Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Luận văn: Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao công tác huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Bắc Hà Nộ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 61 trang )







Luận văn

Thực trạng và một số giải
pháp nhằm nâng cao công
tác huy động vốn tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thông Bắc Hà
Nội












Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 1 -
Lời mở đầu

Đất nước ta từ khi thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa của nền kinh tế,


chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang
nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định
hướng XHCN đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng và có ý nghĩa ,
được dư luận trong và ngoài nước đánh giá là hết sức đúng đắn .
Đường lối kinh tế của Việt Nam hiện nay là “ tiếp tục phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần , vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ” Trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm
2010, mục tiêu mà Đảng và nhà nước ta đặt ra là sự nghiệp công hoá và hiện đại
hoá đất nước . Đây là mục tiêu quan trọng của đất nước ta trong trong quá trình
vươn lên thoát khỏi sự tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế
giới .
Để thực hiện được công nghiệp hoá hiện đại hoá , “ vốn “ là một nhân tố
được đặt lên hàng đầu . Tiềm năng kinh tế nước ta có , nguồn lao động trong nước
lại dồi dào , câu hỏi cấp thiết đặt ra hiện nay là làm sao để có vốn đầu tư khai
thác? Tựu chung lại có hai loại nguồn vốn có thể thu hút : vốn trong nước và vốn
nước ngoài . Trong đó vốn trong nước giữ vai trò chủ yếu , vốn nước ngoài có ý
nghĩa quan trọng. Vốn trong nước rất nhiều nhưng lại có một vấn đề đặt ra: bằng
cách nào để khơi thông, thu hút được ? Thực tế , trong nền kinh tế cạnh tranh hiện
nay, có rất nhiều chủ thể, thông qua các con đường khác nhau có khả năng cung
cấp dẫn vốn đáp ứng nhu cầu về vốn. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận
được là huy động vốn qua các trung gian tài chính - Ngân hàng thương mại
(NHTM) - là kênh quan trọng nhất, có hiệu quả nhất vì trong nền kinh tế , NHTM
được coi là trung gian tài chính lớn nhất, quan trọng nhất. Nền kinh tế của một
nước chỉ phát triển với tốc độ cao và ổn định khi có chính sách tài chính, tiền tệ
đúng đắn và hệ thống ngân hàng hoạt động đủ mạnh, có hiệu quả cao, có khả
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 2 -
năng thu hút, tập trung các nguồn vốn và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn vào
các ngành sản xuất.
Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này , sau một

thời gian thực tập , nghiên cứu tại Chi nhánh Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Bắc Hà Nội, mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về công tác huy
động vốn của chi nhánh , em đã mạnh dạn chọn đề tài : “Giải pháp nâng cao chất
lượng công tác huy động vốn tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Bắc Hà Nội “ là chuyên đề tốt nghiệp.

Đề tài thực hiện gồm có 3 chương:

Chương I: NHTM và hoạt động huy động vốn tại NHTM.

Chương II: Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Hà Nội.

Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
công tác huy động vốn tại Ngân Hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Bắc Hà Nội.

Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của cô giáo Lê Thanh Tâm và ban
giám đốc cũng như các anh chị trong phòng kế hoạch Chi nhánh NHNo &
PTNTHN Bắc Hà Nội đã hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình, giúp em hoàn thành
chuyên đề này.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 3 -
Chương I
Nguồn vốn huy động và chất lượng công tác huy động vốn
trong ngân hàng thương mại.

1.1 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại .
1.1.1 Khái niệm và vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế .
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển

của nền sản xuất hàng hoá. Trải qua hàng trăm năm , đến nay hoạt động của các
ngân hàng thương mại đã trở thành một yếu tố không thể thiếu gắn liền với nền
kinh tế của mọi quốc gia trên thế giới .
Ngân hàng là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng hoá , một động
lực quan trọng cho sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Với vai trò đó, ngân hàng
không thể đứng ngoài hoạt động của bất cứ quốc gia nào. Vì vậy, mỗi nước đều
xây dựng những khung pháp lý quy định, giới hạn hoạt động của ngân hàng. Mỗi
nước khác nhau sẽ có một khái niệm và mô hình tổ chức ngân hàng khác nhau.
Thông thường, người ta phải dựa vào tính chất và mục đích, đối tượng hoạt động
của nó trên thị trường tài chính.
Trong điều 1 Luật ngân hàng của Pháp ( ngày 13/06/ 1941 ) có ghi : “ Ngân
hàng là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc
của công chúng dưới hình thức ký thác hay dưới hình thức khác và sử dụng tài
nguyên đó cho chính họ , trong các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán ”.
Theo pháp lệnh ngân hàng , hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày
24/05/1990 ( điều 1 , khoản 1 ) của Việt Nam : “ Ngân hàng thương mại là tổ chức
kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay , thực hiện
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán ”.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 4 -
NHTM ra đời do yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế: cơ sở nền sản
xuất và lưu thông hàng hoá, và nền kinh tế ngày càng phát triển càng cần đến hoạt
động của các NHTM. Thông qua việc thực hiện các chức năng, vai trò của mình
nhất là chức năng trung gian tín dụng NHTM đã trở thành một bộ phận thúc đẩy
nền kinh tế phát triển. Sự đóng góp này thể hiện như sau:
Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Với hoạt động đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ
chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế (vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng từ

quá trình sản xuất, từ nguồn tiết kiệm của dân cư ) thông qua nghiệp vụ tín dụng ,
ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho nền kinh tế, đáp ứng đầy đủ kịp thời
cho quá trình tái sản xuất. Chính nhờ hoạt động của hệ thống ngân hàng thương
mại, đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện cải thiện hoạt
động kinh doanh của mình, góp phần nâng cao hiệu quả của cả nền kinh tế. Vì
vậy, chúng ta có thể khẳng định chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh chính là ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, hoạt động của NHTM nếu có
hiệu quả sẽ thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ
thống, các NHTM đã góp phần mở rộng hay thu hẹp lượng tiền trong lưu thông.
Hơn nữa, bằng việc cấp các khoản tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thực hiện việc
dắt dẫn các luồng tiền, tập hợp, phân chia vốn của thị trường điều khiển chúng
một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết vĩ mô đúng theo phương châm
“Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà , cung cấp vốn cho
nền kinh tế . Với sự phát triển kinh tế và công nghệ hiện nay,hoạt động ngân hàng
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 5 -
đã có những bước tiến rất nhanh , đa dạng và phong phú hơn song ngân hàng vẫn
duy trì các nghiệp vụ cơ bản sau :
a, Nghiệp vụ huy động vốn :
Đây là nghiệp vụ cơ bản, quan trọng nhất , ảnh hưởng tới chất lượng hoạt
động của ngân hàng .Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác
nhau như huy động dưới hình thức tiền gửi , đi vay , phát hành giấy tờ có giá . Mặt
khác trên cơ sở nguồn vốn huy động được , ngân hàng tiến hành cho vay phục vụ
cho nhu cầu phát triển sản xuất , cho các mục tiêu phát triển kinh tế của địa

phương và cả nước . Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng,
tạo uy tín của ngân hàng ngày càng cao, các ngân hàng chủ động trong hoạt động
kinh doanh , mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế và các tổ chức
dân cư, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó các ngân hàng thương mại phải
căn cứ vào chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, của địa phương .
Từ đó đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp nhất là các nguồn vốn trung,
dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước .
b, nghiệp vụ sử dụng vốn
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp vụ sử
dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng, quyết định
năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường . Do vậy ngân hàng cần phải
nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình sao cho hợp lý nhất .
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê, nhìn
chung thì khoảng 60%- 75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay.
Thành công hay thất bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện
kế hoạch tín dụng và thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của
ngân hàng. Các loại cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục
đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả
Hai là tiến hành đầu tư
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 6 -
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu
cầu khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi
hỏi Ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung
cấp đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho
vay, ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2 hình thức chủ yếu mà các ngân
hàng thương mại có thể tiến hành là:
 Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào

các doanh nghiệp, các công ty khác.
 Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Ba là nghiệp vụ ngân quỹ.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành
sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu quan trọng đó là hàng loạt các
nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề ngân
hàng là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình, ngân hàng
không thể bỏ qua sự “an toàn”. Vì vậy, ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được
lợi nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy động được để
đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện các quy định về dự trữ bắt
buộc do Trung ương đề ra.
c, nghiệp vụ khác :
Là trung gian tài chính , ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi
thế đó là ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và
dịch vụ . Để thanh toán nhanh chóng , thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng
đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc , uỷ
nhiệm chi, nhờ thu , các loại thẻ …cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử , kết nối
các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần . Mặt khác ,các ngân hàng
thương mại còn tiến hành môi giới, mua, bán chứng khoán cho khách hàng và
làm đại lý phát hành chứng khoán cho các công ty . Ngoài ra ngân hàng còn thực
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 7 -
hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay , uỷ thác đầu tư , uỷ thác cấp phát ,
uỷ thác giải ngân và thu hộ…
Như vậy ,các nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng tồn
tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như
hiện nay. Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động
qua lại với nhau.Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn,
ngược lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy

động. Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích
chính là thu hút khách hàng, qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng
vốn có hiệu quả.
1.2 Nguồn vốn huy động và hiêu quả huy động vốn trong ngân hàng
thương mại
1.2.1 Khái niệm vốn huy động trong ngân hàng thương mại
NHTM là một trung gian tài chính, ở mỗi nước khác nhau các trung gian tài
chính lại được phân chia khác nhau. Tuy nhiên, luôn tồn tại một điểm chung là vai
trò chủ đạo của các ngân hàng thương mại đóng góp khối lượng tài sản và tầm
quan trọng đối với nền kinh tế. Để có được vị trí đó NHTM phải đặt yếu tố lợi
nhuận lên hàng đầu và công cụ duy nhất mà các NHTM phải có trước tiên là vốn.
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập
hoặc huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ kinh
doanh khác.
Vốn của ngân hàng được hình thành qua các nguồn khác nhau . Để bắt đầu
hoạt động của ngân hàng thì chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định ,
được gọi là vốn ban đầu . Trong quá trình hoạt động , ngân hàng gia tăng khối
lượng vốn của mình thông qua các hoạt động huy động vốn như nghiệp vụ tiền
gửi , nghiệp vụ đi vay và các nghiệp vụ khác ( dịch vụ uỷ thác , trung gian thanh
toán…)
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động được từ các tổ
chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 8 -
vụ tín dụng , thanh toán , các nghiệp vụ kinh doanh khác… Vốn huy động chiếm
tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại , nó đóng vai
trò rất quan trọng trong mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng .
1.2.2 Tầm quan trọng của vốn huy động đối với hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thương mại .
Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.

Khác với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, hoạt
động của ngân hàng có những đặc trưng riêng, vốn không chỉ là phương tiện kinh
doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Ngân hàng là tổ chức kinh
doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và
thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Quá trình kinh doanh tiền tệ của
ngân hàng được mã hoá bằng công thức T-T’, trong đó T là nguồn vốn bỏ ra ban
đầu, T’ là nguồn vốn thu về sau một quá trình đầu tư, tiến hành hoạt động kinh
doanh: T’>T. Từ công thức này, có thể khẳng định ngân hàng nào trường vốn là
ngân hàng có nhiều thế mạnh trong cạnh tranh. Vì vậy, ngoài nguồn vốn ban đầu
cần thiết (vốn điều lệ) theo quy định thì ngân hàng luôn phải chăm lo tới việc tăng
trưởng nguồn vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình.
Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng
trên thương trường.
Ngân hàng hoạt động dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau , nếu không có uy tín thì
ngân hàng không thể tồn tại và ngày càng mở rộng hoạt động của mình. Uy tín
được thể hiện ở khả năng sẵn sàng chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả
năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng
lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ
thuận với vốn của ngân hàng nói chung và vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng.
Với khả năng huy động vốn cao , ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy
mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả, góp phần
vừa giữ được chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thương trường.
Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 9 -
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh
tranh giúp các doanh nghiệp có khả năng tự hoàn thiện mình hơn. Với ngân hàng
vốn chính là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế đã
chứng minh: quy mô vốn, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ thuật hiện đại là
điều kiện tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn, và nguồn vốn lớn sẽ tạo điều kiện

thuận lợi cho ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần
kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời hạn, lãi suất. Kết
quả của sự gia tăng trên giúp ngân hàng kinh doanh đa năng trên thị trường, phân
tán rủi ro, tạo thêm vốn cho ngân hàng và khi đó, tất yếu trên thương trường sức
cạnh tranh của ngân hàng sẽ tăng lên.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 10 -
1.2.3 Nguồn vốn huy động
1.2.3.1 Nguồn tiền gửi :
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại . Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động , nghiệp vụ đầu tiên là mở các
tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân
hàng huy động tiền của các doanh nghiệp , các tổ chức và của dân cư .
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng , chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền
của ngân hàng . Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn
tiền có chất lượng ngày càng cao , các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều
hình thức huy động khác nhau .
a, phân loại theo thời hạn :
- tiền gửi không kỳ hạn
Đây là khoản tiền đúng như tên gọi của nó là thời gian gửi tiền không xác
định, khách hàng (cá nhân , tổ chức) có quyền rút tiền ra bất cứ lúc nào. Mục đích
của khách hàng đối với loại tiền này là hưởng những tiện ích trong thanh toán khi
có nhu cầu chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Vì vậy đây là
bộ phận tiền chỉ nhàn rỗi tạm thời chứ không phải là khoản để dành.
-Tiền gửi có kỳ hạn :
Ngược với khoản tiền gửi không kỳ hạn, đây là khoản tiền gửi với thời gian
xác định. Nguyên tắc tiến hành khoản tiền gửi này là người gửi chỉ được rút tiền
khi đến thời hạn như đã thoả thuận có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1
năm hoặc trên thế nữa. Theo quy định, ngân hàng có quyền từ chối việc rút tiền
trước thời hạn của người gửi tiền. Tuy nhiên, ở một số nước, quy định này đã

được nới lỏng: các ngân hàng cho phép người gửi tiền được rút ra trước hạn
nhưng phải báo trước cho ngân hàng một khoảng thời gian nhất định, nếu không
báo trước người gửi sẽ không được hưởng lãi suất hoặc rất thấp.
b, phân loại theo đối tượng :
- tiền gửi của dân cư
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 11 -
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng
đến.Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng , họ đều có thể gửi tiết
kiệm với mục tiêu đảm bảo an toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm , đặc
biệt là nhu cầu bảo toàn . Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm , các ngân
hàng đều khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà
bằng cách ở rộng mạng lưới huy động , đưa ra các hình thức huy động đa dạng và
lãi suất cạnh tranh hấp dẫn …
- tiền gửi của các doanh nghiệp , các tổ chức xã hội .
Các doanh nghiệp do yêu cầu của hoạt đông sản xuất kinh doanh nên các
đơn vị này thường gửi một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng để hưởng tiện ích
trong thanh toán. NHTM là một trung gian tài chính, nó quan hệ với các đối tượng
này thông qua việc mở tài khoản, nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế và đáp ứng
yêu cầu thanh toán của họ. Do có sự đan xen giữa các khoản phải thu và các
khoản phải thanh toán nên ngân hàng luôn tồn tại một số dư tiền gửi nhất định,
điều này lí giải vì sao ngân hàng huy động được nhiều nguồn vốn nhất trong lĩnh
vực này, có chi phí thấp và được sử dụng cho vay không chỉ ngắn hạn mà còn cả
trung hạn. Tuy nhiên nguồn này có hạn chế là tính ổn định và độ lớn phụ thuộc
vào quy mô, loại hình của doanh nghiệp.
c, phân loại theo mục đích :
- tiền gửi tiết kiệm :
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi cá nhân được gửi vào ngân
hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định . Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu nhập
bằng tiền của các cá nhân chưa sử dụng được gửi vào các tổ chức tín dụng . Nó là

một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ, trong tiêu dùng cá nhân . Khi gửi tiền người
gửi được giao một sổ tiết kiệm coi như giấy chứng nhận tiền gửi vào ngân hàng .
Đến thời hạn khách hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền lãi trên tổng số tiền
lãi trên tổng số tiền gửi tiết kiệm .Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn .
- tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán .
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 12 -
Đây là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ
ngân hàng giữ và thanh toán hộ . Trong phạm vi số dư cho phép , các nhu cầu chi
trả của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều được ngân hàng thực hiện . Các khoản thu
bằng tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân đều có thể được nhập vào tiền gửi thanh
toán theo yêu cầu . Lãi suất của khoản tiền này rất thấp , thay vào đó chủ tài khoản
có thể được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với mức phí thấp.
- tiền gửi “ lai ” ( vừa tiết kiệm vừa giao dịch )
Đây là loại tiền gửi mà người gửi vừa có thể yêu cầu ngân hàng thanh toán
hộ , vừa có thể hưởng lãi suất định kỳ như một khoản tiền gửi tiết kiệm.Tuy nhiên
, lãi suất của khoản tiền này thường không cao như lãi suất tiền gửi tiết kiệm bởi
tính cố định của khoản gửi , ngân hàng có thể không sử dụng được hoặc sử dụng
rất ít số vốn huy động này để cho vay hoặc đầu tư.
1.2.3.2 Nguồn đi vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại . Tuy nhiên khi
cần các ngân hàng thường vay mượn thêm . Tại nhiều nước , ngân hàng Trung
ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Do vậy
nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu
cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế .

- vay NHNN
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của các
ngân hàng thương mại Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ , ngân hàng thương mại

thường vay ngân hàng Nhà nước . Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng nhà
nước là tái chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn ) . Thông thường , ngân hàng Nhà nước
chỉ chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng ( thời gian đáo hạn ngắn ,
khả năng trả nợ cao ) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước trong
từng thời kỳ . Trong điều kiện chưa có thương phiếu , ngân hàng nhà nước cho
ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất
định .
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 13 -
- vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín
dụng khác trên thị trường liên ngân hàng . Các ngân hàng đang có lượng dự trữ
vượt yêu cầu sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất
cao hơn . Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn
tức thời để đảm bảo thanh khoản . Như vậy nguồn vay các ngân hàng khác là để
đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung
hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước .
- vay trên thị trường vốn
Đây là nguồn vốn ngân hàng huy động một cách chủ động trên thị trường tài
chính. Là trung gian tài chính, phải luôn đáp ứng nhu cầu về vốn, do vậy việc
ngân hàng thiếu vốn là điều không thể tránh khỏi. Trong những trường hợp này,
ngân hàng có thể sử dụng nghiệp vụ huy động vốn trên thị trường tài chính: phát
hành các giấy tờ có giá trị như các giấy tờ vay nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Việc chuyển nhượng các giấy tờ trên từ chủ sở hữu này sang chủ sở hữu khác phụ
thuộc vào thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng . Ngân hàng có thể phát hành
kỳ phiếu và phát hành trái phiếu. Trái phiếu là một giấy tờ có giá , xác nhận khoản
nợ của khách hàng đối với người chủ ngân hàng với cam kết như thanh toán một
số tiền xác định vào một ngày xác định trong tương lai với thời hạn xác định cho
trước.
Kỳ phiếu ngân hàng là một loại giấy nhận nợ ngắn hạn do ngân hàng phát

hành nhằm huy động vốn trong dân cư, chủ yếu là để phục vụ cho những kế hoạch
kinh doanh xác định của ngân hàng như một dự án, một chương trình kinh
doanh…
1.2.3.3 Nguồn khác
Ngoài các nguồn trên , ngân hàng còn thực hiện huy động vốn thông qua
nguồn uỷ thác , nguồn trong thanh toán , các nguồn khác.
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay ,
uỷ thác đầu tư , uỷ thác cấp phát , uỷ thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 14 -
tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng . Ngoài ra , các hoạt động thanh toán không
dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả
, tiền ký quỹ để mở L/C …) . Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa
trả …cũng góp phần làm tăng nguồn huy động trong công tác huy động vốn của
ngân hàng thương mại .
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 15 -
1.2.4 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng công tác huy động vốn
1.2.4.1 Chi phí huy động vốn :
a, Lãi suất huy động
Lãi suất huy động luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể kinh tế.
Người gửi muốn một lãi suất cao , người vay lại muốn lãi suất thấp . Là trung gian
đóng vai trò cầu nối giữa hai đối tượng trên , ngân hàng phải tìm cách điều chỉnh
mức lãi suất sao cho hợp lý nhất đối với các bên , trong đó điều quan trọng là phải
đảm bảo lợi ích của ngân hàng . Vì vậy trong huy động vốn , mỗi ngân hàng đều
cố gắng áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao
cho chi phí huy động vốn bình quân là nhỏ nhất và sử dụng số vốn đó để cho vay
với một mức lãi suất chấp nhận được trên thị trường . Chi phí huy động được đánh
giá qua hệ thống các chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân (tính bằng bình quân gia
quân gia quyền của lãi suất các nguồn theo khối lượng từng nguồn), lãi suất huy

động của từng nguồn và đặc biệt là lãi suất cạnh tranh NEC.
Mặt khác , cũng với một mức chi phí trả lãi bình quân , sự đa dạng hoá trong
lãi suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn là cần thiết , Sự đa dạng hoá
lãi suất làm cho tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà ngân hàng đưa ra .
Nếu có chính sách lãi suất phù hợp , hiệu quả , ngân hàng sẽ tối thiểu hoá được chi
phí trong khi vẫn hoàn thanh kế hoạch về nguồn vốn .
b , Chi phí khác
Bên cạnh chi phí chính là lãi suất , trong quá trình huy động vốn còn có các
chi phí khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động , chi phí in ấn phát hành ,
chi phí cơ sở vật chất , chi phí giao dịch quảng cáo … Tuy chi phí này chiếm một
tỷ trọng tương đối nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh
nặng cho ngân hàng.
1.2.4.2 Các hình thức huy động vốn.
Hình thức huy động vốn là những cách thức ngân hàng sử dụng để thu hút
nguồn vốn. Hình thức huy động càng đa dạng thì vốn chảy vào ngân hàng càng
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 16 -
nhiều. Vì vậy độ đa dạng của các hìng thức huy động vốn chính là chỉ tiêu để đánh
giá hiệu quả của công tác huy động vốn ở các ngân hàng thương mại.
Sự đa dạng các công cụ huy động được thể hiện trước hết là ở số lượng các
công cụ ngân hàng sử dụng. Tuỳ theo đặc điểm, mục tiêu chiến lược kinh doanh,
mỗi ngân hàng đưa ra những loại công cụ huy động. Thực tế, số lượng các công
cụ huy động càng nhiều thì ngân hàng càng có nhiều điều kiện thu hút được vốn,
tuy nhiên số lượng các công cụ vốn lại bị hạn chế bởi khả năng quản lý của ngân
hàng. Một ngân hàng sử dụng nhiều công cụ huy động vốn không hoàn toàn đồng
nghĩa với việc công tác huy động vốn của ngân hàng đó có hiệu quả tốt, mà nó chỉ
được coi là có hiệu quả khi những công cụ đó thực sự thích hợp với ngân hàng.
Cụ thể đối với các ngân hàng có hoạt động kinh doanh đa dạng, đội nhũ cán bộ
công nhân viên ngân hàng có trình độ cao thì ngân hàng nên đa dạng hoá các loại
công cụ huy động vốn.

Đa dạng về số lượng các công cụ là chưa đủ , mà ngân hàng phải đa dạng về
kỳ hạn huy động, loại tiền sử dụng nữa . Đó là khả năng huy động vốn với các kỳ
hạn khác nhau trong đó có cả nội tệ , ngoại tệ và với mức lãi suất khác biệt tương
ứng sao cho người gửi tiền chấp nhận được và cảm thấy hợp lý . Do vậy, để công
tác huy động vốn của ngân hàng thực sự đạt được hiệu quả cao, ngân hàng cần
phải tính toán, nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu của thị trường, trên cơ sở năng lực bản
thân đưa ra các hình thức huy động đa dạng về kỳ hạn, loại tiền. Nếu những ngân
hàng có quan hệ quốc tế rộng thì nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ phải lớn, hay
nếu có chiến lược sử dụng vốn để cho vay dài hạn thì cần tăng cường huy động
vốn trung và dài hạn.
1.2.4.3 Tính ổn định của nguồn vốn
Tính ổn định ở đây bao gồm ổn định về khối lượng, tốc độ tăng trưởng, cơ
cấu nguồn.
Thật vậy, công tác huy động vốn không thể có hiệu quả khi mà nguồn vốn
huy động được lại không đạt được quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của
ngân hàng hay không đáp ứng nổi nhu cầu về khối lượng vốn cho kinh doanh; cơ
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 17 -
cấu vốn của ngân hàng lại không có sự hợp lý giữa các nguồn vốn huy động ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn, giữa vốn ngoại tệ và vốn nội tệ. Đối với ngân hàng, do
mỗi nguồn vốn có những điểm mạnh, điểm yếu riêng trong việc khai thác và huy
động nên cơ cấu vốn biến đổi sẽ dẫn tới sự biến đổi trong cơ cấu “đầu ra”: cho
vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo theo sự thay đổi trong lợi nhuận, rủi ro trong hoạt
động kinh doanh. Cơ cấu nguồn vốn huy động phụ thuộc không chỉ vào một phần
kế hoạch của ngân hàng mà còn chịu sự tác động của các nhân tố bên ngoài đòi
hỏi ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Khối lượng vốn huy động phản ánh quy mô vốn. Quy mô vốn lớn sẽ tạo điều
kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng thì quy mô vốn huy động là một bộ phận chiếm tỷ trọng cao
nhất và có vai trò quan trọng hơn cả. Sau khi đã huy động được khối lượng vốn

lớn thì cái mà ngân hàng cần quan tâm lúc này là tốc độ tăng trưởng ổn định của
nó vì có thể lúc này quy mô vốn lớn, nhưng sẽ là khó khăn cho ngân hàng khi đưa
ra quyết định cho vay hay đầu tư nếu ngân hàng không kiểm soát, không dự đoán
được xu hướng biến động của dòng tiền rút ra và dòng tiền gửi vào.
1.2.4.4 Một số chỉ tiêu khác
Ngoài các chỉ tiêu chính trên , chất lượng công tác huy động vốn còn được
đánh giá qua một số chỉ tiêu :
• Mức độ hoạt động của vốn huy động : Được đánh giá qua chỉ tiêu hệ số sử
dụng vốn . Hệ số sử dụng vốn càng tiến đến 1 càng tốt , điều này thể hiện nguồn
vốn huy động được sử dụng tối đa.
• Mức độ thuận tiện khách hàng : Được đánh giá qua các thủ tục gửi tiền , rút tiền
, các dịch vụ kèm theo của ngân hàng …nhằm tiết kiệm được thời gian và chi phí
cho khách hàng .
• Thời gian để huy động một số lượng vốn nhất định .
• Một số chỉ tiêu khác như : số lượng vốn bị rút ra trước thời hạn , kỳ hạn thực tế
của nguồn vốn…
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 18 -
1.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng công tác huy động vốn của
ngân hàng thương mại .
Những nhân tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng thương mại
được xem xét qua hai nhóm nhân tố đó là : nhóm nhân tố mang tính khách quan
và nhóm nhân tố mang tính chủ quan.
1.2.5.1 Nhân tố khách quan
• Thứ nhất là môi trường pháp lý
Như chúng ta đã biết, hoạt động của ngân hàng có mức độ ảnh hưởng, tác
động hết sức mạnh mẽ đối với nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Cụ thể việc
huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng đều tác động trực tiếp đến tốc độ
tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của các chủ thể, tốc độ chu chuyển vốn, tình
trạng thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát. Chính vì lẽ đó, hoạt động của ngân hàng phải

chịu sự quản lý chặt chẽ gắt gao hơn so với các doanh nghiệp khác. Thực tế là
ngân hàng phải chịu sự điều chỉnh của rất nhiều chính sách, các quy định của
chính phủ , của NHTW; đó là Luật các tổ chúc tín dụng, luật kinh tế, luật dân sự,
hàng loạt hệ thống các quy định cụ thể trong từng thời kỳ về lãi suất, dự trữ, hạn
mức. Trong sự ràng buộc về luật pháp này thì các yếu tố của nghiệp vụ huy động
vốn chắc chắn sẽ bị thay đổi và kết quả làm ảnh đến quy mô và hiệu quả của việc
huy động vốn. Bởi khi chính sách của Nhà nước, của NHTW: chính sách tiền tệ,
tài chính, lãi suất, tín dụng thay đổi sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng
như chất lượng nguồn vốn của NHTM.
• Thứ hai là môi trường kinh tế - chính trị - xã hội
Hoạt động của NHTM nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng
không thể thoát ly khỏi môi trường kinh doanh đặc biệt là môi trường kinh tế -
chính trị - xã hội .
Trong các hoạt động của ngân hàng thì hoạt động huy động vốn và sử dụng
vốn luôn bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng , thu nhập , tình trạng thất
nghiệp , lạm phát … tác động trực tiếp . Khi nền kinh tế tăng trưởng , sản xuất
phát triển , từ đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn , do đó tạo môi trường cho việc
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 19 -
thu hút vốn của ngân hàng thuận lợi . Ngược lại , khi nền kinh tế suy thoái , lạm
phát tăng làm cho môi trường đầu tư của ngân hàng bị thu hẹp khiến quá trình tạo
vốn của ngân hàng gặo khó khăn .
Không một quốc gia nào có thể phát triển nếu môi trường chính trị không ổn
định. Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động mạnh mẽ
đến quan hệ vốn của ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế
giới. Điều này cũng là nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của ngân
hàng.
Nhân khẩu học cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới nguồn vốn thông qua việc
phân bổ dân cư , trình độ , lứa tuổi …Ngân hàng cũng nên xem xét yếu tố này
trong hoạt động huy động vốn của mình

• Thứ ba là môi trường văn hoá.
Môi trường văn hoá là yếu tố quyết định đến tập quán , tâm lý , thói quen
trong việc sử dụng tiền của dân cư . Và những tập quán tiêu dùng này sẽ ảnh
hưởng đến nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng . Nếu ở những vùng mà người dân
quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ thì việc huy động vốn của
ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn .
Hơn nữa , mức độ chấp nhận rủi ro của xã hội , thói quen tích luỹ ảnh hưởng
đến quyết định của những thành viên trong xã hội về phương thức tiêu dùng và
tiết kiệm , giữ tiền ở nhà , gửi tiền ở ngân hàng , đầu tư vào chứng khoán hoặc bất
động sản …
• Thứ tư là yếu tố cạnh tranh trên thị trường tài chính
Hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng có sự tham gia của nhiều loại
hình ngân hàng mới và các tổ chức tài chính phi ngân hàng . Do đó , cạnh tranh có
xu hướng gia tăng mạnh , làm giảm đi sự khác biệt giữa ngân hàng thương mại
với các tổ chức tài chính phi ngân hàng . Xu hướng cạnh tranh trong ngành ngân
hàng càng gia tăng do các yếu tố như thay đổi chính sách tài chính tiền tệ , đổi mới
tài chính của doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ…
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 20 -
Cạnh tranh về tiền gửi diễn ra dưới nhiều hình thức . Các ngân hàng có thể
áp dụng những điều kiện giống nhau cho tất cả các khách hàng gửi tiền . Vì lý do
này , các sản phẩm dịch vụ liên quan đến tiền gửi được mở rộng và được phổ biến
nhanh chóng . Thêm vào đó , nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng có thể huy
động tiền gửi có kỳ hạn , thậm chí còn cung cấp các tài khoản không kỳ hạn .
1.2.5.2 Nhân tố chủ quan
• Các hình thức huy động vốn và chất lượng các dịch vụ do ngân hàng
cung ứng , và hệ thống màng lưới .
Hình thức huy động vốn của ngân hàng đưa ra càng phong phú, đa dạng linh
hoạt và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn trong nền kinh tế càng lớn, xuất phát
từ sự khác nhau về nhu cầu và tâm lý trong dân cư . Chính sự đa dạng hoá các

hình thức huy động vốn của Ngân hàng đã giúp cho mỗi người dân, mỗi doanh
nghiệp tìm được cho mình một hình thức đầu tư hợp lý nhất.
Khi các ngân hàng thương mại đưa ra các hình thức huy động vốn ngày càng
đa dạng và hợp lý, cùng với việc mở rộng hệ thống màng lưới hoạt động, và nâng
cao chất lượng hoạt động các dịch vụ ngân hàng, từ đó thu hút ngày càng nhiều
khách hàng đến với ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc
huy động vốn . Ngược lại khi các hình thức huy động vốn của ngân hàng chưa đa
dạng, phong phú, chất lượng hoạt động dịch vụ chưa cao, hệ thống màng lưới còn
ít, chưa thuận lợi cho khách hàng trong việc giao dịch với ngân hàng, thì nó sẽ
ảnh hưởng không tốt tới huy động vốn của ngân hàng .
Hiện nay với sự đổi mới sâu sắc của ngành ngân hàng, các ngân hàng thương
mại không ngừng đổi mới về khoa học, công nghệ, về phong cách giao dịch, mở
rộng các hoạt động dịch vụ phục vụ khách hàng, phát triển thêm mạng lưới hoạt
động từ chi nhánh cấp 3, cấp 4, các ngân hàng lưu động, và các ngân hàng hoạt
động trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, kinh doanh dịch vụ
• Chất lượng hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc huy động
tiền gửi vào hệ thống ngân hàng, nghiệp vụ huy động vốn làm nhiệm vụ khơi tăng
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 21 -
các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, thì nghiệp vụ sử dụng vốn thực hiện sử
dụng các nguồn vốn đó vào sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để đem lại khả năng
sinh lời, thu lợi nhuận về cho ngân hàng .Do vậy nếu nghiệp vụ sử dụng vốn
không hiệu quả tất yếu dẫn đến việc huy động vốn bị thu hẹp lại . Khi sử dụng vốn
kém hiệu quả, làm thất thoát vốn nhiều dẫn đến lòng tin của dân chúng vào ngân
hàng bị giảm đi . Từ đó sẽ rất khó khăn cho các hình thức huy động các nguồn
vốn nhàn rỗi . Mặt khác hoạt động tín dụng hiệu quả tạo cho các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế kinh doanh có hiệu quả, thu nhập xã hội ngày càng tăng, tỷ lệ
thất nghiệp giảm, đời sống của dân cư ngày càng nâng cao, nguồn vốn nhàn rỗi
ngày càng tăng, tạo cho nguồn vốn ngân hàng huy động ngày càng tăng trưởng để

thực hiện đầu tư cho các chu kỳ sản xuất tiếp theo .
• Uy tín của ngân hàng.
Có thể gọi đây chính là tài sản vô hình của ngân hàng. Uy tín bao gồm uy tín
của ngân hàng trong toàn hệ thống, của các thành viên trong hội đồng quản trị,
ban giám đốc. Sự nổi tiếng của ngân hàng là tài sản quý trong công tác huy động
vốn vì trong lòng thị trường ngân hàng đã tạo một hình ảnh riêng, khi đó khách
hàng sẽ tin tưởng vào ngân hàng, giúp ngân hàngcó khả năng ổn định khối lượng
vốn huy động, tiết kiệm chi phí huy động (thực tế khi ngân hàng có tiếng tăm, họ
dễ dàng thu hút vốn hơn các ngân hàng khác ngay cả khi lãi suất tiền gửi của ngân
hàng đưa ra có thấp hơn).
• Chiến lược kinh doanh của ngân hàng.
Mỗi ngân hàng đều xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh cụ thể.
Chiến lược kinh doanh được xây dựng dựa trên việc ngân hàng xác định vị trí hiện
tại của mình trong hệ thống, thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội thách thức
đồng thời dự đoán được sự thay đổi của môi trường kinh doanh trong tương lai.
Thông qua chiến lược kinh doanh ngân hàng ngân hàng sẽ có thể quyết định thu
hẹp hay mở rộng việc huy động vốn về mặt quy mô, có thể thay đổi tỷ lệ các loại
nguồn, tăng hay giảm chi phí huy động. Với tác dụng to lớn như vậy, nếu chiến
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 22 -
lược kinh doanh được lựa chọn đúng đắn, các nguồn vốn được khai thác một cách
tối đa thì công tác huy động vốn sẽ phát huy được hiệu quả.
• Trình độ công nghệ ngân hàng.
Trình độ công nghệ ngân hàng bao gồm cơ sở vật chất phục vụ ngân hàng;
các loại hình dịch vụ ngân hàng cung ứng; trình độ nghiệp vụ của cán bộ, nhân
viên ngân hàng.
Cơ sở vật chất của ngân hàng càng khang trang hiện đại, công nghệ tiên tiến
mang lại lợi ích thiết thực cho kinh doanh, luôn tạo điều kiện thuận lợi và phục
vụ cho khách hàng tốt hơn, tạo lòng tin cho khách hàng. Thực tế khách hàng sẽ tin
tưởng yên tâm hơn khi gửi tiền ở một ngân hàng có trình độ công nghệ trình độ

công nghệ ngân hàng cao. Và khi khách hàng đã thực sự yên tâm gửi tièn thì ngân
hàng dễ dàng trong việc huy động.
• Năng lực , trình độ , đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng .
Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự , tài sản nợ , tài sản có , tức là
trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình , ngân hàng dự đoán được những
rủi ro xảy ra , dự đoán được môi trường đầu tư của mình có hiệu quả hay không
thì quá trình hoạt động của ngân hàng đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín , tạo
điều kiện thu hút khách hàng gửi tiền cũng như vay tiền.
Mặt khác , trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng càng cao , mọi thao tác
nghiệp vụ thực hiện nhanh chóng , chính xác , có hiệu quả ; thái độ phục vụ , tác
phong làm việc của cán bộ ngân hàng tốt , nhiệt tình , cởi mở , tạo thuận lợi cho
khách hàng sẽ gây được ấn tượng tốt đối với khách hàng , thu hút được nhiều
khách hàng hơn . Thái độ phục vụ của cán bộ ngân hàng đối với khách hàng có
ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn cho ngân hàng . Do đó , để thu hút khách
hàng gửi tiền , đi đôi với việc trau dồi kiến thức , nghiệp vụ , cán bộ ngân hàng
phải thường xuyên chú ý đến thái độ phục vụ của mình sao cho vừa lòng khách
hàng .
• Công tác quảng cáo , khuyến mãi…
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 23 -
Các ngân hàng thương mại hiện nay đã từng bước học tập và ứng dụng nghệ
thuật thông tin quảng cáo , các hình thức khuyến mãi…Tuy việc đầu tư cho công
tác này còn hạn chế , nhưng có thể nói đây cũng là mặt mạnh của ngành ngân
hàng trong việc cạnh tranh để huy động tiền gửi . Thông tin quảng cáo , tiếp thị
khuyến mại , các dịch vụ hậu mãi rõ ràng sẽ phát triển mạnh mẽ trong cơ chế thị
trường . Và tuỳ vào chu kỳ sống của sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp để
các nhà quản trị ngân hàng chọn thời điểm , thời gian sử dụng , chiến lược quảng
cáo khuyến mãi cũng như hậu mãi phù hợp.





Chương II
Thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh
NHNo&PTNT Bắc Hà Nội

1.1 Sơ lược về Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội .
1.1.1 Một số nét chính về NHNo&PTNT Việt Nam .
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam ra đời theo quyết định số 56 và 59 tháng
8 năm 1988 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sự ra đời của Ngân hàng nông
nghiệp Việt Nam theo yêu cầu cấp bách của nền kinh tế với mục đích chủ yếu là
góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, kiềm chế làm phát, ổn định tiền
tệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và trực tiếp giải quyết nâng cao đời sống của nông
dân. NHNN&PTNT Việt Nam có vai trò là Ngân hàng quản lý Trung Ương, có
hệ thống chi nhánh rộng khắp trong cả nước từ tỉnh đến huyện, xã.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hoạt động theo
mô hình Tổng công ty Nhà nước, theo quyết định số 90/TTg ngày 07 tháng 03
năm 1994 của Thủ Tướng Chính phủ, thời gian hoạt động là 99 năm, trụ sở tại Hà
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- 24 -
Nội, Ngân hàng có con dấu riêng và có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam.
Ngoài ra, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam còn
mở tài khoản tại các Ngân hàng khác cả trong nước và ngoài nước để phục vụ
thêm cho việc giao dịch và kinh doanh. Ngân hàng có trách nhiệm bảo toàn và
phát triển vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và có quyền tự chủ về
mặt tài chính.
Ngày 15 tháng 10 năm 1996, Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đổi tên
thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam theo quyết định
số 280/QĐ-NH5 do Thống đốc Ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Cao

Sỹ Khiêm ký.
Tên giao dịch : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Tên giao dịch quốc tế: Vietnam Bank for agriculture and Rural
Development.
Tên viết tắt: VBARD
Trụ sở chính : Số 2 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội.
1.1.2 Sự hình thành , phát triển và cơ cấu tổ chức của Chi nhánh
NHNo&PTNT Bắc Hà Nội.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Bắc Hà Nội là
một đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
Nông thôn Việt Nam.
Chi nhánh được thành lập theo quyết định số 342/QĐ/HĐQT-TCCB ngày 5
tháng 9 năm 2001 của Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị NHNo&PTNT Việt Nam.
Hoạt động theo quy chế tổ chức và hoạt động do Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam ban hành.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Bắc Hà Nội có
trụ sở đặt tại số 217 phố Đội Cấn - quận Ba Đình - Hà Nội và đi vào hoạt động
kinh doanh từ ngày 01 tháng 11 năm 2001 với quân số ban đầu là 42 CBCNV.

×