Tải bản đầy đủ (.pdf) (176 trang)

LUẬN VĂN: Tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp nhà nước doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 176 trang )

LUẬN VĂN:

Tổ chức kế tốn quản trị và phân
tích kinh doanh trong doanh nghiệp
nhà nước


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 10 năm qua, Chính phủ đã triển khai hàng loạt biện pháp tích cực nhằm đổi
mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Trong bối cảnh thế giới có
nhiều diễn biến phức tạp và nền kinh tế cịn có nhiều khó khăn, gay gắt, song DNNN đã
vượt qua nhiều thử thách, đứng vững và khơng ngừng phát triển, góp phần quan trọng vào
thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, đưa nước ta ra khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
DNNN đã chi phối được các ngành, các lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu
của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn
định và phát triển kinh tế xã hội, tăng thế và lực của đất nước, là lực lượng quan trọng thực
hiện chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và đảm bảo nhiều sản phẩm, dịch vụ
công ích, thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh. DNNN đã ngày càng thích ứng với cơ
chế mới, năng lực sản xuất tiếp tục tăng, cơ cấu ngày càng hợp lý hơn, trình độ cơng nghệ
và quản lý có nhiều tiến bộ, hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên, đời sống
của người lao động từng bước được cải thiện.
Tuy nhiên, DNNN cũng còn nhiều tồn tại, yếu kém, vướng mắc, còn nhiều bất hợp
lý như trình độ cơng nghệ cịn lạc hậu, quản lý cịn yếu kém, chưa thực sự tự chủ, tự chịu
trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh (SXKD), kết quả đạt được chưa tương xứng với các
nguồn lực đã có và sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước, hiệu quả và sức cạnh tranh cịn thấp,
nợ khơng có khả năng thanh tốn tăng lên, lao động thiếu việc làm và dơi dư còn lớn.
Hiện nay, DNNN đang đứng trước thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát


triển và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Để kinh tế nhà nước nói chung,
DNNN nói riêng thực sự giữ vai trò chủ đạo trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, ổn định phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, cần phải tìm ra những


nguyên nhân chủ yếu để có giải pháp cụ thể, thiết thực khắc phục những mặt hạn chế, nâng
cao hiệu quả SXKD.
Những hạn chế, yếu kém của DNNN có nguyên nhân khách quan, nhưng phần
nhiều là do những nguyên nhân chủ quan, trong đó chủ yếu là việc quản lý và hạch toán
kinh tế ở DNNN chưa tốt, sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn cịn nhiều lãng phí, bất cập.
Thực tế cho thấy các DNNN còn nhiều lúng túng trong nhận thức về cơ chế thị trường,
trong việc sử dụng các công cụ quản lý vi mô để điều hành và quản lý hoạt động SXKD.
Kế toán quản trị (KTQT) và phân tích kinh doanh (PTKD) là cơng cụ quản lý vi mô không
thể thiếu cho quản trị một doanh nghiệp (DN) trong cơ chế thị trường, chưa được các nhà
quản trị quan tâm sử dụng, thậm chí còn bỡ ngỡ cả trong nhận thức về vai trò, chức năng và
cách thức tổ chức thực hiện chúng trong DN.
Đề tài "Tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp
nhà nước" được chọn nghiên cứu với mong muốn góp phần bổ sung thêm những vấn đề
lý luận về KTQT và PTKD, tăng cường tính ứng dụng của KTQT và PTKD đối với các
DN nói chung, DNNN nói riêng; góp phần phát triển cơng tác KTQT và PTKD ở Việt
Nam cũng như nâng cao trình độ quản lý, sức cạnh tranh trong các DNNN.
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn
KTQT và PTKD là công cụ phục vụ cho các nhà quản trị ra các quyết định kinh
doanh. Trong điều kiện kinh tế thị trường, để đưa ra các quyết định kinh doanh phù hợp,
kịp thời, nhà quản trị DN cần dựa vào các thông tin hiện tại có liên quan đến tương lai và
phân tích các tình huống, các phương án kinh doanh để lựa chọn phương án hay quyết định
hợp lý nhất...
Với vai trò ngày càng quan trọng trong quản lý kinh tế, KTQT và PTKD đã và
đang là vấn đề được giới chun mơn quan tâm. Trên thế giới đã có rất nhiều tác giả
nghiên cứu và viết sách, tạp chí về vấn đề này. ở Việt Nam cũng đã được nhiều nhà nghiên

cứu và cán bộ quản lý ở các DN quan tâm, đặc biệt trong gần 10 năm trở lại đây.


Hiện nay, các nhà nghiên cứu, các giảng viên trong các trường đào tạo chuyên
ngành đang còn nhiều quan điểm khác nhau về lý luận và tính ứng dụng của nó đối với các
DN. Thực tế, các DN nói chung, các DNNN nói riêng chưa thực sự quan tâm đúng mức
đến KTQT và PTKD nên dẫn đến thiếu thông tin phù hợp cho các nhà quản trị hoạch định
chính sách và đưa ra các quyết định quản lý tối ưu. Nếu nhận thức đúng vai trị, chức năng,
mục đích của KTQT và PTKD trong quản lý vi mô, tổ chức KTQT và PTKD một cách
khoa học, hợp lý, chắc chắn góp phần nâng cao trình độ, năng lực quản lý, điều hành
SXKD và hiệu quả kinh tế của các DN.
Xuất phát từ những vấn đề đã nêu trên đây, việc nghiên cứu đề tài tổ chức KTQT
và PTKD trong DNNN vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn và là vấn đề thời
sự cấp thiết hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa và phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức KTQT và
PTKD trong DN, góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận về tổ chức KTQT và
PTKD.
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng về tổ chức KTQT và PTKD trong DNNN.
- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức KTQT và PTKD trong DNNN.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Với mục đích đã xác định, luận án chỉ tập trung nghiên cứu, hệ thống hóa và phân
tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức KTQT và PTKD trong DNNN, tập trung
chủ yếu vào các DN sản xuất.
Luận án sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp chung: Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tổng hợp, phân tích,
khảo sát...


- Phương pháp thực hiện: Nghiên cứu các tư liệu trong và ngoài nước, tiếp xúc

trực tiếp với một số DNNN thuộc loại hình DN sản xuất, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp và
các cán bộ quản lý trong DN.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về tổ chức kế tốn quản trị và phân tích kinh doanh
trong DN.
Chương 2: Thực trạng tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh doanh trong
DNNN Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Hồn thiện tổ chức kế tốn quản trị và phân tích kinh doanh trong
DNNN.


Chương 1
Lý luận cơ bản về tổ chức kế toán quản trị
và phân tích kinh doanh trong doanh nghiệp

1.1. Khái qt chung về kế tốn quản trị và phân tích kinh doanh
1.1.1. Khái niệm về kế toán quản trị và phân tích kinh doanh
Kế tốn là nhu cầu tất yếu khách quan, là công cụ không thể thiếu trong quản lý
kinh tế tài chính.
V.I. Lênin cho rằng, kế tốn là một trong những hình thức kiểm tra, giám đốc có
hiệu quả nhất, Người viết: "Kế tốn và giám đốc, đó là điều quan trọng, là yêu cầu cần
thiết để xã hội cộng sản chủ nghĩa hoạt động đúng đắn", hay "chủ nghĩa xã hội là kế toán"
[7].
Năm 1941, Viện các giám định viên kế toán (American Institute of Certified
public Accountants - AICPA) đã định nghĩa: "Kế toán là một nghệ thuật của việc ghi chép,
phân loại và tổng hợp bằng một phương pháp riêng và ghi bằng tiền các nghiệp vụ, sự
kiện có tính chất tài chính và giải thích kết quả của nó" [1].
Theo định nghĩa này, kế tốn không chỉ ghi chép số liệu về hoạt động tài chính mà
cịn phân tích, diễn giải số liệu đó, từ đó cung cấp thơng tin có ích cho việc ra quyết định
quản lý trong các đơn vị, tổ chức kinh tế.

Trong "Từ điển thuật ngữ kế tốn" có nêu: "Kế tốn là q trình ghi chép, đánh
giá, chuyển đổi và thơng tin về các số liệu tài chính" [81] .
Về cơ bản, khái niệm này cũng phù hợp với khái niệm mà AI CPA đã nêu.
Điều lệ tổ chức kế toán ban hành theo Nghị định số 25-HĐBT ngày 18/03/1989 có
nêu: "Kế tốn là cơng cụ quan trọng để tính toán, xây dựng và kiểm tra việc chấp hành,
quản lý các hoạt động, tính tốn kinh tế và kiểm tra việc bảo vệ, sử dụng tài sản, vật tư,


tiền vốn nhằm đảm bảo quyền chủ động trong sản xuất, kinh doanh và tự chủ tài chính của
tổ chức, xí nghiệp" [37].
Khái niệm này cũng phù hợp với quan niệm của V.I.Lênin, nhấn mạnh vai trị cơng
cụ quản lý kinh tế trong đơn vị của kế toán.
Giáo sư tiến sĩ Robert N.An Thony Trường Đại học Haward của Mỹ cịn cho rằng:
"Kế tốn là ngơn ngữ kinh doanh" [10].
Mục đích của ngơn ngữ là cung cấp thơng tin nên khái niệm này cũng nhấn mạnh
chức năng cung cấp thông tin về hoạt động kinh doanh của kế toán. Khái niệm này hàm ý
cả về tính linh hoạt, kịp thời của thơng tin kế tốn. Vì là "ngơn ngữ" nên kế toán cần phải
thay đổi để đáp ứng những nhu cầu biến động của xã hội, của những chủ thể tham gia
thơng tin. Nghĩa là, khái niệm về kế tốn cũng thường có sự biến đổi và hồn thiện để thực
hiện chức năng thiết yếu đối với mỗi đơn vị, tổ chức trong xã hội, đặc biệt là các DN. Đây
là cách tiếp cận với khái niệm kế toán mới và phù hợp với yêu cầu về sự phát triển của kế
toán trong nền kinh tế thị trường.
Sự phát triển không ngừng của kinh tế xã hội theo xu hướng khu vực hóa, quốc tế
hóa, đã tạo ra những thời cơ và thách thức mới cho DN, đòi hỏi DN luôn phải đưa ra
những quyết định kinh tế nhanh nhạy, phù hợp. DN thành công hay thất bại, tồn tại hay
phá sản phụ thuộc vào chính các quyết định quản lý của chủ DN, bởi cơ chế tự chịu trách
nhiệm, bởi quy luật đào thải khắc nghiệt của thị trường - một thị trường ngày càng mở
rộng với sức cạnh tranh ngày càng gay gắt... Các nhà quản trị không chỉ cịn cần số liệu kế
tốn tổng hợp, phản ánh những cái đã xảy ra mà còn phải được cung cấp số liệu kế toán
được theo dõi riêng cho từng vấn đề, lĩnh vực hoạt động... để sử dụng vào việc lập kế hoạch

và kiểm soát các hoạt động hàng ngày của đơn vị hay lập các kế hoạch SXKD và ra các
quyết định quan trọng như nên quy định đặt gia công một phần nào (chi tiết nào) của mặt
hàng sản xuất; chấp thuận hay từ chối một đơn đặt hàng với giá thấp so với giá niêm yết;
điều chỉnh kịp thời những yếu tố khác nhau trong giá thành sản phẩm v.v... Trong bối cảnh
đó, KTQT được hình thành và phát triển, tách biệt với KTTC.


KTQT thu nhận, xử lý và cung cấp các thông tin về hoạt động SXKD của DN một
cách cụ thể, chi tiết cho từng quá trình, từng hoạt động và toàn bộ các mặt hoạt động
SXKD của DN. Trên cơ sở thơng tin kế tốn và các thơng tin có liên quan thu thập từ
nhiều nguồn khác nhau, KTQT thực hiện "chế biến" và cung cấp cho nhà quản trị những
thơng tin thích hợp, kịp thời.
Cũng cần thấy rõ rằng, KTQT là một bộ phận của hệ thống kế toán DN. KTQT sử
dụng rộng rãi các số liệu ghi chép hàng ngày của kế toán trên cơ sở khai triển và phân tích
số liệu này để dự báo cho nhà quản trị về những khả năng có thể xảy ra trong tương lai, từ
đó có biện pháp ứng phó phù hợp, sẽ đảm bảo hoạt động của DN luôn trôi chảy, phù hợp
với mục tiêu, luôn ở thế chủ động trong kinh doanh.
Như vậy, trên giác độ chung nhất có thể kết luận, KTQT là khoa học thu nhận, xử
lý và cung cấp thông tin một cách chi tiết, cụ thể về tình hình và kết quả hoạt động SXKD,
phục vụ cho nhà quản trị DN lập kế hoạch, điều hành, tổ chức thực hiện và kiểm soát các
hoạt động SXKD trong nội bộ DN.
Khi có số liệu kế tốn, công việc thứ hai không kém phần quan trọng là phân tích
các số liệu đó trên cơ sở kết hợp giữa thơng tin kế tốn và các nguồn thơng tin khác. Có
thể nói, "kế tốn ở đơn vị có hai chức năng không tách rời nhau là chức năng cung cấp tin
tức và chức năng phân tích. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng giữa hai chức năng đó có một
ranh giới rõ rệt ngăn cách cái nọ với cái kia, mà chúng luôn liên hệ mật thiết với nhau" [7].
Quá trình phân tích thường tiến triển qua những giai đoạn nhất định, như
V.I.Lênin đã viết: "Bất kỳ công việc nghiên cứu nào cũng có thể tiến triển với trình độ sâu
sắc khác nhau, phát triển từ hiện tượng đến bản chất và từ bản chất sâu sắc ít đến bản
chất sâu sắc hơn" [7].

Để nhận thức đúng đắn thực trạng q trình và kết quả hoạt động SXKD của DN,
thơng tin kế toán phải được nghiên cứu riêng để rút ra những kết luận nhất định về mức độ
thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - tài chính. Đó là giai đoạn "đọc" số liệu kế toán. Giai đoạn
này người ta tiếp thu và nhận thức được hiện tượng kinh tế, cịn bản chất của hiện tượng
thì phải tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa, tức là phải thực hiện q trình phân tích một


cách phức tạp và có tính chất hồn chỉnh. Để cân nhắc và đánh giá, cần phải sử dụng thêm
một số nguồn thơng tin khác có liên quan như kế hoạch (dự tốn), thơng tin về hạch tốn
nghiệp vụ, hạch tốn thống kê, thơng tin về thị trường, về kết quả hoạt động của đơn vị
khác trong ngành v.v... Trong đó, số liệu kế tốn được coi là "trụ cột" của việc phân tích.
Khi cơng việc thu thập, xử lý và cung cấp số liệu kế toán chủ yếu do máy móc
đảm nhận thì cơng việc quan trọng sẽ là phân tích nhanh chóng những số liệu đã được xác
định để cung cấp kịp thời cho nhà quản trị những số liệu "đã được chế biến" ở dạng dễ sử
dụng nhất cho việc ra quyết định điều chỉnh kịp thời quá trình hoạt động (nếu cần thiết).
Nếu để quá lâu, sau một thời gian dài thực hiện mới phân tích, tính tốn để phát hiện ra các
biến động thì như "việc đã rồi", chỉ có tác dụng "rút kinh nghiệm" mà không mang lại hiệu
quả thực sự trong kỳ, thậm chí có thể dẫn đến những thiệt hại đáng kể đến lợi nhuận của
đơn vị khi tình hình thực tế có biến động lớn so với dự kiến (Ví dụ giá cả nguyên vật liệu
thay đổi, nhu cầu thị trường về sản phẩm nào đó của doanh nghiệp giảm sút hoặc có xu
hướng tăng v.v...).
Như vậy, PTKD là một yêu cầu tất yếu khách quan, nó phát sinh và phát triển
cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, nó liên quan đến chức năng quản lý kinh tế,
gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người. Khi sử dụng các số liệu (thơng tin) đã phân
tích, người quản lý có khả năng tập trung chú ý tăng cường vào các khâu và các chỉ tiêu có
ý nghĩa quyết định trong việc hoàn thành các mục tiêu đã đặt ra với chi phí hợp lý.
Lênin viết:
Cán bộ kinh tế sắc sảo phải bỏ qua những đề mục không quan trọng mà
phải biết nghiên cứu tỉ mỉ các nhân tố, số liệu và các tài liệu cần thiết, phải từ kinh
nghiệm thực tế của mình mà phân tích rõ các tình hình số liệu ấy và nói được rằng

đó là điều sai lầm cần phải sửa chữa ngay. Các cán bộ quản lý giỏi, trên cơ sở đã
điều tra nghiên cứu kỹ càng, có thể kiến nghị hoặc tự mình điều động nhân lực,
điều động cán bộ, điều chỉnh báo cáo, cải tiến bộ máy... [6].


Do một số lãnh đạo chưa làm chủ được công tác PTKD nên không phải lúc nào cũng
giải quyết và đánh giá đúng kết quả hoạt động của mình trên quan điểm hiệu quả kinh tế của
sản xuất, đôi khi dẫn đến những sai lầm đáng tiếc.
Vậy, có thể nói rằng, PTKD trong các tổ chức kinh tế là việc nghiên cứu một cách
sâu sắc, tồn diện, có căn cứ khoa học các mặt hoạt động SXKD của tổ chức kinh tế trong
một thời kỳ nhất định, nhằm đánh giá một cách đúng đắn chất lượng công tác quản lý kinh
tế của tổ chức kinh tế, xác định xu hướng phát triển và phát hiện các khả năng tiềm tàng
để phát triển sản xuất, trên cơ sở đó kiện tồn và cải tiến công tác tổ chức sản xuất và
quản lý đơn vị.
1.1.2. Vai trị, chức năng và mục đích của kế tốn quản trị và phân tích kinh
doanh
Kế tốn quản trị là một bộ phận cấu thành của hệ thống kế tốn trong DN, là một
cơng cụ trong hệ cơng cụ phục vụ cho quản trị doanh nghiệp.
Vai trị của KTQT trong các DN xuất phát từ yêu cầu quản lý của các nhà quản trị
DN, nó gắn liền và phục vụ cho các hoạt động quản lý từ khâu lập kế hoạch, thực hiện kế
hoạch đến kiểm tra phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch.
Do yêu cầu và trình độ quản lý của các DN có thể khác nhau nên vai trị của KTQT
trong mỗi DN được phát huy ở mức độ khác nhau. Nếu DN tổ chức KTQT không khoa học
hợp lý hoặc nhà quản trị DN đề ra yêu cầu về thông tin KTQT khơng rõ ràng thì vai trị
KTQT trong DN trở nên mờ nhạt và ngược lại.
Chức năng cơ bản của KTQT là cung cấp thông tin cụ thể về từng loại tài sản,
nguồn vốn, doanh thu, chi phí và kết quả từng loại hoạt động trong từng thời kỳ, thời điểm,
ở từng bộ phận... của DN. Dựa trên thông tin đó, nhà quản trị các cấp đưa ra các quyết
định quản lý phù hợp. Thông thường, nhà quản trị cấp cao được cung cấp thơng tin tổng
hợp, ngắn gọn cịn nhà quản trị cấp thấp hơn được cung cấp thông tin cụ thể hơn có liên

quan đến phạm vi trách nhiệm của họ. Do đó sẽ giúp cho nhà quản trị từng cấp đỡ tốn kém


thời gian cơng sức hay tản mạn chú ý vì những thơng tin khơng thích hợp với phạm vi
quyền hạn của mình.
Một chức năng nữa của KTQT là kiểm tra, giám sát tồn bộ hoạt động kinh tế tài
chính trong đơn vị như kế hoạch sản xuất, dự toán chi phí, kế hoạch giá thành, kế hoạch
doanh thu và kết quả v.v... Thông tin do KTQT cung cấp giúp nhà quản trị DN kiểm tra,
giám sát các hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị ở cả ba giai đoạn lập kế hoạch, thực
hiện kế hoạch, kết thúc và kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch.
Chức năng cung cấp thông tin và kiểm tra, giám sát của KTQT cũng xuất phát từ
chức năng của kế toán nói chung, nhưng có khác biệt với chức năng của KTTC do bản
chất và mục đích của chúng khác nhau. Về bản chất, KTTC thu thập, xử lý và cung cấp
thông tin về các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh và thực sự hồn thành (q khứ), cịn
KTQT thu thập, xử lý và cung cấp thông tin phản ánh về các nghiệp vụ kinh tế đã phát
sinh, đang phát sinh và sẽ phát sinh (quá khứ, hiện tại, tương lai). Do vậy, thông tin KTTC
giúp cho nhà quản trị kiểm tra được tình hình thực hiện kế hoạch SXKD trong từng kỳ (cái
đã đạt được), cịn thơng tin KTQT giúp cho việc kiểm tra được tính khả thi của kế hoạch,
diễn biến quá trình thực hiện kế hoạch một cách cụ thể, chi tiết và dự đoán trước kết quả
thực hiện kế hoạch để có biện pháp điều chỉnh lại hoạt động của DN một cách kịp thời,
nhằm thực hiện tốt mục tiêu đã định của đơn vị. Sau khi kết thúc quá trình thực hiện mục
tiêu, một số thơng tin KTQT có thể khơng cịn tác dụng nữa.
Về mục đích, KTQT cung cấp những thơng tin về hoạt động SXKD trong phạm vi
yêu cầu quản lý cụ thể của từng cấp quản lý nhưng KTTC không phục vụ trực tiếp cho
mục đích này.
Như vậy, vai trị, chức năng và mục đích của KTQT ln thể hiện, gắn liền với
việc thực hiện các chức năng và mục đích của hoạt động quản trị DN.
Để thực hiện tốt chức năng quản lý và điều hành hoạt động SXKD, nhà quản trị
không những phải được cung cấp thông tin KTQT mà còn phải yêu cầu thực hiện PTKD
để đánh giá đúng kết quả SXKD và thấy rõ những nhân tố và nguyên nhân khách quan hay

chủ quan, tích cực hay tiêu cực ảnh hưởng cụ thể đến quá trình và kết quả SXKD, chỉ ra


các nguồn tiềm năng cần được khai thác, trên cơ sở đó đề ra các phương án và giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD ở DN.
Trong điều kiện sản xuất kém phát triển, quy mô sản xuất nhỏ, các mối quan hệ
kinh tế chưa nhiều, cạnh tranh chưa gay gắt, công việc PTKD cũng đơn giản hơn, một
phần vì do nhu cầu thơng tin cho nhà quản trị chưa nhiều (thậm chí khơng phát sinh nhu
cầu thực hiện PTKD nếu hoạt động sản xuất quá giản đơn), một phần vì lượng thơng tin
liên quan chưa đáng kể nên nhà quản trị có thể nắm bắt tình hình ngay khi xem xét số liệu
kế toán.
Ngày nay, nền kinh tế các nước đều phát triển nhanh, quy mô sản xuất ngày càng
mở rộng, các mối quan hệ kinh tế ngày càng tăng, Nhà nước cũng tăng cường quản lý kinh
tế bằng những chính sách cụ thể, thiết thực và ngắn hạn, cùng với sự biến động phức tạp
của nền kinh tế thị trường... đã dẫn đến có rất nhiều nhân tố, nguyên nhân chủ quan và
khách quan luôn tác động đến quá trình và kết quả hoạt động SXKD của DN, DN cần phải
tiến hành PTKD thường xuyên và định kỳ để nắm bắt kịp thời việc thực hiện mục tiêu ở
mức độ nào? Cịn mặt nào hạn chế? Khó khăn, vướng mắc ở đâu? Khả năng dẫn đến rủi ro
nhiều hay ít? v.v... Qua đó nhà quản trị mới đưa ra được những quyết định kinh tế phù hợp
nhằm phòng ngừa rủi ro, hạn chế yếu điểm, tháo gỡ khó khăn một cách kịp thời. Như vậy,
vai trị của PTKD là giúp nhà quản trị DN nhìn nhận đúng đắn về khả năng, sức mạnh,
triển vọng cũng như những hạn chế, vướng mắc trong DN mình để có giải pháp phù hợp,
đạt được mục tiêu mong muốn.
Vậy, chức năng của PTKD là cung cấp cho nhà quản trị DN thơng tin cụ thể về
q trình và kết quả SXKD, chỉ ra những nhân tố và nguyên nhân ảnh hưởng đến q
trình và kết quả đó.
Nói về mối liên hệ tích cực của PTKD đối với cơng tác quản lý, Lênin viết: "... những
nhà kinh tế thực sự cầu thị cần phải thay thế việc soạn thảo những chương trình vô nghĩa
bằng việc nghiên cứu những nhân tố, những con số và tài liệu, phân tích những kinh
nghiệm thực tế của chúng ta và chỉ rõ: Sai lầm ở chỗ nào và phải sửa chữa sai lầm đó như

thế nào..." [6].


Người đã dạy chúng ta cần phải hiểu rõ sai lầm ở đâu để sửa chữa kịp thời bởi vì
trong q trình hoạt động khơng thể tránh khỏi sai lầm. Nếu khơng có sự phân tích, xét
đốn kịp thời thì có thể sẽ mắc sai lầm lớn hơn, đặc biệt trong trường hợp quá coi trọng
thành tích đã đạt được càng nguy hiểm hơn, sẽ không nhận thức đúng thực trạng tình hình.
Người viết:
Các nhà kinh tế, các cán bộ làm thống kê khơng được ba hoa về kế
hoạch nói chung mà phải đi sâu nghiên cứu tỉ mỉ việc hoàn thành các kế hoạch,
xem xét những tồn tại của mình trong thực tế cơng tác này để có biện pháp khắc
phục những tồn tại, khuyết điểm ấy. Chúng ta sẽ khơng biết gì hết nếu chúng ta
thiếu sự nghiên cứu tỉ mỉ như thế... [6].
Mục đích của PTKD khơng chỉ dừng lại ở đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu
(các chỉ tiêu kinh tế) mà còn phải chỉ rõ DN đã sử dụng nguyên vật liệu, máy móc thiết bị sản
xuất và lực lượng lao động ra sao? áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật như thế nào? Có những
yếu điểm gì cần khắc phục, đồng thời cũng chỉ ra nguồn dự trữ tiềm năng của DN còn chưa
được khai thác sử dụng. Kết quả cuối cùng của PTKD phải là những kiến nghị cụ thể về cách
sử dụng tốt hơn các nguồn lực của DN trên cơ sở giải quyết những vấn đề quản lý, có thể thay
đổi cách sử dụng nguồn lực như bố trí sắp xếp lại lao động, thay đổi nguồn cung cấp chủ yếu,
thay đổi phương án sản xuất, khai thác hiệu quả hơn máy móc thiết bị bằng phương án bổ
sung v.v... Kết quả phân tích có tác dụng đối với cả ba giai đoạn của quá trình quản lý và thực
hiện kế hoạch. Những ý kiến đề xuất trong phân tích định kỳ là cơ sở cho nhà quản trị lập kế
hoạch sát thực và khả thi. Trong quá trình thực hiện kế hoạch, dựa vào kết quả phân tích
thường xun, nhà quản trị DN sẽ kiểm sốt được tiến độ thực hiện kế hoạch, thấy rõ những
khó khăn vướng mắc cần tháo gỡ kịp thời, khi cần thiết có thể điều chỉnh lại kế hoạch, cân đối
lại việc sử dụng các yếu tố sản xuất để sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường. ở giai đoạn
kết thúc quá trình thực hiện kế hoạch, PTKD giúp nhà quản trị nhận thức rõ hơn về quá trình và
kết quả hoạt động để rút kinh nghiệm cho lập kế hoạch kỳ sau.
Như vậy, vai trò, chức năng và mục đích của phân tích kinh doanh cũng gắn liền

với việc thực hiện yêu cầu, chức năng và mục đích của các hoạt động quản trị DN.


KTQT và PTKD đều là công cụ quản lý quan trọng, cung cấp thơng tin hữu ích
cho nhà quản trị DN. Vai trị, mục đích, chức năng của KTQT và PTKD đều xuất phát và
gắn liền với việc thực hiện các chức năng và mục đích của hoạt động quản lý và điều hành
hoạt động SXKD của nhà quản trị các cấp trong DN. Thông tin KTQT và PTKD cung cấp
đều phục vụ cho quá trình quản lý và kiểm soát của nhà quản trị DN ở cả ba giai đoạn: lập
kế hoạch, thực hiện kế hoạch và kết thúc q trình thực hiện kế hoạch. Đó là những
"ngun liệu chủ yếu" cho quá trình đưa ra các quyết định quản lý tối ưu của nhà quản trị
DN.
Tuy nhiên, giữa KTQT và PTKD có những điểm khác biệt nhất định nên vai trị,
chức năng và mục đích của chúng cũng khác nhau. Những khác biệt cơ bản đó là:
+ KTQT sử dụng các phương pháp khoa học kế toán và các khoa học khác để thu
nhận, xử lý và cung cấp thông tin về các hoạt động của DN một cách chi tiết, cụ thể hơn số
liệu KTTC cung cấp. Nói một cách khác, KTQT trình bày và cung cấp thơng tin kế tốn ở
dạng

cụ

thể,

linh

hoạt

hơn,

giúp


nhà quản trị DN có được cái nhìn số liệu kế tốn ở các góc độ khác nhau, từ đó nhận thức
rõ ràng, cụ thể về quá trình hoạt động kinh doanh (đặc biệt đối với doanh thu, chi phí và
kết quả), nên nhanh chóng đưa ra quyết định quản lý phù hợp.
PTKD không thực hiện thu thập số liệu mà sử dụng những số liệu, tài liệu đã được
tổng hợp từ các loại hạch toán thống kê, hạch toán nghiệp vụ, hạch toán kế toán (cả KTQT
và KTTC) để phân tích đánh giá kết quả hoạt động SXKD theo hệ thống chỉ tiêu kế hoạch
(dự toán) hay nhiệm vụ SXKD mà DN đã đặt ra. Để xử lý và cung cấp thông tin, PTKD sử
dụng các phương pháp so sánh, thay thế liên hoàn v.v..., khơng sử dụng các phương pháp
kế tốn. Do vậy thơng tin PTKD cung cấp không chỉ thể hiện mức độ thực hiện các chỉ
tiêu mà còn chỉ rõ sự ảnh hưởng của các nhân tố và nguyên nhân cụ thể đến kết quả đó,
giúp nhà quản trị thấy rõ nhân tố và nguyên nhân tích cực để phát huy, nhân tố và nguyên
nhân tiêu cực cần loại bỏ.
+ Các nhân viên trong phịng kế tốn (hay nhân viên KTQT) thực hiện thu nhận,
xử lý và cung cấp thông tin KTQT. Cịn thơng tin PTKD có thể do phịng kế tốn, phòng


kế hoạch, phòng kinh doanh hoặc các phòng ban chức năng khác cung cấp. Cũng có thể do
bộ phận chức năng chuyên thực hiện PTKD cung cấp.
+ Thông tin thực hiện và tương lai trong KTQT đều xuất phát từ số liệu kế tốn,
thơng qua quy trình kế tốn, kết hợp với các thơng tin khác trong và ngồi DN, và được
cung cấp qua các báo cáo KTQT.
Thông tin PTKD gồm phân tích thực hiện và phân tích dự báo khơng thơng qua
quy trình kế tốn mà dựa trên số liệu kế toán, số liệu thống kê, hạch toán nghiệp vụ và các
thơng tin khác, thơng qua quy trình PTKD và được cung cấp qua các báo cáo PTKD.
+ Trong q trình thu nhận, xử lý và cung cấp thơng tin KTQT, các kế tốn viên
có thể thực hiện phân tích các chỉ tiêu chủ yếu trên các báo cáo KTQT hay chỉ tiêu kinh tế
- tài chính khác. Đó cũng là một phần công việc của PTKD, nhưng thường khơng chú
trọng phân tích kỹ các nhân tố và ngun nhân ảnh hưởng như q trình PTKD.
Cịn q trình PTKD không thực hiện KTQT mà chỉ sử dụng thông tin do KTQT
cung cấp.

+ Thông tin KTQT chủ yếu phục vụ cho nhà quản trị các cấp, và thường có tác
dụng cho từng kỳ kinh doanh hay từng quyết định quản lý cụ thể.
Thơng tin PTKD cung cấp khơng chỉ có tác dụng đối với nhà quản trị DN mà còn
tác dụng đối với mọi thành viên trong DN, và cả những đối tác có quan hệ và lợi ích kinh
tế với DN. Thơng tin PTKD có thể sử dụng cho nhiều kỳ kinh doanh hay nhiều loại quyết
định quản lý khác nhau.
v.v...
+ KTQT và PTKD đều thực hiện việc kiểm tra, đánh giá quá trình và kết quả hoạt
động SXKD của DN nhưng nội dung và phạm vi của PTKD thường rộng và sâu hơn
KTQT.
Tóm lại, KTQT và PTKD là những công cụ quản lý quan trọng không thể thiếu
trong quản lý vi mô, giúp nhà quản trị các cấp trong DN quản lý và điều hành có hiệu quả
hoạt động SXKD, hoạch định chương trình SXKD hợp lý trong tương lai. Trong điều kiện


SXKD theo cơ chế thị trường, KTQT và PTKD càng trở nên cần thiết, giúp cho DN luôn
chủ động đưa ra những biện pháp ứng phó phù hợp, kịp thời, nâng cao hiệu quả SXKD,
đứng vững và không ngừng phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt.
1.2. Các quan điểm cơ bản về tổ chức kế toán quản trị và phân tích kinh
doanh trong doanh nghiệp
1.2.1. Các quan điểm cơ bản về tổ chức kế toán quản trị trong doanh nghiệp
Tổ chức KTQT khoa học và hợp lý sẽ đảm bảo cung cấp thơng tin có chất lượng,
đáng tin cậy, kịp thời và đảm bảo tiết kiệm chi phí, nói cách khác là đảm bảo cung cấp
thơng tin hữu ích cho nhà quản trị trên cơ sở đảm bảo tính hiệu quả của cơng tác kế tốn.
Việc tổ chức KTQT là vấn đề phức tạp, cần phải chú ý đến các nhân tố ảnh hưởng
để tổ chức cho phù hợp. Có thể kể đến bốn nhóm nhân tố cơ bản cần xem xét khi tổ chức
KTQT trong DN, đó là:
Nhóm 1: ảnh hưởng bởi loại hình kế tốn áp dụng
Đây là yếu tố quan trọng, có tính quyết định đến mơ hình tổ chức KTQT trong
DN.

Các nước trên thế giới đang tồn tại 6 loại hình kế tốn cơ bản là: kế toán quỹ (kế
toán tiền mặt), kế toán tĩnh, kế tốn động, kế tốn phục vụ mục đích thuế, kế tốn kinh tế
vĩ mơ, kế tốn hiện tại hóa. Trong đó việc lựa chọn kế tốn tĩnh hay kế toán động thường
được coi là cốt lõi để xây dựng mơ hình kế tốn DN của từng quốc gia, trong đó kết hợp
với các đặc điểm của kế tốn thuế và kế tốn vĩ mơ.
Kế tốn tĩnh theo ngun tắc "giả định doanh nghiệp bị thanh lý định kỳ". Theo
mơ hình kế tốn này, việc thu thập, xử lý và cung cấp thơng tin kế tốn phục vụ cho mục
tiêu là kiểm tra xem tại một thời điểm nhất định nào đó, việc thực hiện các tài sản có cho
phép trả nợ hay không? Do vậy, chỉ những tài sản thuộc quyền sở hữu của DN mới được
ghi nhận và phản ánh trên bảng cân đối kế toán.


Kế toán động theo nguyên tắc "giả định DN hoạt động liên tục". Theo mơ hình kế
tốn này, việc thu thập, xử lý và cung cấp thơng tin kế tốn phục vụ cho mục tiêu đánh giá
hiệu quả của một DN trong từng thời kỳ trên cơ sở các tài sản hiện đang sử dụng, các khả
năng mang lại lợi ích kinh tế cho DN. Tài sản đó có thể không phải thuộc quyền sở hữu mà
chỉ thuộc quyền sử dụng, kiểm soát lâu dài của DN.
Căn cứ vào loại hình kế tốn áp dụng, các nước trên thế giới phân thành hai khối
tương đối khác biệt nhau về kế toán:
Khối các nước Anglosaxon như Anh, Mỹ, Canađa, Bulgari, Hà Lan, các nước
thuộc địa cũ của Anh ở châu Phi... lựa chọn loại hình kế tốn động. Q trình thu thập, xử
lý và cung cấp thơng tin kế tốn được chia thành KTQT và KTTC, trong đó KTTC để
cơng bố cơng khai những thơng tin tài chính, cịn KTQT nhằm cung cấp thông tin dành
riêng phục vụ quản trị DN.
Khối các nước tổ chức kế tốn theo mơ hình truyền thống Pháp như Pháp, Đức, ý,
Rumani, Hunggari, Nhật, các nước thuộc địa cũ của Pháp ở châu Phi... lựa chọn kế tốn
tĩnh (kế tốn tổng qt) cho mục đích cơng bố cơng khai tài chính, thuế và kế tốn động
(kế tốn phân tích) cho mục đích cung cấp thơng tin cho nhà quản trị DN.
Như vậy, kế toán giành cho nhà quản trị là KTQT của khối các nước Anglosaxon
và kế tốn phân tích của khối các nước theo kế toán truyền thống Pháp đều là kế toán

động, phụ thuộc u cầu quản lý của DN.
Các mơ hình kế tốn khác nhau cho phép thiết lập hệ thống kế toán khác nhau.
Theo PGS.TS Vương Đình Huệ thì "Kế tốn doanh nghiệp Việt Nam từ lần cải cách 1995
đến nay cơ bản được thiết kế theo loại hình kế tốn động" [56]. Việc lựa chọn loại hình kế
tốn động là chủ đạo dẫn đến việc tổ chức kế toán ở Việt Nam theo kiểu "nhất nguyên
chính thống", sẽ ảnh hưởng nhiều đến tổ chức KTQT trong các DN Việt Nam mà chúng
tơi sẽ bàn đến nhiều hơn trong phần tới.
Nhóm 2: ảnh hưởng bởi tính chất, loại hình kinh doanh, quy mô, phạm vi hoạt
động của từng DN


KTQT theo dõi chi tiết, cụ thể các mặt hoạt động SXKD của DN nên loại hình DN
khác nhau (DN thương mại hay DNSX) có ảnh hưởng rất lớn đến tổ chức KTQT trong
DN: Đối với DNSX trọng tâm của KTQT là cung cấp thông tin cụ thể về các yếu tố sản
xuất, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, còn đối với các doanh nghiệp thương mại
trọng tâm của KTQT là cung cấp thông tin cụ thể về quá trình mua hàng, bán hàng, doanh
thu và kết quả.
DN có quy mơ lớn, phạm vi hoạt động rộng rãi địi hỏi việc tổ chức KTQT phức tạp
hơn, cơng phu hơn để theo dõi chi phí, kết quả và đánh giá trách nhiệm, trình độ quản lý của
từng bộ phận, từng trung tâm trong DN và ngược lại.
Nhóm 3: Phụ thuộc vào đặc điểm quy trình cơng nghệ, tính chất loại hình sản xuất
sản phẩm
DN có quy trình cơng nghệ sản xuất phức tạp, gồm nhiều quy trình cơng nghệ đòi
hỏi việc thu nhận, xử lý và cung cấp thơng tin về chi phí sản xuất - giá thành nửa thành
phẩm, thành phẩm cho từng giai đoạn công nghệ và thành phẩm cuối cùng sẽ phức tạp hơn
rất nhiều so với DN có quy trình cơng nghệ sản xuất giản đơn, không chia nhỏ làm nhiều
công đoạn.
Mặt khác, nếu DN sản xuất đơn chiếc, hàng loạt nhỏ sẽ tổ chức KTQT khác với
DN sản xuất hàng loạt đại trà với khối lượng lớn. DN sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng
sẽ tổ chức KTQT khác với DN sản xuất hàng loạt khơng theo đơn hàng.

Nhóm 4: Phụ thuộc đặc điểm về tổ chức sản xuất, quản lý kinh doanh, yêu cầu và
trình độ quản lý của DN
Tổ chức sản xuất, quản lý kinh doanh của DN như thế nào thì KTQT phải tổ chức
tương ứng để thu thập, xử lý thông tin và lập các báo cáo bộ phận về doanh thu, chi phí,
kết quả... cho phù hợp, nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin cần thiết cho quản trị DN.
KTQT cung cấp thông tin theo yêu cầu quản lý nên tùy thuộc vào yêu cầu về
thông tin cụ thể của các nhà quản lý mà tổ chức KTQT cho phù hợp. Nhà quản trị yêu cầu
thông tin rõ ràng, cụ thể đến mức độ nào, cần tổ chức thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin


đến mức độ ấy. Khi sản xuất ổn định, có thể nhà quản trị không cần loại thông tin cụ thể
nào đó nữa thì khơng cần cung cấp để tiết kiệm thời gian và chi phí. Thơng thường, u
cầu về thơng tin phụ thuộc vào nhận thức về vai trị, chức năng của thơng tin và trình độ
năng lực quản lý của nhà quản trị DN. Nhà quản trị có trình độ nhận thức và năng lực quản
lý cao thường dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn để ra quyết định quản lý nên thường
xuyên đòi hỏi được cung cấp thơng tin thích hợp một cách đầy đủ, kịp thời. Ngược lại, nhà
quản trị không nhận thức đúng vai trị của thơng tin thường đưa ra các quyết định quản lý
một cách võ đoán, thiếu cơ sở nên ít địi hỏi, thậm chí khơng địi hỏi thơng tin KTQT.
Sự ảnh hưởng của các nhóm nhân tố thường khác nhau đối với mỗi DN cụ thể. Do
vậy, cần phải xem xét, phân tích đầy đủ các nhóm nhân tố trên để xác định thông tin cần
cung cấp (xác định cụ thể yêu cầu) để tổ chức KTQT cho phù hợp, có thể đáp ứng kịp thời
u cầu thơng tin đồng thời tiết kiệm chi phí (khơng thu thập thơng tin khi không cần thiết).
Tùy thuộc ảnh hưởng của bốn nhân tố nói trên mà từng DN lựa chọn mơ hình tổ
chức KTQT cho phù hợp. Tuy nhiên, quan điểm về tổ chức cơng tác kế tốn DN, bao gồm
KTTC và KTQT thì thường thống nhất trong từng quốc gia. Hiện nay trên thế giới có hai
quan điểm cơ bản về tổ chức cơng tác kế tốn DN, đó là:
* Quan điểm thứ nhất: Tổ chức KTQT kết hợp chặt chẽ với KTTC trong cùng
một bộ máy.
Theo quan điểm này, để thu nhận và xử lý thông tin KTQT, DN chỉ tiến hành mở
các tài khoản chi tiết (theo từng cấp cần thiết) của hệ thống tài khoản sử dụng cho KTTC,

xác định nội dung, phương pháp ghi chép trên các tài khoản chi tiết phù hợp với việc thu
nhận, xử lý và cung cấp thông tin cụ thể. Phương pháp ghi chép trên tài khoản chi tiết
(KTQT) là ghi đơn và có thể sử dụng hỗn hợp các thước đo hiện vật, giá trị, thời gian lao
động. Sổ kế toán phục vụ cho KTQT được mở chi tiết theo yêu cầu quản lý để đảm bảo tập
hợp, hệ thống hóa những thơng tin cần thiết, có thể ghi đồng thời với KTTC.
Ưu điểm của cách tổ chức này: Bộ máy kế toán DN được tổ chức thống nhất, bao
gồm các bộ phận kế tốn theo các phần hành cơng việc kế toán. Mỗi phần hành kế toán
đều thực hiện cả cơng việc KTTC và KTQT nên có thể kết hợp giữa quản lý tổng hợp và


quản lý chi tiết từng chỉ tiêu, dễ phân công chun mơn hóa và có điều kiện quản lý chặt
chẽ khối lượng cơng việc của nhân viên kế tốn, thuận lợi cơ giới hóa cơng tác kế tốn, tạo
điều kiện tiết kiệm thời gian và chi phí trong cơng tác kế tốn.
Tuy nhiên, cách tổ chức này địi hỏi người tổ chức phân cơng cơng việc phải hiểu
được trình độ, năng lực cụ thể của nhân viên kế toán và phải xác định rõ công việc của
KTTC và KTQT trong từng phần hành, tức là xác định rõ phần việc kế tốn nào, loại thơng
tin nào cần cho việc lập BCTC và phần việc nào, loại thông tin nào phục vụ lập các báo
cáo KTQT. Nó cũng yêu cầu nhân viên kế tốn cần hiểu rõ cơng việc KTTC và KTQT.
Hạn chế cơ bản của cách tổ chức này là: khơng thực hiện chun mơn hóa theo
từng loại KTTC và KTQT.
Các nước thuộc khối kế toán Anglo-Saxon tổ chức KTQT theo quan điểm thứ nhất
này.
* Quan điểm thứ hai: Tổ chức KTQT độc lập với KTTC, KTQT sử dụng hệ thống
tài khoản kế toán và hệ thống sổ kế toán riêng biệt với KTTC. Trong phịng kế tốn có bộ
phận riêng thực hiện nội dung KTQT. Hệ thống tài khoản KTQT có thể sử dụng 3 hoặc 4
chữ số ký hiệu và cũng cần phải phân loại theo từng nội dung mà KTQT phản ánh. Các tài
khoản được phân loại và quy định phương pháp ghi chép phản chiếu phù hợp những nội
dung cơ bản của KTQT, nhằm tạo ra sự phối hợp cung cấp thông tin phục vụ quản lý.
KTQT thực hiện lập dự tốn từng loại cơng việc cho từng bộ phận, sau đó tập hợp số liệu
thực tế về kế tốn chi phí, giá thành, kết quả kinh doanh... có liên quan (trực tiếp hoặc phân

bổ) để lập báo cáo KTQT cần thiết.
Ưu điểm của cách tổ chức này là: tạo điều kiện chun mơn hóa KTQT nên thông
tin được cung cấp đầy đủ kịp thời theo yêu cầu quản trị. Tuy nhiên sẽ tốn kém thời gian và
chi phí hơn vì phải tăng thêm trong khâu luân chuyển chứng từ và xử lý kế toán. Do vậy,
DN cần phải phân định rõ ranh giới giữa KTQT và kế toán chi tiết phục vụ lập BCTC.


Hạn chế cơ bản của cách tổ chức này là: khơng có sự kết hợp giữa quản lý tổng
hợp và quản lý chi tiết từng chỉ tiêu nên có thể dẫn đến nhà quản trị khơng có được cái
nhìn nhất quán nếu chỉ dựa vào thông tin KTQT.
Khối các nước thực hiện kế tốn theo mơ hình truyền thống Pháp tổ chức KTQT
(kế tốn phân tích) theo quan điểm này.
Các DN Việt Nam có thể áp dụng một trong hai quan điểm tổ chức KTQT trên
(Nhà nước không bắt buộc). Nhưng cần phải nhận thức rằng, KTQT cần phải tổ chức theo
mơ hình phù hợp nhất, nhằm đáp ứng đầy đủ, kịp thời thông tin cho yêu cầu công tác quản
lý, phù hợp với từng quyết định kinh doanh cụ thể, đồng thời dễ dàng cho người thực hiện
và phải đảm bảo tính hiệu quả trong cơng tác kế tốn.
Theo quan điểm đó, KTQT trong các DN Việt Nam nói chung, các DNNN nói riêng
trong thời gian hiện nay nên tổ chức KTQT theo quan điểm kết hợp KTTC và KTQT sẽ
thuận lợi hơn, hợp lý hơn bởi những lý do cơ bản sau:
(1) Hệ thống kế toán Việt Nam hiện nay được tổ chức chủ yếu theo mơ hình kế
toán động, nên tổ chức kết hợp KTTC và KTQT sẽ phù hợp với xu thế chung của thế giới khối Anglo-Saxon. Điều đó cũng dẫn tới tiết kiệm thời gian và chi phí do KTTC và KTQT
thực hiện trên cùng hệ thống chỉ theo dõi chi tiết thêm cho mục đích quản trị DN.
(2) Trình độ cán bộ kế toán của các DN Việt Nam hiện nay chưa cao nên nếu kế
toán trưởng xác định rõ yêu cầu cần thu thập, xử lý thông tin cho quản trị DN trong từng
phần hành để phân công cho nhân viên kế tốn thì họ sẽ thực hiện tốt hơn là bố trí nhân
viên nào đó chun thực hiện KTQT, vì họ đã quen với mảng cơng việc đó, chỉ cần chun
sâu hơn thêm phần việc KTQT. Đồng thời sẽ không làm đảo lộn cấu trúc hoặc cồng kềnh
thêm bộ máy kế toán DN vốn đang cần tinh giảm, gọn nhẹ.
(3) Việc thu nhận, xử lý thông tin KTTC và KTQT từ khâu thu nhận, xử lý chứng từ,

ghi sổ kế toán đến việc cung cấp số liệu đều dựa trên cùng một thông tin đầu vào là chứng
từ gốc sẽ thuận tiện cho cơ giới hóa cơng tác kế tốn.


(4) Đối với các DNNN, việc tổ chức KTTC và KTQT cần có mối quan hệ chặt
chẽ, thống nhất với nhau để tiện cho việc quản lý, kiểm soát, đối chiếu của Nhà nước khi
cần thiết vì Nhà nước chính là người chủ sở hữu lớn nhất của loại hình DN này. Tuy nhiên,
sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước phải theo cơ chế quản lý đảm bảo quyền tự chủ của
các DNNN.
Cũng cần nhận thức về hạn chế của mơ hình này trong việc chun mơn hóa theo
KTTC và KTQT nên có thể cung cấp thơng tin khơng kịp thời cho quản trị DN. Điều đó cần
phải khắc phục bằng cách nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ kế toán đồng thời quy
định cụ thể về loại thông tin cần cung cấp, thời gian cung cấp cụ thể... để các nhân viên kế
toán thực hiện tốt cơng việc của mình, đảm bảo tiến độ chung.
1.2.2. Các quan điểm cơ bản về tổ chức phân tích kinh doanh trong doanh
nghiệp
PTKD cũng là một công cụ kinh tế quan trọng phục vụ quản trị DN nên tổ chức
PTKD như thế nào là tùy thuộc từng DN cụ thể, khơng có mơ hình chung cho tất cả mọi
loại hình DN.
Tổ chức PTKD trong DN phụ thuộc vào các nhóm nhân tố chủ yếu sau:
Nhóm 1: Phụ thuộc vào quy mơ và địa bàn hoạt động của DN
Những DN có quy mô nhỏ, địa bàn hoạt động trong phạm vi hẹp thì bộ máy
PTKD sẽ gọn nhẹ hơn, có thể chỉ tập trung ở phịng kế tốn hay bộ phận chức năng chun
phân tích. Ngược lại, đơn vị có quy mô lớn, địa bàn phân tán cần tổ chức phân tích cả ở
các bộ phận chức năng và từng bộ phận hoạt động riêng biệt.
Nhóm 2: Phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh, loại hình dịch vụ của đơn
vị
Đối với những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định, ít chịu tác động của thị trường và
cạnh tranh thì khơng cần PTKD thường xun như các đơn vị hoạt động SXKD phức tạp,
luôn chịu tác động của thị trường và cạnh tranh gay gắt.



Nhóm 3: Phụ thuộc vào u cầu, trình độ, năng lực quản lý của nhà quản trị DN.
Nhà quản trị DN nào có trình độ, năng lực quản lý cao, quan điểm thận trọng trong
các quyết định quản lý thường đặt yêu cầu cao hơn đối với PTKD để có được thơng tin
liên quan kịp thời, có căn cứ khoa học và thực tiễn để đưa ra những giải pháp, những
phương án tối ưu. Do vậy, PTKD phải được tổ chức thực hiện thường xuyên, chu đáo, tỉ
mỉ ở nhiều bộ phận chun mơn mới đưa ra thơng tin có sự diễn giải rõ ràng nguyên
nhân... làm cơ sở cho các quyết định quản lý. Ngược lại, nhà quản trị hạn chế về năng lực,
trình độ quản lý có thể đưa ra các quyết định quản lý không dựa trên đầy đủ thơng tin thích
hợp, thậm chí quyết định võ đoán, chỉ dựa trên kinh nghiệm của bản thân hay ước tính sơ
bộ trên số liệu kế tốn thì thường chỉ cần những phép so sánh đơn giản, không thực hiện
phân tích thường xun.
Các nhóm nhân tố ảnh hưởng có thể biểu hiện khác nhau ở mỗi DN. Do vậy, tổ
chức PTKD ở từng DN có thể khác nhau, dựa vào chính những đặc điểm riêng có của đơn
vị để tổ chức cho phù hợp, vừa đảm bảo có được kết quả PTKD theo yêu cầu quản lý cụ
thể, vừa đảm bảo tiết kiệm chi phí hợp lý, nâng cao hiệu quả của PTKD.
Trên giác độ chung hiện nay có hai mơ hình tổ chức PTKD trong các DN như sau:
* Mơ hình thứ nhất: Khơng tách biệt PTKD thành bộ phận riêng biệt mà được
thực hiện ở nhiều bộ phận theo các chức năng quản lý cụ thể, nhằm cung cấp và thỏa mãn
thông tin cho các bộ phận quản lý được phân quyền, trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát các
hoạt động và ra quyết định quản lý trong phạm vi quyền được trao đó, cụ thể:
+ Từng bộ phận (phân xưởng, tổ, đội, cửa hàng...) được phân quyền quản lý, kiểm
soát hoạt động sản xuất và tiêu thụ như doanh thu, chi phí, kết quả, sản lượng sản xuất
v.v... thực hiện phân tích tình hình thực hiện tiến độ sản xuất, tình hình chi phí qua phân
tích báo cáo sản xuất, báo cáo thu nhập bộ phận... để phát hiện chênh lệch, tìm nguyên
nhân và đề ra biện pháp ứng phó kịp thời nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu của bộ
phận đó.



+ Phịng kế tốn tổ chức phân tích chi phí, giá thành, doanh thu, kết quả, tình hình
tài chính... của tồn DN thơng qua báo cáo tài chính, báo cáo sản xuất, thu nhập của các bộ
phận gửi lên, cũng có thể phân tích hiệu quả đầu tư vốn ngắn hạn, dài hạn thơng qua tài
liệu về tình hình đầu tư v.v... từ đó cung cấp thơng tin tổng hợp về tình hình tài chính, kết
quả kinh doanh, diễn biến của quá trình SXKD để nhà quản trị nhận thức tổng quát về thực
trạng kinh tế của DN, khi cần sẽ cung cấp thêm thông tin chi tiết về những biến động (sai
lệch) bất thường v.v..., từ đó nhà quản trị có được căn cứ xác đáng để đưa ra các quyết
định đầu tư hay sử dụng nguồn lực của DN hiệu quả hơn, thực hiện tốt các mục tiêu của
tồn DN.
Mơ hình này có ưu điểm cơ bản là có thể thực hiện phân tích thường xun ở các
bộ phận trực thuộc để nhanh chóng nhận biết những sai lệch, từ đó đưa ra những biện pháp
ứng phó nhạy bén, kịp thời, không để xảy ra trường hợp đáng tiếc, đặc biệt đối với những
DN có quy mơ lớn, địa bàn hoạt động phân tán và các bộ phận được phân quyền hoạt động
tương đối độc lập. Nó góp phần nâng cao trách nhiệm, năng lực, trình độ quản lý của từng
bộ phận trong DN. Đồng thời nhà quản trị cấp cao có thể tập trung cho việc giải quyết
những vấn đề trọng tâm cần trình độ, năng lực quản lý cao hơn...
Mơ hình này có hạn chế: Nếu khơng phân định nội dung rõ ràng, có thể trùng lặp
phân tích giữa bộ phận hoạt động SXKD với phịng kế tốn. Đồng thời nó u cầu phải
chú ý bồi dưỡng trình độ cho cán bộ quản lý từng bộ phận để họ có được kỹ năng phân
tích tốt, nếu không sẽ nhận thức sai lệch và đi đến những quyết định không phù hợp.
Để thỏa mãn yêu cầu thông tin cho quá trình lập kế hoạch, kiểm tra và ra quyết
định, tổ chức PTKD phải làm sao thỏa mãn cao nhất cho nhu cầu của nhà quản trị từng cấp
khác nhau. Do vậy, các DN hiện nay nên áp dụng mơ hình tổ chức cơng tác PTKD này,
đặc biệt đối với các DN có quy mơ lớn, hoạt động phân tán trên địa bàn rộng hay q trình
SXKD ln gặp phải những biến động bất thường, cần phải có những quyết định điều
chỉnh kịp thời thì mơ hình này càng phù hợp.
* Mơ hình thứ hai: Tổ chức một bộ phận chức năng riêng biệt chuyên làm công
tác PTKD, đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ban giám đốc và làm tham mưu cho giám



đốc (phịng, tổ, ban phân tích, tùy theo quy mơ của DN) hoặc có thể trực thuộc phịng kế
tốn.
Theo cách tổ chức này, bộ phận PTKD thực hiện phân tích tồn bộ các mặt hoạt
động SXKD. Kết quả phân tích sẽ được cung cấp thường xuyên cho lãnh đạo cấp cao.
Trên cơ sở đó, các thơng tin đã được phân tích, diễn giải, tìm ngun nhân và ý kiến đề
xuất (kết quả phân tích) sẽ được lãnh đạo DN xem xét, phê chuẩn và truyền đạt từ trên
xuống theo các kênh, căn cứ vào chức năng quản lý của từng cấp. Q trình đánh giá, kiểm
tra, kiểm sốt, điều chỉnh, chấn chỉnh đối với từng bộ phận của DN được truyền từ Ban
giám đốc xuống các phòng ban chức năng và bộ phận sản xuất có liên quan.
Mơ hình tổ chức này có ưu điểm là: Ban giám đốc thường xuyên được cung cấp
kịp thời những thông tin đã được phân tích sâu sắc, tỉ mỉ để nhận thức đúng thực trạng về
quá trình và kết quả hoạt động SXKD của đơn vị, từ đó có căn cứ xác đáng để đưa ra quyết
định quản lý và điều hành hoạt động SXKD của đơn vị một cách kịp thời, đảm bảo sự lãnh
đạo tập trung thống nhất của Ban giám đốc đối với toàn bộ hoạt động của đơn vị. Hình
thức này cịn thuận tiện cho việc phân cơng và chun mơn hóa đối với những người thực
hiện cơng việc phân tích.
Hạn chế của mơ hình này là: cơng việc phân tích tập trung vào một bộ phận và kết
quả phân tích chỉ cung cấp cho Ban giám đốc, nên nếu quy mô và địa bàn hoạt động của
DN lớn, phân tán, có thể khơng đảm bảo cung cấp thơng tin kịp thời cho việc chỉ đạo, điều
hành SXKD ở các bộ phận, nên có thể xảy ra thiệt hại đáng tiếc cho lợi nhuận của đơn vị.
Đồng thời, mọi diễn biến của hoạt động SXKD của đơn vị từ tổng quát đến chi tiết đều tập
trung phản ánh cho ban giám đốc nên có thể ban giám đốc sẽ không tập trung chú ý đến
những vấn đề trọng tâm cần giải quyết ("lỗng" thơng tin) hoặc lãng phí thời gian cho việc
chú ý đến những vấn đề thuộc sự quản lý, giải quyết của cấp quản trị thấp hơn. Hơn nữa,
các quyết định điều chỉnh của ban giám đốc đưa xuống có thể khơng kịp thời.
Do vậy, mơ hình tổ chức này chỉ phù hợp với những DN có quy mô nhỏ, hoạt
động trên địa bàn tập trung, quá trình SXKD thường ít chịu tác động thường nhật của môi
trường và nguồn cung cấp...



×