Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

tieu luan tac tong cua ngoai thuong tu 1986 den nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.63 KB, 29 trang )


TÁC ĐỘNG CỦA NGOẠI THƯƠNG ĐẾN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
==============================================
MỞ ĐẦU
Xu hướng toàn cầu hoá, tự do hoá thương mại đã và đang phát triển mạnh
mẽ hơn bao giờ hết. Đó là một quá trình lâu dài và bao quát tổng thể các lĩnh
vực trên phạm vi toàn cầu, với sự tham gia của hầu hết các quốc gia từ các
nước công nghiệp phát triển nhất đến các nước đang và kém phát triển. Trên
thế giới, các nước lớn, nhỏ đều ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo đuổi chính
sách kinh tế mở. Thực tiễn phát triển kinh tế trên thế giới đã cho thấy, sự
thành công trong phát triển kinh tế của các quốc gia dù ở trình độ nào cũng
đều phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó ngoại
thương giữ vị trí trọng tâm. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật này.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986) đã đề ra đường lối đổi
mới cho Việt Nam. Tiếp tục, Đại hội VII xác định đường lối đối ngoại “độc
lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá”, “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả
các nước”. Đại hội IX khẳng định chủ trương “phát huy cao độ nội lực, đồng
thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”. Sau hơn 25 năm đổi mới, chúng
ta đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu phát triển khả quan trong nhiều lĩnh
vực của nền kinh tế quốc dân. Riêng trong lĩnh vực ngoại thương, các hoạt
động xuất nhập khẩu đã có những tiến bộ vượt bậc, đóng góp tích cực vào sự
tăng trưởng và phát triển của đất nước. Thực tiễn ở Việt Nam đã chứng minh
rằng, ngoại thương trong hơn hai thập kỷ vừa qua đã thực sự trở thành một
động lực không thể thiếu để phát triển kinh tế đất nước, trong bối cảnh quốc
tế và trong nước có nhiều biến động mà những biến động đó không phải lúc
nào cũng có ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế nước ta. Vậy ngoại thương đã
tác động như thế nào đến sự phát triển kinh tế ở Việt Nam từ khi đổi mới đến
nay? và tác động đó được thể hiện thông qua những khía cạnh kinh tế nào?
Với những lý do trên, em xin chọn chủ tài: “Tìm hiểu tác động của ngoại


thương đến phát triển kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến nay”
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
TRƯỚC VÀ SAU ĐỔI MỚI
1. Ngoại thương Việt Nam trước khi đổi mới
Nói một cách công bằng thì trước thời kỳ đổi mới, trong tư duy kinh tế
- chính trị chúng ta đã phần nào nhận thức được tầm quan trọng của việc phát
triển kinh tế đối ngoại, trong đó có ngoại thương. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân chủ quan và khách quan, chúng ta đã có những hạn chế, sai lầm trong
quá trình thực thi đường lối xây dựng, phát triển kinh tế nói chung và kinh tế
đối ngoại, ngoại thương nói riêng. Sự nóng vội, đốt cháy giai đoạn để đi
nhanh lên CNXH theo một quan điểm duy ý chí, tự lực cánh sinh theo kiểu
biệt lập, khép kín cùng với một cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu, bao cấp kéo dài nhiều năm đã trở thành vật cản, sức ỳ làm triệt tiêu các động
lực, kìm hãm tăng trưởng và phát triển kinh tế. Riêng trong lĩnh vực kinh tế đối
ngoại, mặc dù ngay từ những năm 60 chúng ta đã có quan hệ với hơn 40 nước
nhưng trên thực tế, các hoạt động thương mại của Việt Nam với các nước bên ngoài
chỉ giới hạn chủ yếu trong phạm vi các nước XHCN. Xuất khẩu sang các nước này
thường xuyên chiếm hơn 70% tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu từ các nước
này cũng thường xuyên chiếm trên 80% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Từ năm 1976, trong bối cảnh đất nước thống nhất, hoạt động ngoại thương
có những thuận lợi mới. Chúng ta có điều kiện và khả năng khai thác có hiệu
2
quả tiềm năng của đất nước (đất đai, rừng, biển, khí hậu, tài nguyên thiên
nhiên, ) để đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, phát
triển ngoại thương, mở rộng hợp tác Kinh tế - Khoa học - Kỹ thuật với nước
ngoài, thu hút vốn và kỹ thuật của nước ngoài. Về quan hệ hợp tác thương mại với
các nước, ngoài các nước XHCN, Việt Nam đã tăng cường quan hệ kinh tế -
thương mại với một số nước TBCN và các nước đang phát triển như Nhật Bản,
Pháp, Đức, Thuỵ Điển, ấn Độ, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc, Thái Lan,

Xingapo, Nhờ đó, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang các nước này trong tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng đến 46,8% (1986), trong đó Nhật Bản
là một trong năm bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu
sang các nước XHCN vẫn tiếp tục tăng về mặt giá trị song về mặt tỷ trọng thì lại
giảm đi so với kim ngạch xuất khẩu sang các nước ngoài XHCN.
Xuất - nhập khẩu theo hai khu vực thời kỳ 1976 - 1986
Khu vực I - Các nước XHCN
(triệu rúp)
Khu vực II - Các nước ngoài
XHCN (triệu rúp)
Năm
Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Cán cân
ngoại
thương
Xuất
khẩu
Nhập
khẩu
Cán cân
ngoại
thương
1976 132,9 557,5 -414,6 89,8 446,6 -356,8
1977 221,2 505,5 -284,3 101,3 712,9 -611,8
1978 246,7 518,2 -271,5 80,1 785,0 -704,9
1979 235,0 797,8 -562,8 85,5 728,3 -642,8
1980 225,0 755,1 -529,2 112,7 559,1 -446,4

1981 235,0 947,8 -712,2 165,6 434,4 -268,8
1982 337,1 1087,9 -750,8 189,5 384,3 -194,8
1983 381,3 1140,5 -759,2 235,2 386,2 -151,0
1984 407,9 1232,6 -824,7 241,7 512,4 -270,7
1985 425,8 1408,1 -982,3 272,7 449,3 -176,6
1986 438,9 1659,4 -1220,5 384,1 495,7 -11,6
Nguồn: Số liệu thống kê 1976 - 1990. NXB thống kê, Hà Nội, 1991.
Nhưng bên cạnh những thuận lợi mới, chúng ta lại đứng trước những khó
khăn gay gắt cả từ bên ngoài lẫn bên trong. Bên ngoài đó là hai cuộc chiến
tranh biên giới Tây Nam và phía bắc; các nước XHCN đang bộc lộ dần những
3
dấu hiệu của sự khủng hoảng kinh tế và chính trị nên việc giúp đỡ Việt Nam
cũng bị hạn chế. Ở trong nước, do trình độ phát triển kinh tế của cả nước còn
thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, kinh tế hàng hoá chưa phát triển,
chưa có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Kết quả là sản xuất tăng chậm, lưu thông
hàng hoá bị đình đốn do chính phủ có một số sai lầm về đường lối và chính sách
kinh tế, giá cả tăng nhanh, lạm phát có nguy cơ ngày càng trầm trọng, đời sống
nhân dân lại càng thêm khó khăn do Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện chính sách cấm
vận Việt Nam. Trong bối cảnh đó, kinh tế đối ngoại trong đó có ngoại thương
vẫn chưa thể vươn mạnh, phát huy đúng vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế
cũng là điều dễ hiểu. Mặt khác, chiến tranh kéo dài để lại những hậu quả kinh tế
nặng nề làm cho đất nước phát triển chậm lại nhiều năm và gây ra những vết
thương xã hội mà phải qua nhiều năm mới hàn gắn được.
Trước tình hình đó, ta phải phát triển và mở rộng các hoạt động kinh tế đối
ngoại, trong đó có ngoại thương để đưa đất nước tiến lên. Báo cáo chính trị tại
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV (năm 1976) nhấn mạnh tính tất yếu
khách quan và tầm quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc biệt là ngoại
thương đối với nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN.
Với đường hướng đó, năm 1977, nước ta tham gia Ngân hàng Đầu tư
Quốc tế và Ngân hàng Hợp tác Quốc tế thuộc Hội đồng tương trợ kinh tế

(HĐTTKT). Tháng 7 - 1978, tại khoá họp lần thứ 32 của HĐTTKT, nước ta
đã gia nhập HĐTTKT với tư cách là thành viên chính thức.
Sau khi gia nhập HĐTTKT, Chính phủ Việt Nam đã ký Hiệp ước hữu nghị
và Hiệp ước hợp tác kinh tế dài hạn với Liên Xô (11 - 1978) và nhiều nước
XHCN khác.
Ngày 18 - 04 - 1977, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Điều lệ về đầu tư
của nước ngoài vào Việt Nam, nhằm thu hút đầu tư của nước ngoài, không
phân biệt chế độ chính trị, trên nguyên tắc đảm bảo độc lập chủ quyền của
4
Việt Nam và các bên cùng có lợi. Nhưng từ cuối năm 1978, đầu năm 1979
đến cuối 1980, tình hình trở nên phức tạp. Trong những năm này, trong khi
Liên Xô và các nước XHCN, ấn Độ và một số nước bạn bè khác tận tình hợp
tác hỗ trợ Việt Nam để khắc phục khó khăn thì một số nước phương Tây thực
hiện chính sách cấm vận và phân biệt đối xử với Việt Nam, ngừng viện trợ và
đầu tư, kể cả ngưng thực hiện các khoản tín dụng đã cam kết với chính phủ ta.
Họ còn tác động tới các tổ chức kinh tế tài chính, tín dụng quốc tế để ngừng
các quan hệ với Việt Nam như Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới.
Hoàn cảnh quốc tế không thuận lợi đó đã gây ra cho nước ta không ít khó
khăn nhưng kinh tế đối ngoại nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng vẫn
được tiếp tục phát triển. Dưới đây là kết quả hoạt động xuất nhập khẩu giai
đoạn 1976 - 1985
Xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1976-1985
Năm Tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu
Xuất khẩu Nhập khẩu
Cán cân thương mại
Trị giá Tỷ lệ%
1976 1.226.8 222.7 1.004.1 -881.4 22.2
1977 1.540.9 322.5 1.218.4 -815.9 28.3
1978 1.630.0 326.8 1.303.2 -976.4 25.1

1979 1.846.6 320.5 1.526.1 -1.205.6 21.0
1980 1.652.8 338.6 1.314.2 -975.6 25.8
1981 1.783.4 401.2 1.382.2 -981.0 29.0
1982 1.998.8 526.6 1.472.2 -945.6 3508
1983 2.143.2 606.5 1.526.7 -910.2 40.4
1984 2.394.6 649.6 1.745.0 -1.095.4 3702
1985 2.555.9 698.5 1.857.4 -1.158.9 37.6
Tổng số 18.773.0 4.423.5 14.349.5 -9.926.0 30.8
Nguồn: Số liệu thống kê 1976-1990. NXB thống kê, Hà Nội, 1991
Qua thống kê trên chúng ta thấy:
- Kim ngạch xuất khẩu tăng dần qua các năm. Tỷ lệ tăng trưởng bình
quân trong 10 năm (1976 - 1985) của xuất khẩu tăng cao hơn tỷ lệ tăng của
tổng kim ngạch buôn bán hai chiều và của nhập khẩu. Trong khi tỷ lệ tăng
5
trưởng bình quân trong 10 năm của xuất khẩu là 13,5%, thì của xuất nhập
khẩu cộng lại là 8,4%/năm và của nhập khẩu chỉ có 7%/năm.
- Nhập siêu vẫn là đặc trưng cơ bản, dễ nhận thấy của cán cân ngoại
thương suốt cả thời kỳ này. Trị giá xuất khẩu tuy có tăng nhưng trong 10 năm
1976 - 1986, xuất khẩu cũng chỉ đảm bảo được 30,8% tổng số tiền nhập khẩu.
Cán cân thương mại quốc tế luôn nhập siêu và nhập siêu có xu hướng tăng.
Sự yếu kém của ngoại thương Việt Nam thời kỳ này còn thể hiện rất rõ
ở chỗ các sản phẩm xuất khẩu vừa nhỏ bé về số lượng, vừa đơn điệu về cơ
cấu chủng loại, chất lượng và bao bì. Chiếm trên 80% tổng giá trị kim ngạch
xuất khẩu vẫn là các hàng Nông - Lâm sản, tiểu thủ công, mỹ nghệ và khoáng
sản nghĩa là chủ yếu vẫn là các sản phẩm thô hoặc sơ chế, các sản phẩm của
công nghiệp chế tạo, chế biến còn chiếm tỷ lệ rất thấp.
Hầu hết các loại hàng hoá thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống đều
phải nhập khẩu. Ngoài sắt thép, xăng dầu, máy móc, thiết bị còn nhập khẩu cả
hàng tiêu dùng. Kể cả những loại hàng hoá lẽ ra sản xuất trong nước có thể
đáp ứng được như lúa gạo, vải mặc. Trong những năm 1976 - 1985 đã nhập

khẩu 60 triệu mét vải các loại, và gần 1,5 triệu tấn lương thực quy gạo.
Chính những yếu kém này cùng những ràng buộc phiền hà của cơ chế
quản lý cũ chưa được tháo gỡ đã khiến Việt Nam bị hạn chế nhiều trong việc
mở rộng thị trường, tìm kiếm bạn hàng mới, ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt
động ngoại thương, đặc biệt là xuất khẩu và phát triển hàng xuất khẩu. Năm
1985 là năm đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất so với những năm trước đó
nhưng cũng chỉ đạt đến con số gần 700 trriệu rúp - đô la (R- USD). Nếu so
với các nước khác, giá trị kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người của Việt
Nam năm 1985 mới chỉ ở mức 12 R - USD, vào loại thấp nhất thế giới.
Nhằm khắc phục tình trạng trì trệ của nền kinh tế, Hội nghị ban chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (khoá IV) đã đề ra một số biện pháp cải tiến
6
cơ chế quản lý hoạt động ngoại thương, đặc biệt là quản lý xuất khẩu. Tuy
nhiên, độc quyền ngoại thương vẫn là nguyên tắc chỉ đạo mọi hoạt động ngoại
thương trong giai đoạn này.
2. Ngoại thương Việt Nam từ 1986 đến nay
Để dễ dàng trong việc phân tích và đánh giá kết quả hoạt động ngoại
thương thời kỳ này, chúng ta sẽ chia ngoại thương Việt Nam từ 1986 đến nay
làm hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là từ khi bắt đầu đổi mới (1986) đến khi
chúng ta gia nhập WTO; và giai đoạn thứ hai là từ khi gia nhập WTO đến
nay, trong đó chúng ta đi sâu phân tích ngoại thương Việt Nam trong 10 năm
cuối cùng của thế kỷ XX (1991 - 2000).
2.1 Giai đoạn 1986 đến khi gia nhập WTO
Công cuộc đổi mới, mở cửa của nền kinh tế được Đảng Cộng sản Việt
Nam khởi xướng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12 - 1986. Từ
đó đến nay, chúng ta đã thực sự có những biến đổi sâu sắc, hoạt động ngoại
thương có những bước tiến vượt bậc, kinh tế đối ngoại được coi là “mũi
nhọn” của sự đổi mới. Quan niệm cứng nhắc coi “độc quuyền ngoại thương”
là bản chất kinh tế của nhà nước XHCN đã từng bước được xem xét lại và
phần nào cũng được bỏ qua trong thực tiễn. Ngoại thương đặc biệt là hoạt

động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu được đề cao, coi đó là một trong ba
chương trình kinh tế trọng điểm của đất nước. Luật Đầu tư nước ngoài được
Quốc hội nước cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua tháng 12 - 1987 . Nghị
định 64 / HĐBT ngày 16/06/1989 của Hội đồng bộ trưởng về chế độ tổ chức,
quản lý kinh doanh hoạt động xuất nhập khẩu là cơ sở của chính sách thương
mại trong thời kỳ này, về cơ bản đã thể hiện được bước ngoặt quan trọng đầu
tiên của sự nới lỏng cơ chế quản lý ngoại thương theo tinh thần đổi mới.
Ngoài ra, các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như du lịch, kiều hối, dịch vụ
tầu biển, hàng không, hợp tác lao động quốc tế, đều được chính phủ Việt
7
Nam coi trọng và tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển. Với những chính
sách thông thoáng như vậy, có thể nói rằng quan điểm phát triển một nền kinh
tế khép kín theo kiểu tự lực cánh sinh trước đây đã bị phủ định hoàn toàn, do
đó đã góp phần tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Riêng trong
hoạt động xuất khẩu, nếu như những năm 1976 - 1980 xuất khẩu có tốc độ
tăng bình quân hàng năm là 11%, những năm tiếp theo 1981 - 1985 là 15,6%,
thì trong hai năm 1986, 1987 đã đạt tới mức 27%. Riêng năm 1989 so với
năm 1988 tăng 75,3% (gần bằng mức tăng của cả 15 năm 1960 - 1975). Năm
1990, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu đã vượt được mức 2 tỷ USD, tăng
21,6% so với năm 1989 và gấp 2 lần so với năm 1988. Khoảng cách chênh
lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu đã rút ngắn, từ tỷ lệ 1/7 giai đoạn 60 - 75
xuống tỷ lệ 1/2,6 năm 1986 và đến năm 1990 chỉ còn chênh lệch ở tỷ lệ
không đáng kể 1/1,3. Trong những năm này (1986-1990), ngoài việc tiếp tục
duy trì quan hệ thương mại với các nước XHCN, quan hệ thương mại giữa
Việt Nam với các nước TBCN ngày càng được mở rộng. Xuất khẩu sang các
nước này trong 5 năm (1986 - 1990) đã đạt 3,5 tỷ USD, gấp 3,1 lần so với 5
năm trước đó (1981 - 1985). Số liệu tương ứng các thời gian trên về nhập
khẩu cũng diễn biến theo xu hướng ngày càng tăng hơn: giai đoạn 1986 -
1990 là 3,8 tỷ USD, gấp 1,6 lần so với 2,1 tỷ USD của giai đoạn 1981 - 1985.
Công cuộc đổi mới nền kinh tế đang gặt hái được một số kết quả bước đầu

thì Việt Nam đã đương đầu với những khó khăn, thử thách mới:
- Sự tan rã của Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (cũ)
trong những năm 1989 - 1991 không những làm cho Việt Nam mất hẳn chỗ
dựa về nguồn viện trợ vốn, nguồn cung cấp các vật tư chiến lược mà còn
gây ra những hụt hẫng do việc đột ngột bị mất đi một thị trường lớn tiêu thụ
nhiều loại hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam như đồ tiểu - thủ công,
mỹ nghệ, nông - lâm - hải sản, khoáng sản và một số hàng tiêu dùng: đồ da,
8
may mặc sẵn Chỉ riêng việc chấm dứt viện trợ của Liên Xô (cũ) là hàng
năm Việt Nam đã mất đi gần 1 tỷ USD. Ngoài ra, thị trường Liên Xô tan rã đã
gây ra đảo lộn lớn cho Việt Nam, vì hàng năm Việt Nam vẫn nhập của Liên
Xô một khối lượng lớn các loại vật tư chiến lược: xăng dầu (từ 2,7 - 2,9 triệu
tấn), phân bón (từ 2 - 2,4 triệu tấn), thép (từ 30- 40 vạn tấn), và 6 vạn tấn tôn
thiếc, phương tiện vận tải, phụ tùng ô tô, thiết bị máy móc, các loại hoá chất
ngược lại, Phía Việt Nam xuất sang Liên Xô các mặt hàng truyền thống với
một khối lượng lớn chiếm hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm.
Tóm lại, mất thị trường Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu, Việt Nam mất đi một thị trường lớn, chiếm 70 - 80% tổng giá trị xuất -
nhập khẩu hàng năm.
Nhờ kiên trì sự nghiệp đổi mới theo nhiều giải pháp tích cực khác nhau,
Chính phủ đã lái con thuyền kinh tế Việt Nam vượt qua cơn sóng gió, đi dần
vào thế ổn định. Sản xuất và lưu thông trong nước đã trở lại chiều hướng phát
triển tốt hơn, khiến cho thị trường hàng hoá ngày càng phong phú, sôi động
hơn. Giá cả thị trường tương đối ổn định, nguy cơ lạm phát bị đẩy lùi.
Xét riêng về hoạt động ngoại thương, đường lối mở cửa của Đảng và
Nhà nước ta đã đem laị những kết quả kỳ diệu cho nền kinh tế nói chung và
cho hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ 1991 - 2001 nói riêng. Tổng
mức lưu chuyển ngoại thương năm 2000 ước tính đạt 29,5 tỷ USD, gấp 6,5
lần năm 1989. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu bình quân mỗi
năm những năm 1990 - 2001 đạt 14,3 tỷ USD, gấp 2,5 lần mức bình quân thời

kỳ 1981 - 1990.
Sồ lượng đơn vị tham gia xuất nhập khẩu đã tăng lên nhanh chóng qua
các thời kỳ. Năm 1985 chỉ có 40 đơn vị do nhà nước quản lý trực tiếp xuất
nhập khẩu; năm 1990 có 270 đơn vị, nhưng đến nay đã có trên 10.000 đơn vị
thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia, trong đó có cả các doanh nghiệp tư
9
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Quan hệ quốc tế
những năm vừa qua đã có những thay đổi lớn thông qua việc tham gia các tổ
chức quốc tế và khu vực như Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN
-1995), Diễn đàn kinh tế các nước Châu Á - Thái Bình Dương (APEC -
1998), nối lại ngoại giao với Hoa Kỳ và trở thành quan sát viên của WTO
(1995), ký hiệp định thương mại với 61 nước, trong đó có Mỹ (tháng 7 -
2000). Năm 1990 nước ta có mối quan hệ buôn bán với trên 50 nước và vùng
lãnh thổ, năm 1995 con số này là 100 và đến nay đã là trên 170. Quan hệ
thương mại ngày nay mở rộng tới các châu lục, các khối kinh tế khu vực và
quốc tế. Hoạt động xuất nhập khẩu đã dần tạo được chỗ đứng vững chẵc, mở
ra những tiềm năng mới trong tương lai.Thực hiện đường lối chính sách đó,
Việt Nam đã tập trung cải cách hành chính và tạo dựng môi trường kinh
doanh thuận lợi, mở rộng hợp tác quốc tế, tích cực và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế có hiệu quả, nhờ đó kinh tế Việt Nam tiếp tục duy trì được sức phát
triển tương đối nhanh và ổn định. Tốc độ tăng trưởng GDP vẫn duy trì được
xu hướng tăng dần, năm 2001 đạt 6,89% và 2002 đạt 7,05%, năm 2003 đạt
trên 7%. Công nghiệp là ngành kinh tế có tốc độ tăng trưởng giá trị cao nhất,
đạt trên 10% mỗi năm. Kim ngạch xuất nhập khẩu cũng không ngừng tăng
lên, năm 2001 đạt trên 15 tỷ USD xuất khẩu và trên 16 tỷ USD nhập khẩu,
năm 2002 lần lượt là trên 16,5 tỷ và 19,3 tỷ USD. Đã hình thành những mặt
hàng xuất khẩu chủ lực gồm hàng công nghiệp nhẹ, hàng nông, lâm, hải sản
và hàng điện tử. Tuy tỷ lệ nhập siêu vẫn còn cao và biến động nhưng ngoại
thương Việt Nam đã đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Hoạt động du lịch cũng có bước phát triển vượt bậc với khoảng 2 triệu lượt

khách quốc tế mỗi năm. Các ngành dịch vụ liên quan như khách sạn, hàng
không cũng có bước phát triển mới. Hệ thống tài chính tiền tệ cũng đang
từng bước được cải thiện và nâng cấp nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của
10
nền kinh tế. Các ngân hàng hoạt động thông thoáng và ngày càng có nhiều
dịch vụ hơn, đặc biệt là phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng điện tử. Tỷ lệ
nợ xấu giảm đáng kể.
2.2 Giai đoạn từ khi gia nhập WTO đến nay
Khi tham gia vào WTO, chúng ta có thể thấy những ảnh hưởng lớn trên
cả cấp vĩ mô và vi mô. Lợi ích lớn nhất mà Việt Nam thu được từ hội nhập là
thị trường xuất khẩu thuận lợi cho Việt Nam mở rộng. Do Việt Nam được
hưởng qui chế MFN vô điều kiện, theo đó hàng hóa Việt Nam sẽ được cạnh
tranh bình đẳng với các đối thủ khác, không còn vướng nhiều rào cản về thuế
và hạn ngạch như trước nữa (Hiện nay, thương mại giữa các nước thành viên
WTO chiếm tới 90% khối lượng thương mại thế giới). Từ đó sẽ tăng cường
tiềm lực kinh tế thông qua việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, thu hút đầu tư
nước ngoài. Cụ thể:
Hiệp định đa sợi MFA qui định bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu bằng số
lượng đối với hàng dệt may.
WTO qui định bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu bằng số lượng thay thế
bằng thuế đối với sản phẩm gạo.
WTO qui định mức thuế thấp đối với sản phẩm sử dụng nhiều lao động.
Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng trong kinh doanh giữa các thành
phần kinh tế. Khi gia nhập vào WTO và cam kết thực hiện các nguyên tắc tự
do hóa thương mại giữa các thành phần kinh tế, giữa trong nước và nước
ngoài, Việt Nam sẽ phải cải cách mạnh hơn các luật lệ sao cho phù hợp với
thông lệ chung của quốc tế. Qua đó, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và
thông thoáng cho mọi thành phần kinh tế.
Nền kinh tế Việt Nam sẽ ít bị tổn thương hoặc bị tấn công bởi những hành vi
bảo hộ mậu dịch hoặc trừng phạt kinh tế của các quốc gia khác trong trường

hợp có tranh chấp kinh tế, thương mại hay những lý do chính trị nào đó, thị
11
trường cho hàng hóa của Việt Nam sẽ được mở rộng và ổn định hơn. Và do
vậy, lợi ích từ thương mại quốc tế của chúng ta sẽ tăng.
Tự do hóa giá cả nông sản sẽ có lợi cho các quốc gia sản xuất nông
nghiệp. Bảo hộ giá nông sản của các quốc gia phát triển giảm xuống sẽ mở
rộng hơn nữa thị trường nông sản của Việt Nam.
Chi phí kinh doanh sẽ giảm vì hiện tại lĩnh vực dịch vụ là khu vực được
Nhà nước bảo hộ nhiều nhất. Hậu quả là năng lực cạnh tranh và chất lượng
dịch vụ kém và giá cao. Khi gia nhập vào WTO, độc quyền của những
ngành này sẽ phải bãi bỏ, buộc các doanh nghiệp này phải cải cách, cắt
giảm chi phí, nâng cao chất lượng và hạ giá dịch vụ, hiệu quả cho toàn nền
kinh tế sẽ lớn hơn.
Với hiệp định những biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại đã
tạo thêm sự đảm bảo quốc tế, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Đời sống nhân dân được cải thiện.
Như vậy, lợi ích của Việt Nam khi gia nhập WTO khá rõ: “Việt Nam
không thể tự bảo vệ mình trước sự bảo hộ của các nước khác khi nằm ngoài
WTO”. Tuy nhiên gia nhập WTO không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho mình
mà doanh nghiệp phải đối mặt với những thách thức:
Khi gia nhập WTO, Việt Nam phải trao qui chế tối huệ quốc, qui chế đối xử
quốc gia cho các quốc gia thành viên khác của WTO, nghĩa là tiến hành giảm
thuế quan và ràng buộc tất cả các dòng thuế, đồng thời phải dỡ bỏ các hàng
rào phi thuế trong một thời gian nhất định. Mức độ cam kết giảm thuế phụ
thuộc nhiều vào kết quả đàm phán đa phương và song phương đối với các mặt
hàng cụ thể. Vì vậy cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn ở thị trường nội địa.
Toàn bộ thể chế kinh tế phải chuyển đổi nhằm thích ứng với sự phát
triển nhanh chóng của quan hệ thương mại đầu tư, chuyển giao công nghệ, nếu
12
không sẽ gặp khó khăn trước những đối thủ cạnh tranh hùng mạnh, các doanh

nghiệp Việt Nam sẽ không được bảo vệ khi xảy ra tranh chấp thương mại.
Thách thức thứ hai là những vấn đề nảy sinh từ việc thúc đẩy nhanh
chóng tiến trình cải cách khu vực kinh tế nhà nước, chủ yếu trong lĩnh vực
công nghiệp và dịch vụ. Trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, vai trò
của khu vực kinh tế nhà nước tiếp tục suy giảm, trong khi việc thực hiện và
các biện pháp thực hiện mục tiêu đó lại mang tính xã hội và ảnh hưởng tới
nhiều tầng lớp xã hội có liên quan. Mặt khác, cải cách sẽ khiến cho tốc độ
tăng trưởng trong công nghiệp quốc doanh chậm lại trong một thời gian, một
phần do đầu tư vào khu vực này giảm, phần nữa là các xí nghiệp yếu kém sẽ
thu hẹp sản xuất, đóng cửa hoặc chuyển sang lĩnh vực kinh doanh mới. Nguy
cơ phá sản đối với các loại hình doanh nghiệp tăng lên. Công nghệ và trình
độ dân trí có chuyển biến lớn, nhưng khoảng cách tụt hậu còn xa so với phần
lớn các nước trên thế giới.
Những thách thức trong lĩnh vực nông nghiệp thậm chí còn lớn hơn, do
trên 75% dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp, trong khi đó diện tích canh
tác bình quân trên một lao động thấp, phương thức canh tác lạc hậu nên giá
thành nông sản nhìn chung sẽ cao hơn mặt bằng giá thế giới. Khi những rào
cản thương mại được bãi bỏ hoặc giảm thiểu, nông sản nhập khẩu từ các nước
phát triển với giá thấp sẽ gây sức ép lớn cho kinh tế nông thôn, nhiều đơn vị
kinh doanh nông nghiệp có thể sẽ bị phá sản. Số người này sẽ di chuyển về
thành phố, làm trầm trọng thêm tình trạng thất nghiệp.
Hiện tại, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là hàng gia
công, chúng ta sẽ không được hưởng lợi khi gia nhập WTO, khi quy định qui
tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi là trị giá nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng
hóa tại nước được hưởng phải thấp hơn 65%.
Có thể nói khi gia nhập vào WTO, Việt Nam nhận được nhiều lợi ích
nhưng cũng đối mặt với nhiều thách thức. Về tổng thể những lợi ích dài hạn
13
cho quốc gia chiếm ưu thế.Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), thì 3 năm chịu tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu (từ năm

2008- nay), chỉ có duy nhất một năm (2007) là thuận lợi, tuy nhiên, những
mặt “được” và “chưa được” từ WTO cũng đã bắt đầu bộc lộ.
Về thương mại, từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO, thương mại Việt Nam phát triển mạnh mẽ trên cả 2 hướng xuất nhập
khẩu và thương mại nội địa. Số liệu từ Viện Quản lý Kinh tế Trung ương đưa
ra đầu tháng 4/2011 cho thấy, năm 2007 xuất khẩu của Việt Nam đạt 48,6 tỷ
USD, tăng 21,9% so với năm 2006; tiếp đó năm 2008 xuất khẩu đạt 62,7 tỷ
USD, tăng 29,1% so với năm 2007. Năm 2009, chịu tác động từ khủng hoảng
tài chính thế giới, xuất khẩu của Việt Nam đạt 57,1 tỷ USD, giảm 8,9% so với
năm 2008 nhưng vẫn cao hơn năm 2006 khi Việt Nam chưa vào WTO là
45,8% và năm 2010 nhờ giá nhiều nhóm mặt hàng và nhu cầu thế giới tăng
trở lại nên xuất khẩu của Việt Nam lại tiếp tục tăng trưởng 26,4%. Tuy nhiên,
kết quả này chưa được như những mong muốn và kỳ vọng trước đó, vì nhập
siêu vẫn là vấn đề “nóng” cần được quan tâm. Cụ thể, cũng theo số liệu từ
Viện Quản lý Kinh tế Trung ương đưa cho thấy, nếu như năm 2006 Việt Nam
chỉ nhập siêu 5,5 tỷ USD thì đến năm 2007 (sau hơn 1 năm gia nhập WTO)
nhập siêu của Việt Nam là 14,2 tỷ USD và năm 2008 con số này đã là 18 tỷ
USD, năm 2009 và 2010 mặc dù đã có nhiều biện pháp kiềm chế nhập siêu
nhưng kết quả nhập siêu vẫn lần lượt là 12,8 và 12,6 tỷ USD.
Mặc dù bản chất thâm hụt thương mại là không xấu, nó phụ thuộc vào
tác động của xuất hay nhập đóng vai trò như thế nào đối với tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, nếu thâm hụt thương
mại tiếp tục diễn ra trong nhiều năm liền sẽ kéo theo việc dịch chuyển ngoại
tệ ra nước ngoài và gây ra những khó khăn cho việc thanh toán và tiêu dùng.
Tích cực hơn so với xuất nhập khẩu là sự phát triển nhanh của thị
trường nội địa. Theo Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương:
14
Kể từ sau khi gia nhập WTO, dịch vụ phân phối tại Việt Nam đã đạt được
mức tăng trưởng đáng kể. Phân phối- bán lẻ đóng góp khoảng 14% GDP, sử
dụng hơn 5 triệu lao động, cao nhất trong các ngành dịch vụ. Mức lưu chuyển

hàng hoá bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam từ năm 2006-2008 đã tăng 25%/
năm, cao hơn mức 18,3%/ năm của giai đoạn 2001-2005. Năm 2009 và 2010
là 2 năm có nhiều khó khăn do tác động khủng hoảng tài chính toàn cầu,
nhưng theo số liệu thống kê từ Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
doanh số bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng của Việt Nam vẫn
tăng lần lượt là 18,6% và 24,5% (nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 12% vào năm
2009 và 14% vào năm 2010). Việt Nam cũng được đánh giá là một trong
những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất trên thế giới. Cùng với nó, sau khi gia
nhập WTO, nhiều tập đoàn bán lẻ trên thế giới đã đặt chân đến Việt Nam
mang theo những thương hiệu nổi tiếng trên thế giới, tạo ra một nguồn cung
hàng hóa phong phú, đáp ứng tối đa nhu cầu mua sắm của người dân. Thương
mại tiêu dùng có sự chuyển dịch cơ cấu truyền thống sang hiện đại, chuyển
dịch từ đơn lựa chọn sang đa lựa chọn.
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 71,6 tỉ USD, tăng 25,5% so
với năm 2009, vượt xa kế hoạch Quốc hội đề ra là 60 tỉ USD (tăng trên 6%)
cũng như mức đỉnh 62,7 tỉ USD năm 2008. Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất
khẩu năm nay có sự thay đổi ở một số nhóm hàng hóa so với năm trước, trong
đó, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 42,8% lên
46%; nhóm hàng công nghiệp năng và khoáng sản giảm từ 29,4% xuống
27,2%; nhóm hàng thủy sản giảm từ 7,4% xuống 6,9%; vàng và các sản phẩm
vàng từ 4,6% xuống 4%. Đặc biệt, Việt Nam đã có 18 mặt hàng đạt kim
ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD, tăng 6 mặt hàng so với năm 2009. Lần đầu
tiên, dệt may đạt trên 11 tỉ USD, đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu trong 26
15
mặt hàng chính. Thủy sản, da giày đã vượt dầu thô “soán ngôi” top 3 mặt
hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất.
Biểu đồ 9: Kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2000 – 2010
Chương 2
TÁC ĐỘNG CỦA NGOẠI THƯƠNG ĐẾN PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VIỆT NAM TỪ SAU ĐỔI MỚI.

Có thể nói, từ năm 1986 đến năm 1990 là giai đoạn bước đệm, giai
đoạn chuẩn bị về tư tưởng, nhận thức cũng như về tư duy kinh tế mới trong
mọi tầng lớp nhân dân, thậm chí trong đội ngũ lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước (vì không phải ai cũng chấp nhận đường lối đổi mới của Đảng ngay từ
khi ra đời) cho những thành tựu và phát triển sau này. Giai đoạn này, đường
lối và chính sách đổi mới đã bắt đầu được áp dụng nhưng không phải ngay lập
tức đã đem lại những kết quả khả quan. Chính vì vậy, ngoại thương mặc dù đã
đạt được những thành tựu to lớn hơn rất nhiều so với những năm trước đó
nhưng chưa thực sự phát huy được vai trò của nó trong việc tác động tích cực
đến phát triển nền kinh tế. Phải sang những năm 90, tư duy đổi mới đã đi vào
đời sống của nhân dân, mọi người đều nhận thức được tầm quan trọng của
16
việc phát triển kinh tế đối ngoại với bên ngoài. Đặc biệt là ngoại thương có
tác động quan trọng đến tăng trưởng kinh tế đất nước.
1. Ngoại thương tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên của sản lượng hàng hoá và dịch vụ
mà sự tăng trưởng này được duy trì trong một thời gian dài. Kể từ khi bắt đầu
công cuộc cải cách kinh tế với chính sách đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã
đạt được những thành tựu tăng trưởng nổi bật. Trong giai đoạn 1991 - 2000,
Việt Nam là một trong 10 nước cớ tốc độ tăng trưởng cao trên thế giới. Tốc
độ tăng trưởng thời kỳ này cũng đạt được mức độ cao nhất so với tất cả các
thời kỳ trước đó ở Việt Nam. Từ năm 1991 đến năm 2000, tổng sản phẩm
trong nước tăng liên tục với tốc độ bình quân 7,56%/năm. Nhờ vậy, đến năm
2000, tổng sản phẩm trong nước đã gấp 2,07 lần so với năm 1990. Nhìn lại
các nước như kinh tế Hàn Quốc trong 10 năm 1991 - 2000, kinh tế Hàn Quốc
gấp 2,66 lần với tốc độ tăng bình quân mỗi năm 10,28%; hai chỉ tiêu tương
ứng của Singapo là 2,05 lần và 7,43%; Malaixia là 1,87 lần và 6,5%; Kinh tế
Trung Quốc trong 5 năm 1996 - 2000 cũng chỉ tăng 48% với tốc độ tăng bình
quân mỗi năm 8,16%.
Bên cạnh chỉ tiêu về GDP nói chung, tổng sản phẩm trong nước tính

theo đầu người cũng tăng lên đáng kể do chúng ta đã duy trì được tốc độ tăng
trưởng kinh tế ổn định và kiềm chế được tốc độ gia tăng dân số tự nhiên ngày
càng giảm (năm 1991 là 2,33% giảm xuống còn 1,4% năm 2000). Tăng
trưởng không còn dựa vào bao cấp và viện trợ, vay nợ nước ngoài lớn như
thời kỳ chưa đổi mới, nên có ý nghĩa đích thực và thể hiện mức độ tự lớn lên
của bản thân nền kinh tế nước ta.
Trước đổi mới, tăng trưởng kinh tế không những thấp mà còn thiếu các
tính chất của sự phát triển. Tăng trưởng trong cơ chế phi thị trường được thực
hiện theo mệnh lệnh với bất cứ giá nào, bất cứ chất lượng nào, bất cứ nhu cầu
17
nào, kể cả nhu cầu giả tạo, không những gây lãng phí sức lao động mà còn
lãng phí rất lớn vật tư, nguyên liệu và năng lượng.
Điều đáng chú ý là trong thời kỳ sau đổi mới, các khu vực kinh tế và
các ngành kinh tế then chốt mà trước hết là nông nghiệp và công nghiệp đều
đạt tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu ngành kinh tế nói riêng và cơ cấu kinh tế
nói chung đã biến chuyển theo chiều hướng phù hợp với yêu cầu của quá trình
CNH - HĐH đất nước.
2. Ngoại thương góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
Một trong những nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo là đổi mới cơ cấu kinh tế, bao gồm cơ cấu
ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế. Trong đó ngoại thương tác
động rõ nhất đến cơ cấu ngành kinh tế. Nhưng trước hết, để thấy được những
tác động của ngoại thương đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chúng ta
cần có cái nhìn tổng quan về những biến đổi cơ cấu kinh tế vĩ mô của Việt
Nam trong 10 năm của thập kỷ 90.
Trong thời gian hơn 10 năm từ 1991 đến 2001, sự chuyển dịch cơ cấu
tuy còn chậm chạp nhưng xu hướng chuyển dịch tương đối rõ ràng, nhất là về
cơ cấu ngành. Nếu phân chia nền kinh tế thành ba khu vực (Một là nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản; hai là công nghiệp và xây dựng và thứ ba là dịch vụ) thì ta

nhận thấy rằng tỷ trọng giá trị trong tổng GDP của các ngành đã phản ánh xu
hướng phát triển có tính quy luật mà hầu hết các quốc gia khi mới tiến hành
công nghiệp hoá đều phải trải qua: tất cả các ngành kinh tế đều gia tăng hàng
năm về quy mô tuyệt đối nhưng về quy mô tương đối thì nông nghiệp ngày
càng giảm đi so với công nghiệp và dịch vụ. Hay nói cách khác, tỷ trọng giá
trị tăng thêm của mỗi khu vực theo giá hiện hành chiếm trong tổng sản phẩm
trong nước đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng của khu vực công
18
nghiệp và dịch vụ; giảm tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong khi vẫn duy
trì được tốc độ tăng của tất cả các khu vực và các ngành kinh tế. Đó là sự
chuyển dịch cơ cấu theo đúng hướng và phù hợp với yêu cầu đẩy mạnh tiến
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cơ cấu vùng kinh tế cũng bắt đầu có sự chuyển dịch theo hướng hình
thành các vùng động lực phát triển kinh tế, vùng chuyên canh và các khu công
nghiệp tập trung, khu chế xuất có quy mô lớn.
Về thành phần kinh tế, do nước ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN nên sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế chỉ được coi là tích cực nếu kinh tế nhà nước phát huy
được vai trò chủ đạo đồng thời tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khác
phát huy được tiềm năng to lớn của mình. Những năm qua, mặc dù doanh
nghiệp nhà nước có giảm đi về số lượng do tổ chức sắp xếp lại và thực hiện
cổ phần hoá nhưng tỷ trọng của thành phần kinh tế này chiếm trong tổng sản
phẩm trong nước đã tăng từ 31,1% năm 1991 và 34,4% năm 1992 lên gần
40% những năm gần đây. tỷ trọng của các thành phần kinh tế khác trong
những năm vừa qua là: kinh tế tập thể chiếm 10%; kinh tế cá thể bao gồm cả
các hộ nông dân chiếm 30%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm
12%; còn lại là kinh tế tư nhân và hỗn hợp sở hữu.
Tác động của ngoại thương đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn được
thể hiện khá rõ qua cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu. Trước hết là hàng
xuất khẩu đã qua công nghiệp chế biến có chiều hướng ngày càng gia tăng.

Cơ cấu giá trị các nhóm hàng xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu cũng
có những biến đổi phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá.
Cơ cấu nhập khẩu cũng đã thay đổi theo hướng ưu tiên nhập các sản
phẩm cần thiết phục vụ cho sản xuất, hạn chế tối đa việc nhập các sản phẩm
19
tiêu dùng xa xỉ không thiết yếu. Các hàng nhập chủ yếu là nguyên vật liệu phục
vụ cho sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ.
3. Ngoại thương góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Một trong những điều kiện quan trọng nhất để tăng trưởng kinh tế, để
tiến hành công nghiệp hoá đất nước là phải có vốn. Phát triển ngoại thương
cho phép tăng nhanh tích luỹ vốn do thu được lợi nhuận siêu ngạch nhờ xuất
khẩu mang lại. Như chúng ta đã phân tích, ngoại thương và đầu tư nước ngoài
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó tác động của ngoại thương đến
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài là không nhỏ.
Hiện nay, kim ngạch ngoại thương và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) đang là một trong những nhân tố quan trọng đánh giá mức độ mở
cửa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Trong những năm qua, nguồn
FDI đổ vào Việt Nam đã có sự tăng trưởng tương đối khả quan với sự góp
phần quan trọng của hoạt động xuất nhập khẩu.
+Giai đoạn 1988 - 1991: trong giai đoạn này tuy cả xuất nhập khẩu đều
tăng, cá biệt năm 1989 xuất khẩu tăng rất cao (87,5%), song mức tăng đó
cũng không ổn định. Bình quân tăng xuất khẩu hàng năm là 29,8%, tăng nhập
khẩu là 6,8%, nhưng năm xuất khẩu thấp nhất là 13,3% (1991) và năm nhập khẩu
thấp nhất là -7,0% (1989). Đây là giai đoạn chúng ta mở cửa nên nền kinh tế còn
chưa ổn định, tốc độ tăng trưởng còn thấp (bình quân hàng năm GDP tăng là
3,9%). Các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam như đến một miền đất mới, vừa
xa lạ vừa hấp dẫn, họ thận trọng không dám mạo hiểm, mới thử làm để thăm dò
cơ hội. Vì vậy số dự án Fdi trong thời gian này chưa nhiều, mức tăng trưởng vốn
đầu tư còn chậm. Tuy nhiên, xu hướng đàu tư ngày càng tăng rõ rệt, và vốn đầu tư

đăng ký năm 1991 gần bằng cả ba năm trước đó cộng lại.
+ Giai đoạn 1992 - 1996: trong giai đoạn này kể cả GDP và FDI hàng
năm đều tăng khá nhanh, liên tục, ổn định và cao hơn hẳn so với giai đoạn
20
1988 - 1991 (bình quân hàng năm của GDP là 8,9%, của FDI là 32,1%).
Thành tựu khả quan này do nhiều nguyên nhân, song chắc chắn có phần quan
trọng của hoạt động ngoại thương: tốc độ tăng bình quân hàng năm của xuất
khẩu là 28,5%, của nhập khẩu là 37,64%. Đặc biệt năm 1995 nền kinh tế đạt
mức tăng trưởng 9,5%, xuất khẩu tăng rất mạnh 35,65%, nhập khẩu cũng
tương tự 39,9%. Chính điều này đã tạo niềm tin rất lớn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài. Và kết quả là năm 1996, số vốn FDI đã đạt được mức kỷ lục, cao
nhất trong cả thời kỳ là 8.538 triệu USD, quy mô của các dự án cũng lớn nhất
(bình quân mỗi dự án là 26,2 triệu USD). Nhìn theo các đường xu hướng tại
biểu đò trong cả giai đoạn cho thấy, thời kỳ này các đường xuất khẩu, nhập
khẩu, FDI biến thiên khá cùng pha bởi lúc này thị trường xuất khẩu của Việt
Nam đã chuyển hướng sang các nước trong khu vực và các nước phương Tây
- những nước có hoạt động đầu tư trực tiếp khá lớn vào Việt Nam.
+ Giai đoạn 1997 đến nay, giai đoạn này đánh dấu một thời kỳ mà cả
xuất khẩu, nhập khẩu và FDI đều có xu hướng tăng chậm lại hoặc giảm sút.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế
trong khu vực đã tác động mạnh đến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là nguồn
FDI mà chủ yếu từ các quốc gia trong khu vực.
Xuất khẩu đã tạo ra một bộ phận quan trọng trong doanh thu của khu
vực FDI (vào khoảng 50%). Trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, khu
vực FDI đang càng ngày chiếm một tỷ trọng lớn, từ chỗ chỉ đạt 3,28% năm
1992 đã tăng lên 26,01% vào năm 2000 con số này đã tăng lên đến 27,3%
năm 2001, và 27,8% chỉ trong 4 tháng đầu năm 2002
Những phân tích trên đây đang phản ánh một xu hướng tích cực trong
nền kinh tế Việt Nam, nó phù hợp với quy luật kinh tế khách quan : Tự do
hoá thương mại làm gia tăng quy mô và các phương thức trao đổi thương mại

quốc tế đồng thời kéo theo sự gia tăng đầu tư quốc tế và ngược lại.
21
4. Ngoại thương tạo điều kiện tiếp thu thành tựu khoa học
kĩ thuật hiện đại và đổi mới công nghệ trong nước.
Công nghệ là kết quả của sự kết hợp khoa học kỹ thuật với hoạt động
của con người được vật chất hoá nên có sức mạnh to lớn. Nó quyết định sự
hình thành những ngành sản xuất mới, những sản phẩm mới, nó chi phối chất
lượng sản phẩm và năng suất lao động, do đó ngày nay nó giữ vị trí quan
trọng trong lực lượng sản xuất chỉ sau con người.
Đối với bất kỳ quốc gia nào đang trong quá trình CNH - HĐH, vấn đề đổi
mới công nghệ và kỹ thuật hiện đại từ nước ngoài cũng là nhân tố có ý nghĩa
quan trọng góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu hẹp dần khoảng
cách với các nước phát triển đi trước. Sở dĩ như vậy là vì, đổi mới thiết bị và
công nghệ là nhân tố quyết định sự phát triển của sản xuất thông qua việc nâng
cao năng suất lao động xã hội, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của tiêu dùng về
số lượng và chất lượng. Việt Nam cũng như vậy, hiện nay chúng ta đang mở
rộng quan hệ hợp tác với nhiều nước trên thế giới trong đó có cả những nước
công nghiệp phát triển và những nước đang phát triển. Điều đó cho phép Việt
Nam có những cơ hội tốt để đổi mới công nghệ, áp dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện
đại xây dựng các ngành công nghiệp tiên tiến phù hợp với điều kiện nước ta.
Để thực hiện mục tiêu của quá trình CNH - HĐH thì việc đổi mới, nâng
cao trang thiết bị là một yêu cầu tất yếu.
Do trình độ phát triển kinh tế của chúng ta không cao nên khả năng
tự phát triển công nghệ mới hiện đại của chúng ta là rất khó khăn. Hiện
nay, phần lớn công nghệ của chúng ta đang sử dụng là nhập khẩu từ các
nước khác và như vậy, dĩ nhiên muốn thực hiện được phải thông qua hoạt
động ngoại thương.
Vai trò của ngoại thương đối với việc đổi mới công nghệ và trang thiết
bị kỹ thuật trong nước được thể hiện:
22

Thứ nhất, ngoại thương phát triển nghĩa là hoạt động thương mại giữa
Việt Nam với các nước khác trên thế giới ngày càng được mở rộng. Chính
điều đó đặt ra một yêu cầu vô cùng quan trọng đối với sản xuất trong nước, đó
là vấn đề công nghệ. Như chúng ta biết là trình độ công nghệ của thế giới phát
triển với một tốc độ chóng mặt trong khi đó ở Việt Nam luôn là nước đi sau
trong việc đổi mới trang thiết bị kỹ thuật. Sau nhiều năm xây dựng, chúng ta
đã có một số cơ sở công nghiệp, cơ sở hạ tầng, dịch vụ quan trọng nhưng nhìn
chung những cơ sở hạ tầng đó đang được vận hành trong điều kiện thiết bị,
công nghệ lạc hậu rất nhiều so với các nước trong khu vực cũng như trên thế
giới. Trong khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai đã cho phép
nhiều nước đạt tới trình độ kỹ thuật và công nghệ cao, tự động hoá vầ thông
tin hoá sản xuất đã được phổ biến, tạo ra những bước nhảy vọt về năng suất
lao động xã hội, thì ở nước ta, trình độ trang thiết bị kỹ thuật của nền kinh tế
quốc dân còn rất thấp. Trong công nghiệp, đa số máy móc thiết bị của ta thuộc
thế hệ cũ, trang bị không đồng bộ nên chi phí sản xuất cao, năng suất lao động
lại thấp, sản phẩm sản xuất ra thì kém chất lượng và giá thành cao. Giá thành
sản phẩm cao do nhiều yếu tố nhưng trước hết là do công nghệ sử dụng trong
quá trình chế tạo lạc hậu, dẫn đến giá trị của các sản phẩm thấp về chất lượng
và mẫu mã, khó có thể tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài
nước. Và dĩ nhiên muốn cho hàng hoá của chúng ta cạnh tranh một cách
thành công trên thị trường trong và ngoài nước thì chúng ta phải học hỏi các
nước khác, liên tục đổi mới công nghệ sản xuất cho phù hợp với yêu cầu
trong thời đại mới. Chẳng hạn như, hiện nay hàng may mặc xuất khẩu của
Việt Nam rất phát triển đặc biệt là vào thị trường các nước EU. Nhưng đây
cũng chính là một thị trường có nhu cầu tiêu dùng rất khó tính. Do đó, những
nhà máy, xí nghiệp sản xuất hoặc gia công hàng may mặc phải thay đổi máy
móc, trang thiết bị để đáp ứng yêu cầu khắt khe của những thị trường này về
23
quy cách phẩm chất của sản phẩm. Như vậy, ngoại thương trước hết đặt ra
yêu cầu đổi mới công nghệ sản xuât trong nước, đó cũng là một trong những

vấn đề quan trọng của CNH - HĐH.
Thứ hai, ngoại thương có vai trò thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nhưng
như chúng ta đã biết, vốn đầu tư nước ngoài luôn đi kèm với công nghệ. Vậy
là thông qua việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài thì ngoại thương đồng
thời cũng tạo cơ hội cho việc tiếp thu những thành tựu khoa học hiện đại của
thế giới để có điều kiện đổi mới trang thiết bị và công nghệ trong nước.
Thông thường, ở những nước có nền công nghiệp phát triển, vòng đời của
công nghệ cũng bị rút ngắn đi rất nhiều. Trong khi đó các nước này cũng có
nhu cầu đổi mới trang thiết bị trong nước. Kết quả là họ tìm cách di chuyển
những trang thiết bị và công nghệ cũ trong nước sang các nước đang phát
triển. Mặt khác, ở các nước đang phát triển, trình độ công nghệ rất lạc hậu, có
khi những công nghệ được coi là cũ ở những nước phát triển lại là những
công nghệ tiên tiến ở những nước đang phát triển. Hay khi đầu tư sang các
nước đang phát triển, các nhà đầu tư thường phải đem theo cả công nghệ sản
xuất vì công nghệ ở những nước nhận đầu tư không đủ tiêu chuẩn và điều
kiện để công trình đầu tư đi vào hoạt động. Vậy ngoại thương thể hiện vai trò
tiếp thu thành tựu khoa học tiên tiến và đổi mới công nghệ trong nước còn
thông qua vai trò thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, ngoại thương bằng việc nhập khẩu máy móc thiết bị và
chuyển giao công nghệ theo con đường đầu tư phải nắm vững phương châm
đón đầu, đi thẳng vào tiếp thu công nghệ hiện đại. Nhập khẩu phải hết sức
chọn lọc, hết sức tránh nhập khẩu những loại công nghệ lạc hậu mà chưa
dùng được bao lâu, chưa đủ sinh lợi đã phải thay thế. Nhưng vấn đề không chỉ
là lựa chon công nghệ để nhập khẩu bởi vì công nghệ có thể lạc hậu so với thế
giới lại là tiên tiến ở nước ta; hơn nữa liệu các công ty nước ngoài cũng như
24
các nhà đầu tư vào Việt Nam có sẵn sàng cung cấp cho chúng ta những kỹ
thuật tiên tiến hơn không. Vấn đề là chúng ta phải tìm cách tiếp nhận các kỹ
thuật đã cũ nhưng có thể cải tiến, có thể thu hồi vốn nhanh và có hiệu quả
sớm, ít gây ô nhiễm môi trường. Đồng thời chúng ta phải chú ý đến những đối

tác như Mỹ, Nhật, EU là những nước có trình độ phát triển cao, kỹ thuật lạc
hậu của họ có khi còn tiên tiến hơn kỹ thuật của nhiều nước khác.
Sự tiếp nhận thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại và đổi mới công
nghệ qua ngoại thương đã mang lại hiệu quả to lớn, tạo điều kiện cho chúng
ta nhanh chóng làm chủ công nghệ qua đầu tư nước ngoài. Cũng bằng cách
này, những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế
giới sẽ nhanh chóng đến với chúng ta, giúp cho chúng ta đi tắt không cần phải
qua các bước trình tự trên con đường khoa học và công nghệ, góp phần rút
ngắn quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Đối với nước ta, phát triển công nghệ là mục tiêu quan trọng của ngoại
thương. Đây vừa là mục tiêu trước mắt vừa là mục tiêu lâu dài của quá trình
CNH. Nước ta là một nước đang phát triển, dù trong thời gian đầu chúng ta có
đạt mức tăng trưởng cao nhờ khai thác nguồn tài nguyên sẵn có và lao động
dồi dào nhưng về lâu dài, cái quyết định sự thành công của quá trình CNH
chính là công nghệ. Trong điều kiện hiện nay, nền công nghiệp trong
nước còn yếu, trình độ thấp, chúng ta không có cách nào tốt hơn là cần
thực hiện một quá trình chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào qua con
đường ngoại thương để tranh thủ công nghệ nước ngoài, áp dụng vào hoàn
cảnh cụ thể nước ta. Cải tiến công nghệ nhập khẩu tiến tới kết hợp ứng
dụng, cải tiến và sáng tạo để tạo ra những công nghệ có chất lượng cao và
mới của riêng chúng ta. Đây là một quá trình lâu dài và vất vả, đòi hỏi có
sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp nhưng ngoại thương phải đóng vai
trò tiên phong, mũi nhọn.
25

×