Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Hồ chí minh với cuộc vận động nông dân từ năm 1930 đến năm 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.06 KB, 21 trang )


1
Hồ Chí Minh với cuộc vận động nông dân
từ năm 1930 đến năm 1954

Nguyễn Thị Kim Dung

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn; Khoa Lịch sử
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học; Mã số: 60 31 27
Người hướng dẫn: PGS.TS.Vũ Quang Hiển
Năm bảo vệ: 2011

Abstract. Tìm hiểu vị trí, vai trò của nông dân Việt Nam thời thuộc địa. Nghiên cứu
tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân và cuộc vân động nông dân từ năm 1930 đến năm
1954. Đánh giá hiệu quả cuộc vân động nông dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh từ năm
1930 đến năm 1954. Đưa ra phương hướng và biện pháp vận dộng nông dân trong bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Keywords. Tư tưởng Hồ Chí Minh; Vận động nông dân; Giai đoạn 1930-1954

Content.
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước nông nghiệp, đại bộ phận dân cư là nông dân. Có thể nói,
lịch sử phát triển của đất nước là lịch sử của phát triển văn minh nông nghiệp, trong đó
nông dân là chủ thể làm nên những trang lịch sử hào hùng suốt hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc.
Dưới chế độ phong kiến, nông dân là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược, lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội Việt Nam thuộc
địa là nông dân và công nhân, nhưng đông đảo nhất vẫn là nông dân. Đế quốc và


phong kiến thống trị, bóc lột nhân dân ta thì chủ yếu là thống trị và bóc lột nông dân.
Vì thế mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa thế lực đế quốc và
phong kiến với cả dân tộc Việt Nam mà đông đảo là nông dân. Giải phóng dân tộc là
giải phóng đông đảo nông dân. Vậy nên, giai cấp nông dân là lực lượng có vai trò quan
trọng của cách mạng Việt Nam.
Xuất phát từ đặc điểm nông dân Việt Nam, Hồ Chí Minh rất quan tâm giáo dục
nông dân, lãnh đạo họ đi theo cách mạng, từng bước đem lại lợi ích thiết thân cho

2
nông dân, xây dựng, củng cố khối liên minh công nông thành đạo quân chủ lực của
cách mạng. Trong các giai đoạn cách mạng, nông dân luôn là lực lượng hùng hậu nhất
đi theo Ðảng, đóng góp vô cùng to lớn về tinh thần và sức lực, tính mạng và của cải,
vượt qua muôn vàn hy sinh, gian khổ, góp phần làm nên những trang sử vẻ vang của
dân tộc.
Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều khẳng định tầm vóc chiến lược
của vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Văn kiện các Ðại hội Ðảng thời kỳ đổi mới và nhiều chỉ thị, nghị quyết, hội
nghị Trung ương đều thể hiện rõ chủ trương chiến lược nhất quán đối với nông nghiệp,
nông dân, nông thôn. Đảng từng bước xác định ý nghĩa và tầm quan trọng của việc phát
triển toàn diện kinh tế nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, tiến đến khẳng định
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đưa nông nghiệp và
kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trong trước mắt và
lâu dài.
Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân và vận động nông
dân trong kháng chiến là hết sức cần thiết, nó góp phần không nhỏ vào việc phát huy
hơn nữa vai trò của nông dân trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ đất nước.
Vì những lý do trên tôi chọn vấn đề: “Hồ Chí Minh với cuộc vận động nông
dân từ năm 1930 đến năm 1954” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân và vận động nông dân đã có
nhiều công trình nghiên cứu như:
*Về vấn đề nông dân, có một số công trình đáng chú ý sau:
- Nguyễn Văn Hiệp (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân và sự
vận dụng của Đảng trong sự nghiệp đổi mới (1981-1991), Luận văn thạc sĩ khoa học
lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đoàn Thế Hanh (1996), Một số vấn đề nông dân qua báo chí tiếng Việt trong
những năm 1936-1939 : Luận án PTS KH lịch sử.
- Vũ Ngọc Kỳ (2005), Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, hội
nông dân ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp.
- Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại (1990.) Nxb Khoa học xã hội.

3
- Nguyễn Khánh Bật (chủ biên) (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông
dân, Nxb Nông nghiệp Hà Nội.
- Hội Nông dân Việt Nam(2000), Bác Hồ với nông dân, nông dân với bác Hồ.
Nxb Chính trị Quốc gia.
- Hội Nông dân Việt Nam (2008), Hồ Chí Minh với giai cấp nông dân, NXB
Lao động - Xã hội
*Về vận động nông dân, có một số công trình đáng chú ý sau:
- Mai Phương Thảo, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông vận với công tác vận động
nông dân ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học. ĐH KHXHNV, HN.
- Ban Dân vận Trung ương (1995), Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, HN.
- Ban dân vận Trung ương (2005), Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công
tác dân vận trong thời kỳ mới, Nxb Chính trị quốc gia, HN
- Lê Kim Việt, Công tác vân động nông dân của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước : LA TS KH Lịch sử.
- Một số vấn đề về công tác vận động nông dân ở nước ta hiện nay (2000), Nxb
Chính trị Quốc gia.

* Ngoài ra còn một số tác phẩm liên quan đến vấn đề nông dân như:
- Lê Duẩn (1965), Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân trong cách mạng Việt
Nam, NXb Sự thật.
Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các công trình trên đã nêu lên được quan
điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, vị trí của giai cấp nông dân, làm sáng tỏ tư tưởng Hồ
Chí Minh về nông dân, trong đó có công tác vận động nông dân; nghiên cứu thực trạng
nông dân, cũng như công tác vận động nông dân trong giai đoạn hiện nay; làm rõ
những ưu điểm, khuyết điểm của các chủ trương chính sách vận động nông dân trong
giai đoạn hiện nay.
Các tài liệu trên là nguồn tài liệu quý hỗ trợ tác giả cũng như các nhà khoa học
nghiên cứu sâu và toàn diện hơn về đề tài.
Tuy nhiên, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vận động nông dân cũng như
thực tiễn vận động nông dân từ năm 1930 đến năm 1954 chưa được nghiên cứu một
cách chuyên biệt, có hệ thống nhằm rút ra những kinh nghiệm quý báu cho công tác
vận động nông dân ở nước ta hiện nay.

4
Vì vậy tác giả chọn đề tài: “Hồ Chí Minh với cuộc vận động nông dân từ năm
1930 đến năm 1954” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
- Làm sáng tỏ hơn nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân, vận động
nông dân và cuộc vận động nông dân theo quan điểm của Người qua các thời kỳ cách
mạng từ năm 1930 đến năm 1954.
- Làm rõ thêm giá trị khoa học và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về nông
dân và vận động nông dân.
- Khẳng định phương hướng và biện pháp vận động nông dân trong bối cảnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Tìm hiểu vị trí, vai trò của nông dân Việt Nam thời thuộc địa

- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân và cuộc vận động nông dân từ
năm 1930 đến năm 1954.
- Đánh giá hiệu quả cuộc vận động nông dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh từ
năm 1930 đến năm 1954.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân và vận động nông
dân trong cách mạng và kháng chiến (1930 - 1954).
- Hiệu quả cuộc vận động nông dân trong các thời kỳ 1930 - 1945 và 1945 -
1954.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian nghiên cứu: từ 1930 đến năm 1954 là thời kỳ cả nước thực hiện
một chiến lược cách mạng chống đế quốc và tay sai, giành và giữ độc lập dân tộc.
- Hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu cuộc vận động nông dân phục vụ sự nghiệp giải
phóng dân tộc 1930 - 1945 và kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954.
5. Cơ sở và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
- Tác giả dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng
sản Việt Nam về nông dân và vận động nông dân để nghiên cứ nội dung của đề tài.

5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp luận Hồ Chí Minh, trong đó đáng chú ý là quan điểm
thực tiễn và sự thống nhất lý luận với thực tiễn.
- Sử dụng các phương pháp: lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh, đối
chiếu…. để giải quyết các nội dung liên quan đến đề tài.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn trình bày khách quan, khoa học nhận thức của Hồ Chí Minh về nông
dân, đặc biệt là nông dân Việt Nam dưới thời thuộc địa.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vận động nông dân, biện pháp vận động nông dân

từ năm 1930 đến năm 1954.
Qua đó khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân và vận động
nông dân, góp phần tiếp tục vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần nghiên cứu di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân và
vận động nông dân.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong việc vận động nông dân, phát
huy vai trò của nông dân trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương 8 tiết.

CHƢƠNG 1

HỒ CHÍ MINH VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN
TRONG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC (1930 -1945)

1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và đặc điểm của giai cấp nông
dân Việt Nam
Sinh ra và lớn lên giữa một vùng nông thôn nghèo, thương dân Hồ Chí Minh
sớm hiểu được nỗi thống khổ của người dân, nhất là nông dân, đồng thời cũng thấy
được sức mạnh lớn lao của họ.

6
Trên đường đi tìm chân lý cách mạng cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách áp bức
bóc lột của đế quốc Pháp và phong kiến, tại Pháp, Hồ Chí Minh đã gặp Luận cương về
vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Qua Luận cương này, Hồ Chí Minh thấy rõ vấn
đề dân tộc ở thuộc địa thực chất là vấn đề nông dân, giải phóng dân tộc chủ yếu là giải
phóng nông dân khỏi ách áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của nông dân Việt Nam được thể

hiện như sau:
- Nông dân là nền tảng của vấn đề dân tộc
- Giai cấp nông dân Việt Nam có ý thức cộng đồng sâu sắc và tinh thần yêu
nước nồng nàn, là đội quân chủ lực của cách mạng
- Giai cấp nông dân Việt Nam gắn bó chặt chẽ với giai cấp công nhân, là
đồng minh của giai cấp công nhân.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vận động nông dân trong cách mạng
giải phóng dân tộc
Để huy động được đông đảo nông dân tham gia vào cách mạng giải phóng dân
tộc cần phải tuyên truyền vận động nông dân, làm cho họ hiểu được mục tiêu của cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, đưa họ vào một tổ chức để giác ngộ, khơi gợi tinh thần
yêu nước từ phía họ.
Hồ Chí Minh cho rằng “vận động nông dân, là phải vận thế nào cho toàn thể
nông dân động nghĩa là làm cho nông dân hiểu rõ quyền lợi của dân tộc và của giới mình,
làm cho nông dân vào Hội nông dân cứu quốc cho đông để phấn đấu cho mục đích của
mình và tham gia công cuộc kháng chiến kiến quốc”
1.3. Vận động nông dân tham gia cách mạng giải phóng dân tộc (1930 -1945)
1.3.1.Vận động nông dân tham gia phong trào cách mạng 1930 – 1931
Nét nổi bật của Việt Nam đầu những năm 1930 là ảnh hưởng nặng nề của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới tới đời sống kinh tế xã hội. Đời sống của người nông dân
vô cùng cực và khốn đốn. Đó là những nguyên nhân trực tiếp là bùng nổ phong trào
cách mạng 1930 - 1931.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Hồ Chí Minh, phong trào đấu tranh của công
nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động bùng lên mạnh mẽ. Cao trào cách
mạng diễn ra trên 25 tỉnh thành khắp cả nước và đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ Tĩnh.

7
Phong trào đấu tranh của quần chúng công nông, đặc biệt là việc thành lập các
Xô Viết tại Nghệ An - Hà Tĩnh được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm theo dõi. Tuy ở
xa Tổ quốc, nhưng Người tìm mọi cách liên lạc với Ban Lãnh đạo của Đảng ở trong

nước, thường xuyên chỉ dẫn cho Trung ương về kế hoạch chống khủng bố, bảo vệ dân,
bảo vệ tổ chức đảng, đồng thời liên tiếp gửi các báo cáo khẩn thiết đề nghị Quốc tế
Cộng sản, các Đảng Cộng sản hãy quan tâm hơn nữa đến phong trào cách mạng Đông
Dương, kịp thời viết thư động viên phong trào, góp ý kiến và trao đổi kinh nghiệm đấu
tranh, giúp đỡ về tinh thần và vật chất. Người yêu cầu Quốc tế Cộng sản ra lời hiệu
triệu các Đảng Cộng sản, trước hết là Đảng Cộng sản Pháp mở một chiến dịch chống
khủng bố trắng ở Đông Dương.
Ngày 29-9-1930, Hồ Chí Minh gửi thư cho Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản
báo cáo về phong trào ở Nghệ Tĩnh.
Ngày 5-11-1930, trong thư gửi Quốc tế Nông dân, Hồ Chí Minh báo cáo cụ thể
về phong trào nông dân ở Đông Dương và Xô Viết Nghệ Tĩnh. Người tố cáo chính
quyền thực dân và theo dõi sát sao những nông dân bị khủng bố giết hại, và kêu gọi
giai cấp vô sản thế giới, đặc biệt là giai cấp vô sản Pháp ủng hộ và giúp đỡ. Người
đánh giá cao ý chí quật cường của nhân dân Nghệ Tĩnh và tìm mọi cách chỉ đạo, uốn
nắn, giúp đỡ phong trào.Những ý kiến chỉ đạo của Người đã hạn chế tổn thất, phát huy
thắng lợi, giữ vững khí thế đấu tranh của quần chúng nhân dân, đồng thời rút được
kinh nghiệm cho các phong trào cách mạng sau này.
1.3.2.Vận động nông dân tham gia cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939
Trước nguy cơ chiến tranh phát xít, ngày 25-7-1935, Đại hội lần thứ VII của
Quốc tế Cộng sản họp tại Mátxcơva, vạch rõ kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân
thế giới là chủ nghĩa phát xít và đề ra nhiệm vụ cho giai cấp vô sản thế giới: phải đấu
tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ và hòa bình.
Nguyễn Ái Quốc vô cùng phấn khởi vì đã thấy trong nghị quyết nhiều quan
điểm phù hợp với những suy nghĩ, tìm tòi của mình về đường lối chiến lược, sách lược
của cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, đặc biệt là vấn đề phải hình
thành cho được một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi chống đế quốc, đòi dân chủ,
cơm áo và hoà bình.
Dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc tháng 7-1936, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp Hội nghị lần thứ hai tại Thượng Hải (Trung


8
Quốc), xác định yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân Đông Dương là tự do, dân chủ,
cải thiện đời sống. Đảng phải nắm lấy những yêu cầu đó để phát động quần chúng đấu
tranh, tạo tiền đề đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn sau này.
Phong trào Đại hội Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng hoàn toàn phù hợp
với nguyện vọng tự do dân chủ của nông dân và được nông dân hưởng ứng sôi nổi. Ở
nông thôn, các hình thức tổ chức của nông dân rất đa dạng: hội cấy, hội gặt, hội hiếu
hỉ, hội góp họ, phường đi săn, hội chèo, nhóm học chữ quốc ngữ… Những hình thức
này đã thu hút đông đảo nông dân lao động đoàn kết trong một tổ chức, cùng đấu tranh
giành quyền lợi của giai cấp mình.
Như vậy, phong trào đấu tranh của nông dân trong những năm đầu vận động
dân chủ đã tạo nên sức mạnh đánh thẳng vào quyền lợi kinh tế của kẻ thù buộc chúng
phải lùi bước, làm cho nông dân và nhân dân lao động gắn bó, tin tưởng vào Đảng và
chủ tịch Hồ Chí Minh.
1.3.3.Vận động nông dân tham gia cao trào cách mạng 1939 - 1945
Bước vào cuộc vận động tiến tới giành chính quyền đầy khó khăn, thử thách, vai
trò quan trọng và sự hy sinh to lớn của giai cấp nông dân ngày càng thêm nổi bật.
Hội nghị tháng 11-1939 và hội nghị lần thứ VII Ban Chấp Hành Trung ương
Đảng 6-11-1940 đánh dấu sự thay đổi chiến lược và phương pháp cách mạng, mở đầu
cho thời kỳ vận động cách mạng mới.
Đầu năm 1941, Nguyễn Ái Quốc trở về nước sau 30 năm hoạt động ở nước
ngoài. Người đã triệu tập hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương họp tại Pắc Pó, Cao Bằng (5-1941) xác định “cần phải thay đổi chiến
lược”, tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, đặt nhiệm vụ
giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Thực hiện chủ trương của Đảng, nông dân các huyện trong cả nước đã tiến hành
phá kho thóc chia cho dân bị đói. “Phá kho thóc giải quyết nạn đói” là khẩu hiệu đấu
tranh kinh tế và đấu tranh chính trị, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân
dân đứng lên giành chính quyền về tay nhân dân.
Qua đó, chứng tỏ Đảng và Hồ Chí Minh không những nắm vững nghệ thuật chỉ

đạo cách mạng, biết gắn khẩu hiệu hành động trước mắt với mục tiêu cơ bản của cách
mạng, nhờ đó đã động viên hàng triệu quần chúng nhất là nông dân lên trận tuyến đấu
tranh để giành chính quyền.

9
Tháng 8-1945, Nguyễn Ái Quốc Gửi thư kêu gọi đồng bào: “Giờ quyết định
cho vận mệnh của dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà
giải phóng cho ta” [32, tr. 554].
Đáp ứng lời kêu gọi thiêng liêng đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng với khát vọng
độc lập tự do, nhân dân giành lấy chính quyền.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945 đặt dấu chấm hết chế độ phát xít bù
nhìn, đồng thời tạo điều kiện chuẩn bị bảo vệ thành quả cách mạng trước âm mưu và
hành động xâm lược của thực dân Pháp và các thế lực đế quốc khác.
Ngày 2-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại
quảng trường Ba Đình, khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định
trước thế giới: Nước Việt Nam đã trở thành một nước tự do, độc lập. Nước Việt Nam
có quyền được hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả
tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền độc lập và tự do ấy.

CHƢƠNG 2

HỒ CHÍ MINH VỚI CUỘC VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954)

2.1. Nhiệm vụ, vai trò của giai cấp nông dân và quan điểm của Hồ Chí Minh về
vận động nông dân trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
2.1.1. Hoàn cảnh Việt Nam sau khi giành độc lập và nhiệm vụ, vai trò của giai cấp
nông dân
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại

của lịch sử dân tộc Việt Nam. Giai cấp nông dân từ kiếp nô lệ bước lên địa vị người
làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Tuy nhiên, cũng như nhân dân cả
nước, giai cấp nông dân Việt Nam sau ngày đất nước độc lập, đứng trước những khó
khăn rất lớn.
Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã để lại hậu quả nặng nề, sản xuất nông
nghiệp lạc hậu, đất bị bỏ hoang, nạn đói hoành hành. Nền tài chính kháng kiệt…Về
mặt xã hội, các di hại của nền văn hóa nô dịch rất nặng nề, hơn 90% dân số, mà đại đa

10
số là nông dân mù chữ, tạo nên một mặt bằng dân trí thấp để cho những tệ nạn xã hội
có điều kiện thâm nhập vào đời sống nhân dân. Nạn cờ bạc, nghiện hút, mại dâm, mê
tín dị đoan…có ở nhiều nơi từ nông thôn đến thành phố.
Cùng với những khó khăn chồng chất về kinh tế, xã hội và đời sống, nông dân
Việt Nam còn đứng trước những khó khăn to lớn về chính trị, quân sự, đó là nguy cơ
bị chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên ngoài nô dịch.
2.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vận động nông dân trong kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945 - 1954)
Hồ Chí Minh cho rằng nhiệm vụ trước mắt là “Loài người ai cũng dĩ thực vi
tiên” (nghĩa là trước cần phải ăn), nước ta thì “dĩ nông vi bản” (Nghề nông làm gốc)”.
Dân muốn no thì phải giồng giọt nhiều. Nước muốn giàu mạnh thì phải phát triển nông
nghiệp” [33, tr. 114].
Với quan điểm đó nên ngay từ khi mới giành được chính quyền, Đảng, Chính
phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm khắc
phục những khó khăn, cải thiện đời sống của người lao động. Bởi để phát huy sức
mạnh của nông dân trong cuộc chiến đấu mới trước tiên phải làm cho nông dân có
cuộc sống ấm no.
Vai trò của nông dân và nông nghiệp còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định một lần nữa trong bức thư gửi điền chủ nông gia đề ngày 11-4-1946: “Việt Nam
là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong
công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào

nông nghiệp một phần lớn.
Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh” [33,
tr. 215].
Như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ cho nông dân thấy nền nông nghiệp đóng góp rất
lớn vào công cuộc xây dựng nước nhà. Nước ta giàu mạnh một phần không nhỏ phục
thuộc vào sự phát triển của nông nghiệp. Qua đó khẳng định vai trò hết sức quan trọng
của giai cấp nông dân.




11
2.2. Vận động nông dân xây dựng đời sống mới và kháng chiến chống Pháp (1945-
1954)
Sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với người nông
dân trước hết là vấn đề ruộng đất. Bởi ruộng đất là nguốn sống chính của người nông
dân.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính
quyền các cấp đã thực hiện ngay việc tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia
cho dân nghèo, tiến hành chia lại ruộng đất công theo nguyên tắc dân chủ; chia cho cả
nam và nữ; tạm giao hết ruộng đất của tư nhân bỏ hoang cho nông dân thiếu ruộng.
Chính phủ đã ra Thông tư giảm tô 25%, giảm thuế điền thổ 20% trong cả nước; miễn
thuế cho dân vùng lũ lụt. Ngoài việc đề ra những chủ trương về vấn đề ruộng đất, việc
quan tâm khuyến khích sản xuất nông nghiệp cũng đặc biệt được chú ý. Các Ban
Khuyến nông được thành lập từ Trung ương đến các địa phương để tổ chức hướng dẫn
nông dân sản xuất. Chính phủ cho nông dân vay thóc giống, cử cán bộ thú y về nông
thôn chống dịch cho trâu bò, gà lợn; ra Sắc lệnh cấm xuất cảng gạo, ngô, đỗ; cấm dùng
lương thực vào những việc không cần thiết nhằm tập trung lương thực, cải thiện đời
sống nông dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của chính quyền các cấp người nông

dân hăng say lao động, sản xuất. Những cố gắng đó làm cho: sản xuất nông nghiệp trở
thành phong trào thi đua sôi nổi, sản lượng lương thực tăng rõ rệt. Những kết quả trên
không chỉ có giá trị thiết thực về mặt kinh tế, xã hội mà còn có ý nghĩa chính trị hết
sức to lớn. Đó chính là tính ưu việt của nền sản xuất nông nghiệp trong chế độ mới,
khả năng sản xuất to lớn của người nông dân khi họ thực sự làm chủ vận mệnh của
mình.
Cùng với việc ra sức tăng gia sản xuất, cứu đói, giai cấp nông dân tích cực
tham gia cuộc “vận động xây dựng đời sống mới” do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát
động. Cuộc vận động này nhằm giáo dục tinh thần yêu nước, lòng yêu lao động, yêu
chính nghĩa, căm ghét bóc lột, xây dựng đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư”. Cuộc vận động đã làm thay đổi diện mạo của những vùng nông thôn lạc hậu trước
kia thành những làng bản có nhiều sinh hoạt cộng đồng lành mạnh.
Song song với phong trào “Đời sống mới”, nông dân các địa phương trong cả
nước nô nức tham gia phong trào chống nạn mù chữ, diệt trừ “giặc dốt” mà người

12
nông dân là nạn nhân số một. Ngày 8-9-1945, Chính phủ Lâm thời ra sắc lệnh về việc
học chữ quốc ngữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Muốn giữ vững độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, trước hết
phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” [33, tr. 36].
Kết quả của phong trào xóa nạn mù chữ đã góp phần thiết thực tạo điều kiện để
người nông dân mở mang kiến thức, tham gia quản lý nhà nước, xây dựng đời sống
mới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hệ thống chính quyền
nhân dân các cấp được hình thành, mang đến những quyền lợi cơ bản về vật chất và
tinh thần, biến khát vọng từ ngàn đời của người nông dân thành hiện thực, tạo điều kiện
để người nông dân phát huy nội lực của mình trong kháng chiến và kiến quốc.

Có thể thấy từ ngày cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa ra đời, qua các phong trào thi đua sôi nổi, bằng hành động cách mạng của
mình, giai cấp nông dân Việt Nam đã thể hiện sức mạnh to lớn, quyết tâm sắt đá trong
việc xây dựng cuộc sống mới, bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với việc tích cực góp phần quan trọng trong việc chuẩn bị điều kiện kinh
tế để kháng chiến, người nông dân còn tích cực cùng nhân dân cả nước chuẩn bị mọi
mặt cho kháng chiến, xây dựng các căn cứ địa kháng chiến ở Tuyên Quang, Thanh
Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, để chuẩn bị đón các cơ quan Trung ương, Chính phủ và nhân
dân. Nông dân các thành phố lớn như Hà Hội, Hải Phòng, Huế, Nam Định, Đà
Nẵng…ngoài việc tích cực chuẩn bị lương thực, thực phẩm giúp bộ đội chiến đấu, còn
tích cực đào hầm hào, lập chiến ngại vật chuẩn bị ngăn bước quân thù, tạo điều kiện để
Trung ương Đảng chỉ đạo cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô, đưa cả nước chuyển sang
một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.
Ngoài ra, giai cấp nông dân còn chú trọng tham gia xây dựng các tổ chức của
mình. Các tổ chức nông dân được chú ý phát triển và phát huy tác dụng trong việc tập
hợp, vận động nông dân. Bên cạnh việc tích cực tham gia xây dựng tổ chức hội của
mình, nông dân còn tham gia xây dựng, phát triển các đoàn thể quần chúng khác như:
thanh niên, phụ nữ, phụ lão…ở các thôn, xã góp phần củng cố, mở rộng Mặt trận dân

13
tộc thống nhất, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân, chuẩn bị cho toàn quốc kháng
chiến.
Sáng ngày 23-9-1945, Xứ ủy, Ủy ban kháng chiến Nam Bộ tổ chức Hội nghị tại
đường Cây Mai (chợ Lớn), nhất trí phát động toàn dân đứng lên kháng chiến cứu
nước. Tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Đảng họp khẩn
cấp nhất trí với chủ trương của Xứ ủy và Ủy ban Nhân dân kháng chiến Nam Bộ, hạ
quyết tâm tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, kêu gọi nhân dân cả
nước chi viện sức người, sức của cho miền Nam.
Đúng 20 giờ ngày 19-12-1946 Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch
Hồ Chí Minh được truyền đi khắp cả nước:

Đáp ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh nông dân cả nước đã bước vào
cuộc kháng chiến với lòng tự tin ở thắng lợi cuối cùng. Thể hiện quyết tâm kháng
chiến nông dân cả nước vừa tích cực thi đua lao động sản xuất, vừa trực tiếp bảo vệ
quê hương, góp phần tạo nên những thắng lợi của quân và dân ta trên phạm vi toàn
quốc.
Thực hiện Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, nông dân các vùng có chiến sự
thực hiện “vườn không nhà trống”, “phá hoại để kháng chiến” và “tản cư” để duy trì
lực lượng.
Hàng triệu đồng bào trong đó đa số là nông dân đi theo tiếng gọi của Đảng, của
Bác Hồ, tự nguyện hy sinh tài sản, nhà cửa để bước vào kháng chiến với quyết tâm
“không hợp tác với địch”. Có người tự đốt nhà mình để ra vùng tự do tham gia kháng
chiến.
Cùng với việc tích cực lao động sản xuất đóng góp ngày càng nhiều cho kháng
chiến, giai cấp nông dân còn chủ động bảo vệ sản xuất, bảo vệ xóm làng.

CHƢƠNG 3
ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

3.1. Vai trò của Hồ Chí Minh đối với cuộc vận động nông dân trong cách mạng
Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1954
-Thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và kháng chiến chống Pháp đã
chứng tỏ nhận thức của Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân là hoàn toàn đúng đắn.

14
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược đã cho thấy sự sáng tạo
của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc, dân
chủ, giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp cho thấy Hồ Chí Minh đã có chủ
trương, biện pháp và hình thức vận động nông dân đúng đắn, phù hợp với tình hình
mới

3.2. Giá trị của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vận động nông dân
Trên bình diện lý luận và thực tiễn, những vấn đề nông dân mà Hồ Chí Minh đề cập
đến là vấn đề nông dân ở thuộc địa.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về vận động nông dân trong cách mạng xuất phát
từ sự phân tích đánh giá đúng mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam
với chủ nghĩa đế quốc.
Quá trình thực thi vận động nông dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho phép kết
luận rằng: muốn vận động nông dân thành công thì phải bám sát thực tiễn đất nước,
giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh kiên quyết chống giáo điều trong vận động
và phát triển lực lượng nông dân, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm cách mạng thế giới.
Có một chủ trương vận động nông dân đúng đã huy động được sức mạnh to lớn của
toàn bộ nông dân đưa sự nghiệp cách mạng đến thành công.
Qua đó khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân là khách quan và
khoa học vì xuất phát từ thực tiễn, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nông dân,
đáp ứng nhu cầu bức thiết nhất của họ nên đã tập hợp, huy động được một lực lượng to
lớn đưa cách mạng đến thành công.
Về lý luận: khẳng định lý luận về vận động nông dân trong điều kiện thuộc địa là
hết sức mới mẻ, được vận dụng, hoạch định một cách sáng tạo hình thành nên hệ thống
quan điểm, lý luận về nông dân trong điều kiện cách mạng mới. Lý luận đã được thực
tiễn kiểm nghiệm và khẳng định tính đúng đắn, để lại bài học kinh nghiệm cho cuộc
vận động nông dân hiện nay, là ngọn cờ soi đường cho cuộc vận động nông dân hiện
nay.
3.3. Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vận động nông dân trong giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc
Để vận động nông dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước cần chú ý một số vấn đề sau:

15
- Đổi mới nhận thức của các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của nông dân
- Tăng cường hơn nữa vai trò của Nhà nước đối với quá trình phát triển

nông nghiệp, nông thôn.
- Thay đổi nhận thức của nông dân về việc làm và thu nhập; nâng cao trình
độ dân trí cho nông dân
- Có chính sách động viên mọi tiềm năng của nông dân để phát triển nông
nghiệp nông thôn.
- Ban hành và thực hiện một số chính sách bối dưỡng nông dân.
- Ban hành và thực hiện một số chính sách bối dưỡng nông dân.

KẾT LUẬN

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã khẳng định vững chắc vai trò
của giai cấp nông dân cùng với giai cấp công nhân là chủ lực trong cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam.
Nhờ có đường lối đúng đắn, sáng tạo mà Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã
huy động được lực lượng hùng hậu của nông dân, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, vừa
đấu tranh vũ trang để bảo vệ nền độc lập, vừa bồi dưỡng sức dân, tìm các bước đi và
cách làm thích hợp để thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
Việt Nam.
Từ rất sớm, Người nông dân Việt Nam đã nhận thức rõ độc lập dân tộc là vô
cùng thiêng liêng và quý giá, kế đó là lợi ích của mình, trước hết là ruộng đất, nguồn
sống chính của họ. Sống dưới ách thống trị của chế độ thực dân, một chế độ thống trị
kết chặt chẽ và hà khắc hai hình thức bóc lột, áp bức của tư bản chủ nghĩa và phong
kiến trung cổ, thì hai nguyện vọng độc lập dân tộc và người cày có ruộng thêm nồng
cháy. Trong hơn nửa thế kỷ, từ nửa sau thế kỷ XIX đến hai thập niên đầu thế kỷ XX,
các nhà tiền bối tuy nêu cao khẩu hiệu cứu nước, chống chủ nghĩa thực dân nhưng
chưa đề cập đến nhiệm vụ giải phóng nông dân, một lực lượng đông đảo nhất của dân
tộc. Trong lúc đó, để chiến thắng kẻ thù hùng mạnh và nham hiểm là chủ nghĩa đế
quốc không chỉ dựa vào nguồn lực vốn có của giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân
dân khác, mà phải thực hiện các chủ trương bồi dưỡng sức dân, để nhân lên gấp bội
sức mạnh của nhân dân.


16
Nhận thức được điều đó trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ
Chí Minh đã đánh giá cao và dành sự quan tâm đặc biệt đến nông dân, Người cho rằng
ở Việt Nam vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân, cách mạng dân tộc thức chất
là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đóng góp lớn lao của Hồ Chí Minh
là đã vạch rõ những đặc điểm của nông dân Việt Nam đề từ đó tìm ra con đường giải
phóng nông dân. Người xem giai cấp nông dân Việt Nam là một lực lượng cách mạng
to lớn sớm có ý thức dân tộc và dân chủ. Vì vậy, để có thể phát huy sức mạnh của họ
cần phải vận động, giác ngộ, đoàn kết và tổ chức họ thành một đội quân hùng hậu
chiến đấu dưới ngọn cờ của giai cấp công nhân, cùng với lực lượng công nhân làm gốc
của cách mạng.
Ở những chặng đường lịch sử nào cũng toát lên tinh thần tự giác, tính chủ động
sáng tạo của người nông dân Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp, nông dân đã
thực sự biến “ruộng rẫy là chiến trường, cày quốc là vũ khí”, hậu phương thi đua với
tiền phương để dánh thắng thực dân Pháp. Nhờ sự nỗ lực đó mà dân tộc Việt Nam với
hơn 90% dân số là nông dân đã làm nên thắng lợi của cách mạng tháng Tám, đem lại
cuộc đời mới cho mỗi người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ thành người tự do. Cùng
với nhân dân cả nước giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm nên một chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng.
Với những thắng lợi đó càng thấy rõ giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về nông
dân và vận động nông dân trong cuộc kháng chống Pháp. Nó thể hiện tính sáng tạo,
cách mạng, khoa học, biện chứng khi nhìn nhận đánh giá một giai cấp trong xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay đổi mới hiện nay, để tiếp tục phát huy vị trí, vai trò
của nông dân cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về nông dân và vận động nông dân
trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng để làm cơ sở vạch ra các chủ trương,
chính sách có hiệu quả để đáp ứng với yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng.

References.


1. Bác Hồ với nông dân Hà Nội (1990), Hội Nông dân Sở Văn hoá và thông tin Hà
Nội.
2. Ban công tác nông thôn Trung ương, Nông dân Việt Nam trước và sau cách mạng
tháng, Nxb Nông thôn.

17
3. Ban Chấp hành hội Nông dân Hải Dương (2000), Lịch sử phong trong trào nông
dân và Hội nông dân Hải Dương (1930-1996), Nxb Chính trị quốc gia HN.
4. Ban chấp hành Hội Nông dân Hà Nội (1993), Lịch sử phong trong trào nông dân và
Hội nông dân Hà Nội(1930-1992), Nxb Chính trị quốc gia HN.
5. Ban Dân vận Trung ương (1995), Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia HN.
6. Báo cáo của Việt Minh về hoạt động của Chính phủ từ ngày Độc lập (2-9-1945), 7-
1949. Trung tâm lưu trữ QG I, phông Bộ Nội vụ, hồ sơ 636 H 065
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
Quốc gia Hà Nội.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia Hà Nội.
9.Trường Chinh - Võ Nguyên Giáp (1959), Vấn đề dân cày, Nxb Sự thật Hà Nội.
10. Chiến thắng Điện Biên Phủ sức mạnh dân tộc và tầm vóc thời đại (1994), Nxb
Quân Đội nhân dân.
11. Lê Duẩn (1965), Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân trong cách mạng Việt Nam
Nxb Sự thật HN,
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị
quốc gia HN (Đĩa CD ROM).
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị
quốc gia HN (Đĩa CD ROM).
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 4 Nxb Chính trị
quốc gia HN (Đĩa CD ROM).
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị

quốc gia HN (Đĩa CD ROM).
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị
quốc gia HN (Đĩa CD ROM).
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị
quốc gia HN (Đĩa CD ROM).
18. Đảng, Bác Hồ với vấn đề Tam nông (2009), Nxb Chính trị - Hành Chính Hà Nội.

18
19. Tạ Đình Đồng (1994), Những khác biệt cơ bản về tư tưởng giải phóng dân tộc Việt
Nam giữa Hồ Chí Minh và Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Tạp chí Lịch sử Đảng,
số 5.
20. Nguyễn Bá Đoán, Trần Duy Dương, Hy Chung (2000): Bác Hồ với nông dân Hà
Nội: Kỷ niệm lần thứ 110 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2000),
Nxb Giáo dục.
21. Nguyễn Minh Đức (2004), Hồ Chí Minh với cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp 1945 - 1954, Nxb Đại học Sư Phạm.
22. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, HN.
23. Lê Mậu Hãn (2001), Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sang tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, HN.
24. Lê Mậu Hãn (2003), Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia.
25. Đoàn Thế Hanh (1996), Một số vấn đề nông dân qua báo chí tiếng Việt trong
những năm1936-1939. Luận TS sử học, Trường Đại Sư Phạm Hà Nội.
26. Kinh tế Việt Nam (từ cách mạng tháng Tám đến thắng lợi 1945 - 1954), (1966),
Nxb Khoa học xã hội Hà Nội.
27. TS. Đinh Xuân Lý (chủ biên) (2005), Tìm hiểu vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia HN.
28. Nguyễn Văn Hiệp (1993), Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề nông dân và sự vận
dụng của Đảng trong sự nghiệp đổi mới (1981-1991), Luận văn thạc sĩ khoa học lịch

sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
29. Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam (1945 - 1975 (1997), Nxb Quân đội
nhân dân HN.
30. Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, (Đĩa CD
Rom).
31. Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Đĩa CD
Rom).
32. Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 3, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Đĩa CD
Rom)

19
33. Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Đĩa CD
Rom).
34. Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Đĩa CD
Rom).
35. Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Đĩa CD
Rom).
36. Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Đĩa CD
Rom).
37. Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 8, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Đĩa CD
Rom).
38. Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 9, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Đĩa CD
Rom).
39. Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 10, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Đĩa CD
Rom).
40. Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 11, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Đĩa CD
Rom).
41. Hồ Chí Minh Toàn tập (2009), tập 12, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, Đĩa CD
Rom).
42. Hồ Chí Minh (2003), Về tài nguyên đất đai và phát triển nông nghiệp nông thôn,

Nxb Chính trị quốc gia HN.
43. Hồ Chí Minh (1966), Về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb Sự Thật.
44. Hội Nông dân Việt Nam (1998), Lịch sử phong trong trào nông dân và Hội nông
dân Việt Nam (1930 - 1995), Nxb Chính trị quốc gia HN.
45. Hội Nông dân thành phố Hà Nội (2000), Lịch sử phong trong trào nông dân và
Hội nông dân Hà Nội(1930 - 2000), Nxb Chính trị quốc gia HN.
46. Hội Nông dân Việt Nam (2000), Bác Hồ Với nông dân, nông dân với Bác Hồ, nxb
Chính trị quốc gia HN.
47. Vũ Quang Hiển, Giai cấp nông dân Việt Nam trong cao trào cách mạng năm 1930
và Xô Viết Nghệ -Tĩnh
48. Vũ Quang Hiển (1994), Quá trình nhận thức và chủ trương giải quyết vấn đề nông
dân của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ, Tạp chí khoa học, Đh Tổng hợp HN,
số 2.

20
49. Vũ Ngọc Kỳ (2005), Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn, nông dân, hội nông
dân Việt Nam, Nxb Nông nghiệp HN.
50. Vũ Ngọc Kỳ (2005), Tổ chức và hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam trong giai
đoạn mới, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
51. Hồ Tố Lương (2007), Quốc tế cộng sản với cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, HN.
52. Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam (1981), Sơ Thảo (1920 - 1954), Nxb Sự thật Hà
Nội
53. Lịch sử hậu cần quân đội nhân dân Việt Nam (1944 - 1954), (1985), HN, tập 5.
54. Một số văn kiện của Đảng và Nhà nước về Hội nông dân Việt Nam (thời kỳ đổi
mới) (2005), Nxb Chính trị quốc gia HN.
55. Một số vấn đề về công tác vận động nông dân ở nước ta hiện nay (2000), Nxb
Chính trị Quốc gia.
56. Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại (1990), tập 1, Nxb Khoa học xã hội
HN.

57. Nghị quyết quân sự của Đảng 1930 -1960, (1959), NXb Quân đội nhân dân HN.
58. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (2002), Tiến trình lịch sử Việt Nam, (tái bản lần
3), Nxb Giáo dục.
59.Vũ Oanh, Đổi mới công tác dân vận của Đảng, chính quyền Mặt trận và các đoàn
thể.
60. Tìm hiểu vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam (2005),
Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
61. Mai Phương Thảo (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông vận với công tác vận
động nông dân ở nước ta hiện nay, Luận văn ThS Triết học.
62. Minh Tranh (1953), Lực lượng vĩ đại của nông dân (In lần thứ 2), Nxb Sự thật.
63. Minh Tranh (1961), Một số ý kiến về nông dân Việt Nam, Nxb sự thật.
64. Phạm Hồng Tung (2008), Lịch sử cuộc vận động vì các quyền dân sinh, dân chủ ở
Việt Nam (1936-1939),Nxb chính trị Quốc gia.
65. Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 - 1954 (1996), Nxb Quân
đội Nhân dân.
66. Thành tích của nông dân trong mười năm xây dựng nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa (1955), Ban Liên lạc nông dân toàn quốc xuất bản.

21
67. GS. Song Thành (chủ biên) (2010), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia,
HN.
68. Văn kiện Đảng về kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1950) (1986), Nxb Sự
thật, HN, tập 1.
69. Vấn đề nông dân (1955), (Trích dịch tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin, Stalin,
Mao Trạch Đông), Nxb Sự thật.
70. Lê Kim Việt (2002), Công tác vận động nông dân của Đảng trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh.
71. Lê Văn Yên (2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh với các đại hội Đảng, Nxb Chính trị
quốc gia, HN.

72. Lê Văn Yên (2009), Quan điểm của Mác - Lênin về vai trò của giai cấp nông dân
trong sự nghiệp cách mạng, Tạp chí Lịch sử Đảng số 1.
73. Lê Văn Yên (2010), Quan điểm của Đảng về vấn đề nông dân trong tiến trình
cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam 80 năm xây dựng và phát triển, Nxb
Chính trị quốc gia HN.
74. Viện sử học, Lịch sử Việt Nam 1945 - 1950, 2007, Nxb Khoa học xã hội HN.

×