Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 106 trang )







LUẬN VĂN:

Giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người
sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay










Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tệ nạn ma tuý là một hiểm hoạ lớn của toàn nhân loại. Không một quốc gia, một dân
tộc nào không phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng do buôn lậu ma tuý và nghiện
ma tuý gây ra cho đời sống kinh tế - xã hội. Tình hình tệ nạn ma tuý diễn biến rất phức tạp,
tiềm ẩn, khó lường, có xu hướng gia tăng về số người nghiện và các tội phạm về ma tuý,
tính chất hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh động hơn. Ma tuý làm suy thoái
nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống gia đình, gây xói mòn đạo lý, làm gia tăng tội
phạm, bạo lực, tham nhũng, vắt cạn kiệt nguồn nhân lực, tài chính, huỷ hoại những tiềm
năng quý báu khác mà lẽ ra phải được huy động cho việc phát triển kinh tế xã hội, đem lại
ấm no hạnh phúc cho mọi người. Nghiêm trọng hơn, ma tuý là nguyên nhân chủ yếu dẫn


đến lây nhiễm đại dịch thế kỷ HIV/AIDS trên toàn cầu.
Do siêu lợi nhuận và lợi dụng tự do hoá thương mại, chính sách mở cửa thu hút đầu
tư của các nước đang phát triển, trong đó có Việt nam, bọn tội phạm ma túy tiến hành mở
rộng phạm vi hoạt động sản xuất, buôn bán ma tuý kết hợp với rửa tiền thông qua buôn bán
ma tuý. Các nhóm vũ trang móc nối với bọn buôn lậu ma túy và khủng bố quốc tế để sản
xuất ma tuý làm nguồn tài chính phục vụ ý đồ chính trị và khủng bố quốc tế.
Năm 2006, Hiệp định AFTA về tự do hoá thương mại giữa các nước ASEAN có hiệu
lực, Việt Nam gia nhập WTO, đặc biệt là từ năm 2010, khi Cộng đồng ASEAN xây dựng
nhiều thiết chế trong quan hệ kinh tế, thương mại, du lịch… con đường xuyên á, hành lang
kinh tế Đông Tây mở, việc đầu tư, liên doanh, liên kết sản xuất, buôn bán, dịch vụ giữa các
nước Đông Nam á cùng các nước trên thế giới sẽ diễn ra rất sôi động. Đây là thời cơ thuận
lợi để tội phạm ma tuý lợi dụng hoạt động, làm gia tăng tình hình buôn bán và sử dụng ma
tuý ở trong nước.
Với diễn biến phức tạp của tệ nạn ma tuý ở các nước trong khu vực nói chung, ở Việt
Nam nói riêng, hàng năm số người nghiện ma tuý ở nước ta vẫn tăng bình quân 11%. Tính
đến hết tháng 12/2005, toàn quốc có khoảng 160.000 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý,
tăng hơn 50% so với năm 2000. Song song với những biện pháp quyết liệt chống tội phạm
buôn bán ma tuý, Nhà nước ta cũng đồng thời quan tâm đến việc tổ chức cai nghiện, giúp


cho những người sa vào con đường nghiện ngập có thể cắt cơn, phục hồi sức khoẻ, hành vi
và nhân cách để có thể tái hoà nhập cộng đồng. Công tác cai nghiện phục hồi tuy đạt được
một số kết quả bước đầu, nhưng về cơ bản tính hiệu quả và bền vững chưa cao, tỷ lệ tái
nghiện còn cao, có những nơi lên tới 80-90%. Trình độ văn hoá thấp, không có nghề nghiệp,
không có việc làm là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nghiện ma
tuý trong thanh thiếu niên.
Tạo việc làm cho người nghiện ma tuý sau khi được chữa trị, phục hồi là một trong
những biện pháp quan trọng có ý nghĩa cả về kinh tế và xã hội, nhằm giúp đối tượng trở về
cuộc sống bình thường, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng chống tệ nạn ma tuý. Chủ
trương này thể hiện rõ trong các văn bản chỉ đạo của Đảng và Chính phủ như Chỉ thị 33-

CT/TƯ, Chỉ thị 52-CT/TƯ, Nghị quyết 06/CP của Chính phủ và gần đây nhất là Chỉ thị 21/CT-

Tuy nhiên, trên thực tế kết quả giải quyết việc làm cho người nghiện ma tuý sau khi
được chữa trị, phục hồi còn nhiều hạn chế. Hàng năm, số đối tượng được tạo việc làm ở
cộng đồng chỉ chiếm khoảng 10% số đối tượng được chữa trị, phục hồi. Nguyên nhân của
tình trạng này ngoài những khó khăn khách quan của nền kinh tế thị trường còn do nhận
thức, trách nhiệm của chính quyền, đoàn thể ở các cấp chưa cao, đặc biệt là chính quyền cấp
xã, cộng đồng, khu phố, thôn xóm ít quan tâm. Về phía bản thân đối tượng và gia đình họ
còn ỷ lại xã hội, không nỗ lực tìm kiếm việc làm. Mặt khác, Nhà nước ta cũng chưa có cơ
chế chính sách phù hợp để khuyến khích, huy động nhiều thành phần kinh tế - xã hội tham
gia giải quyết việc làm cho đối tượng.
Do vậy, dạy nghề, tổ chức lao động sản xuất, tạo việc làm, có thu nhập ổn định
không những là một nội dung quan trọng của quy trình cai nghiện mà còn là yêu cầu thiết
yếu, tạo điều kiện cho đối tượng tái hoà nhập cộng đồng, phòng chống tái nghiện có hiệu
quả. Điều đó đã đặt ra một yêu cầu cấp thiết ở nước ta hiện nay là cần có sự nghiên cứu một
cách cơ bản, có hệ thống vấn đề tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý để
giúp họ thực sự tái hoà nhập cộng đồng và có cuộc sống yên ổn, trở thành người có ích cho
xã hội.


Để góp phần vào những nghiên cứu chung đó, tôi chọn đề tài “Giải pháp hỗ trợ tạo
việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở nước ta hiện nay” làm luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu liờn quan đến đề tài
Trong thời gian qua, ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan tới vấn
đề này, dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể nêu một số đề tài sau:
Nhóm việc làm và giải quyết việc làm trong nền kinh tế thị trường:
- Đề tài cấp nhà nước 70A.02.02 “Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt
Nam”, Trần Đình Hoan, Lê Mạnh Khoa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991.
- Đề tài cấp nhà nước KX-04-04: “Luận cứ khoa học cho chính sách giải quyết việc

làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”, của Bộ Lao động
TB và XH, Hà Nội, 1994.
- Đề tài cấp Nhà nước KX-07-05-05: “Những đặc trưng và xu hướng biến đổi của cơ
cấu xã hội nghề nghiệp nước ta trong giai đoạn hiện nay, dự báo và kiến nghị”, do Tiến sỹ
Nguyễn Đình Tấn - Giám đốc Trung tâm Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh làm chủ nhiệm, 1995.
- Đề tài “Quản lý nhà nước về việc làm ở Hà Nội”, Luận án tiến sĩ kinh tế Trần Văn
Tuấn, Hà Nội, 1995.
- “Thị trường sức lao động thực trạng và giải pháp” của Phó Tiến sỹ Nguyễn Quang
Hiển, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1995.
- “Chiến lược việc làm và đào tạo nghề thời kỳ 2001 -2010” của Tiến sỹ Nguyễn Hữu
Dũng, Tạp chí Lao động xã hội, 2001.
- Đề tài “Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm qua thực tế ở Hà Nội”,
Luận án tiến sĩ kinh tế Đỗ Thị Xuân Phương, Hà Nội, 2005.
Nhóm tổ chức cai nghiện, quản lý sau cai nghiện và tạo việc làm cho người sau cai
nghiện ma tuý:
- “Kế hoạch tổng thể cai nghiện phục hồi, giai đoạn 2001 - 2010”, Uỷ ban Quốc gia
phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, Hà Nội, 2002.


- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố “Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý cai nghiện ma túy và sau cai” 02-X07 của Tiến sỹ Nguyễn Thành
Công, Hà Nội, 2003.
- Báo cáo “Sơ kết 3 năm thực hiện quyết định 151 của Thủ tướng Chính phủ về cai nghiện
- phục hồi”, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hà Nội, 2004.
- Báo cáo “Tổng kết công tác cai nghiện phục hồi, giai đoạn 2001 - 2005, phương
hướng nhiệm vụ thời kỳ 2006 - 2010”, Uỷ ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng,
chống tệ nạn ma tuý, mại dâm, Hà Nội, 2006.
- Tài liệu “Giới thiệu và hướng dẫn áp dụng mô hình cai nghiện có hiệu quả”, Cục
Phòng chống tệ nạn xã hội, Hà Nội, 2007.

Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí về vấn đề này với những cách tiếp
cận khác nhau.
Có thể thấy rằng, các tài liệu mới chỉ đề cập rất ít tới vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm cho người sau cai nghiện, chưa có công trình khoa học nào đã công bố, tập trung
nghiên cứu vấn đề tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay.
Tuy vậy, nghiên cứu các công trình đã công bố đó, tôi cũng tham khảo được nhiều
vấn đề lý luận và thực tiễn rất có giá trị đối với đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn
lọc những vấn đề đã được nghiên cứu trong các công trình khoa học đó, kết hợp với khảo
sát thực tế ở một số địa phương, tôi có thể rút ra một số giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho
những người sau cai nghiện ma tuý ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về tác động
tiêu cực của tệ nạn ma tuý tới đời sống kinh tế - xã hội, sự cần thiết phải tổ chức và quản lý
sau cai nghiện ma tuý và đề xuất giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho những người sau cai
nghiện ma túy ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:


- Hệ thống hoá và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về ma tuý, sử dụng ma tuý, cai
nghiện ma tuý và quản lý sau cai nghiện ma tuý.
- Phân tích lý luận về hỗ trợ tạo việc làm cho đối tượng sau cai nghiện, góp phần hạn
chế và khắc phục tác động tiêu cực của tệ nạn ma tuý đối với kinh tế - xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý.
- Xác định quan điểm và đề xuất các giải pháp hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai
nghiện ma tuý ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu các nhân tố tác động tới tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý,
trọng tâm là cách thức tổ chức quản lý, cơ chế, chính sách của cơ quan quản lý nhà nước các
cấp trong hỗ trợ tạo việc làm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: đề tài nghiên cứu về vấn đề hỗ trợ tạo việc làm cho những người
sau cai nghiện ma tuý có hồ sơ quản lý sau cai nghiện trên phạm vi cả nước.
- Về thời gian: nghiên cứu thực trạng hỗ trợ tạo việc làm cho những người sau cai
nghiện ma tuý từ năm 2001 đến năm 2007; đề xuất giải pháp cho những năm tiếp theo.
- Về nội dung: tập trung nghiên cứu số liệu tổng hợp của các cơ quan quản lý có liên
quan về hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý và tiến hành khảo sát các mô
hình điểm ở một số địa phương trong cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Các lý thuyết về sai lệch xã hội, tệ nạn xã hội và tội phạm của E. Durkheim, W. Weber…và
vấn đề việc làm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên các tài liệu nghiên cứu đã có, số liệu tổng hợp, thống kê và một số đề tài
nghiên cứu khoa học, điều tra khảo sát của Cục phòng chống tệ nạn xã hội - Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội, của Văn phòng Thường trực phòng chống ma tuý - Bộ Công an,


cũng như các báo cáo tổng kết của địa phương, luận văn sử dụng phương pháp phân tích,
đánh giá, khái quát hoá đồng thời tiến hành một số cuộc điều tra khảo sát tại các trung tâm,
phường, xã nhằm mục đích minh hoạ.
6. ý nghĩa của luận văn
6.1. ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần phân tích và làm rõ những vấn đề cơ bản về ma tuý, sử dụng ma tuý,
cai nghiện ma tuý, nguyên nhân và tác hại của sử dụng ma tuý, tái nghiện, quản lý sau cai

nghiện, tái hoà nhập cộng đồng và hỗ trợ tạo việc làm cho những người sau cai nghiện ma tuý.
Hệ thống các giải pháp khả thi, hiệu quả cho người sau cai nghiện nhằm nhân rộng các mô
hình trong cả nước.
6.2. ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý nghiên
cứu hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn về tạo việc làm cho người sau cai nghiện,
phù hợp với điều kiện, và tình hình ở mỗi địa phương, góp phần đẩy mạnh công tác phòng
chống ma tuý, làm giảm tỷ lệ tái nghiện và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 8 tiết.







Chương 1
Một số vấn đề Lý luận chung về ma tuý, việc làm
và hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma tuý

1.1 . Ma tuý và tác hại của nghiện ma tuý đối với kinh tế - xã hội
1.1.1 . Một số khái niệm liên quan đến ma tuý
* Ma tuý
Thuật ngữ “ma túy” xuất hiện ở Việt Nam ban đầu có ý nghĩa là chỉ thuốc phiện, về
sau còn được hiểu là các cây cần sa, cô ca và các loại thuốc tân dược gây nghiện khác. Có ý
kiến giải thích thuật ngữ “ma tuý” đó là vì các chất này có tác dụng như ma thuật, ma quái.
Nó chữa được một số bệnh có hiệu quả cao và làm tăng hưng phấn hoặc ức chế thần kinh,
đồng thời làm cho con người mê mẩn, ngây ngất và tuý luý. Và như vậy, thuật ngữ “ma tuý”

được ghép từ các từ ma thuật, ma quái và tuý luý.
Chương trình kiểm soát ma tuý quốc tế của Liên Hợp quốc (UNDCP) năm 1991 đã
xác định: “Ma tuý là những chất độc có tính gây nghiện, có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân
tạo khi xâm nhập và cơ thể con người thì có tác dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức và trí
tuệ, làm cho con người bị lệ thuộc vào chúng gây nên những tổn thương cho từng cá nhân
và cộng đồng”; theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), “Ma tuý là bất kỳ chất gì mà khi đưa
vào cơ thể sống có thể làm thay đổi một hay nhiều chức năng sinh lý của cơ thể”. Hay hiểu
ngắn gọn theo cách định nghĩa trong Từ điển Tiếng Việt: “Ma túy là tên gọi chung các chất
có tác dụng gây trạng thái ngây ngất, đờ đẫn và dùng quen thành nghiện”.
Từ các quan niệm nêu trên, có thể nêu khái niệm như sau: ma túy là những chất có
nguồn gốc từ tự nhiên hay nhân tạo và khi dùng không được chỉ dẫn có thể gây nghiện, làm
ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ của con người cũng như sự ổn định và phát triển của cộng
đồng.
* Nghiện ma tuý
Khi dùng ma túy lần đầu, người ta thấy có cảm giác lâng lâng, dễ chịu và thèm muốn
dùng lại. Ma túy vào cơ thể vài lần sẽ tác động đến cơ quan cảm thụ, gây trạng thái quen
thuốc, nếu không dùng tiếp sẽ rất khó chịu, đau đớn, vật vã…, thèm muốn được dùng lại và
trở nên nghiện ma tuý. Do đó, nghiện ma tuý, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì đó là tình trạng


một bộ phận trong xã hội gồm những người có thói quen dùng các chất ma tuý. Còn theo
nghĩa hẹp thì nghiện ma túy là sự lệ thuộc của con người cụ thể đối với các chất ma tuý, làm
cho con người ta không thể quên và từ bỏ được ma tuý.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về “nghiện ma tuý”, nhưng chưa có một
khái niệm đầy đủ và thống nhất. Tuy nhiên, theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) “Nghiện ma
tuý là trạng thái nhiễm độc chu kỳ hay mãn tính có hại cho cá nhân và xã hội do dùng lặp lại
một chất ma túy tự nhiên hay tổng hợp” [64, tr.4].
Theo định nghĩa mới đây của tổ chức DAYTOP quốc tế: “nghiện ma tuý là tình trạng
rối loạn cơ thể con người về các mặt sinh lý, tâm lý, nhận thức và hành vi do người đó sử
dụng lặp đi lặp lại một hoặc nhiều loại ma tuý từ tự nhiên hay tổng hợp”

* Người nghiện ma tuý
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa: người nghiện ma túy là người sử dụng chất
ma tuý, thuốc gây nghiện, thuốc hướng thần dưới các hình thức khác nhau như hút, hít, tiêm
chích và bị lệ thuộc vào các chất này. Từ khái niệm nghiện ma túy có thể rút ra cách hiểu về
người nghiện ma tuý như sau: người nghiện ma túy là người bị lệ thuộc đối với các chất ma
túy và không thể quên hay từ bỏ được ma tuý. Nếu ngừng sử dụng thì người nghiện sẽ xuất
hiện hội chứng cai.
Như vậy, có thể hiểu người nghiện ma túy theo các cách định nghĩa khác nhau,
nhưng nó có mấy điểm cơ bản là người nghiện ma tuý là người sử dụng lặp lại nhiều lần
một chất ma túy tự nhiên hay tổng hợp và bị lệ thuộc vào nó, không thể quên hay từ bỏ được
nó.
* Cai nghiện ma tuý
Với những hậu quả, tác hại mà ma túy gây ra cho người nghiện và gia đình, xã hội…
thì tất yếu phải có hoạt động cai nghiện ma tuý, đó là biện pháp giúp người nghiện ma tuý
thông qua chữa trị để từ bỏ ma tuý, phục hồi sức khoẻ tinh thần và tái hoà nhập cộng đồng.
Thực chất “cai nghiện ma tuý” là quá trình giải quyết sự rối loạn ba yếu tố của người nghiện
(trạng thái sinh lý, tâm lý, nhận thức và hành vi).
Liên hợp quốc đưa ra định nghĩa: cai nghiện là một biện pháp tổng hợp gồm các tác
động về y học, pháp luật, giáo dục học, đạo đức…nhằm điều trị giúp người nghiện ma túy
cắt các hội chứng cai nghiện, phục hồi sức khoẻ và tái hoà nhập xã hội.


* Tái nghiện ma tuý
Quá trình nghiện ma tuý đã tạo cho người nghiện có phản xạ cực nhạy với ma tuý,
cho nên mặc dù đã cắt cơn rồi nhưng trong phạm vi 60 tháng hễ cứ nhìn thấy ma tuý, ngửi
thấy hơi người nghiện, tiếp xúc với người nghiện, thậm chí nói đến tên loạn ma tuý quen
dùng, là cơn thèm khát ma tuý lại bùng lên dữ dội, khó có thể kiềm hãm được. Vì vậy, khi
ra khỏi các trung tâm cai nghiện, người cai trở lại sống với gia đình và cộng đồng, chịu sự
ảnh hưởng trực tiếp của môi trường xã hội còn chưa trong sạch ma tuý dẫn đến khả năng tái
sử dụng ma túy là rất cao. Việc tái sử dụng ma tuý chính là tái nghiện ma tuý và theo

PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm thì:
Tái nghiện được hiểu là một đối tượng nghiện ma tuý đã được gia đình, chính
quyền, các đoàn thể tại địa phương giúp đỡ, giáo dục, chữa trị cai nghiện để trở lại
cuộc sống bình thường trong xã hội. Thế nhưng vì một lý do nào đó họ đã không
kiềm chế được những ham muốn cá nhân, những suy nghĩ lệch lạc nên lại tiếp tục sử
dụng các loại chất ma tuý, người ta gọi trường hợp này là tái nghiện [66, tr.201].
“Tái nghiện được xem như một quá trình, một loạt kích thích không tốt và cuối cùng
dẫn đến việc dùng trở lại các chất ma tuý”.
Ranh giới giữa tái sử dụng ma tuý (tái nghiện) và dứt khoát đoạn tuyệt với ma túy là
rất mong manh. Chính vì vậy, công việc phòng, chống tái nghiện khi người cai hoà nhập
cộng đồng là một việc làm tất yếu phải được thực hiện.
1.1.2 . Đặc điểm người nghiện ma tuý và tái nghiện ma tuý
Người nghiện ma túy là người đã bị lệ thuộc hoàn toàn vào ma tuý, dưới tác dụng của
ma tuý toàn bộ các moocphin nội sinh cho cơ thể con người bình thường đã bị tiêu diệt và
thay thế bằng mooc phin ngoại sinh (là các chất có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp) khi
được đưa vào cơ thể con người nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của
người đó.
Trong quá trình cai nghiện bắt buộc, cắt cơn, chữa bệnh và phục hồi sức khoẻ và
trong thời gian sau cai, nhiều người có sức khoẻ nhưng thiếu ý chí vươn lên làm lại cuộc
đời. Họ không có hứng thú học văn hoá và cũng không thích học nghề và đó là trở ngại
không nhỏ cho công tác giáo dục dạy nghề và tạo việc làm. Phần lớn đối tượng có học lực
thấp, số người này chỉ có thể làm lao động phổ thông và thu nhập thấp.


Sức khoẻ của người sau cai vẫn là một trong những trở ngại lớn cho bước tái hoà
nhập cộng đồng. Một tỷ lệ cao lao động là người sau cai không đủ sức khoẻ để đáp ứng yêu
cầu làm việc của sản xuất.
Số người nghiện ma túy lười lao động chiếm tỷ lệ cao trong học viên và người sau
cai. Có nguyên nhân xã hội sâu xa: những người nghiện ma túy từng tự tách mình khỏi lao
động, trở thành những kẻ ăn bám, nhiều người trong số họ mất lòng tin nơi chính mình, mất

thăng bằng dễ rơi vào trầm cảm do bị người thân xa lánh, khinh thị. Vòng tròn không lối
thoát ấy vây chặt lấy họ. Việc từng bước trở lại với đời thường, sử dụng sức lao động cơ bắp
và kỹ năng và những gì học trong những năm ở trung tâm dể tự nuôi sống mình là một quá
trình thử thách lớn mang yếu tố quyết định.
Sức ỳ và tình trạng rối loạn tâm lý là nghiêm trọng, kể cả rối loạn sinh lý giới tính,
kéo dài trong nhiều năm do bị cách li với bên ngoài. Do đó, nhiều người vẫn chưa đủ quyết
tâm dứt khoát đoạn tuyệt với chất gây nghiện, vì vậy cuộc vật lộn nội tâm gay gắt dẫn đến
rối loạn tâm lý, tạo sức ỳ lớn, khó có thể tập trung trí lực và thể lực vào lao động sản xuất
trước mắt và trong một thời gian nhất định tiếp theo, nếu không có những cú hích mạnh.
Nhiều người sau cai do hiểu rất rõ trình độ và năng lực nghề nghiệp hạn chế, kém cỏi
của mình, tỏ ra thiếu tự tin trong quá trình tái hoà nhập cộng đồng mới bắt đầu này. Không
ít người sau cai băn khoăn, lo lắng trong quá trình tái hoà nhập này là sức khoẻ kém, thiếu,
thậm chí mất sự tự tin nơi chính mình - khi bước vào một giai đoạn mới rất quan trọng để có
thể khẳng định kết quả những năm cai nghiện tập trung, được rèn luyện để giờ đây bước đầu
trên con đường trở lại đời thường. Một số khác luôn tự dày vò mình về những năm tháng
không ra gì trong quá khứ nghiện ngập, giờ đây vẫn canh cánh bên lòng rằng, họ sẽ tiếp tục
bị coi thường, bị bàn bè cùng trang lứa, thậm chí người thân ghét bỏ, khinh thị và xa
lánh tâm trạng đó có thật và có thể chia sẻ. Không phải ai khác mà chính là những người
sau cai khẳng định: năng lực nghề nghiệp kém, sức khoẻ èo uột, thiếu tự tin, lo lắng sầu não
bị mọi người xa lánh do quá khứ không ra gì…làm tăng rất cao khả năng tái nghiện đối với
họ. Trở về với cộng đồng trong bối cảnh ấy nguy cơ tái nghiện là rất cao, khó tránh khỏi.
Một số đông, nhưng so với tổng số người cai nghiện tập trung vẫn chỉ là một tỷ lệ
nhỏ, thấm thía với những lỗi lầm trong quá khứ sau khi để rơi vào tệ nạn ma tuý, đánh mất
hầu như tất cả, kể cả tài sản quí giá nhất là nhân cách. Giờ đây, họ tỏ ra có ý chí và tinh thần


phấn đấu cao, được người thân động viên, giúp đỡ và tiếp sức, được những cán bộ quản lý
trực tiếp, giáo dục viên, chuyên gia tư vấn tâm lý truyền thêm nghị lực, đã tỏ rõ quyết tâm từ bỏ
ma tuý.
1.1.3 . Nguyên nhân của nghiện và tái nghiện ma tuý

Nghiện và tái nghiện ma túy là một hiện tượng xã hội tiêu cực xảy ra do nhiều
nguyên nhân khác nhau, có thể qui về 2 nhóm:
Thứ nhất, nguyên nhân chủ quan từ bản thân người nghiện
Tái nghiện có xảy ra hay không xảy ra được quyết định trực tiếp, cuối cùng bởi
người nghiện sau cai. Tại sao những người đã có hiểu biết về tác hại của ma túy qua quá
trình trảI nghiệm của bản thân, qua sự giáo dục, tư vấn tại các trung tâm lại dễ dàng nghiện
trở lại các chất ma tuý? Nguyên nhân thuộc về người nghiện bao gồm:
* Bị lệ thuộc về tâm lý vào các chất ma tuý
Quá trình nghiện ngập trước khi đi cai ở các trung tâm đã gây ra sự rối loạn cho
người nghiện ma tuý cả về thể chất cho đến nhận thức, hành vi, hay chính là mất cân bằng
cả về thể chất và tinh thần. Cai nghiện ma túy giúp cho người nghiện từ bỏ được hội chứng
cai, loại bỏ một phần sự mất cân bằng chứ không xoá được sự lệ thuộc về tâm lý, ý thức.
Hành vi sử dụng lại các chất ma túy là biểu hiện rõ ràng nhất sự lệ thuộc đó, nó giống như
một phương thức mà người nghiện tìm đến để xoá đi trạng thái mất cân bằng. Sau khi cai,
cách suy nghĩ, hành vi của người nghiện vẫn còn bị ảnh hưởng rất đậm nét bởi ma tuý. Theo
nhận định của hội đồng chuyên viên về lạm dụng ma túy của Tổ chức y tế thế giới (WHO)
thì
Sự lệ thuộc vào chất ma túy trước hết và chủ yếu là sự lệ thuộc về mặt tâm
thần…trong một thời gian dài tất cả những phản ứng hàng ngày của não bộ đối
với ma tuý nhất là đối với các thụ thể đặc hiệu đều được lưu dấu vết vào bộ nhớ
của não và hình thành một phản xạ có điều kiện kiên cố không thể nào xoá bỏ
được. Do đó, cái thèm và nhớ các cảm giác dễ chịu, sảng khoái do ma tuý đem lại
có cơ sở vững chắc tại các tế bào thần kinh, tồn tại tiềm tàng và thường xuyên
trong não. Bởi vậy khi gặp một kích thích gợi nhớ chất ma túy, các dấu vết của
phản xạ có điều kiện được hoạt hoá, xung động thèm chất ma tuý xuất hiện trở lại
và thúc đẩy người nghiện quay về với chất ma tuý…đói ma tuý trường diễn hay


sự lệ thuộc về mặt tâm thần là khó khăn trở ngại lớn nhất trong điều trị nghiện ma
tuý hiện nay [58].

Loại bỏ sự lệ thuộc tâm lý đòi hỏi một quá trình điều trị lâu dài gắn với cuộc đời
người nghiện, trong thời gian đó, phải tạo cho họ được sống trong môi trường không có ma
tuý, chăm sóc giúp đỡ thường xuyên…tức là tạo ra các yếu tố bảo vệ để phòng chống tái
nghiện.
* Tò mò muốn thử lại các chất ma tuý
Sự lệ thuộc về tâm lý tạo ra ở người nghiện cảm giác tò mò muốn thử lại. Khi thèm
nhớ, người nghiện tưởng tượng đến các cảm giác đê mê, ngây ngất do ma túy mang tới.
Trong thời gian cai nghiện tại các trung tâm, cảm giác thèm nhớ các chất ma tuý vẫn luôn
tồn tại, lúc lắng xuống, lúc mạnh mẽ tuỳ theo trạng thái tâm lý của người nghiện: khi họ
cảm thấy buồn bực, đau đớn, thất vọng thì cảm giác thèm ma tuý tăng lên, tương tự khi họ
quá phấn khích, vui vẻ. Trở về với cộng đồng, nếu không được sống trong một môi trường
cách ly với ma tuý, không được sự quan tâm, giám sát, giúp đỡ của gia đình, chính quyền,
người đã cai rất dễ tái nghiện. “Báo cáo kết quả điều tra người nghiện ma tuý năm 2001”
cho biết, tỷ lệ nghiện ma tuý (bao gồm cả tái nghiện ma tuý năm 2001” cho biết, tỷ lệ
nghiện ma túy (bao gồm cả tái nghiện ma tuý) do tò mò, tìm khoái lạc ở một số địa phương
như sau: Sơn La (55.8%), Hà Giang (44,44%)….
Cũng về nguyên nhân tò mò dẫn đến sử dụng ma tuý, Báo cáo tình hình lạm dụng ma
tuý ở Việt Nam của UNDCP có đề cập: tò mò và xã giao chơi bời là hai nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến sử dụng ma tuý (60%).
Những con số đó lưu ý chúng ta về các giải pháp phòng chống tái nghiện ma tuý,
phải làm cho người nghiện sau cai có đủ tự tin, nghị lực và hiểu biết để vượt qua sự thèm
nhớ, tò mò muốn sử dụng lại ma tuý.
* Do lối sống buông thả, ăn chơi, đua đòi
Đó vừa là nguyên nhân dẫn đến nghiện ma tuý, vừa là một nguyên nhân của tái
nghiện. Người nghiện vốn do có lối sống sai lệch, nhiều thói quen xấu nên mắc vào nghiện
ngập và trở thành thói quen khó bỏ, thậm chí khi đã cai nghiện được một thời gian ở trung
tâm trở về tái hoà nhập cộng đồng, người nghiện vẫn giữ những thói quen đó. Thói quen sử
dụng ma tuý lại càng khó từ bỏ đối với người nghiện bởi ma tuý đã ăn sâu vào não người



nghiện mà trong thời gian ngắn chưa thể xoá hết được. “Thực tế cho thấy đã có những
người cai được trong thời gian từ 20 - 30 năm nhưng vẫn tái nghiện trở lại” [63, tr.24]. Môi
trường tái hoà nhập cộng đồng của người nghiện vẫn còn những điều kiện xấu tồn tại
xung quanh và nếu lối sống lành mạnh không đủ sức hút thì khả năng tái nghiện là rất
lớn, thậm chí việc tái nghiện hoàn toàn có thể
xảy ra.
* Người nghiện không đủ can đảm và nghị lực để đoạn tuyệt với sự lôi kéo của
những bạn bè xấu. Với những thói quen cũ, người nghiện vẫn tiếp tục giao du với những
bạn bè trước đây và đa số những người bạn này là những người có nhu cầu và thói quen
giống người nghiện. Vì thế mà nguy cơ tái nghiện ma tuý bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra
với người sau cai.
Thứ hai, nguyên nhân khách quan
* Môi trường xã hội: Hiện nay khả năng cung về ma tuý vẫn rất lớn, chúng ta chỉ
ngăn chặn, bắt giữ được một lượng rất nhỏ, còn lại hầu hết ma túy vẫn đang trôi nổi, tồn tại
trong xã hội, nó luôn sẵn sàng đáp ứng cho người có nhu cầu. Bọn tội phạm tiếp tục buôn
bán cái chết trắng vẫn hiện diện khắp nơi. Chừng nào còn những tên tội phạm này - kể cả
bọn buôn ma tuý xuyên biên giới với số lượng tính bằng hàng chục, hàng trăm kg hê rô in
lẫn bọn bán lẻ từng tép thì khó có thể nói đến việc ngăn chặn tình trạng tái nghiện, càng
không thể ngăn ngừa những con người thiếu bản lĩnh trở thành những con nghiện mới.
Những con nghiện mới xuất hiện và trở thành gánh nặng và nỗi khổ đau cho nhiều gia đình
và xã hội
Ma tuý mang lại những món siêu lợi nhuận cho người buôn bán nó. Chính vì vậy, đã
có rất nhiều kẻ bất chấp luật pháp, đạo đức để lao vào phạm tội buôn bán ma tuý. Lực hút
của đồng tiền từ buôn bán ma túy đã khiến cho nhiều kẻ không cần để ý đến những hình
phạt cao nhất mà luật pháp quốc tế cũng như luật pháp của mỗi nước dành cho tội phạm về
ma tuý. Lợi dụng điểm yếu là sự lệ thuộc vào ma tuý của những người nghiện ma túy vẫn
chưa hết khi họ từ trung tâm cai nghiện trở về tái hoà nhập cộng đồng nên bọn buôn bán ma
tuý tìm mọi cách rủ rê, lôi kéo để người nghiện sau cai phải tái sử dụng ma tuý, với hình
thức ban đầu là cho không thuốc nhưng khi đã nghiện lại thì chúng bắt phải mua hoặc phải
giúp chúng tiêu thụ ma tuý.



* Do không có việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập thấp: Trong nền kinh tế thị
trường luôn tồn tại một tỷ lệ những người thất nghiệp. Thất nghiệp là một yếu tố nguy cơ
dẫn đến nhiều hành vi sai lệch khác nhau, trong đó có lạm dụng ma tuý. Mỗi lần cai nghiện
tại gia đình, cộng đồng hoặc từ các trung tâm cai nghiện trở về, người nghiện hầu như chẳng
còn gì ngoài hai bàn tay trắng. Trong thời gian nghiện hút, họ bán hoặc cầm cố tất cả những
gì mình có. Sức khoẻ người nghiện sau nhiều năm nghiện hút, chích, mắc nhiều bệnh, bây
giờ họ phải chịu thêm sự hành hạ của các bệnh mới khi ngừng sử dụng ma tuý nên sức khoẻ
suy sụp khó có thể có được việc làm có thu nhập đảm bảo cho cuộc sống bản thân và gia
đình. Người nghiện thường kêu ca buồn chán khi ở nhà vì không có việc làm, mệt mỏi, ăn
không ngon, ngủ không đẫy giấc. Khi không có việc làm ổn định hoặc thu nhập thấp không
đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình thì con người ta trở nên chán chường, bi quan
và rất dễ sa vào tái nghiện. Không có việc làm dẫn đến một mặt là người nghiện có nhiều
thời gian rỗi, có cơ hội giao du với những người bạn cũ, mặt khác, làm tăng thêm tính lười
nhác của người nghiện, giảm quyết tâm cai nghiện ma tuý.
Những người nghiện sau khi được cai trở về với cộng đồng trong tình trạng không có
việc làm rất dễ trở lại với ma túy. “Nhàn cư vi bất thiện”, vì thất nghiệp, người nghiện lang
bạt “nay đây mai đó”, trở lại những điểm tiêm chích xưa, gặp bạn nghiện cũ, thấy những
hình ảnh hết sức quen thuộc làm cho cảm giác thèm muốn trào dâng…Tái nghiện chỉ còn là
ngày một ngày hai.
Việc làm là một nhân tố khá quan trọng cho người nghiện tái hoà nhập cộng đồng và
đoạn tuyệt với ma tuý. “Kết quả điều tra khảo sát người nghiện cho thấy nguyên nhân tái
nghiện tập trung cao nhất vào lý do người nghiện sau cai không có việc làm nên tái nghiện
(chiếm 39,4%), sau đó là không có sự quản lý, hỗ trợ (chiếm 21,7%), còn lại tập trung vào
hai nguyên nhân khác: do mua ma tuý ngoài thị trường quá dễ (chiếm 20,7%) và bị kỳ thị
bởi cộng đồng (chiếm 17,2%) [63, tr.98].
Nguyên nhân dẫn tới người nghiện sau cai không tìm được việc làm, trước hết là do
họ bị hạn chế về mặt thể chất và cả tâm lý. Mặc dù được điều trị tại các trung tâm, song sự
suy yếu về sức khoẻ, biến đổi về hình thức, phong thái vẫn còn biểu hiện rõ nét khiến cho

người nghiện sau cai bất lợi khi đi xin việc. Mặt khác, ngành nghề đào tạo tại các trung tâm
hiện nay tính khả thi không cao, dạy nghề mang tính đồng loạt, đa số người nghiện không


thể ứng dụng những nghề được đào tạo sau khi trở về cộng đồng (ví dụ: nghề đan lát không
áp dụng được khi đối tượng nghiện sống ở trung tâm của thành phố lớn như Hà Nội…). Bên
cạnh đó, người nghiện ma tuý bị kỳ thị rất lớn bởi người tuyển dụng và bị cạnh tranh gay
gắt từ phía những người được đào tạo tại các trung tâm, cơ sở dạy nghề bên ngoài… Người
sau cai nghiện còn gặp trở ngại do kém năng động, thiếu tự tin thậm chí là tự ti khi tiếp xúc,
trả lời phỏng vấn.
Thực tế là người cai nghiện ma túy, sau khi cắt cơn, trở về với cộng đồng tỷ lệ tái
nghiện rất cao, hơn 95%. Nhiều nơi sáng tạo ra một số “mô hình hậu cai”, như thành lập
“Câu lạc bộ sau cai” để thường xuyên giúp đỡ, giám sát nhau, dù có thu được một số kết
quả, song cũng không thể ngăn chặn được tình trạng tái nghiện. Tình hình khó khăn và phức
tạp như vậy là do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chính bao trùm là: Người nghiện ma túy
ở nước ta thường chích thẳng ma túy vào tĩnh mạch. Chất gây nghiện cực mạnh ấy tác động,
và lưu lại trong vùng khoái cảm của não bộ. Muốn não không “nhớ” thì chỉ còn cách là loại
bỏ vùng khoái cảm trong não bộ. Đó là điều không thể! chỉ có những ai thật sự có ý chí cao
và với sự giúp đỡ tận tình của cộng đồng, thì mới mong thắng được chính sự thèm khát ấy.
* Do bạn bè rủ rê: Các đối tượng nghiện nhưng chưa cai nghiện hoặc người đã tái
nghiện trước, những người buôn bán các chất ma tuý luôn tìm cách lôi kéo, rủ rê để người
cai nghiện trở lại sử dụng ma tuý và trở thành tái nghiện. Báo cáo kết quả điều tra người
nghiện ma túy năm 2001 đã làm rõ: bị rủ rê là nguyên nhân chính dẫn tới nghiện ma tuý của
các đối tượng (63,5%), theo báo cáo tình hình lạm dụng ma tuý ở Việt Nam thì tỷ lệ đó là
57,9%. Tái nghiện vì nguyên nhân này lại cao là do bản chất con người là tổng hoà các mối
quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ bạn bè. Bạn bè đóng vai trò rất lớn trong cuộc sống của
mỗi cá nhân. Hành động của mỗi cá nhân dù tốt hay xấu đều tìm thấy dấu ấn của những
người bạn anh ta. Hành vi sử dụng trở lại các chất ma túy không nằm ngoài nhận xét đó.
Sau khi được cai nghiện, trở về với cộng đồng, mọi cái dường như đều trở nên mới lạ, gần
gũi nhất với người sau cai lúc này là gia đình và bạn bè của họ. Bạn bè của người nghiện

chủ yếu là bạn tiêm chích cũ, có người đã cai nghiện, có người chưa cai, có người tái
nghiện. Sự tiếp xúc, giao lưu với những người bạn nghiện cũ khiến họ gợi nhớ những cảm
giác do ma túy đem đến. Trong hoàn cảnh đó, nếu một người bạn của người đã cai sử dụng


ma tuý, “khoe” ma tuý hay mời chào sử dụng ma tuý…thì vấn đề tái nghiện chỉ còn phụ
thuộc vào ý chí của đối tượng nữa thôi, đa phần là không thể vượt qua.
* Cuộc sống gia đình không hoà thuận cũng là một nguyên nhân của tái nghiện. Nếu
gia đình, người thân không thông cảm, sẻ chia và có những sự hỗ trợ kịp thời cả về vật chất
và tinh thần thì với tâm trạng buồn chán, bi quan sẵn có sẽ làm cho người sau cai dễ lâm vào
tái nghiện. Trong thực tế có nhiều gia đình có những người thân đã tỏ ra thiếu lòng tin, sự
cảm thông đối với người cai nghiện từ trung tâm về và có thái độ khinh ghét đối với họ, tạo
ra cho họ tâm lý tự ti, mặc cảm. Người nghiện ma tuý khi đi cai về thường thì họ muốn tìm
việc làm, có những việc làm nguy hiểm ngoài khả năng kiểm soát của gia đình (ví dụ: phụ
xe đi nơi này nơi khác, chạy xe ôm…) hoặc có những công việc đòi hỏi vốn lớn ngoài khả
năng của gia đình nên người nghiện không được đáp ứng và có thể xảy ra mâu thuẫn giữa
gia đình và người nghiện sau cai. Những mâu thuẫn này có thể đưa người nghiện trở lại con
đường nghiện hút ma tuý.
* Sự thành kiến, phân biệt đối xử của cộng đồng xã hội: Những thành kiến của xã hội
đối với người nghiện đã có từ lâu. Nhiều người nhìn người nghiện với con mắt khinh bỉ,
miệt thị, coi họ là thành phần xấu cần cảnh giác. Hầu hết người dân gọi người nghiện là
thằng nghiện, con nghiện, bọn đạo chích, bọn xì ke, ma tuý. Điều đó làm cho người nghiện
càng trở nên mặc cảm và làm cho quá trình tìm việc làm của họ càng gặp nhiều trở ngại.
Trong cộng đồng, xã hội còn nhiều người hoài nghi về khả năng quyết tâm đoạn tuyệt với
ma túy của người nghiện. Cũng có lẽ do người ta đã chứng kiến cảnh người nghiện sau cai
lại tái nghiện quá nhiều, đặc biệt với tỷ lệ tái nghiện quá cao như hiện nay (trên 90%, thậm
chí 100% tái nghiện) nên số người đặt niềm tin vào lời hứa của người đã cai là rất ít.
Tóm lại, để cai nghiện được hoàn toàn đòi hỏi phải có sự kết hợp nỗ lực, ý chí quyết
tâm của bản thân người nghiện với sự hỗ trợ cần thiết của gia đình, cộng đồng, xã hội để
chống lại các yếu tố gây nên nghiện và tái nghiện. Chính vì vậy, hỗ trợ giúp tạo việc làm

cho người sau cai nghiện từ bỏ được ma tuý, không tái nghiện vẫn luôn là một thách thức
lớn cho người cai nghiện và công tác quản lý sau cai.
1.1.4 . Tác hại của nghiện và tái nghiện ma túy tới kinh tế - xã hội
* Tác hại về kinh tế


- Đối với người tái nghiện: Gây ảnh hưởng nặng nề đối với người nghiện, khiến họ bị
suy giảm khả năng lao động sản xuất, tuy không làm ra của cải vật chất hoặc làm ra ít nhưng
tiền tiêu dùng cho ma tuý luôn được họ khai thác từ gia đình hoặc thông qua những hành vi
phạm tội.
- Đối với gia đình người nghiện: Nghiện ma tuý và tái nghiện ma túy khiến gia đình
người nghiện bị điêu đứng về kinh tế: người nghiện lần lượt đem tiền bạc, của cải trong gia
đình đi đổi lấy ma tuý, đẩy đời sống gia đình đi vào đổ vỡ, mâu thuẫn, xung đột sâu sắc và
bần cùng.
- Đối với kinh tế - xã hội: Ma tuý gây ảnh hưởng đến kinh tế xã hội một cách nặng
nề. Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì đến cuối năm 2005 cả
nước có khoảng 160.000 người nghiện có hồ sơ quản lý, nếu trung bình một ngày người
nghiện dùng hai tép heroin (mỗi tép giá 50000đ) thì một năm tổng số người nghiện đã tiêu
tốn khoảng 1.600 tỷ đồng. Khi số lượng người nghiện trên tái nghiện thì số tiền tiêu phí sẽ
lớn hơn rất nhiều. Ngoài ra, hàng năm ngân sách nhà nước phải chi hàng trăm tỷ đồng cho
công tác cai nghiện phục hồi, phòng chống tái nghiện, trả lượng cho đội ngũ cán bộ làm
công tác phòng chống tệ nạn ma tuý, chưa kể tiền của gia đình người nghiện đóng góp.
Thêm vào đó, tái nghiện ma tuý làm tổn thất một nguồn nhân lực rất lớn cho phát triển kinh
tế vì đại đa số người nghiện, tái nghiện đều trong độ tuổi lao động và còn rất trẻ. Như vậy,
thiệt hại về kinh tế do tái nghiện ma túy không chỉ dừng lại ở các con số kể trên.
* Tác hại đối với xã hội
Nghiện ma túy gắn liền với bệnh tật, nghiện ma tuý là thân tàn ma dại, sức khoẻ bị
suy kiệt, người nghiện chỉ có tuổi thọ trung bình là 40 tuổi, trong khi tuổi thọ bình quân của
người bình thường là 75 tuổi. Vì thế sẽ là lãng phí nguồn nhân lực, sức lực lớn nếu như
không tổ chức cai nghiện, hỗ trợ tạo việc làm giúp người sau cai nghiện tái hoà nhập cộng

đồng phòng ngừa tái nghiện cho gần hai trăm ngàn người nghiện, trong đó chiếm tới 80% là
thanh niên.
Nghiện ma túy gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh, trật tự an toàn xã hội, làm
gia tăng và lan rộng các căn bệnh xã hội nguy hiểm như HIV/AIDS, ảnh hưởng đến văn
hoá, đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục, bản sắc và giá trị văn hoá của dân tộc. Nghiện
ma tuý có mối quan hệ liên đới với rất nhiều loại tệ nạn và tội phạm xã hội khác: khoảng


85% người nghiện ma túy có tiền án, tiền sự, 40% các vụ trọng án là do người nghiện ma
túy gây ra. Thông qua các vấn đề xã hội cũng như việc giải quyết các vấn đề đó có thể đánh
giá khả năng điều hành đất nước của một chính phủ nào đó và tình hình chính trị ổn định
như thế nào. Không loại trừ nguy cơ các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề ma tuý
để công kích sự nghiệp cách mạng của nước ta.
1.2. Việc làm và hỗ trợ tạo việc làm trong quản lý đối với người sau cai nghiện
và phòng ngừa tái nghiện
1.2.1. Một số vấn đề chung về việc làm, tạo việc làm trong nền kinh tế thị trường
* Quan niệm về việc làm
Việc làm là một phạm trù thuộc quyền con người, quyền có việc làm đã được quy
định trong hệ thống phát luật quốc tế, Công ước về các quyền kinh tế - xã hội và văn hoá năm
1966 ghi nhận: "Các quốc gia thành viên của Công ước này thừa nhận quyền làm việc, trong đó
bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công việc do họ tự lựa chọn
hoặc chấp nhận, và các quốc gia sẽ thi hành các biện pháp thích hợp để đảm bảo quyền này”
(điều 6). “Các quốc gia thành viên của Công ước này công nhận quyền của mọi người được
hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi…” (điều 7).
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân
khẩu; nó thuộc loại những vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. KháI niệm việc
làm và khái niệm lao động liên quan chặt chẽ với nhau, nhưng không hoàn toàn giống nhau.
Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc cụ thể,là những giới
hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thoả
mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về giác độ

kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố
con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất. Việc làm gắn với quá trình tăng thu
nhập, giảm sự nghèo khổ của người lao động, đồng thời không đi ngược lại với lợi ích cộng
đồng mà pháp luật quy định. Nói cách khác, việc làm là những công việc, là những hoạt
động có ích, không bị pháp luật cấm và mang lại thu nhập cho bản thân hoặc tạo điều kiện
để tăng thu nhập cho các thành viên trong gia đình, đồng thời góp phần cho xã hội.


Hiến pháp 1992, chương V đã quy định các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
trong đó có quyền được làm việc: “Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước
và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động” (điều 55) [44].
Bộ luật Lao động đầu tiên của Việt Nam được Quốc hội khoá IX thông qua đã khẳng
định ở đoạn 1 điều 13, chương II, việc làm “là mọi hoạt động lao động sáng tạo ra nguồn
thu nhập, không bị pháp luật cấm” [43, tr.37].
Như vậy, theo khái niệm trên có hai yếu tố là thu nhập và không bị pháp luật cấm là
hai điều kiện cần và đủ để được thừa nhận là việc làm. ý nghĩa luật pháp - xã hội của khái
niệm này là ở chỗ nó xoá bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế, động
viên mọi tổ chức, cá nhân tạo việc làm cho người lao động. Đồng thời cũng thể hiện đặc
trưng của Nhà nước pháp quyền, khuyến khích mọi người làm những việc mà không bị
pháp luật cấm.
Việc làm là vấn đề vừa mang ý nghĩa kinh tế vừa là vấn đề xã hội, chính trị
Về mặt kinh tế, vấn đề việc làm gắn liền với vấn đề sản xuất. Hiệu quả của việc giải
quyết tốt vấn đề việc làm cũng chính là hiệu quả của sản xuất. Giải quyết tốt được vấn đề
việc làm thì mới đảm bảo được sản xuất phát triển, kinh tế mới đi lên. Đồng thời, kinh tế
phát triển cũng sẽ tạo điều kiện để giải quyết tốt vấn đề việc làm.
Về mặt xã hội, nếu giải quyết tốt được vấn đề việc làm sẽ hạn chế được các tiêu cực
xã hội, giữ vững được kỷ cương, nề nếp xã hội.
Về mặt chính trị, nếu không giải quyết tốt được vấn đề việc làm , đến một thời điểm
nào đó, vấn đề này sẽ vượt ra thành vấn đề chính trị. Trên thế giới, nhiều chính phủ, nhiều
chế độ chính trị đã bị đổ bới đã không chú ý hoặc không có giải pháp hữu hiệu giải quyết

vấn đề việc làm của mình.
Về mặt pháp lý, vấn đề việc làm gắn liền với chế độ pháp lý lao động. Quan hệ pháp
luật trong lĩnh vực việc làm về mặt lý luận pháp luật được coi là quan hệ có liên quan trực
tiếp với quan hệ lao động và đóng vai trò quyết định cho việc hình thành, phát triển và ổn
định của quan hệ lao động. Đồng thời, chế định pháp lý về việc làm là một trong những chế
định quan trọng của pháp luật lao động, làm tiền đề để xác lập các chế định pháp luật khác.
Hay nói một cách khác, không có việc làm thì không có quan hệ lao động, cũng có nghĩa là
không có quan hệ lao động và những yếu tố khác làm nên nội dung của quan hệ lao động.


Trong điều kiện kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa lao động - việc làm có những
biểu hiện rất phức tạp. Một mặt, lao động có xu hướng gắn kết chặt chẽ với việc làm, mặt
khác lại có xu hướng tách rời khỏi việc làm. Từ đó tạo nên sự khác biệt về thu nhập giữa các
tầng lớp dân cư, giữa các nhóm trong một tầng lớp dân cư.
Việc làm không chỉ là hoạt động để kiếm sống mà còn là hoạt động sáng tạo nhằm
phục vụ xã hội, thông qua lao động hoàn thiện nhân cách con người cả về vật chất lẫn tinh
thần. Việc làm đó là yêu cầu chính đáng của con người, tách con người ra khỏi lao động
chẳng khác gì thủ tiêu sự tồn tại của con người, phá vỡ động lực bên trong của xã hội.
Việc làm và giải quyết việc làm là một tiêu chí quyết định đánh giá sức mạnh của
một nền kinh tế. Thực hiện tốt chính sách việc làm, khắc phục tình trạng thất nghiệp và sử
dụng có hiệu quả nguồn lao động xã hội sẽ có tác dụng tích cực đến quá trình ổn định và
phát triển kinh tế.
Tạo việc làm trong nền kinh tế thị trường
Tạo việc làm là một quá trình tạo ra môi trường cho người lao động và hình thành
các chỗ làm việc, sắp xếp người lao động phù hợp với chỗ làm việc để có các việc làm chất
lượng, đảm bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử dụng lao động, đồng thời đáp
ứng được mục tiêu phát triển đất nước.
Với khái niệm trên, tạo việc làm không chỉ là nhiệm vụ chức năng của nhà nước mà
còn là trách nhiệm của xã hội, của các cơ quan doanh nghiệp và ngay bản thân người lao
động. Hiện nay, các chính sách của Nhà nước luôn quan tâm chú trọng đến tạo việc làm cho

người lao động thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các chương trình, chính sách hỗ
trợ tới tận hộ gia đình, các cá nhân sẵn sàng làm việc. Chính vì vậy, chính sách Nhà nước là
một trong những tác động quan trọng rất mạnh đến việc làm của người lao động như khuyến
khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất như giảm thuế tiền sử dụng đất, thuê nhà xưởng,
văn phòng, hỗ trợ về cơ sở hạ tầng điện đường, trường trạm nhằm phục vụ cho các công
trình sản xuất Chính sách nhà nước tác động toàn diện đến vấn đề giải quyết việc làm. Bên
cạnh đó, các chương trình, chiến lược phát triển, các hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp tác
động trực tiếp đến giải quyết việc làm cho người lao động như đào tạo nguồn lao động, tuyển
dụng, bố trí, sắp xếp lao động phù hợp năng lực và yêu cầu


Tạo việc làm còn có ý nghĩa là tạo thêm được việc làm mới cho người lao động,
mang tính chất là người lao động đang không có việc làm nay có việc làm chứ không phải là
người lao động đang đi làm có thêm được việc làm khác nữa. Theo cách hiểu trên thì tạo
việc làm là tạo thêm việc làm mới từ các cơ chế chính sách của Nhà nước cũng như việc
tuyển dụng thêm lao động của cac doanh nghiệp.
Ngoài ra, hình thành môi trường cho sự kết hợp các yếu tố sức lao động và tư liệu
sản xuất. ở đó thông qua cơ chế chính sách khuyến khích thu hút của Nhà nước, thông qua
sự hoạt động đầu tư của nhà sản xuất nhằm tạo thêm nơi làm việc mà người lao động có thể
vận dụng sức lao động của mình mà sản xuất của cải cho xã hội.
* Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tạo việc làm, giải quyết việc làm
Hiện nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều đề ra chính sách việc làm và coi đó là
một chính sách quốc kế dân sinh cơ bản.
Nhận thức sâu sắc những khó khăn, phức tạp về giải quyết việc làm trong quá trình
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, cải
cách nền hành chính quốc gia đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đã có quan điểm và giải pháp cụ
thể cho vấn đề việc làm của người lao động.
Đại hội VIII của Đảng khẳng định: “Bảo đảm công ăn việc làm cho dân là mục tiêu
xã hội hàng đầu, không để thất nghiệp trở thành căn bệnh kinh niên. Nhà nước chú trọng

đầu tư tạo việc làm đồng thời tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế và người lao động
tạo thêm chỗ làm việc và tự tạo việc làm; khuyến khích các tổ chức và cá nhân cùng Nhà
nước tổ chức tốt dịch vụ giới thiệu việc làm, đào tạo nghề nghiệp” [20].
Tại Hội nghị Trung ương VIII (khoá VIII), Đảng ta nhấn mạnh việc tiếp tục triển
khai các giải pháp đồng bộ về giải quyết việc làm và chỉ ra các biện pháp khả thi để thu hút
lao động và tạo việc làm. Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định:
“Bằng nhiều giải pháp, tạo ra nhiều việclàm mới, tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng,
nhất là trong nông nghiệp và nông thôn. Các thành phần kinh tế mở mang các ngành nghề,
các cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng sử dụng nhiều lao động” [23].
Quan điểm này được nhấn mạnh tại Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, đó là: “Giải
quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát


triển…phải tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế…tạo
nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động” [22, tr.210-211].
Quan điểm và giải pháp cơ bản về giải quyết việc làm cho người lao động của Đảng
được thể hiện nhất quán trong một loạt các chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của
Nhà nước.
Nghị quyết số 120/HĐBT ngày 11/4/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) về chủ trương, phương hướng, biện pháp giải quyết việc làm đã nêu ra nội dung hết
sức cơ bản, quan trọng đối với vấn đề tạo việc làm và giải quyết việc làm cho người lao
động. Những biện pháp quan trọng hàng đầu để giải quyết việc làm cho người lao động mà
Nghị quyết đó đề ra là:
- Lập Quỹ quốc gia giải quyết việc làm.
- Bổ sung, sửa đổi một số chính sách cụ thể khuyến khích các lĩnh vực, các doanh
nghiệp, các hộ gia đình và các cá nhân tạo việc làm mới, thu hút người lao động…
Từ năm 1998, chính sách của Nhà nước về việc làm thể hiện tập trung ở Chương
trình quốc gia giải quyết việc làm (Quyết định 126/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998) với mục
tiêu mỗi năm tạo 1,3 - 1,4 triệu chỗ làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp thành thị xuống 5% và
nâng tỷ lệ sử dụng lao động nông thôn lên 75% vào năm 2000. Phạm vi của Chương trình là

toàn quốc với các nội dung chính như:
- Tác động phát triển kinh tế - xã hội để tạo thêm 4 triệu chỗ làm việc mới.
- Hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm cho người thất nghiệp, người thiếu việc làm
bằng nhiều hình thức. Tổ chức cho vay vốn để người thất nghiệp, người thiếu việc làm tự
tạo việc làm.
- Tổ chức bố trí sử dụng lao động, dạy nghề, tạo việc làm cho người lao động.
- Tăng cường thông tin thị trường lao động.
- Thành lập các Trung tâm giới thiệu việc làm, tổ chức dạy nghề gắn với việc làm.
- Xuất khẩu lao động.
- Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để giải quyết việc làm.
Quỹ quốc gia giải quyết việc làm được hình thành từ năm 1992. Đến nay, ngân sách
Nhà nước cấp cùng với các nguồn khác đã tạo cho tổng nguồn Quỹ lên đến 2.000 tỷ đồng.
Trong 5 năm qua, doanh số cho vay của Quỹ là 3.000 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 1,8


triệu lao động. Vốn Nhà nước cấp cho Quỹ chỉ bằng 0,35% vốn đầu tư phát triển của toàn
xã hội trong 5 năm, nhưng đã khuyến khích được phần vốn đối ứng của dân bỏ ra đầu tư
phát triển sản xuất gấp 2 lần vốn hỗ trợ của Quỹ, ước tính khoảng 6.000 tỷ đồng [ ].
Tiếp tục chính sách về vấn đề việc làm, Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói,
giảm nghèo và việc làm, ban hành kèm theo Quyết định 143/2001/QĐ-TTg ngày 27/9/2001
của Thủ tướng Chính phủ đã đề ra mục tiêu mỗi năm giải quyết việc làm cho 1,4 đến 1,5
triệu lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 6% và nâng tỷ lệ sử dụng thời
gian lao động ở nông thôn lên trên 80%. Trong lĩnh vực việc làm, Chương trình tập trung
giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
- Phát triển kinh tế, tạo mở việc làm, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ
cấu lao động trong nông thôn. Trong công nghiệp, vừa phát triển các ngành có khả năng sử
dụng nhiều lao động, vừa phát triển các ngành sử dụng lao động có trình độ cao.
- Đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia.
- Tập trung hỗ trợ người thất nghiệp, người thiếu việc làm và các đối tượng yếu thế
vay vốn với lãi suất ưu đãi để tạo việc làm.

1.2.2. Cơ chế phối hợp của chính quyền, gia đình, cộng đồng và xã hội trong
quản lý và hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện
1.2.2.1. Vai trò của Nhà nước và các cấp chính quyền về hỗ trợ tạo việc làm cho
người sau cai nghiện
Nhà nước là cơ quan quyền lực tối cao, có vai trò đầu não trong tổ chức các hoạt
động liên quan đến công tác phòng, chống ma tuý, cụ thể trong hỗ trợ tạo việc làm cho đối
tượng sau cai nghiện ma tuý, biểu hiện ở một số công việc cụ thể như:
- Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý điều chỉnh
các quan hệ xã hội liên quan đến việc hỗ trợ tạo việc làm cho đối tượng sau cai nghiện ma
tuý.
- Nhà nước thiết lập và chỉ đạo các cơ quan chức năng, nhất là hệ thống cơ quan về
phòng chống ma tuý từ trung ương đến địa phương, cơ sở nâng cao hiệu lực quản lý, điều
hành các hoạt động quản lý sau cai, hỗ trợ tạo việc làm cho đối tượng sau cai nghiện ma tuý.
- Nhà nước thiết lập và tăng cường hợp tác với các nước, các tổ chức trong khu vực
và toàn cầu nhằm thực hiện luật pháp quốc tế, góp phần kiểm soát và phòng chống ma tuý


trong nước có hiệu quả, hỗ trợ thực hiện công tác quản lý sau cai, hỗ trợ tạo việc làm cho
đối tượng sau cai nghiện ma tuý.
- Nhà nước có biện pháp tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức xã hội và các cấp tăng
cường phối hợp hoạt động có hiệu quả nhằm phòng chống ngăn chặn tệ nạn ma tuý ở từng địa
phương, đơn vị, trường học…đồng thời có cơ chế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước có vai trò rất quan trọng
đối với quá trình giải quyết việc làm. Nhà nước vừa là chủ sử dụng một tỷ lệ lớn lao động
của xã hội, vừa là chủ thể quản lý, điều tiết cung - cầu nguồn lao động trên thị trường lao
động toàn quốc. Bằng hành lang pháp lý và các biện pháp kích cầu, các chương trình dự án,
các chính sách phát triển kinh tế xã hội, các chương trình hỗ trợ việc làm, xoá đói, giảm
nghèo, dân số - kế hoạch hoá gia đình, đào tạo nghề, xuất khẩu lao động, xây dựng các công
trình then chốt, liên doanh, liên kết với nước ngoài…, đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, Nhà nước đã điều tiết tạo chỗ làm việc và giải quyết việc làm cho người lao động.

Những mối quan hệ trên đây cho thấy vai trò rất lớn của Nhà nước trong giải quyết
việc làm.
Thứ nhất, về phương diện quản lý kinh tế vĩ mô, Nhà nước thông qua thể chế, chính
sách và công cụ để tạo ra điều kiện cho sự ổn định và phát triển việc làm. Điều 14 và 15 Bộ
Luật Lao động xác định Nhà nước định chỉ tiêu việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội hàng năm và nhiều năm, tạo điều kiện cần thiết, như hỗ trợ tài chính, cho vay vốn
hoặc giảm miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích khác để người lao động có khả
năng tự giải quyết việc làm. Nhất là các tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế có
điều kiện phát triển nhiều ngành nghề mới, tạo việc làm cho nhiều người lao động.
Mục tiêu đặt ra là không chỉ có Nhà nước mà mỗi doanh nghiệp, mỗi gia đình, mỗi
người lao động phải tự thân vận động để tạo việc làm. Doanh nghiệp và người sử dụng lao
động được Nhà nước tạo điều kiện và cơ chế hữu hiệu để phát triển sản xuất, kinh doanh.
Nghĩa là thông qua đó Nhà nước cũng có một phần trách nhiệm quan trọng nhằm giải quyết
việc làm cho người lao động. Đến lượt mình, người có khả năng lao động phải chủ động
sáng tạo, để sử dụng quyền lao động, tự tạo ra việc làm, tự tìm việc làm với sự giúp đỡ của
Nhà nước khi cần thiết [43, tr.7].

×