THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC TỔ CHỨC QUẢN LÝ DẠY NGHỀ VÀ
TẠO VIỆC LÀM CHO NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN TẠI THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
1. Sự cần thiết tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau cai
nghiện.
1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh.
1.1.1. Đặc điểm kinh tế:
Thành phố Hồ Chí Minh với số dân trên 7 triệu người và phần diện tích lên
tới trên 2600km2, bao gồm 19 quận và 5 huyện, rất thuận lợi cho việc phát triển
kinh tế. Bởi vậy, TP.HCM là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, với sự tốc độ
tăng trưởng kinh tế dẫn đầu, đạt trên 12%.
Thành phố chính là hạt nhân kinh tế trọng điểm phía nam, đóng góp GDP
là 66,1% vào tổng GDP của vùng Nam Bộ. Đây cũng là nơi thu hút vốn đầu tư
nước ngoài mạnh nhất cả nước, số dự án đầu tư chiếm khoảng 1/3 tổng số dự án
nước ngoài trên cả nước.
Bên cạnh đó, Thành phố cũng đạt tổng thu ngân sách lớn nhất cả nước mặc
dù gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, TP. HCM cũng là thành phố cảng lớn nhất cả
nước, là trung tâm xuất nhập khẩu. Kim ngạch xuất nhập khẩu ngày càng chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch của cả nước. Đến nay, kim ngạch xuất nhập
khẩu trên địa bàn thành phố đạt 14,2 tỷ USD, tăng 25%. TP. HCM cũng là trung
tâm tài chính, ngân hàng lớn nhất cả nước, dẫn đầu về số lượng ngân hàng và
doanh số quan hệ tài chính tín dụng. Doanh thu của hệ thống ngân hàng Thành
phố chiếm 1/3 tổng doanh thu các ngân hàng trên toàn quốc. Về thị trường
chứng khoán, đã có trên 50 công ty được niêm yết hoạt động, tổng số vốn cổ
phần niêm yết trên 2000 tỷ đồng.
Trong quá trình phát triển kinh tế và hội nhập, TP. HCM luôn tỏ ra là một
trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ lớn nhất cả nước. Là động lực
cho công cuộc công phát triển kinh tế xã hội ở Nam Bộ và phục vụ công cuộc
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
1.1.2. Đặc điểm xã hội:
Song song với sự phát triển mạnh mẽ về mặt kinh tế, tình hình xã hội nói
chung trên địa bàn Thành phố cũng có những bước phát triển tích cực. Đời sống
vật chất tinh thần của các tầng lớp dân cư trên địa bàn thành phố được cải thiện
rõ rệt. Mức tiêu dùng hàng hóa dịch vụ của dân cư hàng năm tăng trên 10%. Số
hộ có mức sống nghèo khó ngày một giảm. Cơ sở hạ tầng được nâng cấp qua
các năm tăng lên, nhất là các huyện ngoại thành, trên 50% số xã đã có đường
ôtô đi đến trung tâm xã; 100% số xã có điện lưới quốc gia với trên 55% số hộ đã
được dùng điện; 100% số xã có trạm y tế có trường tiểu học; khoảng 85% số xã
có trường trung học cơ sở…
Hiện nay, Thành phố đã dành 15% ngân sách địa phương cho sự nghiệp
phát triển giáo dục nên đã tăng số lượng học sinh học phổ thông và đại học. Từ
năm 1995, Thành phố đã đạt tiêu chuẩn xóa mù chữ và phổ cập tiểu học.
Sự nghiệp y tế phát triển mạnh, đáp ứng ngày càng nhiều yêu cầu chăm sóc
và bảo vệ sức khỏe của người dân tại thành phố và dân cư các địa phương khác
đến Thành phố.
Có thể nói, TP. HCM là một trung tâm kinh tế xã hội lớn của cả nước. Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được về mặt kinh tế xã hội, Thành phố
cũng phải đối mặt với tình hình tội phạm ngày càng phức tạp và gia tăng cả về
số lượng và quy mô, trong đó có tệ nạn ma túy. Chính hạn chế này gây ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển về mọi mặt của Thành phố và gây nhiều bức xúc
đối với trong nhân dân.
1.2. Thực trạng về tình hình nghiện ma túy và công tác cai nghiện tại
thành phố Hồ Chí Minh.
1.2.1. Tình hình nghiện ma túy trên địa bàn Thành phố.
Thành phố Hồ Chí Minh có số dân cao nhất cả nước, với gần 7 triệu người và
gần 2 triệu người nhập cư. Thành phố có hàng ngàn cơ sở kinh doanh nhạy cảm
như karaoke, massage, bia ôm, nhà hàng, khách sạn, hớt tóc nam nữ và rất nhiều
địa bàn đã nổi tiếng phức tạp. Theo báo cáo chưa đầy đủ năm 1994, toàn thành phố
có trên 5.000 người nghiện và đến nay có khoảng 36.000 người nghiện có hồ sơ
quản lý, tăng gần 31.000 người, tăng trên 600%.
Đa số đối tượng còn rất trẻ, phần lớn trong lứa tuổi thanh niên, tỷ lệ người
nghiện hút trong lứa tuổi từ 18 – 25 là 52% và từ 26 – 35 chiếm 37,75% …
Về trình độ học vấn, tuyệt đại đa số người nghiện có trình độ học vấn rất
thấp. Tỷ lệ người mù chữ chiếm khoảng 13%; số người mới học bậc tiểu học từ
lớp 1 đến lớp 5, trong đó không ít người đã tái mù chiếm khoảng 23,6%. Số
người học bậc trung học cơ sở chiếm tỷ lệ 43%, trong đó có khoảng 10 – 12%
đã học hết cấp nhưng không có chứng chỉ như học bạ, giấy chứng nhận khẳng
định họ đã học bậc học này. Chỉ có 18,7% học viên cai nghiện khai đang học
trung học phổ thông. Rất ít người tốt nghiệp tú tài. Tóm lại, có khoản 70% số
người cai nghiện tập trung không đủ trình độ học vấn tối thiểu để theo học một
nghề kỹ thuật.
Về trình độ nghề nghiệp, có tới 43% tổng số người nghiện không có một
nghề kiếm sống khi vào trung tâm. Có khoảng 35% tổng số người cai nghiện là
lao động phổ thông, chưa từng được đào tạo một ngành nghề cơ bản nào. Số
người cai nghiện từng là công nhân viên chức chiếm khoảng 1,6% và 9,2% là
học sinh, sinh viên.
Bên cạnh đó, rất đông trong số này chuyên đi trộm cắp cướp giật. Khoảng
38% số con nghiện có tiền án, tiền sự, và hàng năm, số người chết vài nghiện
ma túy ngày một tăng.
Tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, tiêu cực của đời sống xã hội nảy
sinh, sự gia tăng tệ nạn nghiện ma túy tạo nên nhiều bất an cho đời sống người
dân.
- Tệ nạn tiêm chích ma túy, mại dâm bùng nổ, mỗi năm xảy ra hơn 16000 vụ
phạm pháp hình sự, trong đó tỷ lệ phạm tội ở lứa tuổi thanh thiếu niên nghiện
ma túy ngày càng tăng.
- Số đối tượng cai nghiện tại cộng đồng và các cơ sở chữa bệnh với thời gian 3 –
6 – 12 tháng, sau đó hồi gia hầu hết đã tái nghiện với tỷ lệ 95 – 97%, cùng với
số lượng người nghiện ma túy gia tăng, tỷ lệ lây nhiễm HIV/AIDS tăng cao.
1.2.2. Hạn chế công tác cai nghiện phục hồi đến năm 2002.
Tình hình tội phạm ma túy diễn ra phức tạp như trên, Thành phố đã tổ chức
nhiều chương trình và các hoạt động khác nhau nhằm đấu tranh chống tệ nạn xã
hội. Điển hình của công tác này là Chương trình mục tiêu 3 giảm “Giảm tội
phạm, ma túy và mại dâm” ban hành ngày 1/11/ 2001 của Ủy ban nhân dân
Thành phố. Đây chỉ là một trong 12 công trình trọng điểm của Thành phố về
phòng, chống tệ nạn xã hội. Với nguồn kinh phí thực hiện gần 500 tỷ đồng,
chương trình 3 giảm đã thu được nhiều thành quả. Công tác bắt giữ tội phạm đã
có nhiều chuyển biến tích cực làm giảm đáng kể các vụ vi phạm ma túy và mại
dâm. Lực lượng cảnh sát được sự ủng hộ giúp đỡ nhiệt tình của người dân, đã
triệt phá nhiều tụ điểm buôn bán và sử dụng ma túy. Điển hình là vụ vận chuyển
ma túy do tên John Nguyễn (quốc tịch Mỹ) cầm đầu,thu 1822 viên ma túy tổng
hợp; vụ Trần Vĩnh Lâm, bắt 6 đối tượng, thu giữ 1,2 kg heroin; vụ Chu Đức
Hải, thu giữ 1,3 kg heroin, 431 viên ma túy tổng hợp…
Song song những biện pháp quyết liệt chống tội phạm buôn bán ma túy,
Thành phố cũng đã quan tâm đến việc tổ chức cai nghiện cho những người sa
vào con đường nghiện ngập có thể cắt cơn, phục hồi nhân phẩm, và sức khỏe để
tái hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn cho thấy, tỷ lệ tái
nghiện sau khi cắt cơn trở về hòa nhập cộng đồng là rất cao, trên 95%.
Qua việc triển khai hình thức cai nghiện bắt buộc cho thấy thời gian cai
nghiện từ một đến hai năm đối với các đối tượng mắc nghiện là quá ngắn, rất dễ
dẫn đến tình trạng tái nghiện và không tạo được những kỹ năng và kiến thức cần
thiết để có thể tìm việc làm, sống cuộc sống ổn định, bên cạnh các nguyên nhân
chủ yếu như:
- Người nghiện ma túy thường chích thẳng vào tĩnh mạch, chất gây nghiện
đã tác động và lưu lại trong vùng khoái cảm của não bộ. Muốn cai nghiện hoàn
toàn phải loại bỏ vùng khoái cảm đó trong não bộ, đó là việc không thể thực
hiện, trừ một số đối tượng thật sự có ý chí cao và được sự giúp đỡ tận tình của
cộng đồng thì mới thắng được sự thèm khát ấy.
- Thêm vào đó, bọn tội phạm buôn bán ma túy vẫn hiện diện khắp nơi,
cung cấp hàng chục kg heroin thì rất khó ngăn chặn tình trạng tái nghiện cũng
như ngăn ngừa những đối tượng mới mắc nghiện.
- Chưa chú ý đến hướng nghiệp, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người
sau cai nghiện nên khi trở lại cộng đồng dễ bị tái nghiện.
- Công tác quản lý người sau cai nghiện chưa chặt chẽ, đối tượng không có
việc làm ổn định cuộc sống nên quay trở lại với ma túy.
2. Cơ sở pháp lý của công tác tổ chức, quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho
người sau cai nghiện tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ thực tế trên, theo tờ trình của Chính phủ, tại kỳ họp 3, Quốc
hội khoá 11 đã thông qua Nghị Quyết số 16/2003/QH11 (gọi tắt là NQ 16) “Về
thực hiện thí điểm về tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau
cai nghiện ma tuý ở TPHCM và một số tỉnh, thành phố khác trực thuộc Trung
ương”.
Nghị quyết 16 đề cập đến các nội dung chủ yếu sau:
- Giao Chính phủ chỉ đạo Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành phố khác trực thuộc Trung Ương thực hiện
thí điểm tổ chức quản lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai
nghiện ma túy, chuẩn bị các điều cần thiết để tái hòa nhập cộng đồng.
- Quy định các đối tượng được áp dụng các biện pháp tổ chức quản lý, dạy
nghề và giải quyết việc làm.
- Thời gian áp dụng là từ 1 – 2 năm, trường hợp cần thiết có thể kéo dài
nhưng không quá 3 năm
- Chính phủ xem xét phê duyệt Đề án tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc
làm của Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành phố khác trực thuộc
Trung ương. Trong đó cũng quy định cụ thể sự phối hợp thực hiện của các bộ,
ngành và các đơn vị liên quan.
2.1. Sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và các bộ ngành trong việc thực
hiện NQ16
Để thực hiện tốt NQ16, Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm, tăng cường
việc chỉ đạo thông qua việc ban hành các văn bán pháp luật như sau:
a - Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 146/2004/NĐ-CP ngày
17/4/2004 quy định thủ tục, thẩm quyền quyết định đưa người vào cơ sở quản
lý, dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma túy. Nghị định
này bao gồm 4 chương, 26 điều, quy định cụ thể các đối tượng áp dụng vào các
cơ sở biện pháp đưa vào cơ sở dạy nghề và giải quyết việc làm tại điều 2 của
Nghị quyết:
- Người đã kết thúc thời gian cai nghiện tập trung tại các cơ sở cai nghiện
bắt buộc, theo quy định tại điều số 28 của Luật phòng chống ma túy đủ 18 tuổi
mà tự nguyện vào cơ sở dạy nghề và giải quyết việc làm.
- Người đã kết thúc thời gian cai nghiện tập trung không tự nguyện vào
các cơ sở dạy nghề và giải quyết việc làm nhưng có khả năng tái nghiện cao nếu
được đưa trở lại cộng đồng. Người có khả năng tái nghiện cao là những người:
Đã bị cai nghiện bắt buộc tại trung tâm Chữa bệnh- Giáo dục – Lao động xã hội
từ lần thứ hai trở lên.
Trong thời gian cai nghiện có hành vi vi phạm nội quy của trung tâm, bị thi
hành kỷ luật lần thứ hai trở lên.
Không có cam kết của gia đình, cơ quan, đơn vị doanh nghiệp, nhà trường về
việc đảm bảo việc tiếp tục trở lại cộng đồng.
b - Trình Quốc hội cho phép áp dụng một số chế độ ưu đãi về thuế thu
nhập doanh nghiệp cho các cơ sở và doanh nghiệp sử dụng lao động là người
sau cai nghiện trong thời gian thực hiện NQ16. Về vấn đề này, Thường trực Uỷ
ban Kinh tế và Ngân sách và Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội với đề nghị
của Chính phủ về việc cần thiết áp dụng một số chế độ ưu đãi về thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp sử dụng lao động là người sau cai
nghiện và các doanh nghiệp này còn gặp một số khó khăn trong việc sử dụng
lao động đặc biệt này. Việc áp dụng một biện pháp hỗ trợ thể hiện sự quan tâm,
động viên của Nhà nước đối với các doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng để
công tác phòng chống ma tuý và cai nghiện đạt kết quả tốt hơn. Theo dự tính,
mỗi năm cần khoảng 10 tỷ đồng hỗ trợ cho doanh nghiệp này, Chính phủ có thể
sử dụng từ nguồn quỹ an sinh xã hội, nguồn quỹ dự trữ tài chính, hoặc ngân
sách dự phòng để giải quyết.
c - Quyết định số 212/2006 – TTg ngày 20/9/2006 về “Tín dụng với các cơ
sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ và doanh nghiệp sử dụng lao động là người sau
cai nghiện ma túy”
d - Thông tư liên tịch số 13/2007/TTLT – BLĐTBXH – BNV – BTC ngày
28/8/2007 giữa Bộ Lao động – Thương binh xã hội, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp đối với cán bộ, viên chức làm việc tại các
cơ sở quản lý người nghiện ma túy, người bán dâm và người sau cai nghiện ma
túy.
e - Thông tư số 05/2007/ TT- BTC ngày 18/01/2007 của Bộ Tài chính về
một số nội dung của Quyết định số 212/2006 ở trên về tín dụng đối với các cơ
sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ và doanh nghiệp sử dụng lao động là người sau
cai nghiện.
2.2. Sự quan tâm, kiểm tra giám sát thực hiện của Ủy ban nhân dân
Thành phố.
Thành phố đã xây dựng và ban hành 23 văn bản hướng dẫn cụ viểc triển
khai thực hiện NQ16 cũng như các quy chế về công tác quản lý, dạy nghề và
giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện. Ngoài ra, ban hành các chế độ,
chính sách chăm lo cán bộ, nhân viên, và thu hút các doanh nghiệp đầu tư dạy
nghề, giải quyết việc làm cho các đối tượng sau cai tại các trung tâm; giải quyết
tái hòa nhập cộng đồng, và ban hành quy định quản lý, giúp đỡ người tái hòa
nhập tại địa phương. Nghiên cứu soạn thảo tài liệu, giáo trình để giảng dạy, giáo
dục cho học viên như: Giáo dục ý thức pháp luật, đạo đức truyền thông, lý
tưởng cho thanh niên, giáo dục sức khỏe, thể chất, tinh thần; tài liệu tập huấn
cho cán bộ, kỹ năng tư vấn người nghiện và gia đình…
Như vậy, trong 4 năm qua, TP. HCM đã có được một hệ thống các văn bản
khá hoàn thiện, đồng bộ để thực hiện, thể chế hóa NQ16 của Quốc hội đồng thời
hướng dẫn việc triển khai các Nghị định, Quyết định của Chính phủ và Thủ
tướng chính phủ.
Thêm vào đó, để đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác chữa trị,
giáo dục dạy nghề và giải quyết việc làm cho học viên và người sau cai nghiện,
Thành phố đã đầu tư nâng cấp và xây mới 20 trung tâm cùng với đầu tư thêm cơ
sở hạ tâng kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ công tác giáo dục và dạy nghề. Tại
các trường, trung tâm đầu tư thêm 30 xưởng trường với diện tích 30.000m2 đủ
sức tập trung, quản lý, chữa bệnh, dạy nghề và tạo việc làm cho 30.000 lượt học
viên và người sau cai.
Nhằm nâng cao nhận thức và tạo sự đồng thuận trong hệ thống chính trị và
vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia, hưởng ứng thực hiện NQ16,
Thành phố đã phát hành rộng rãi các tài liệu tuyên truyền về phòng, chống ma
túy. Các trường, trung tâm đẩy mạnh hoạt động, tư vấn, tuyên truyền, động viên
học viên hoàn thành giai đoạn cai nghiện và tham gia tư nguyện quản lý sau cai.
3. Một số kết quả về công tác tổ chức quản lý, dạy nghề và đào tạo việc
làm cho người sau cai nghiện tại TP.HCM
3.1. Tại các Trung tâm chữa bệnh giáo dục- lao động xã hội
Tại các trung tâm cai nghiện tập trung hiện có khoảng 75 cơ sở sản xuất
của các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng, hoạt động sản xuất kinh doanh theo
nhiều hình thức đa dạng khác nhau. Một số doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã
liên doanh với các trung tâm cai nghiện, thực hiện một số công đoạn trong toàn
bộ dây chuyền sản xuất; đặt hàng gia công theo mẫu mã và hướng dẫn của chủ
đầu tư. Ngoài ra các trung tâm được nhà nước cấp kinh phí xây dựng xưởng
trường có đủ chỗ cho khoảng 10.000 học viên cai nghiện lao động trị liệu, nâng
cao tay nghề và gia công nhiều loại hàng hóa tiêu dùng. Các trung tâm cũng tích
cực, chủ động xây dựng các cơ sở sản xuất bằng vốn tự có hoặc sử dụng máy
móc – thiết bị được các quận huyện, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể, doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hỗ trợ để tổ chức sản xuất sản phẩm sử
dụng trong ngành và sử dụng cho vệc dạy nghề.
3.1.1. Tiếp nhận và Tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người
sau cai nghiện
Các trung tâm tiếp nhận đối tượng sau cai nghiện bằng nhiều hình thức:
- Các trung tâm có cả hai chức năng cai nghiện và quản lý sau cai nghiện
thì chuyển tiếp giai đoạn ngay trong trung tâm đó.
- Các trung tâm chuyên quản lý sau cai nghiện thì tiếp nhận người đã hoàn
thành cai nghiện từ các trung tâm cai nghiện khác trở về.
Bảng 1: Số đối tượng tiếp nhận vào các trung tâm
Đơn vị: người
Đến 7/2004 Đến 6/2005 Đến 10/2006
Số đối tượng sau cai vào
trung tâm
7.700 14.187 16.812
Có thể thấy, số đối tượng được tiếp nhận vào các trung tâm tăng lên rất
nhanh sau khi Nghị quyết số 16 của Quốc hội ban hành. Chỉ trong vòng nửa
năm đầu 2004, số đối tượng được đưa vào trung tâm là khoảng 7.700 người, và
một năm sau cũng là khoảng 6.500 người, nhưng trong khi đó, từ tháng 6/2005
đến tháng 10/2006( trong vòng 16 tháng), chỉ có 2.600 đối tượng được đưa vào
các trung tâm. Điều này chứng tỏ rằng số lượng này sẽ còn tiếp tục giảm do số
đối tượng tái nghiện và số lượng người nghiện mới thấp dần.
Qua 3 năm số đối tượng vào các trung tâm lên đến hơn 16.800 người, trong
khi số ra khỏi trung tâm mới chỉ hơn 9.400 người. Tính đến giữa năm 2007, số
đối tượng sau cai nghiện đang chịu tập trung quản lý ở các trung tâm là trên
10.000 người. Bởi vậy, trong những năm tiếp theo, khi các đối tượng kết thúc
giai đoạn tập trung ở các trung tâm thì số đối tượng hòa nhập cộng đồng sẽ tăng
lên rất nhanh, đây là một áp lực rất lớn đối với công tác tăng cường quản lý
người sau cai nghiện ở các cấp chính quyền địa phương.
Các đối tượng rất đa dạng và có những đặc điểm khác nhau, nhưng khi tiếp
nhận, các trung tâm chỉ phân bổ theo hai đặc tính là phân khu nam nữ và theo
thời hạn vào.
Các đối tượng được bố trí nơi ở gọn gàng, sạch sẽ, thoáng mát, các phòng
được trang bị đầu máy video. Bình quân diện tích, ở mỗi đối tượng được hưởng
3-4m2, mỗi phòng lớn lớn được kết nối với phòng nhỏ của cán bộ để tiện cho
công tác quản lý, giám sát. Qua khảo sát cho thấy, không có trung tâm nào ở
tình trạng kém, chỉ có 1 trung tâm ở mức trung bình, còn lại 3 trung tâm ở điều
kiện tốt.
Tổ chức bếp ăn tập thể và vệ sinh thực phẩm tꦾong các trung tâm được
thực hiện tốt, chưa có trường hợp ngộ độc thức ăn tập thể tại các trung tâm, nhà
ăn được xây dựng thoáng mát, bàn ghế sạch sẽ, khay đĩa luôn được vệ sinh sạch
sẽ. Người có sức khỏe phải tự tăng gia sản xuất để bảo đảm đủ suất ăn.Việc tổ
chức trồng rau xanh, chăn nuôi tại các trung tâm đã tự túc 70-80% nhu cầu rau,
50-60% nhu cầu thực phẩm nên đã góp phần đáng kể vào giá trị dinh dưỡng của
các bữa ăn. Bên cạnh đó, nhiều trung tâm đã tổ chức sản xuất tiểu thủ công
nghiệp, gia công chế biến thực phẩm như sản xuất bánh mỳ, đậu phụ, sữa đậu
lành…cũng góp phần nâng cao chất lượng bữa ăn.
3.1.2. Công tác dạy nghề
Tất cả các trung tâm đều rất quan tâm tổ chức dạy nghề cho người cai
nghiện ngay khi họ mới tập trung. Dạy nghề cho các đối tượng là một nội dung
quan trọng trong việc tổ chức quản lý, dạy nghề và tạo việc làm cho người sau
cai nghiện vì có đến 50% số đối tượng trước khi đi cai nghiện không có chuyên
môn kỹ thuật. Ban lãnh đạo các trung tâm đã rất năng động sáng tạo, tìm mọi
cách, mọi biện pháp, mọi nguồn có thể tổ chức các lớp hướng dẫn dạy nghề cho
đối tượng này. Một số nghề được đào tạo tại trung tâm như:
Nghề dài hạn: Tiện, hàn, điện máy, điện lạnh, điện tử, điện công nghiệp,
công nghệ thông tin.
Nghề ngắn hạn: May công nghiệp, mộc, một số nghề khác( nghề thủ công
mỹ nghệ..).
Theo số liệu của TP. HCM, đến hết năm 2005, các trung tâm đã tổ chức
nhiều lớp với loại hình khóa đào tạo khác nhau cho gần 24.600 lượt đối tượng
và hết năm 2006 con số này lên tới 32.981 lượt người, và có 11.507 người được
cấp chứng chỉ. Tuy nhiên số liệu báo cáo không tách riêng cho học viên đang
cai nghiện và sau cai nghiện nên không có số liệu cụ thể đánh giá đối tượng sau
cai nghiện. Vì vậy, số đối tượng thực hiện Nghị quyết 16 thấp hơn rất nhiều.
Việc đăng ký tham gia học nghề là tự nguyện theo những nghề sẵn có
trong trung tâm. Trung tâm sẽ thống kê trình độ, sức khỏe của đối tượng để tư
vấn chọn nghề phù hợp và sắp xếp các lớp học phù hợp.
Tuy nhiên, có 20% đối tượng không tham gia học nghề do nhiều nguyên nhân: Đã
có trình độ trung học chuyên nghiệp hoặc bằng dài hạn trở lên, đã có chứng chỉ nghề
ngắn hạn, do sức khỏe yếu, và một số ít học viên không thấy phù hợp.
Hiện nay số nghề đào tạo trong các trung tâm có 5- 6 nghề, khóa đào tạo
chủ yếu từ 2-3 tháng đối với các nghề kỹ thuật. Phần lớn các học viên được đào
tạo dưới hình thức kèm cặp đối với các công việc không đòi hỏi trình độ kỹ
thuật cao. Vì vậy kế hoạch đào tạo nghề dài hạn là khó thực hiện. Các trung tâm
chỉ đứng ra tổ chức và quản lý công tác dạy nghề, việc giảng dạy được ký kết
với các cơ sở dạy nghề ở ngoài nhằm đa dạng hóa về các nghề khác nhau, đáp
ứng một phần nhu cầu rất khác nhau của các đối tượng. Nhìn chung các đối
tượng được dạy nghề đánh giá cao hiệu quả của công tác học nghề tại trung tâm.
Ngoài ra, có một xu hướng trong dạy nghề ngắn hạn đó là các trung tâm
thường dạy cho học viên những nghề đơn giản để đáp ứng các hợp đồng gia
công ký kết với các doanh nghiệp như may, thêu, đan, chế biến hạt điều…Sau
khi kết thúc giai đoạn quản lý tập trung thì làm việc tại các cụm công nghiệp là
không mấy khó khăn nhưng nếu hồi gia thì sẽ không phù hợp về công việc. Bởi
vậy 50% số đối tượng đánh giá công tác học nghề tại trung tâm chưa đạt hiệu
quả.
Taị mỗi trung tâm, tùy theo đặc thù thường có từ 1- 2 nghề chính về may
công nghiệp hoặc mộc và cơ điện sửa chữa… Giáo viên dạy nghề tại trung tâm
quản lý sau cai nghiện được thực hiện ký kết hợp đồng với các trung tâm dạy
nghề của các quận thuộc TP. HCM. Một số nghề còn lại thường được tổ chức tại
các xưởng sản xuất của các công ty hợp tác đầu tư xây dựng ở trong khuôn viên
của trung tâm.
Một số bất cập trong công tác quản lý dạy nghề cho các đối tượng cần
được giải quyết như:
- Sức khỏe yếu, tâm lý người sau cai nghiện không tập trung.
- Khó có thể đầu tư nhiều xưởng cho các loại nghề để đào tạo theo nhu
cầu học viên và nhu cầu của thị trường. Các lớp chuyên ngành không đủ hoặc
không có giáo viên giảng dạy lớp lý thuyết kết hợp thực hành.
- Chưa có khả năng đào tạo nghề dài hạn vì khả năng đầu tư trang thiết bị
đa dạng và hiện đại, cũng như thời lượng của đối tượng dành cho học nghề
trong thời gian lưu lại trung tâm là không dài.
3.2.3. Tổ chức việc làm cho người sau cai nghiện
Tạo việc làm cho người sau cai nghiện là một nhiệm vụ của các trung tâm
quản lý người sau cai nghiện, góp phần tạo thu nhập, ổn định đời sống vừa rèn
luyện nhân cách và có được kinh nghiệm về một nghề nào đó để đối tượng hòa
nhập cộng đồng.
Các trung tâm quản lý sau cai nghiện tùy vào đặc thù và khả năng hợp tác
với các công ty đầu tư vào trung tâm để tổ chức giải quyết việc làm bằng các
hình thức như: Trung tâm tự tổ chức sản xuất, Công ty liên kết xây dựng sản
xuất trong trung tâm, trung tâm ký hợp đồng đưa người đi lao động các doanh
nghiệp bên ngoài.
Tham gia sản xuất sẽ đáp ứng nhu cầu thực phẩm để cải thiện bữa ăn hàng
ngày, người lao động có thêm thu nhập từ 120- 900 ngàn đồng/ tháng.
Các trung tâm có điều kiện về đất đai đã tổ chức trồng rừng, các loại cây
công nghiệp, cây ăn quả, trồng rau xanh và chăn nuôi gia súc. Nhờ đó tự túc
được 70-80% nhu cầu rau xanh và 50-60% nhu cầu thực phẩm hàng ngày.
Thành phố cũng đã tổ chức xúc tiến đầu tư, triển lãm, hội chợ trưng bày
sản phẩm của người sau cai nghiện để giới thiệu với thị trường và mở rộng liên
kết. Có 60 doanh nghiệp, cá nhân đầu tư dạy nghề, sản xuất tại các trung tâm
với số vốn lên tới 832 tỷ đồng, thuộc các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, may-
thêu, chế biến hạt điều, mộc, nhựa gia dụng, gạch và chăn nuôi, trồng trọt. Tính
đến cuối năm 2006 đã giải quyết việc làm thường xuyên cho 17.460 học viên và
người sau cai nghiện, sang năm 2007 do số lượng người hòa nhập cộng đồng
tăng lên nhiều, tính đến tháng 6/2007 giải quyết cho 7.983 học viên và người
sau cai nghiện.
Những người có việc làm, có thu nhập đã đóng góp thêm tiền ăn cho bếp
ăn tập thể, tự trang trải sinh hoạt và không nhận tiền viện trợ thậm chí còn gửi
tiền về giúp gia đình.
Tuy nhiên, thực trạng tại môi trường làm việc ở các cơ sở sản xuất tại các
trung tâm cai nghiện tập trung là công việc giản đơn, nhàm chán, quản lý cả lao
động lẫn công việc chưa thấu đáo, chưa đúng phương pháp…nên thu nhập bình
quân rất thấp.
Số liệu thống kê thu nhập bình quân của lao động trong các cơ sở sản xuất
tại các trung tâm cai nghiện cho thấy chỉ riêng nghề may mang tính phổ thông,
chứa ít nhiều yếu tố kỹ thuật thì thu nhập bình quân tại các cơ sở sản xuất trong
trung tâm cai nghiện chỉ đạt khoảng 170.000đồng/người/