Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

LUẬN VĂN:Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc (1941 - 1954) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.73 KB, 100 trang )











LUẬN VĂN:

Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc
(1941 - 1954)















Mở đầu





1. Lý do chọn đề tài
Từ thập kỷ sáu mươi đến nay, khối lượng lớn công trình nghiên cứu về Chủ tịch
Hồ Chí Minh lần lượt được công bố ngày càng nhiều. Tuy nhiên, việc tìm hiểu sự nghiệp
cách mạng, đặc biệt là tình cảm của Người với đồng bào Việt Bắc chưa thể xem là đã đầy
đủ. Bởi vì, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa
lớn, thì việc nghiên cứu, học tập công lao, sự nghiệp, tư tưởng của Người là việc làm
thường xuyên, liên tục của nhiều thế hệ.
Chiến khu Việt Bắc, cái nôi của cách mạng Việt Nam với những địa danh như:
Pác Bó, Tân Trào, Tỉn Keo, Quảng Nạp, Đèo Đe, Núi Hồng gắn liền với những năm
tháng sống, chiến đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đi vào những trang sử vẻ vang của
dân tộc. Việt Bắc, núi sông và con người, địa lợi và nhân hòa, đã tạo nên thế đứng ban
đầu cho công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước mà nòng cốt là phong trào cứu quốc
của đồng bào các dân tộc để tiến tới cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi trên
phạm vi toàn quốc. Trong cuộc kháng chiến 9 năm, chính nơi đây không chỉ là Tổng
hành dinh của Bộ chỉ huy tối cao, mà còn trở thành chiến lũy có "Rừng che bộ đội, rừng
vây quân thù" ngày càng vững chắc để tiến tới chiến thắng Điện Biên, chấn động địa cầu.
Đồng bào các dân tộc Việt Bắc giàu lòng yêu nước, giàu truyền thống cách
mạng, hăng say lao động sản xuất, có tinh thần chịu đựng gian khổ, giúp đỡ, chăm sóc
cán bộ hoạt động cách mạng như người thân trong gia đình, tin tưởng tuyệt đối vào sự
lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ. Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng
Việt Nam, dành tình cảm sâu sắc và tin tưởng tuyệt đối vào sự giúp đỡ che chở của các
dân tộc Việt Bắc. Người phát huy sức mạnh tổng hợp của "nhân hòa" Việt Bắc vào cuộc
Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược. Tìm
hiểu mối quan hệ giữa lãnh tụ Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc Việt Bắc trong cách
mạng và trong kháng chiến chống thực dân Pháp là một nhiệm vụ cần thiết không chỉ đắp
bồi lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn có ý nghĩa lâu dài trong
tương lai.

Là một giáo viên lịch sử, đang giảng dạy trên thủ phủ Việt Bắc năm xưa - tôi



thấy mình phải có trách nhiệm tìm hiểu và giáo dục cho thế hệ trẻ những di sản quý báu
của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc Việt Bắc, góp phần thiết thực vào sự
thành công cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" của
Trung ương Đảng phát động.
Xuất phát từ nhận thức đó, tôi chọn vấn đề Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc
(1941 - 1954) làm đề tài luận văn.
Về mặt khoa học, đề tài góp phần làm rõ một số vấn đề trong thời kỳ Hồ Chí
Minh sống tại Việt Bắc lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (1941 - 1945) và
lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954). Đề tài còn giúp hiểu rõ
hơn vai trò của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, mối quan hệ
gắn bó giữa Đảng và dân trong cách mạng giải phóng dân tộc.
Về ý nghĩa thực tiễn, đề tài góp phần đánh giá vai trò của lãnh tụ với quần chúng
nhân dân, vai trò của quần chúng nhân dân với lãnh tụ trong lịch sử, thấy rõ mối quan hệ
giữa Đảng và dân trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Qua đó rút ra được
những bài học về việc xác định đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân, sức mạnh của
nhân dân trong cách mạng; về mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và dân; về xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc; về việc gần dân, quan tâm tới dân, hiểu dân để có những quyết sách
đúng, đặc biệt là đối với đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi. Trong sự nghiệp đất
nước ta đang trên đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay, những bài học đó vẫn còn nguyên giá trị.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới đề tài, đã có không ít tác phẩm, hồi ức,
truyện ký, công trình nghiên cứu lịch sử đề cập với các góc độ khác nhau.
Trong tác phẩm: "Căn cứ địa Việt Bắc (1940-1945)" của TS. Hoàng Ngọc La -
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tác giả đề cập đến vị trí chiến lược,
truyền thống đấu tranh trong lịch sử, khẳng định vai trò căn cứ địa Việt Bắc trong lãnh

đạo giành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945.
Tác phẩm "Lịch sử ATK Định Hóa trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm



lược 1945-1954" của TS. Nguyễn Xuân Minh và Nguyễn Xuân Hùng - Huyện ủy Định
Hóa, xuất bản 1997, khắc họa vị trí, vai trò chiến lược của ATK Định Hóa trong sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc, đồng thời cũng nhắc đến ATK Định Hóa là nơi phát tích
chiến dịch Điện Biên Phủ
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, dành hẳn một chương: "Cuộc họp Tỉn Keo" trong cuốn
"Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử", nhà xuất bản Chính trị quốc gia (tái bản 1998) nêu
diễn biến Hội nghị của Bộ Chính trị do Hồ Chủ tịch chủ trì thông qua chủ trương, kế
hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953-1954 và quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ. Tác
giả tập trung trình bày quá trình tổ chức, chỉ huy chiến đấu và diễn biến dẫn tới thắng lợi
tại mặt trận Điện Biên Phủ.
Tác phẩm "Nhớ ơn Người" của Bế Minh Hà, Nxb Văn hóa dân tộc, 1990, tập hợp
những bài hồi kí của các đồng chí lãnh đạo, các chiến sĩ cách mạng là người dân tộc thiểu
số đã từng sống và làm việc với Bác. Ngoài ra, còn có bài viết của giáo sư tiến sĩ Nicôlai
Niculin (Liên Xô) người đã từng gặp gỡ tiếp xúc với Bác.
Tác phẩm "Hồ Chủ tịch với Việt Bắc", Nxb Dân tộc, 1960, gồm những bài hồi kí
của những người được sống gần Bác Hồ ở Việt Bắc giai đoạn 1941-1945.
Trong tác phẩm "Thơ ca cách mạng ở Việt Bắc (1936-1945)" của Triều Ân, Nxb
Văn hóa dân tộc, 1977, tập hợp 141 bài của 20 tác giả trong đó có thơ ca của Chủ tịch Hồ
Chí Minh.
Tác phẩm "Theo Bác đi chiến dịch" của Ngọc Châu và Hà Hữu Khiếu, Nxb Quân
đội nhân dân, 2000, đồng chí Ngọc Châu, người trực tiếp bảo vệ Bác Hồ ở chiến khu Việt
Bắc và Hà Nội đã viết lại những kỉ niệm của bản thân và đồng đội mỗi lần theo Bác đi
công tác, được Bác dạy bảo đã trở thành những kỉ niệm ghi nhớ suốt đời của các cán bộ
chiến sĩ trong đơn vị.
Tác phẩm "Chiến đấu trong vòng vây" của Võ Nguyên Giáp (Hữu Mai ghi), Nxb

Quân đội nhân dân, 1995, viết về vai trò lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
cách mạng giải phóng dân tộc (1945 - 1954).
Tác phẩm "Bác Hồ ở Việt Bắc", Nxb Việt Bắc, 1975, giới thiệu hoạt động của Bác ba



thời kỳ ở Việt Bắc: trước Cách mạng Tháng Tám; kháng chiến chống Pháp; thời kì hòa bình.
Cuốn sách tập hợp các hồi kí của nhân dân, cán bộ đã vinh dự được gặp, được làm việc và
được Người huấn luyện và đào tạo ở Việt Bắc.
Tác phẩm "Những ngày đầu" của Lê Dục Tôn, Nxb Việt Bắc, 1971, là hồi kí của
một chiến sĩ đã tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức và lãnh đạo cứu quốc quân,
xây dựng khu căn cứ Việt Bắc những ngày đầu cho đến Cách mạng Tháng Tám 1945.
Tác phẩm "Bác Hồ chăm sóc cán bộ" của Lâm Ngọc Thụ, Nxb Văn học, 1995,
nói về sự quan tâm săn sóc của Bác Hồ đối với cán bộ ngay từ những năm ở chiến khu
Việt Bắc.
Trong tác phẩm "Bác Hồ của chúng ta", tác giả Xuân Diệu đã viết về những kỉ
niệm của nhà thơ về những năm tháng bên Bác ở chiến khu Việt Bắc.
Trong bài "Mệnh lệnh gửi liên khu Việt Bắc chuyển các tỉnh trong liên khu" trong
cuốn "Bác Hồ với nhân dân các dân tộc Lạng Sơn", Nxb Văn hóa thông tin 1995 tr 38:
Bác viết mệnh lệnh gửi liên khu Việt Bắc ngày 6 tháng 8 năm 1950 yêu cầu các tỉnh
chỉnh đốn phát triển chiến tranh du kích ở các xã.
v.v
Ngoài các sách, còn có nhiều báo và tạp chí có bài viết về Bác Hồ trong thời gian
ở Việt Bắc:
Báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh chủ nhật, 7/10/2001 có bài: "Một đám cưới
ở ATK", tác giả Trường Phước kể lại kỉ niệm về đám cưới của ông Nguyễn Anh Tuấn,
hiệu phó, bí thư trường Đại học Tổng hợp Hà Nội tại ATK Việt Bắc năm 1947. Ông cũng
là người từng được gặp và làm việc với Bác Hồ tại ATK Việt Bắc.
Báo Lâm Đồng, 1998, có bài "Gặp lại người hai lần đưa đường cho Bác Hồ ở
Việt Bắc "Nhớ ông cụ mắt sáng ngời", tác giả Phan Bùi Minh Đạt kể lại kỉ niệm sâu sắc

của bác Đàm Riêu Toàn, người đã từng đóng vai con của "Già Thu", đưa đường cho Bác
Hồ đi công tác thời kỳ ở Việt Bắc.
Báo Bắc Ninh, 1998, có bài "Năm mươi năm trước: Tết chiến khu của chính phủ



kháng chiến" tác giả Lê Xuân Kỳ kể lại tết Mậu Tý 1948, Bác và Chính phủ kháng chiến
đã đón xuân ở An toàn khu Việt Bắc.
Báo Quân đội nhân dân cuối tuần, 21/12/1997 có bài "Chủ tịch Hồ Chí Minh với
việc xây dựng An toàn khu trung ương (ATK) và căn cứ địa Việt Bắc". Với tầm nhìn xa
trông rộng Bác đã chọn căn cứ địa Việt Bắc để xây dựng ATK được nhân dân địa phương
bảo vệ. Cán bộ ATK cũng hết lòng giúp đỡ địa phương xây dựng phong trào, chăm lo đời
sống nhân dân. Đó là chủ trương đúng đắn và sáng tạo của Bác.
Báo Hải Hưng, 8/8/1996, có bài "Bác Hồ với việc dự trữ muối trong kháng chiến
chống Pháp", tác giả Nguyễn Lương Bằng đã viết về việc trong kháng chiến chống Pháp,
Bác Hồ đã cho vận chuyển 2 vạn tấn muối lên Việt Bắc để chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến lâu dài của dân tộc.
Báo Giáo dục thời đại, 14/5/2000 có bài "Kể chuyện Bác Hồ ở chiến khu Việt
Bắc", tác giả Lê Anh đã kể lại những mẩu chuyện về Bác những năm 1947-1950 ở Việt
Bắc.
Báo Thái Nguyên 17/5/2002 tác giả Đồng Khắc Thọ viết về những kỉ niệm đời
thường của Bác Hồ thời kỳ Người ở ATK Việt Bắc - nơi thủ đô của cuộc kháng chiến
chống Pháp qua lời kể của họa sĩ Phan Kế An người đã từng được gặp, vẽ Bác Hồ thời kỳ
người ở ATK v.v
Tạp chí:
Tạp chí Xưa và Nay, 6/1999 có bài "Tôi vẽ chân dung Bác Hồ ở Việt Bắc", qua
hồi kí họa sĩ Phan Kế An mô tả hình ảnh Hồ Chí Minh bình dị nhưng vĩ đại.
Tạp chí Xây dựng Đảng, 6/1998 có bài "Xây dựng ATK theo chủ trương của
trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh (1946-1954)".
Tạp chí Thế giới mới, 2/2002 có bài "Những người giúp Bác ung dung yên

ngựa", đồng chí Vũ Kỳ kể lại việc Bác Hồ đặt tên cho những người trực tiếp giúp việc
mình như: Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi, Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Tạp chí Xưa và Nay, 5/2004 có bài của Triệu Hồng Thắng, nguyên khu ủy viên



khu Việt Bắc kể chuyện những lần được gặp Bác Hồ.
Tạp chí Lịch sử quân sự, 12/ 2006 số 180 tr 34-38 có bài "Căn cứ địa ATK Việt
Bắc "Một sáng tạo trong kháng chiến chống thực dân Pháp", tác giả Nguyễn Xuân Minh
hệ thống lại quá trình xây dựng căn cứ địa Việt Bắc - ATK, trong kháng chiến chống thực
dân Pháp.
v.v
Chuyên đề khoa học: "Tình cảm của Bác Hồ đối với đồng bào các dân tộc miền
núi trong thời gian Người ở Việt Bắc (1941 - 1945 và 1946 - 1954)" của Nguyễn Đình
Lễ; Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ở Việt Nam, Hội thảo
khoa học của ủy ban Dân tộc và miền núi, Nxb Chính trị quốc gia, 1996 - 2006 tr270 -
274. Tóm tắt: Gần một nửa thời gian sau 30 năm bôn ba hải ngoại đến khi qua đời, Bác
Hồ đã sống gắn bó với Việt Bắc. Bác yêu và gắn bó với Việt Bắc
Chiến dịch Điện Biên Phủ, trận quyết chiến chiến lược đem đến thắng lợi to lớn
của nhân dân Việt Nam, chấm dứt gần một thế kỷ đô hộ của thực dân Pháp ở Việt Nam.
Hơn 60 năm qua, Điện Biên Phủ thu hút không ít người trong cuộc chiến và những học
giả, nhà nghiên cứu, các tướng lĩnh của Nga, Trung Quốc, Cu Ba, Lào, Anh, Đức, Mỹ
tốn không ít giấy mực để lý giải: Tại sao quân đội viễn chinh Pháp thất bại trên chiến
trường Điện Biên Phủ?
Jules Roy, đại tá không quân cựu chiến binh người Pháp lên tận di tích chiến
trường Điện Biên Phủ, khảo sát thực địa, gặp gỡ phỏng vấn các nhân chứng và các cựu
chiến binh Việt Nam, cựu chiến binh người Pháp, đã cho ra mắt cuốn "Điện Biên Phủ
dưới con mắt người Pháp", Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, dịch và phát hành
năm 2004, đề cập đến quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ từ chiến khu Việt Bắc
mà không đi sâu tìm hiểu mối quan hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc

và đồng bào Việt Bắc với Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn từ 1941 đến 1954.
Với cách viết cô đọng, công phu, tác phẩm: "Hồ Chí Minh một chân dung" của
Lady Borton và Thomas (Nhà xuất bản Thanh niên dịch, ấn hành 2003), nêu: Từ chiến
khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh cùng Bộ Tham mưu đã quyết định số phận của tập đoàn cứ



điểm Điện Biên Phủ.
Mặc dù có khá nhiều bài viết như đã nêu, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một
công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống về vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh
với Đồng bào Việt Bắc giai đoạn từ 1941 đến 1954. Luận văn này tiếp thu có chọn lọc
thành quả của các tác giả đi trước, coi đó là nguồn tài liệu tham khảo quý giá giúp chúng
tôi nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Đề tài nhằm nghiên cứu tương đối có hệ thống và đầy đủ vấn đề Hồ Chí Minh
với đồng bào Việt Bắc trong giai đoạn 1941-1954.
- Làm rõ ý nghĩa của mối quan hệ "nhân hòa" giữa lãnh tụ Hồ Chí Minh với đồng
bào các dân tộc Việt Bắc trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
- Sưu tầm tư liệu, nghiên cứu vấn đề Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc, từ đó lý
giải mối quan hệ đó có tác dụng như thế nào, đưa tới thành công của Cách mạng Tháng Tám
và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Rút ra bài học đoàn kết, thực hiện chính sách dân tộc, xây dựng hậu phương
trong cách mạng.
- Đề tài góp phần cung cấp những tư liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học
tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử địa phương cùng với
những chuyên đề liên quan đến thời kỳ lịch sử này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là vấn đề Hồ Chí Minh với đồng bào Việt
Bắc trong thời kỳ cách mạng 1941 - 1954, rút ra một số đánh giá, nhận xét chung về mối
quan hệ giữa Đảng, Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Việt Bắc trong thời kỳ từ 1941 -



1954.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trong phạm vi không gian Việt
Bắc. Tìm hiểu về các mối quan hệ giữa Bác Hồ với đồng bào Việt Bắc trên nhiều lĩnh
vực trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 -
1954)
- Phạm vi thời gian: giới hạn từ 1941 (khi Bác Hồ về nước) đến 1954 (khi Bác
Hồ rời Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội).
5. Nguồn tư liệu, phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
- Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, 3, 4, 6, Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử tập 2, 3,
4, 5, các Văn kiện của Đảng, hồi kí của những cán bộ hoạt động cách mạng bên Bác Hồ
- Những bài viết, bài phát biểu của Bác Hồ, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước
và các đồng chí lão thành cách mạng trong những dịp về thăm và làm việc tại các địa
phương ở Việt Bắc.
- Lịch sử Đảng bộ các tỉnh, huyện trong chiến khu Việt Bắc và nhiều tài liệu
khác.
Những nguồn tư liệu trên được lưu trữ tại Thư viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, Thư
viện Quốc gia, Văn phòng Tỉnh ủy Thái Nguyên, Văn phòng Tỉnh ủy Tuyên Quang, Văn
phòng Tỉnh ủy Cao Bằng, Văn phòng Tỉnh ủy Bắc Kạn, Trung tâm Lưu trữ ủy ban nhân
dân tỉnh Thái Nguyên, Trung tâm lưu trữ ủy ban nhân dân Tỉnh Tuyên Quang, Trung tâm
lưu trữ ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn, Sở Văn hóa Thông tin Thái Nguyên, Phòng Lịch sử,
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái Nguyên, Ban quản lý di tích Hồ Chí Minh tỉnh Cao Bằng.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, để đảm bảo tính chính xác và làm cho nội dung phong

phú hơn, chúng tôi còn khai thác tư liệu từ các nhân chứng, từ điều tra thực địa.
Tuy nhiên, do điều kiện khí hậu, cùng với việc di rời của các cơ quan và công tác
lưu trữ, bảo quản chưa tốt, nên nhiều tư liệu của địa phương (nhất là những tư liệu viết



tay của những năm 80 trở về trước) đã bị thất lạc, rách nát. Đó là những khó khăn trong
quá trình sưu tầm và sử dụng tư liệu phục vụ đề tài này. Mặc dù vậy chúng tôi đã cố gắng
hết sức khai thác từ nhiều nguồn, tiến hành đối chiếu, so sánh, phân tích để có được
những sự kiện đáng tin cậy sử dụng trong luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích của đề tài nghiên cứu là Hồ Chí Minh với đồng bào Việt
Bắc (1941 - 1954), trên cơ sở nguồn tài liệu đã thu thập được, chúng tôi dựa trên quan
điểm phương pháp luận mácxít trong nghiên cứu lịch sử và sử dụng phương pháp lịch sử
kết hợp phương pháp lôgíc.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng
hợp và khảo sát điền dã, để chọn lọc, bổ sung tư liệu nhằm tăng sức thuyết phục cho
những vấn đề nghiên cứu.
7. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên trình bày một cách tương đối có hệ thống quan hệ
giữa Hồ Chí Minh với đồng bào Việt Bắc giai đoạn từ 1941 đến 1954.
- Luận văn góp phần làm rõ việc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
giai đoạn Người ở Việt Bắc là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Mảnh đất và con người Việt Bắc.
Chương 2: Bác Hồ với đồng bào Việt Bắc (1941 - 1954)
Chương 3: Giá trị lịch sử và bài học kinh nghiệm.













Chương 1
Mảnh đất và con người Việt Bắc

1.1. Mảnh đất Việt Bắc
1.1.1. Lịch sử hình thành
Việt Bắc, cái tên từ lâu đã trở thành thân quen với đồng bào cả nước và cũng
không xa lạ với nhiều người trên thế giới. Qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ
nước, dải đất này của Tổ quốc đã trở thành vị trí chiến lược quan trọng cả về quân sự và
chính trị, là nơi từng diễn ra những cuộc giao tranh quyết liệt của dân tộc ta chống quân
xâm lược phương Bắc. Đây từng là cái nôi của Cách mạng Tháng Tám và căn cứ địa của
Trung ương trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Vào thời kỳ đầu kháng chiến chống
Pháp, Việt Bắc gồm 17 tỉnh (Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang,
Hà Giang, Bắc Ninh, Bắc Giang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Sơn La, Lai
Châu, Quảng Yên, Hải Ninh, Lào Cai và Châu Mai Đà) và Đặc khu Hồng Gai. Phía Đông
giáp đường số 5; tây Nam trải dọc sông Hồng từ Gia Lâm - Trung Hà theo địa giới tỉnh
Sơn La tới giáp biên giới bắc Lào; phía bắc giáp Trung Quốc từ Móng Cái đến Lai Châu.
Diện tích rộng bằng năm phần sáu đất đai Bắc Bộ (gần 100.000 km
2

).
Ngày 28 tháng 11 năm 1946, Việt Bắc chia thành bốn chiến khu (1, 10, 12, 14).
Ngày 25 tháng 01 năm 1948, hợp thành hai liên khu (Liên khu 1 gồm Chiến khu 1 và 12,
Liên khu 10 có chiến khu 10 và 14). Đến tháng 11 năm 1949 thống nhất hai liên khu
thành Liên khu Việt Bắc. Tháng 7 năm 1952, lại tách một số tỉnh của Liên khu Việt Bắc
(Yên Bái, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La) thành lập khu Tây Bắc.
Ngày 3 tháng 6 năm 1957, Việt Bắc lại được chia thành ba quân khu: Quân khu
Việt Bắc, Quân khu Tây Bắc và Quân khu Đông Bắc.
Ngày 29 tháng 6 năm 1976, Quân khu Việt Bắc và quân khu Tây Bắc sáp nhập
thành quân khu 1.
Đến ngày 26 tháng 5 năm 1978, Quân khu 1 lại tách các tỉnh phía Tây Bắc thành



Quân khu 2.
Tháng 4 năm 1979, Nhà nước ta tách tỉnh Quảng Ninh thành đặc khu Quảng
Ninh thuộc Trung ương.
"Việt Bắc" trong luận văn này đề cập tới là " Khu giải phóng Việt Bắc" được
thành lập vào tháng 6/1945, gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Hà Giang, Tuyên Quang,
Thái Nguyên, Lạng Sơn.
Luận văn này nghiên cứu về: Hồ Chí Minh với đồng bào các dân tộc Việt Bắc
(1941 - 1954), vì vậy chỉ chủ yếu tập trung nghiên cứu về một số nơi mà Hồ Chí Minh ở
trong thời kỳ này đó là: Cao Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên, vì điều kiện thời gian có
hạn nên các nơi còn lại trong sáu tỉnh này chỉ điểm qua đôi nét.
1.1.2. Vị trí chiến lược
Diện tích tự nhiên Việt Bắc khoảng 50.000 km
2
, chiếm 15% diện tích tự nhiên cả
nước và bằng 32% diện tích tự nhiên miền bắc.
Địa hình Việt Bắc đa dạng, nối liền phía Nam Trung Quốc là các cao nguyên đá

vôi với những cảnh quan Các-xtơ, biểu hiện rõ nhất là các huyện phía Bắc và Đông Bắc
tỉnh Cao Bằng và Hà Giang, ở độ cao từ 200 mét đến 300 mét so với mặt biển.
Núi chiếm khoảng hai phần ba diện tích tự nhiên, ở độ cao từ 500 đến 600 mét
đến 1.200 mét núi đá xen lẫn núi trùng điệp, hiểm trở. Đó là các sơn khối Bắc Sơn với
dãy Cai - Kinh; cánh cung Ngân Sơn, cánh cung Sông Gâm với dãy Phja Daj (Pia-y-a)
Phja Bjóc (Pia-u-uắc) và ngọn Tam Tao
"Rừng vàng" cung cấp cho nhân dân nhiều nguồn lợi, từ vật liệu dựng nhà cửa
cho tới măng tươi, nấm hương, mộc nhĩ, củ mài, củ nâu, mật ong, dược liệu rừng còn
nhiều chim muông thú quý.
Địa hình Việt Bắc cao về phía Bắc nhưng lại thấp dần về phía Nam và Tây Nam.
Các huyện phía Nam của địa bàn Việt Bắc, thềm cổ được đồng bằng hóa trở thành vùng
bán sơn địa là cái gạch nối giữa núi và đồng bằng.
Việt Bắc là vùng núi nhưng cũng lắm sông suối, ao, hồ. Sông suối ở Việt Bắc có



ở khắp nơi.
Cao Bằng có sông Bằng Giang, sông Bác Vọng, sông Máng, có hồ Thanh Hen,
không những có nhiều cá tôm mà còn là những danh lam, thắng cảnh nổi tiếng.
Mặc dầu sông ở Cao Bằng nhỏ hẹp chảy xiết và nhiều thác ghềnh, lưu lượng
nước thấp về mùa khô, song vẫn có thể đi lại bằng thuyền mảng để chuyên chở lâm thổ
sản. Theo sông Máng thuyền nhỏ có thể đi từ mỏ sắt (Sóc Giang) đến Tà Lùng, sát biên
giới Việt -Trung.
Lạng Sơn có sông Kỳ Cùng, sông Rạng, sông Chung, sông Bắc Khê và sông Văn
Mịch từ Pát Xát (Quảng Ninh) qua thị xã Lạng Sơn sang Trung Quốc. Nhân dân ở vùng
biên giới hai nước thường dùng mảng để chuyên chở hàng hóa.
ở Hà Giang và Tuyên Quang, thuyền nhỏ đi từ Hà Giang theo sông Gâm về Tuyên
Quang, thuyền lớn trên sông Lô ra tới Việt Trì. Tàu nhỏ ngược dòng sông Lô lên tới
Tuyên Quang, thuyền lớn lên tới Bằng Mục Chiêm Hóa
ở Bắc Kạn và Thái Nguyên, ngoài sông Công (Thái Nguyên), có sông Cầu. Đó là

con sông lớn nhất của hai tỉnh. Sông Cầu bắt nguồn từ Chợ Đồn chảy qua Bắc Kạn về
Thái Nguyên. Bằng mảng và thuyền đồng bào chở ngô, khoai, sắn, nứa, mai, song, mây,
gỗ, củ nâu, và cả than và quặng sắt về xuôi. Ngược lại thuyền nhỏ trong mùa khô và
thuyền lớn trong mùa mưa có thể đi từ dưới xuôi, qua Đáp Cầu (Bắc Ninh), ngược dòng
sông Cầu thả neo tại bến Đồng Mỗ để đưa tôm, cá khô, mắm, muối, đồ gốm tới các
huyện, tỉnh miền núi phía Bắc. Chợ Đồng Mỗ, trung tâm của tỉnh lỵ Thái Nguyên xưa kia
trên bến dưới thuyền sầm uất. Bắc Kạn có hồ Ba Bể, một danh thắng nổi tiếng.
Hệ thống sông ngòi ngang dọc chia cắt địa hình Việt Bắc thành muôn hình muôn
vẻ, có núi hình con voi (núi Voi), có núi hình quạt (núi Quạt) Sự xâm thực của nước
mưa của dòng suối lộ thiên và của suối ngầm đã tạo ra nhiều hang động lớn ở núi đá vôi.
Khảo cổ học đã phát hiện nhiều hang động, mái đá ngườm ở Võ Nhai (Thái
Nguyên), Bắc Sơn, Bình Gia (Lạng Sơn) là những di chỉ văn hóa khảo cổ thuộc thời đại
đá cũ, hoặc đá giữa hay thời kỳ đá mới.



Quá trình kiến tạo địa chất và tác động của tự nhiên, sự bồi đắp của các con sông
đã tạo ra ở Việt Bắc những bồn địa khá màu mỡ. Ngoài các thung lũng lòng chảo, còn có
các sườn núi, lưng đồi, các soi bãi dọc ven sông, suối là những nơi có thể canh tác tốt cho
đồng bào.
Việt Bắc có những cánh đồng khá rộng có thể gọi là miền đồng bằng nhỏ, như
những cánh đồng Hòa An (Cao Bằng), Tràng Định (Lạng Sơn), Đại Từ, Phổ Yên, Phú
Bình (Thái Nguyên). Đó là những vùng đất đai màu mỡ.
ở Việt Bắc, nhiệt độ trung bình hàng năm đạt từ 21
0
C - 23
0
C, tổng nhiệt độ hoạt
động toàn năm khoảng 7500
0

C - 8000
0
C, tùy độ cao; lượng mưa khá dồi dào, nơi thấp
nhất như Lạng Sơn cũng đạt 1.400 mm/năm, nhiều nơi đạt trên 2000 mm/năm Do vậy,
có thể nói rằng đất đai, khí hậu Việt Bắc đã tạo nên sự phong phú, đa dạng về thực vật và
động vật; hình thành nhiều loại cây trồng, vật nuôi mang tính nhiệt đới và cả ôn đới.
Việt Bắc giàu đẹp lại án ngữ ở phía Bắc Việt Nam, tiếp giáp với đất nước Trung
Quốc bao la, trên một tuyến biên giới ngày nay dài 751 km đi qua 15 huyện 97 xã. Do
vậy ở thời đại nào, Việt Bắc cũng giữ một vị trí hết sức quan trọng.
Việt Bắc núi rừng hiểm trở, nhiều nơi xung yếu, biên ải xa xôi, nhưng nhờ hệ
thống giao thông đường bộ như những nhành cây trở về thân gốc, nên dù phải trèo đèo,
lặn suối, Việt Bắc đều có thể liên lạc được tương đối nhanh, thuận lợi với trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, xưa là Thăng Long nay là thủ đô Hà Nội.
Nổi lên trong quan hệ giao lưu xuôi ngược và sự bang giao trong khu vực là các
tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên.
Hệ thống giao thông thủy bộ trong nội địa và ra nước ngoài của Cao Bằng làm
cho tỉnh Cao Bằng có vị trí quan trọng, có tầm chiến lược ở Việt Bắc không chỉ trên lĩnh
vực kinh tế, xã hội mà trên cả các mặt quân sự, chính trị.
Với Lạng Sơn, hệ thống giao thông mở bốn phương trời làm cho Lạng Sơn có vị
trí quan trọng chiến lược về quân sự và sầm uất cả về kinh tế; là nơi hội tụ, giao lưu, tiếp
xúc xuôi ngược trong ngoài.



Thái Nguyên là cửa ngõ của Việt Bắc, là đầu mối giao thông, nổi lên là chất hội
tụ xuôi ngược, chất tiếp xúc miền xuôi lên, miền ngược xuống. Hội tụ và tiếp xúc là chất
đặc thù về kinh tế và xã hội ở Thái Nguyên. Đồng thời về mặt quân sự, Thái Nguyên còn
là bức phên giậu bảo vệ Thăng Long.
Trong sự khai sinh về mặt địa lý, lãnh thổ và xã hội Việt Bắc có vị trí hết sức
quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử.

1.2. Con người Việt Bắc
1.2.1. Truyền thống yêu nước và cách mạng
Nhân dân các dân tộc ở Việt Bắc đã trải qua các thời kỳ lịch sử đánh giặc giữ
nước. Nơi đây đã từng diễn ra những trận quyết chiến, chiến lược chống bọn bành trướng
phương Bắc từ thuở xa xưa. Nơi đây cũng ghi những sự tích anh hùng qua các thời kỳ
chống thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ xâm lược.
Từ thời các vua Hùng, nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã phải chống giặc phương
Bắc xâm lược. Truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương đánh đuổi giặc Ân qua đất Quế
Dương đến Đa Phúc. Mười năm kháng chiến chống quân Tần (thế kỷ III trước công
nguyên) hàng vạn quân giặc bị chặn đánh ngay từ biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn. Khi
Hai Bà Trưng khởi nghĩa, đã xuất hiện nhiều nữ tướng đánh giặc Hán trên đất Việt Bắc.
Năm 981 quân xâm lược nhà Tống đã bị quân và dân ta đánh cho đại bại ở Chi Lăng
(Lạng Sơn). Lần đầu tiên ải Chi Lăng trở thành mồ chôn quân xâm lược.
Năm 1052, giặc Tống tiến vào Cao Bằng đã bị quân sĩ của Nùng Chí Cao tiêu
diệt hàng ngàn tên, đánh đuổi ra khỏi biên giới. Năm 1072 nhà Tống lại chuẩn bị xâm
lược Đại Việt. Theo kế sách tiến công để tự vệ, năm 1075 Lý Thường Kiệt đã tổ chức tập
kích táo bạo vào căn cứ xuất phát tiến công của kẻ thù bằng hai đạo thủy, bộ. Quân bộ do
các tù trưởng của các dân tộc ít người như: Tôn Đản, Thân Cảnh Phúc chỉ huy, vượt
biên giới đánh thẳng vào sào huyệt địch trên đất Tống. Cuối năm 1076, khi quân Tống
xâm lược nước ta, các đạo quân miền núi lại được giao nhiệm vụ giữ các nơi xung yếu ở
Cao Bằng, Lạng Sơn đánh úp và quấy rối các toán quân giặc, tiêu diệt các đoàn tiếp tế
của chúng.



Mùa xuân 1077, nhà Lý thắng lớn trên phòng tuyến sông Như Nguyệt. Trong
trận quyết chiến chiến lược này có sự đóng góp tích cực của những đội thổ binh, hương
binh của các dân tộc miền núi và trung du.
Sang thế kỷ XIII vùng đất thiêng liêng này lại ghi tiếp những chiến công oanh liệt
của quân và dân đời Trần với ba lần đánh bại giặc Nguyên - Mông.

Nhiều sự kiện lịch sử quan trọng và chiến công oanh liệt đã gắn liền với các tên
người, tên đất của các địa phương Việt Bắc.
Thế kỷ thứ XV, đồng bào các dân tộc Việt Bắc lại cùng cả nước vùng lên lật đổ
ách thống trị nhà Minh. Vấp phải sự phản kháng quyết liệt ở Cao Bằng, tháng 8 năm
1407, đô đốc giặc là Cao Sĩ Văn khét tiếng dã man, tàn bạo cũng không áp đặt được
chính quyền đô hộ tại đây và đã bị giết trên núi Quảng Nguyên. Tháng 11 năm 1410,
nghĩa quân "áo đỏ"

(nghĩa quân ra trận thường hay mặc áo đỏ mà thành tên gọi) xuất hiện
ở Đại Từ (Thái Nguyên) đã liên tục tiến công giặc Minh buộc chúng phải điều quân từ
Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang đến ứng cứu. Nghĩa quân chiến đấu rất anh dũng,
linh hoạt và phát triển khắp vùng Việt Bắc lan rộng sang Tây Bắc và đến miền núi Thanh
Nghệ. Đây là phong trào đấu tranh rộng lớn và kéo dài của các dân tộc ít người, đã gây
cho địch nhiều tổn thất, khiến chúng không thể nào đặt vững được chính quyền đô hộ trên
vùng núi rừng bao la, hiểm trở của Việt Bắc.
Trong những năm 1812 - 1819, nhân dân Lạng Sơn có sự lãnh đạo của Hoàng
Thiên Hữu, Nguyễn Hách, Nông Văn Lịch đã chiến đấu liên tục giải phóng nhiều vùng. Khi
Lê Lợi dấy binh ở Lam Sơn thì Lưu Nhân Chú, Phạm Cuông (Thái Nguyên), Bế Khắc
Triệu (Cao Bằng) đã nổi lên hưởng ứng. Một số người sau này lập công lớn, trở thành danh
tướng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Năm cuối cùng của cuộc kháng chiến chống quân Minh, tổng binh Liễu Thăng
chỉ huy 10 vạn quân theo đường Lạng Sơn tiến vào nước ta hòng cứu nguy cho đồng bọn
đang bị vây khốn ở Đông Quan (Hà Nội). Khi đến chân núi Mã Yên Liễu Thăng cùng
toàn bộ một vạn quân tiên phong của địch bị tiêu diệt. Trong trận này đội dân binh Chi
Lăng đã lập công xuất sắc.



Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858), nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã
cùng cả nước không cam chịu làm nô lệ, bền bỉ liên tiếp vùng dậy đấu tranh giải phóng

quê hương, giành độc lập tự do. Khởi đầu là cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Cúc (Thái
Nguyên), kéo dài suốt 18 năm liền. Giặc Pháp đã nhiều lần tấn công lên Lạng Sơn nhưng
đều bị thất bại.
Trong các năm 1886 - 1888, Hoàng Đình Kinh lãnh đạo nhân dân Hòa Lạc (Hữu
Lũng) vũ trang khởi nghĩa, chiếm dãy núi đá phía nam Châu Ôn làm căn cứ. Sau này để
tỏ lòng ngưỡng mộ người khởi nghĩa, nhân dân gọi dãy núi đá Châu Ôn là dãy Cai Kinh.
Những năm 1886 - 1905, dưới sự điều khiển của các hào trưởng, các nhà yêu
nước tỉnh Cao Bằng nhân dân các dân tộc địa phương đã cầm vũ khí chống Pháp. Đó là
các cuộc khởi nghĩa của Triệu Phúc Sinh (1886), Lương Tuấn Tú (1887 - 1895) Pa Deng
(1889) là nữ thanh niên dân tộc H’Mông, Phà Nhi người dân tộc Dao.
Tại Bắc Kạn trong những năm 1886 - 1895, cuộc chiến đấu kiên cường, bất khuất
của nhân dân đã diễn ra sôi nổi, liên tục ở vùng Chợ Mới, lực lượng có tới 300 người.
Nhiều trận đánh đã diễn ra, tiêu biểu là trận phục kích ở làng Vạn Yên (tháng 10 năm
1886), trận phản công ở Chợ Mới. Nghĩa quân của Mã Sinh Long hoạt động ở phía Bắc
Chợ Mới và nam Giang Tiên đã chặn đường tiếp viện Sông Cầu - Chợ Mới, đồng bào
liên tiếp gây ra cho địch nhiều khó khăn khi chúng làm đường số 3 lên Bắc Kạn.
Phong trào đấu tranh của nông dân cũng tự phát bùng lên mạnh ở khắp nơi. Từ
những cuộc khởi nghĩa của Lãnh Giang, Hai Kế (1888), Cai Biểu (1890) ở trung du, đồng
bằng đến các đội nghĩa binh lớn của Đốc Tiều, Đốc Nghị, Tổng Bưởi (1889 - 1890), của
Lưu Kỳ (1892), Hoàng Thái Nhân (1893 - 1894) ở miền thượng du, đã từng làm chủ
nhiều vùng rộng lớn, gây cho địch nhiều tổn thất. Trong những năm 1892 - 1896 nông
dân các huyện Võ Nhai, Định Hóa, Phổ Yên, Đại Từ, Phú Bình đã tự vũ trang và nhất
loạt nổi dậy. Trong cả tám tổng 30 làng ở Võ Nhai, nhân dân vào rừng theo nghĩa quân
đánh giặc. Riêng nghĩa quân của Đề Nguyên đã đánh 16 trận ở Đại Từ, diệt nhiều tên
giặc. Phong trào đấu tranh sôi sục trong nhân dân đã thức tỉnh binh lính người Việt trong
hàng ngũ giặc làm binh biến.



Cuối năm 1892 binh lính đồn Hương Sơn (Đại Từ) đã quay súng chống lại giặc

Pháp. Phong trào nghĩa binh lan rất nhanh. Lực lượng có hàng trăm người, liên tục chiến
đấu cho đến năm 1896. Cuộc binh biến này lắng đi thì cuộc khởi nghĩa khác lại bùng lên
ngày càng dữ dội hơn.
Ngày 11 tháng 10 năm 1914, những người tù ở nhà giam Bắc Kạn do Lý Bảo
Long lãnh đạo đã cảm hóa một số lính khố xanh, phá nhà tù, mở kho lấy vũ khí, rồi nổ súng
vào nhà giám binh, dinh công sứ làm chủ thị xã suốt từ sáng đến chiều. Sau đó rút quân
về Na Rì xây dựng căn cứ, củng cố lực lượng.
Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 8 năm 1917, một cuộc binh biến của binh lính Thái
Nguyên đã nổ ra dưới sự chỉ huy của Trịnh Văn Cấn và Lương Ngọc Quyến. Những
người tù chính trị ở nhà giam thị xã phối với binh sĩ yêu nước được nhân dân địa phương
và công nhân các mỏ quanh thị xã ủng hộ và cùng hành động. Những người nổi dậy đã
phá nhà lao thả người tù, chiếm trại lính khố xanh, các công sở, tiến đánh Gia Sàng, chặn
viện từ Hà Nội lên, từ Yên Bái xuống, làm thương vong hơn 100 tên giặc. Nghĩa quân làm
chủ thị xã 6 ngày rồi rút về núi Tam Đảo xây dựng căn cứ.
Dưới ách thống trị của giặc Pháp gần một thế kỷ, nhân dân các dân tộc Việt Bắc
liên tiếp dấy lên tranh đấu, khi lẻ tẻ từng vùng, lúc đồng loạt khắp nơi, khi nông dân vùng
lên, lúc binh sĩ người Việt làm binh biến. Tuy chỉ mới có tinh thần yêu nước, chưa có
đường lối cách mạng chỉ đường, nhưng nhân dân các dân tộc Việt Bắc đã thể hiện sức
mạnh to lớn và truyền thống đấu tranh bất khuất của mình.
Chính truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường của nhân dân các dân tộc
Việt Bắc đã trở thành một trong những cơ sở chủ yếu thuận lợi cho sự tiếp thu chủ nghĩa
Mác Lênin và đường lối cách mạng của Đảng.
Những cuộc đấu tranh tự phát chống thực dân Pháp liên tiếp nổ ra khắp các tỉnh
trước đây, đến khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam dần dần chuyển sang tự
giác ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Năm 1927, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã bí mật tổ chức nhóm thanh niên cách
mạng ở Cao Bằng và Lạng Sơn để tuyển chọn thanh niên đưa ra nước ngoài học tập và




kết nạp vào Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Tháng 4 năm 1930, đồng chí Hoàng Đình Giong và một số đảng viên từ nước
ngoài về tổ chức chi bộ Đảng đầu tiên ở Cao Bằng.
Thời kỳ 1932 - 1935 mặc dù bị địch khủng bố nặng, phong trào của quần chúng
tạm thời lắng xuống, nhưng Việt Bắc vẫn giữ được khí thế cách mạng. Các cơ sở Đảng
vẫn tiếp tục được củng cố và phát triển ở những nơi có điều kiện, thêm nhiều chi bộ Đảng
được thành lập ở các phủ, huyện như Hòa An, Tĩnh Túc, Hà Quảng, Quảng Uyên, Thạch
An (Cao Bằng), Bắc Sơn (Lạng Sơn), Võ Nhai, Đại Từ, Định Hóa (Thái Nguyên).
Trong những năm 1936 - 1939, từ miền núi đến trung du làn sóng đấu tranh liên
tiếp dấy lên mạnh mẽ. 500 đồng bào các dân tộc Cao Bằng đòi quyền tự do dân chủ, cải
thiện đời sống. Nông dân Võ Nhai đấu tranh chống bắt phu, bắt lính với khí thế mạnh mẽ
buộc địch phải đổi tên tri châu đi nơi khác. Các làng Phú Thượng, Lâu Thượng (Thái
Nguyên) lấy chữ kí đòi thả tù chính trị, ủng hộ phong trào bình dân
Trong khi phong trào cách mạng Việt Nam đang phát triển thì 9/1939, chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Pháp đầu hàng phát xít Đức. ở Đông Dương, phát xít Nhật
lợi dụng cơ hội này, từ phía Nam Trung Quốc kéo vào Lạng Sơn, nổ súng đánh quân
Pháp (22/9/1940). Chỉ trong 48 giờ, các vị trí Pháp ở Na Sầm, Đồng Đăng, Điếm He, Lộc
Bình lần lượt bị Nhật tiêu diệt. Quân Nhật chiếm thị xã Lạng Sơn, quân Pháp tháo chạy
hoảng loạn. Dân tộc ta lại có thêm một kẻ thù mới là phát xít Nhật. Cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc lại thêm quyết liệt. Mặc dù thêm những khó khăn mới, phong trào cách
mạng vẫn tiếp tục phát triển, cuộc đấu tranh ở Việt Bắc càng thêm sôi sục với những
bước tiến mới. Tiêu biểu cho sự phát triển của phong trào cách mạng là cuộc khởi nghĩa
Bắc Sơn.
Bắc Sơn thuộc Châu Bắc Sơn là vùng núi phía Tây nam tỉnh Lạng Sơn, giáp châu
Võ Nhai (Thái Nguyên). Nhân dân Bắc Sơn gồm các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh vốn
có truyền thống đấu tranh cách mạng. Năm 1933, đồng chí Hoàng Văn Thụ đã đến xây
dựng cơ sở ở xã Vũ Lăng, rồi thành lập chi bộ Đảng (25/9/1936) lãnh đạo nhân dân




chống bọn hào lý bóc lột thành lập các tổ chức quần chúng cách mạng và các đội tự vệ
chiến đấu.
Mùa thu năm 1940, một bộ phận quân Pháp bị Nhật đánh theo hướng Bình Gia -
Bắc Sơn về Thái Nguyên, dọc đường vứt bỏ súng đạn, quân dụng, cải trang làm thường
dân, vào làng xin ăn. Nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của chi bộ địa phương đã kịp
xông ra tước vũ khí của tàn quân Pháp. Ngày 25/9/1940, một số cán bộ, đảng viên thoát
khỏi nhà tù Lạng Sơn, đã cùng chi bộ Bắc Sơn phát động quần chúng nổi dậy, lập ủy ban
khởi nghĩa, vận động các tổng đoàn, xã đoàn và binh lính người Việt trong quân đội Pháp
(vừa chạy về địa phương), theo cách mạng chống giặc cứu nước.
Ngày 27 tháng 9 năm 1940, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, ủy ban khởi nghĩa
huy động lực lượng tự vệ phục kích toán lính Pháp qua đèo Canh Tiến, rồi truy kích
chúng về đèo Dập Dị. 20 giờ, đội tự vệ cùng với trên 600 người thuộc các xã Tam Hoa,
Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Bắc Sơn, Ngũ Viễn vũ trang bằng gậy tre, giáo mác, súng kíp, súng
trường kéo về châu lỵ Bắc Sơn quân khởi nghĩa chia làm ba cánh cùng tiến đánh đồn
Mỏ Nhai. Tên tri châu Bắc Sơn ra lệnh cho lính nổ súng chống cự. Nhưng với khí thế tiến
công, quân khởi nghĩa xốc tới, vừa bắn vừa kêu gọi binh lính trong đồn đầu hàng. Tên tri
châu và cả trung đội lính đầy đủ súng hoảng sợ bỏ chạy. Bọn quan lại của nhiều địa
phương đang tụ tập ở đây cũng tán loạn chạy theo. Trong đó có tri châu Điềm He, Thất
Khê và tri phủ Tràng Định. Tên tri châu Thoát Lãng bị trừng trị tri châu Na Sầm bị dân
bắt. Quân khởi nghĩa chiếm đồn Mỏ Nhài, thu súng đạn. Nhân dân và tự vệ tiếp tục triệt
phá đồn Điềm He, Bình Gia.
Tin chiến thắng truyền tới đâu, hàng ngàn đồng bào nơi đó reo hò, đốt đuốc, cầm
dao, kiếm kéo về châu lỵ hỗ trợ tự vệ san bằng đồn bốt. Mờ sáng ngày 28/9 nhân dân các
xã lân cận và đồng bào châu lỵ cùng nghĩa quân mít tinh mừng thắng lợi. Sau đó đoàn
người tỏa ra khắp các ngả đường tiếp tục chặn đánh tàn quân Pháp, tước súng đạn của
chúng và trấn áp bọn cường hào phản động, phá rã chính quyền địch.
Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đang lan rộng thì giặc Nhật thỏa hiệp với thực dân
Pháp để cho Pháp rảnh tay đàn áp cách mạng Việt Nam. Quân Pháp đã tập trung lực




lượng tiến đánh Bắc Sơn, chiếm lại châu lỵ, đốt phá làng bản, bắt bớ, tàn sát nhân dân rất
dã man, hòng dập tắt cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn.
Trước hoàn cảnh gay go quyết liệt đó, Đảng bộ và nhân dân các huyện Đại Từ,
Phú Bình, Võ Nhai (Thái Nguyên), Đảng bộ các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang đã kịp thời
đẩy mạnh hoạt động ở địa phương để hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Tại các địa
phương trên ta đã mở rộng thêm cơ sở cách mạng, cử cán bộ, đảng viên lên Bắc Sơn
tham gia chiến đấu vận động nhân dân quyên góp vũ khí, áo quần, thuốc men, diêm,
muối và lương thực ủng hộ nghĩa quân; đồng thời thúc đẩy các phong trào địa phương
liên tục đấu tranh, chia sẻ lực lượng địch, làm suy yếu sức tiến công của chúng lên Bắc
Sơn. Ngoài những cuộc mít tinh, rải truyền đơn cổ vũ cuộc khởi nghĩa, nhiều nơi ở Việt
Bắc đã thành lập các đội tự vệ, mở rộng phong trào luyện tập quân sự, chuẩn bị hoạt động
khi có thời cơ.
Xứ ủy Bắc Kỳ cử đồng chí Trần Đăng Ninh lên Bắc Sơn lãnh đạo phong trào,
chống địch khủng bố, tập trung đảng viên và quần chúng tích cực lập đội du kích. Ngày
14 tháng 10 chiến khu Bắc Sơn được thành lập gồm các khu vực Nà Tấu, Sa Khao, Mỏ
Đát, Bản Me, Nam Nhi.
Ngày 16 tháng 10 năm 1940 đội du kích Bắc Sơn ra đời tại làng Đơn úy (xã Vũ
Lăng) gồm 20 người, trang bị súng trường, súng kíp, dao quắm, mã tấu
Có Đảng lãnh đạo, có chính quyền nhân dân, lại có lực lượng vũ trang cách
mạng, quần chúng càng phấn khởi, hăng hái tham gia đấu tranh chống giặc, khí thế cách
mạng càng dâng cao. Quân du kích tiến hành vũ trang tuyên truyền trong nhân dân và
liên tiếp trừng trị nhiều tên phản động đầu sỏ. Du kích Bắc Sơn tiến đánh Khuôn Bằng,
đồng thời tịch thu tài sản của bọn đế quốc, Việt gian chia cho dân.
Ngày 25 tháng 10, quân khởi nghĩa tiến công địch ở Vũ Lăng kêu gọi lính dõng
theo cách mạng. Trước khí thế mãnh liệt của quân khởi nghĩa, tên châu úy và 100 lính đã
tập trung chuẩn bị đi càn hoảng sợ bỏ chạy. Chính quyền địch ở các làng bản xung quanh
cũng tan rã theo. Lá cờ đỏ cách mạng tung bay một vùng, chỉ trong vài ngày, lực lượng
du kích đã có gần 200 người. Trên đà thắng lợi, quân du kích quyết định mở cuộc tấn




công đồn Mỏ Nhài (Châu lỵ Bắc Sơn) lần thứ hai.
Ngày 28 tháng 10, Đảng bộ Bắc Sơn tổ chức cuộc tuần hành thị uy lớn, có hàng
ngàn người của chín xã, giương cao cờ đỏ, vũ khí thô sơ, và hỗ trợ lực lượng vũ trang
giải phóng châu lỵ. Lợi dụng sơ hở của lực lượng cách mạng, bọn phản động đã dẫn quân
Pháp từ đồng Mỏ Nhai theo đường tắt "đánh úp" cuộc mít tinh. Các chiến sĩ du kích kịp
nổ súng chiến đấu bảo vệ nhân dân chạy thoát rồi phân tán về căn cứ.
Giặc Pháp củng cố xong các vị trí ở Bắc Sơn điên cuồng tiến hành khủng bố
nhân dân. Chúng tập trung quân đi đốt phá, bắt hàng trăm người đem về thị xã bắn giết
cắm cọc bêu đầu ở Bắc Sơn. Chúng dồn làng tập trung quân để kiểm soát phong trào
Bắc Sơn lại gặp khó khăn đội du kích chuyển sang hoạt động phân tán, bám dân, tổ chức
chống khủng bố.
Tháng 11/1940 Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 họp tại làng Đình Bảng
(Bắc Ninh) đã chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng chuẩn bị điều
kiện tiến tới khởi nghĩa. Hội nghị quyết định duy trì và bồi dưỡng lực lượng du kích Bắc
Sơn làm vốn quân sự đầu tiên cho khởi nghĩa vũ trang rộng lớn sau này và quyết định
chuyển hướng hoạt động của đội du kích Bắc Sơn từ quân sự sang chính trị, bí mật gây
cơ sở quần chúng thành lập căn cứ du kích lấy vùng Bắc Sơn -Võ Nhai làm trung tâm.
Một bộ phận du kích rút về Đình Cả, Tràng Xá (Thái Nguyên) hoạt động mở rộng căn cứ
địa.
Tiếng súng Bắc Sơn đã cổ vũ tinh thần cách mạng của nhân dân cả nước và cùng
với khởi nghĩa Nam Kỳ đã báo hiệu thời kỳ mới của cách mạng, thời kỳ khởi nghĩa giành
chính quyền.
Từ khởi nghĩa Bắc Sơn ra đời đội du kích Bắc Sơn là lực lượng vũ trang do
Đảng ta tổ chức và lãnh đạo, sau này phát triển thành ba trung đội Việt Nam cứu quốc
quân. Đội du kích Bắc Sơn cũng là lực lượng vũ trang tập trung đầu tiên của Việt Bắc.
Đồng bào các dân tộc Việt Bắc từ xa xưa đã có truyền thống yêu nước, sẵn sàng
vùng lên đánh giặc khi bản làng, đất nước bị xâm lăng. Tinh thần đoàn kết, yêu nước của

đồng bào được phát huy hơn bao giờ hết khi có Đảng lãnh đạo. Đặc biệt là từ khi Bác Hồ



về nước, ánh sáng của Đảng như lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc dẫn dắt đồng bào làm
cách mạng để tự giải phóng quê hương, đất nước mình.
"Cao Bằng ngày xưa buồn lắm thôi
Bóng núi rừng âm thầm đen tối
Làng bản ta quanh năm nghèo đói
Đời sao nghe lắm tiếng thở dài
Bỗng giữa mùa đông, núi rừng náo nức
" Ông cụ về !" tiếng suối ngân nga
Ông cụ về cùng đất mẹ quê cha
Sau những năm chân trời góc biển
Ôi quê hương ruột già yêu mến !
Người ôm hôn mảnh đất xót xa
Mảnh đất đau thương máu lệ chan hòa
Từ đó nhân dân mím chặt môi
Gạt nước mắt cùng toàn dân đứng dậy
Như giữa mùa nước nguồn tuôn chảy
Như lửa rừng bốc cháy đồi gianh
Có gì ngăn được làn sóng đấu tranh
Đã đến lúc phải thay trời đổi đất " [19, tr. 28].
Ngày 28 tháng 1 năm 1941, sau 30 năm bôn ba ở nước ngoài, Bác Hồ đã về Tổ
quốc. Pác Bó - Cao Bằng là mảnh đất được Người đặt chân đầu tiên. Người đã gắn bó với
mảnh đất Việt Bắc, với đồng bào các dân tộc Việt Bắc trong suốt thời gian dài, từ 1941
đến 1945, 1946 đến 1954. Tại căn cứ địa Việt Bắc, Bác Hồ và Trung ương Đảng ta đã
lãnh đạo cả dân tộc ta làm Cách mạng Tháng Tám thành công và Kháng chiến chống




Pháp thắng lợi. Có Bác Hồ chỉ bảo, cuộc sống của đồng bào Việt Bắc được thay đổi, no
ấm, hạnh phúc. Đồng bào ơn Đảng, ơn Bác muôn đời.
1.2.2. Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội
ở Việt Bắc có 19 dân tộc anh em, sống xen kẽ nhau. Người Kinh chiếm 65% dân
số, rồi đến dân tộc Tày, Nùng, H’Mông, Dao Các dân tộc cư trú thành từng vùng.
Người Tày, Nùng sống tập trung ở các tỉnh biên giới và một phần ở Bắc Thái. Nhiều gia
đình người Nùng có quan hệ huyết thống, thân tộc với người Trung Quốc ở sát biên giới.
Các dân tộc H’Mông, Dao phần lớn sống trên núi cao hoặc lưng chừng núi. Người
Kinh sống đông đúc ở trung du và đồng bằng, nhất là các khu công nghiệp, thị trấn, thị
xã, thành phố.
Các dân tộc sống gần gũi nhau, thông hiểu phong tục tập quán và hoàn cảnh sinh
hoạt của nhau. Từ thực tế cuộc sống hàng ngàn năm phải dựa vào nhau nên các dân tộc
sớm có truyền thống đoàn kết trong lao động sản xuất, trong đấu tranh với thiên nhiên với
xã hội bất công, chống phỉ, chống ngoại xâm để bảo vệ cuộc sống hạnh phúc chung.
Các dân tộc miền núi tính tình chất phác, thủy chung tin yêu, thẳng thắn, căm
ghét sự lừa dối, rất ưu thích không khí vui vẻ hồn nhiên, hoạt động tập thể, nhất là giới
nữ.
1.2.2.1. Kinh tế
Trước Cách mạng Tháng Tám, các dân tộc còn ở những trình độ phát triển khác
nhau, trong đó có thể chia làm hai hình thái kinh tế.
- Kinh tế khai thác thể hiện ở các hình thức như săn bắt hái lượm, con người sống
chủ yếu dựa vào những nguồn thức ăn sẵn có của tự nhiên.
- Kinh tế sản xuất:
Sản xuất nương rẫy; phương thức canh tác là "ngày cây ăn ngọn", nghĩa là phát
rừng, phòng lửa đốt dọn sạch, lợi dụng màu đất và phần tro cây cỏ để gieo trồng, công cụ
tiêu biểu cho phương thức trồng trọt này là con dao phát và chiếc gậy nhọn để chọc lỗ bỏ
hạt. ở một số nơi cách làm nương của đồng bào Mông trên núi có tiến bộ, đồng bào biết

×