứng trước nhiều nhu cầu thì ở đây đòi hỏi tín đồ phải
giải quyết hài hòa, thỏa đáng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung của xã
hội. Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi phải giải quyết tốt các xung đột, mâu thuẫn xuất
hiện giữa các chủ thể nói trên.
Năm là, những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ phải
được đảm bảo. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc và của nhân dân được
khuyến khích. Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn cản
tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, làm phương hại đến
nền văn hóa lành mạnh của dân tộc và hoạt động mê tín dị đoan đều bị lên án và xử lý vi
phạm theo luật định.
1.1.3.3. Nội dung quản lý của nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
* Đặc điểm đối tượng quản lý:
Đối tượng quản lý về hoạt động tôn giáo gồm tín đồ, nhà tu hành, chức sắc và các tổ
chức tôn giáo. Là công dân Việt Nam, tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhà tu hành vừa mang



những đặc điểm chung của người Việt Nam, nhưng đồng thời cũng có những nét đặc
trưng riêng của người có đạo.
- Đặc điểm của tín đồ, chức sắc tôn giáo, nhà tu hành:
+ Đặc điểm của tín đồ:
Tín đồ là những người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận.
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo với số lượng tín đồ đông đảo, chiếm khoảng 20% dân
số cả nước, từ đặc điểm này cho thấy tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Quản lý nhà nước phải thể hiện sự tôn trọng và bảo đảm cho nhân dân thực
hiện nhu cầu đó.
Trong mỗi tín đồ đều có sự thống nhất (nhưng không đồng nhất) giữa mặt công dân
và mặt tín đồ. Là công dân, tín đồ có mọi quyền và nghĩa vụ như mọi công dân khác. Là
người có tín ngưỡng tôn giáo họ có niềm tin ở Chúa, tình cảm đời sống tâm linh ở nhiều
mức độ khác nhau và họ có quyền lợi do giáo hội qui định, họ phải hành đạo theo giáo
luật. Đây chính là đặc điểm quan trọng mà chủ thể quản lý nhà nước đối với tôn giáo cần
nắm vững.
ở nước ta đại đa số tín đồ các tôn giáo là nông dân và nhân dân lao động. Dù là tín
đồ của tôn giáo nào, bản chất của người nông dân vốn là những con người cần cù lao
động, có lòng yêu nước nồng nàn, căm thù giặc ngoại xâm và bọn bóc lột. Trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tín đồ các tôn giáo đã đóng góp đáng
kể cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng bào có đạo luôn gắn bó với cách
mạng. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, họ có nguyện vọng tha thiết là sống “tốt đời,
đẹp đạo”, cùng toàn dân đoàn kết trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu vì mục
tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Đây là đặc điểm rất tích cực trong đồng bào tín đồ. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước
đối với các hoạt động tôn giáo, phải phát huy được những điểm tích cực, khơi dậy những
truyền thống quí báu trong đồng bào, phải coi đây là một yếu tố quan trọng góp phần phát
huy nội lực để xây dựng đất nước.
Bên cạnh đại đa số đồng bào có tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc sâu sắc, một
số tín đồ do nhiều nguyên nhân khác nhau trong hoạt động tôn giáo còn chưa tuân thủ



pháp luật, bị các thế lực thù địch lợi dụng, nghe theo kẻ xấu tham gia vào các vụ gây rối
trật tự công cộng.
Từ đặc điểm này, trong công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo cần quan
tâm những vấn đề sau:
Một là, ở một quốc gia đa tôn giáo như nước ta thì các tín đồ tôn giáo phải luôn đặt
lợi ích dân tộc, quốc gia lên trên hết và phấn đấu vì mục tiêu chung là dân giầu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhà nước không phân biệt, đối xử về nghĩa
vụ và quyền lợi công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo, giải quyết hài hòa giữa mặt công
dân và mặt tín đồ.
Hai là, phát huy tính khoan dung, hòa đồng giữa các tôn giáo nhằm đoàn kết các tôn
giáo để đảm bảo ổn định chính trị-xã hội. Đồng thời chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần cho đồng bào có đạo, thực hiện có hiệu quả chính sách xóa đói giảm nghèo ở nông
thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đông đồng bào tín đồ tôn giáo đang gặp nhiều khó khăn
trong cuộc sống.
Ba là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng luôn đề cao cảnh giác
chống những âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.
+ Đặc điểm của nhà tu hành, chức sắc:
Nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo giáo
lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo.
Chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo.
Nhà tu hành, chức sắc trước hết là tín đồ thuộc một tổ chức tôn giáo nhất định bởi
vậy họ cũng có những đặc điểm chung của một tín đồ. Song khác với tín đồ, đội ngũ chức
sắc là những người được tổ chức tôn giáo lựa chọn, đào tạo cơ bản, do đó năng lực, trình
độ của họ khá cao và được tổ chức tôn giáo phong chức, phong phẩm, bầu cử và suy cử.
Họ đại diện ở những mức độ khác nhau cho các tổ chức tôn giáo, họ vừa chăn dắt tín đồ
vừa quản lý hành chính đạo theo thẩm quyền.
Trong quan hệ với tín đồ, họ là những người rất gần gũi với tín đồ, nắm bắt kịp thời
tâm tư, nguyện vọng của tín đồ, do đó họ có vị trí, vai trò ảnh hưởng rất sâu sắc trong tín
đồ.

×