Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ VÀ GIÁ THÀNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.13 KB, 26 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ VÀ GIÁ
THÀNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
A - VAI TRÒ CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ ĐỐI VỚI QUẢN LÝ DOANH
NGHIỆP
1.Khái niệm Kế toán quản trị
Theo Khoản 3, điều 4, Luật Kế toán: Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý, phân tích
và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài
chính trong nội bộ kế toán.
Kế toán quản trị là công việc của từng doanh nghiệp, Nhà nước chỉ hướng dẫn các
nguyên tắc, cách thức tổ chức và các nội dung, phương pháp Kế toán quản trị chủ yếu tạo
điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện.
2.Vai trò của Kế toán quản trị trong quản lý doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết nhiệm vụ của nhà quản trị là ra quyết định, mà ra quyết định có
khả năng đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài của tổ chức và kiểm soát việc thực hiện
các quyết định đó. Như vậy Kế toán quản trị thích hợp ở chỗ nào? Kế toán quản trị là một
trong tổng số các nguồn cung cấp thông tin dành cho quản lý nhưng mà là một nguồn
quan trọng.
Kế toán quản trị là kế toán theo chức năng quản lý vì thế Kế toán quản trị có vai trò
cung cấp các thông tin kinh tế hữu ích cho việc lập kế hoạch, thực hiện, kiểm tra đánh giá
và ra quyết định. Điều khó khăn là khi cung cấp thông tin phải cố gắng lượng giá mọi kết
quả hoạt động về tài chính cuả doanh nghiệp mà các đối tượng sử dụng thông tin kế toán
đều quan tâm vì các kết quả đó thường khách quan và chính xác. Kế toán thường cung
cấp số lượng thông tin lớn so với nguồn thông tin khác cung cấp nên thông tin về tình
hình tài chính của doanh nghiệp mà Kế toán cung cấp được thừa nhận có tầm quan trọng
đàng kể.
Để tiến hành sản xuất thì doanh nghiệp phải lập kế hoạch và tổ chức thực hiện, kiểm
tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch đó. Các nhà quản trị doanh nghiệp điều hành hoạt
động kinh doanh thông qua các chức năng quản trị còn Kế toán quản trị sử dụng các
phương pháp riêng có của mình để thiết kế, tổng hợp, phân tích và truyền đạt thông tin kế
toán, đặt chúng trong bối cảnh của các mục tiêu khác nhau cung cấp những thông tin thật
sự hữu ích cho các chức năng quản trị đó.


Kế toán quản trị có vai trò cung cấp thông tin cho các chức năng quản trị dưới đây:
 Cung cấp thông tin cho quá trình lập kế hoạch:
Lập kế hoạch là xây dựng các mục tiêu phải đạt và vạch ra các bước thực hiện để đạt
các mục tiêu đó. Những thông tin mà Nhà quản trị cần cho việc lập Kế hoạch chủ yếu do
kế toán quản trị cung cấp thông qua việc lượng hoá các mục tiêu của quản lý dưới dạng
các chỉ tiêu về số lượng và giá trị.
 Cung cấp thông tin cho quá trình tổ chức thực hiện:
Kế toán quản trị sẽ cung cấp thông tin hàng ngày cho các tình huống khác nhau như
tình hình hoạt động của đơn vị, tình hình tài sản, chi phí, … cả về mặt hiện vật và giá trị
để phục vụ nhà quản trị ra quyết định đúng đắn nhất trong quá trình tổ chức, điều hành
hoạt động sản xuất phù hợp mục tiêu chung.
 Cung cấp thông tin cho quá trình kiểm tra, đánh giá:
Kế toán quản trị có vai trò thiết kế và phân tích các báo cáo có dạng so sánh được, so
sánh giữa kế hoạch và thực tế, qua đó phát hiện các khâu, các chỗ chưa đạt được của việc
thực hiện, các chỉ tiêu kế hoạch chưa hợp lý, từ đó có những điều chỉnh cho thích hợp,
kịp thời nhằm đạt mục tiêu đề ra.
 Cung cấp thông tin cho quá trình ra quyết định:
Với chức năng ra quyết định đòi hỏi nhà quản trị phải lựa chọn hợp lý trong nhiều
phương án đặt ra. Để ra được một quyết định thì cần phải có thông tin thật cụ thể, chi tiết,
đầy đủ, kịp thời, không chỉ ở trong quá khứ mà còn ở hiện tại và tương lai, những thông
tin phần lớn được cung cấp từ Kế toán quản trị.
Như vậy vai trò chủ yếu của Kế toán quản trị là làm trợ thủ đắc lực cho nhà quản trị
trong việc cung cấp các thông tin định lượng cho việc ra các quyết định, góp phần tổ
chức cải tiến công tác quản lý của doanh nghiệp.
3.Nhiệm vụ của Kế toán quản trị trong các doanh nghiệp:
Chức năng của Kế toán quản trị là cung cấp thông tin tài chính để cho nhà quản trị ra
quyết định. Để làm tốt chức năng của mình thì Kế toán quản trị phải làm tốt các nhiệm vụ
sau:
 Thu thập xử lý thông tin, số liệu kế toán theo phạm vi, nội dung Kế toán
quản trị của đơn vị từng thời kì. Muốn vậy Kế toán quản trị phải sử dụng các chứng từ và

hệ thống sổ sách để ghi chép một cách hệ thống hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
hàng ngày.
 Kiểm tra, giám sát các kết quả định mức, tiêu chuẩn, dự toán.
 Cung cấp thông tin theo yêu cầu quản trị nội bộ của đơn vị bằng báo cáo
quản trị để có các quyết định kinh doanh hợp lý.
 Tổ chức phân tích thông tin phục vụ cho yêu cầu lập kế hoạch và ra quyết
định của Ban lãnh đạo của doanh nghiệp.
4. Vai trò của Kế toán chi phí và giá thành đối với quản lý doanh nghiệp
Mục tiêu của các nhà quản trị là đạt lợi nhuận tối đa. Hiện nay để thực hiện mục tiêu
này thì phương án mà các nhà quản trị áp dụng đó là tiết kiệm chi phí để hạ giá thành sản
phẩm. Kế toán quản trị là trợ thủ đắc lực của các nhà quản trị để thực hiện được mục tiêu
này. Kế toán quản trị có vai trò phân loại các loại chi phí, tổng hợp, phân tích chi phí và
giá thành để từ đó các nhà quản trị tìm ra các nguyên nhân tăng giảm chi phí và đưa ra
quyết định hợp lý cho việc hạ giá thành sản phẩm.
B - TỔ CHỨC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ VÀ GIÁ THÀNH
I - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ
VÀ GIÁ THÀNH
I.1. Khái niệm chi phí và giá thành
I.1.1. Khái niệm chi phí
Dù ở phương thức nào của quá trình sản xuất thì để tạo ra một sản phẩm cũng cần
phải có các yếu tố: đối tượng lao động, công cụ lao động và con người. Ba yếu tố này kết
hợp lại sẽ hình thành nên quá trình sản xuất, con người cùng với tư liệu lao động tác dụng
lên đối tượng lao động để cho ra sản phẩm. Trong quá trình đó các doanh nghiệp sẽ phải
bỏ ra một khoản tiền để thuê lao động, mua tư liệu lao động, đối tượng lao động. Khoản
hao phí đó được gọi là chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Theo cách tiếp cận như vậy thì chi phí được hiểu là những hao phí về lao động sống và
lao động vật hoá mà doanh nghiệp phải chi ra trong một thời kì nhất định và đựoc biểu
hiện bằng tiền.
Theo chế độ Kế toán ( Chuẩn mực kế toán 01-Chuẩn mực chung ) thì chi phí là tổng giá
trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kì kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi

ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở
hữu, không bao gồm khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ sở hữu.
I.1.2 Khái niệm giá thành
Giá thành là chi phí sản xuất tính cho một khối lượng hoặc đơn vị sản phẩm ( công
việc, lao vụ ) do doanh nghiệp sản xuất đã hoàn thành.
I.1.3 Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành
Chi phí sản xuất trong kì là căn cứ, là cơ sở để tính giá thành sản phẩm.Việc sử dụng
tiết kiệm hay lãng phí chi phí sản xuất sẽ dẫn đến việc giá thành giảm hay tăng. Về bản
chất thì chi phí và giá thành đều giống nhau là cùng thể hiện khoản hao phí về lao động
sống và lao động vật hoá của một doanh nghiệp. Về giá trị chi phí sản xuất có thể bằng
hoặc có thể nhỏ hơn hoặc lớn hơn giá thành sản phẩm của kì đó. Bởi vì chi phí sản xuất
bao gồm cả những chi phí dở dang cuối kì ( là chi phí của những sản phẩm chưa hoàn
thành chuyển cho kì sau), còn giá thành thì bao gồm chi phí dở dang của năm trước
chuyển sang (chi phí dở dang đầu kì ), chi phí chưa sử dụng kì này nhưng được trích
trước và tính vào giá thành kì này, chi phí các kì truớc chưa sử dụng hết và được phân bổ
tính vào giá thành kì này. Như vậy thì chi phí liên quan trong một thời kì nhất định còn
giá thành thành phẩm thì liên quan đến cả kì trước và kỳ sau.
Tổng giá thành Chi phí sản xuất Chi phí sản xuất Chi phí sản xuất sản
phẩm dở dang đầu kỳ phát sinh trong kỳ dở dang cuối kỳ
I.2. Bản chất của Kế toán quản trị chi phí và giá thành
Kế toán quản trị chi phí và giá thành là một phần của Kế toán quản trị nhằm cung cấp
thông tin về chi phí và giá thành để phục vụ các chức năng của nhà quản trị như lập kế
-+=
hoạch, kiểm tra, ra quyết định. Kế toán quản trị chi phí và giá thành không những cung
cấp các thông tin trong quá khứ mà còn cung cấp các thông tin trong tương lai thông qua
các bảng dự toán trên cơ sở các định mức chi phí nhằm kiểm soát tình hình chi phí và giá
thành thực tế giúp nhà quản trị đưa ra các quyết định đúng cho kế hoạch sản xuất của kỳ
kế tiếp.
I.3. Các kĩ thuật nghiệp vụ sử dụng trong Kế toán quản trị chi phí và giá thành
Ngoài các phương pháp sử dụng chung trong Kế toán, Kế toán quản trị chi phí và giá

thành còn sử dụng các kĩ thuật nghiệp vụ khác để thực hiện chức năng của mình như:
- Phương pháp phân loại chi phí: nhận diện các cách phân loại chi phí sao cho hữu ích và
thích hợp với yêu cầu quản lý.
- Sử dụng các bảng số liệu: số liệu được trình bày dưới dạng biểu và phải đảm bảo tính so
sánh được.
- Sử dụng các phương trình đại số, đồ thị và mô hình để biểu diễn mối quan hệ giữa các
thông tin
- Sử dụng các kĩ thuật phân tích để cung cấp thông tin có dạng đặc thù.
II. NỘI DUNG CỦA KẾ TOÁN QUẢN TRỊ CHI PHÍ VÀ GIÁ THÀNH
II.1.Tổ chức phân loại chi phí và giá thành
II.1.1 Phân loại chi phí
Để có được các thông tin có giá trị làm cơ sở tổng hợp lập báo cáo sử dụng cho các hoạt
động quản trị thì bắt buộc các Kế toán viên quản trị phải phân loại chi phí. Chi phí được
phân loại theo nhiều cách nhưng các Kế toán viên quản trị phải căn cứ vào yêu cầu của nhà
quản trị và nội dung của báo cáo mà phân loại chi phí cho thích hợp.
II.1.1.1. Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động
Mục đích của việc phân loại chi phí theo chức năng hoạt động trong Kế toán quản trị là
nhằm xác định rõ vai trò, chức năng hoạt động của chi phí trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh, đồng thời là căn cứ để tập hợp chi phí và giá thành sản phẩm cũng như
cung cấp thông tin một cách có hệ thống cho việc lập báo cáo tài chính. Theo chức năng
hoạt động, chi phí được phân thành chi phí sản xuất và chi phí ngoài sản xuất
 Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất là chi phí có liên quan đến việc chế tạo sản trong một kì nhất định. Chi
phí sản xuất gồm ba khoản mục sau:
 Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là chi phí của những loại nguyên vật liệu cấu thành thực
thể của thành phẩm, có giá trị lớn và có thể xác định được một cách tách biệt, rõ ràng và
cụ thể cho từng sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể tính cho từng đơn vị
sản phẩm nên được tính thẳng vào từng đơn vị sản phẩm.
 Chi phí nhân công trực tiếp: là chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương của
những người lao động trực tiếp chế tạo sản phẩm. Khả năng và kĩ năng của lao động trực

tiếp có ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng sản phẩm. Chi phí nhân công trực tiếp
cũng giống như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, có thể xác định rõ ràng, cụ thể, tách biệt
cho từng đơn vị sản phẩm nên được tính thẳng vào từng đơn vị sản phẩm.
 Chi phí sản xuất chung: là những chi phí cần thiết khác để sản xuất sản phẩm ngoài chi
phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Chi phí sản xuất chung bao
gồm 3 loại chi phí, chi phí nguyên vật liệu gián tiếp, chi phí nhân công gián tiếp và chi
phí khác. Chi phí khác bao gồm các chi phí cần thiết khác để vận hành phân xưởng, ví
dụ: chi phí thuê nhà xưởng, chi phí khấu hao máy móc, thiết bị, chi phí điện nước,…
Chi phí sản xuất chung có đặc điểm là:
.- Các yếu tố chi phí sản xuất chung đều có tính gián tiếp với từng đơn vị sản phẩm nên
không thể tính thẳng vào đơn vị sản phẩm.
- Bao gồm nhiều chi phí khác nhau. Chi phí sản xuất chung được nhiều bộ phận khác
nhau quản lý và rất khó kiểm soát.
Chi phí sản xuất chung cũng được tính vào sản phẩm cùng với chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp nhưng chúng được tính vào sản phẩm thông qua
việc phân bổ theo các tiêu thức thích hợp.
 Chi phí ngoài sản xuất
Để tổ chức và thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm,doanh nghiệp còn phải thực hiện một
số chi phí ở khâu ngoài sản xuất, được gọi là chi phí ngoài sản xuất.Chi phí ngoài sản
xuất bao gồm: chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
 Chi phí bán hàng: bao gồm toàn bộ những chi phí phát sinh cần thiết để đảm bảo thực
hiện các đơn đặt hàng, giao thành phẩm cho khách hàng, bao gồm các chi phí như: chi
phí vận chuyển, chi phí bốc vác, chi phí bao bì, chi phí lương nhân viên bán hàng, chi phí
khấu hao tài sản cố định, chi phí hoa hồng, …
 Chi phí quản lý doanh nghiệp: bao gồm toàn bộ những chi phí chi ra cho việc tổ chức và
quản lý sản xuất chung trong toàn doanh nghiệp. Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm
các khoản chi phí như: chi phí văn phòng phẩm, chi phí lương cán bộ quản lý và nhân
viên văn phòng, chi phí khấu hao tài sản cố định dùng chung trong toàn doanh nghiệp,
chi phí dịch vụ mua ngoài như điện, nước, điện thoại, … Ở tất cả các doanh nghiệp đều
có chi phí này.

II.1.1.2. Phân loại theo mối quan hệ với báo cáo tài chính
Theo cách phân loại này thì chi phí được chia thành hai loại là chi phí sản phảm và chi
phí thời kì.
a. Chi phí sản phẩm
Chi phí sản phẩm là những chi phí liên quan đến việc sản xuất sản phẩm (đối với
doanh nghiệp sản xuất) hoặc mua các sản phẩm ( đối với các doanh nghiệp thương mại).
Đối với các sản phẩm sản xuất thì chi phí này bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp,
chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung và sau đó là chi phí sản xuất kinh
doanh dở dang và cuối cùng là thành phẩm nhập kho. Đối với các sản phẩm mua vào thì
chi phí sản phẩm là giá trị của hàng mua vào. Các chi phí sản phẩm được xem là gắn liền
với sản phẩm khi đang còn tồn kho chờ bán và khi chúng đựơc đem đi tiêu thụ thì được
xem là những phí tổn và sẽ làm giảm lợi tức bán hàng của doanh nghiệp. Chi phí sản
phẩm được trình bày trên Bảng cân đối Kế toán dưới khoản mục Hàng tồn kho.
b. Chi phí thời kì
Chi phí thời kì là những chi phí phát sinh trong một thời kì và làm giảm lợi tức của
doanh nghiệp. Chi phí thời kì ngay khi phát sinh đã được xem là những phí tổn trong kì.
Chi phí thời kì bao gồm chi phí bán hàng, chi phí quản lý và giá vốn hàng bán. Chi phí
thời kì được trình bày trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
c.Mối quan hệ giữa chi phí sản phẩm và chi phí thời kì
Chi phí sản phẩm được trình bày dưới các khoản mục hàng tồn kho của Bảng cân đối
Kế toán và khi là thành phẩm, hàng hoá được tiêu thụ thì chi phí sản phẩm này trở thành
chi phí thời kì thể hiện ở giá vốn hàng xuất bán được trình bày trên Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh.
II. 1.1.3. Phân loại chi phí theo cách ứng xử
Cách phân loại này chỉ ra những chi phí gắn liền với mức độ hoạt động ( số lượng sản
phẩm sản xuất hay tiêu thụ được, số giờ máy hoạt động,…) như thế nào. Việc xem xét
chi phí thay đổi như thế nào khi mức độ hoạt động thay đổi gọi là sự ứng xử của chi phí.
Trên quan điểm về cách ứng xử người ta chia chi phí thành 3 loại:
- Biến phí ( còn gọi là chi phí khả biến hay chi phí thay đổi )
- Định phí ( còn gọi là chi phí bất biến hay chi phí không đổi )

- Chi phí hỗn hợp
a.Biến phí
Biến phí là những chi phí mà về mặt tổng số sẽ thay đổi tỷ lệ thuận với sự biến đổi
của mức độ hoạt động nhưng nếu tính trên một đơn vị hoạt động thì nó lại không đổi.
Ví dụ: Để sản xuất 5 sản phẩm thì cần 100.000 đồng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Khi tăng mức sản xuất lên 10 sản phẩm thì chi phí nguyen vật liệu tăng lên 200.000 đồng
. Tuy nhiên, chi phí cho một đơn vị sản phẩm vẫn là 20.000 đồng.
Các biến phí trong doanh nghiệp thường là: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí
nhân công trực tiếp, chi phí bán hàng,…Xét về bản chất hoạt động biến phí đựơc chia
làm hai loại: Biến phí thực thụ và biến phí cấp bậc.
 Biến phí thực thụ (Biến phí tỉ lệ ): Là những chi phí có quan hệ tỉ lệ thuận trực tiếp biến
động của mức độ hoạt động. Biến phí thực thụ được biểu diễn trên đồ thị bằng một
đường thẳng.
Ví dụ : Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp,…là các biến phí
thực thụ vì chúng biến đổi tuyến tính với số lượng sản phẩm sản xuất ra.
 Biến phí cấp bậc: Là những chi phí không biến đổi tuyến tính với mức độ hoạt động.
Những chi phí này khi mức độ hoạt động thay đổi ít thì nó sẽ không thay đổi, nó chỉ thay
đổi khi mức độ hoạt động thay đổi ở mức độ đáng kể và rõ ràng.
Ví dụ : Tại một doanh nghiệp cứ một nhân viên thì bảo trì 5 máy sản xuất, như thế lương
nhân viên bảo trì máy sẽ là biến phí cấp bậc, bởi vì nếu doanh nghiệp trên có từ một đến
5 thiết bị chi trả lưong cho một nhân viên bảo trì nhưng nếu doanh nghiệp tăng lên 6 đến
10 máy thì doanh nghiệp phải trả lương cho hai nhân viên bảo trì.
b.Định phí
Định phí là những chi phí mà tổng của nó không đổi khi mức độ hoạt động thay đổi.
Vì tổng số không đổi nên khi mức độ hoạt động thay đổi thì định phí trên một đơn vị sản
phẩm sẽ thay đổi tỷ lệ nghịch với sự thay đổi của mức độ hoạt động. Định phí sẽ được
xem là thay đổi theo mức độ hoạt động khi mức độ hoạt động nằm trong giới hạn năng
lực sản xuất của doanh nghiệp. Định phí khác biến phí cấp bậc ở chỗ: Biến phí cấp bậc
có thể thay đổi khi các điều kiện thay đổi còn định phí thì thường bị ràng buộc ít nhất là
đến hết kì kế hoạch mới thay đổi được.

Ngày nay, xu hướng của các doanh nghiệp là tăng dần định phí và giảm biến phí vì
hiện nay khi trình độ khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của
công nghệ thông tin thì chi phí lao động ngày càng giảm để thay chỗ cho các chi phí khấu
hao. Tuy nhiên, tỉ trọng của biến phí và định phí trong một doanh nghiệp còn tuỳ thuộc
vào từng loại hình doanh nghiệp.
Căn cứ vào mức độ cần thiết của định phí thì định phí được chia làm loại: Định phí bắt
buộc và định phí tuỳ ý.
 Định phí bắt buộc: Là những chi phí không thể không có cho dù doanh nghiệp có mức
độ hoạt động xuống rất thấp, thậm chí không hoạt động.Ví dụ như chi phí khấu hao tài
sản cố định, chi phí ban quản lý,…
Định phí bắt buộc có đặc điểm là có bản chất lâu dài và không thể giảm đến không. Vì
vậy khi ra quyết định liên quan đến định phí nhà quản lý cần phải cân nhắc kĩ.
 Định phí tuỳ ý: Là những chi phí có thể thay đổi trong từng kỳ kế hoạch của nhà quản
trị doanh nghiệp. Ví dụ như chi phí quảng cáo, chi phí đào tạo nhân viên trong đơn vị,…
Những chi phí này có đặc điểm là có bản chất ngắn hạn và trong những truờng hợp cần
thiết có thể thay đổi.
 Phân biệt định phí bắt buộc và định phí tuỳ ý:
- Định phí tuỳ ý được lập trong thời kì ngắn còn định phí định phí bắt buộc lập
trong dài hạn, bao hàm nhiều năm.
- Định phí tuỳ ý có thể cắt giảm trong trường hợp cần thiết còn với định phí bắt
buộc thì nhà quản lý không thể cắt giảm. Ví dụ chi phí khấu hao máy móc thiết bị hàng
năm không thể cắt giảm xuống khi mức độ hoạt động của doanh nghiệp xuống thấp
nhưng doanh nghiệp có thể cắt giảm chi phí quảng cáo cho sản phẩm.
 Định phí và phạm vi phù hợp:
Phạm vi phù hợp là phạm vi được quy định bởi mức sản xuất tối thiểu và mức sản
xuất tối đa của đơn vị (còn gọi là giới hạn năng lực sản xuất ). Như trên đã nghiên cứu,
định phí chỉ được xem là không đổi trong phạm vi phù hợp. Khi doanh nghiệp mở rộng
mức độ hoạt động, mua sắm thêm trang thiết bị thì định phí sẽ tăng lên.Tuy nhiên định
phí chỉ nghiên cứu trong phạm vi phù hợp và trong phạm vi này nó sẽ không đổi khi
phạm vi hoạt động thay đổi.

c. Chi phí hỗn hợp
Chi phí hỗn hợp là chi phí mà thành phần của nó bao gồm cả yếu tố biến phí và
định phí. Ở mức độ hoạt động căn bản, chi phí hỗn hợp thường biểu diễn đặc điểm
của định phí, ở mức độ hoạt động vượt mức căn bản chi phí hỗn hợp lại biểu diễn đặc
điểm của biến phí. Sự pha trộn giữa định phí và biến phí có thể theo những tỷ lệ nhất
định. Trong doanh nghiệp loại chi phí này cũng chiếm một tỷ lệ khá cao. Ví dụ: chi phí
điện thoại là chi phí hỗn hợp với biến phí là phần chi phí tính trên số lần gọi, phần định
phí là phần thuê bao mỗi tháng.
Phần định phí của chi phí hỗn hợp phản ánh phần chi phí căn bản, tối thiểu để duy trì
phục vụ và để giữ dịch vụ đó sẵn sàng phục vụ. Phần biến phí của chi phí hỗn hợp phản
ánh phần chi phí thực tế hay chi phí vượt quá định mức. Do đó yếu tố biến phí sẽ biến
thiên tỷ lệ thuận với dịch vụ phục vụ hay sử dụng quá định mức.
Như vậy chi phí hỗn hợp rất quan trọng vì nó phục vụ cho nhiều loại hình doanh
nghiệp. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để xác định các thành phần của nó? Do đó nhằm
mục đích lập kế hoạch, kiểm soát các hoạt động kinh doanh và chủ động điều tiết chi phí

×