Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

LUẬN VĂN:Nâng cao chất lượng hoạt động cho vay theo dự án đầu tư docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.89 KB, 68 trang )











LUẬN VĂN:

Nâng cao chất lượng hoạt động
cho vay theo dự án đầu tư










LỜI MỞ ĐẦU
NHCT Việt Nam- NHTM lớn thứ hai nước ta hiện nay đang chuyển mình mạnh mẽ
trong các hoạt động chiến lược phát triển với hoạt động tín dụng làm trọng tâm, trong đó cho
vay khách hàng doanh nghiệp là một lĩnh vực quan trọng mang lại nhiều thuận lợi cho ngân
hàng cũng như nền kinh tế.
Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ là chi nhánh ngân hàng cấp I trực thuộc NHCT Việt Nam và
thực hiện hạch toán độc lập. Hiện nay, Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ đang cho vay khoảng 20


khách hàng lớn với tổng dư nợ khoảng 610 tỷ. Trong tổng số 20 khách hàng lớn có khoảng
1/5 khách hàng vay vốn theo dự án. Phần lớn là các công ty nhà nước hoạt động trong lĩnh
vực cơ bản như: điện lực, xây dựng cơ sở hạ tầng, cầu đường,… Đây là lĩnh vực nhiều tiềm
năng với đặc thù hoạt động theo dự án. Tuy nhiên, hoạt động cho vay theo dự án của chi
nhánh vẫn còn ít về số lượng, loại hình đơn điệu, quy mô nhỏ hẹp và chủ yếu các dự án đang
giải ngân là các dự án để lại từ các năm trước. Dư nợ cho vay theo dự án chiếm một tỷ trọng
nhỏ trong tổng dư nợ cho vay khách hàng lớn. Từ thực tế này, việc nâng cao chất lượng cho
vay theo dự án đầu tư tại Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ là một vấn đề bức thiết hiện nay của
Chi nhánh.
Đứng trên giác độ là một sinh viên thực tập, tôi nghiên cứu vấn đề “ cho vay theo dự án
đầu tư” tại Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ mong đóng góp một phần ý kiến với cơ sở thực tập về
một số “ nâng cao chất lượng hoạt động cho vay theo dự án đầu tư”.
Chuyên để tốt nghiệp ngoài lời mở đầu và kết cấu theo 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về chất lượng hoạt động cho vay theo dự án đầu tư.
Chương II: Thực trạng cho vay theo dự án đầu tư tại Chi nhánh NHCT Bến Thuỷ.
Chương III: Giải pháp nâng cao hoạt động cho vay theo dự án đầu tư tại Chi nhánh NHCT
Bến Thuỷ.




CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO DỰ
ÁN ĐẦU TƯ.
1.1 Hoạt động cho vay của NHTM :
1.1.1 Khái quát về NHTM :
NHTM _ một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế, là một tổ chức
tín dụng hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ và tín dụng ngân hàng với hoạt động
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cho vay và cung cấp các dịch vụ
thanh toán.

Hoạt động của NHTM thường gồm 3 nội dung chính:
+ Hoạt động huy động vốn.
+ Hoạt động cho vay, đầu tư.
+ Hoạt động thanh toán.
Đây được coi là ba hoạt động truyền thống của NHTM, chúng có mối quan hệ chặt chẽ
và tương hỗ lẫn nhau.
Hoạt động huy động vốn là hoạt động tạo nguồn cho NHTM. Ngân hàng huy động tiền
nhàn rỗi trong dân cư, trong các doanh nghiệp và các chủ thể khác trong nền kinh tế để bảo
quỹ cho vay.
Thông qua chức năng cho vay, NHTM sử dụng nguồn vốn huy động được để thực hiện
cho vay đầu tư, cung cấp vốn cho nền kinh tế, phục vụ hoat động sản xuất kinh doanh. Đây là
hoạt động chủ yếu của ngân hàng và là hoạt động đem lại nguồn thu lớn nhất cho các NHTM.
Khi NHTM cung cấp vốn cho thị trường là làm tăng lưu thông tiền tệ cho nền kinh tế. Nền
kinh tế phát triển, nhu cầu về dịch vụ tiện ích của con người tăng cao, ngân hàng mở và cung
cấp các dịch vụ tiện ích đó để thu phí_ một nguồn thu không nhỏ của các NHTM,
1.1.2 Hoạt động cho vay của NHTM:
Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam quy định “ hoạt động tín dụng bao gồm cho vay,
cho thuê tài chính, chiết khấu, bảo lãnh và một số hoạt động khác do ngân hàng nhà nước quy

định”. Tín dụng được hiểu là quan hệ vay muợn trên cơ sở hoàn trả. Nghĩa là bao gồm các
hoạt động cho vay và đi vay. Tuy nhiên, để tránh nhầm lẫn trong các văn bản pháp luật hiện
hành, khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như ngân hàng, ví dụ tín dụng ngân hàng thì chỉ
bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay.
Cho vay có thể hiểu là hoạt động sử dụng vốn của NHTM cho những người có nhu cầu
vay vốn và thu một khoản lãi nhất định trên số tiền cho vay theo nguyên tắc hoàn trả vón và
lãi với thời gian xác định, đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Đối tượng của hoạt động
cho vay là tiền, chủ thể đi vay là khách hàng của các tổ chức tín dụng. Hoạt động cho vay vẫn
được hiểu là một nghiệp vụ truyền thống của NHTM bên cạnh hoạt động huy động tiền gửi.
Tổ chức tín dụng xem xét cho vay khách hàng theo 3 thể loại: cho vay ngắn hạn, cho vay
trung hạn và cho vay dài hạn.

+ Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn dưới 12 tháng.
+ Cho vay trung hạn: là các khoản vay có thời hạn từ 12 tháng đến dưới 60 tháng.
+ Cho vay dài hạn: là các khoản vay có thời hạn từ 60 tháng trở lên.
Cần phân biệt rõ thời hạn cho vay và tín dụng phân loại theo thời gian. Thời hạn cho
vay là “ khoảng thời gian khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm khách hàng trả
hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng
và khách hàng”. Việc phân chia cho vay theo thời hạn cho vay là rất rõ ràng. Tuy nhiên tín
dụng ngắn hạn, trung hay dài hạn chỉ có tính chất tương đối. Trên thực tế có những khoản vay
không xác định trước thời hạn hoặc những khoản tín dụng có thời hạn trên 12 tháng nhưng
thời gian đến ngày đáo hạn dưới 12 tháng vẫn được xếp vào tín dụng ngắn hạn. Khách hàng
có thể thỏa thuận với tổ chức tín dụng về phương thức cho vay. Quy chế cho vay của tổ chức
tín dụng quy định nhiều phương thức cho vay khác nhau: cho vay từng lần, cho vay theo hạn
mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn, cho vay trả góp, cho vay theo hạn
mức tín dụng dự phòng, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, cho
vay theo hạn mức thấu chi và các phương thức cho vay khác. Cùng với sự phát triển của
NHTM, các phương thức cho vay ngày càng đa dạng và hiện đại.

1.2 Dự án đầu tư:
Đầu tư phát triển có vai tròp quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, là một
lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của cơ sỡ vật chất kỹ thuật của nền
kinh tế. Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, hoạt động đầu tư là một bộ phận trong
hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất, kỹ thuật mới, duy trì sự hoạt
động của cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện có và vì thế, đầu tư phát triển là điều kiện để phát triển
sản xuất kinh doanh, dịch vụ của doanh nghiệp.
 Vậy dự án là gì?
Về mặt tổng quát, ta hiểu “dự án là một tập hợp các hoạt động đặc thù liên kết chặt chẽ
và phụ thuộc lẫn nhau nhằm đạt được trong tương lai ý tưởng đã đặt ra mục tiêu nhất định với
nguồn lực và thời gian xác định”.
Dự án có vai trò rất quan trọng đối với các chủ đầu tư, các nhà quản lý và tác động trực
tiếp tới tiến trình phát triển kinh tế xã hội, nếu không có dự án, nền kinh tế sẽ khó nắm bắt

được cơ hội phát triển. Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định bỏ vốn đầu tư, xây dựng kế
hoạch đầu tư và theo dõi quá trình thực hiện đầu tư. Dự án là căn cứ để các tổ chức tài chính
đưa ra quyết định tài trợ, các cơ quan chức năng của nhà nước phê duyệt và cấp giấy phép đầu
tư. Dự án còn được coi là công cụ quan trọng trong quản lý vốn, vật tư, lao động trong quá
trình thực hiện đầu tư. Do vậy, hiểu được những đặc điểm của dự án là một trong những yếu
tố quyết định sự thành công của dự án đó.
1.2.1. Dự án đầu tư là gì?
Dự án đầu tư có thể đựơc xem xét từ nhiều góc độ;
 Về mặt hình thức: dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết, có
hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch nhằm đạt được những kết quả và thực
hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
 Xét trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư,
lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế xã hội trong một thời gian dài.

 Trên góc độ kế hoạch hóa: Dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của
một công cuộc đầu tư sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế_ xã hội, làm tiền đề cho các
quyết định đầu tư và tài trợ.
 Xét về mặt nội dung: Dự án đầu tư là tổng thể các hoạt động và chi phí cần thiết, được
bố trí theo một kế hoạch chặt chẽ với lịch thời gian và địa điểm xác định để tạo mới, mở rộng
hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất định nhằm thực hiện các mục tiêu nhất định trong
tương lai.

1.2.2 Đặc trưng cơ bản của dự án đầu tư:
Thứ nhất, dự án có mục đích, mục tiêu rõ ràng.
Thứ 2, dự án có chu kỳ phát triển riêng và thời gian tồn tại hữu hạn.
Thứ 3, dự án có sự tham gia của nhiều bên như: chủ đầu tư, nhà thầu, cơ quan cung cấp dịch
vụ trong đầu tư, cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ 4, sản phẩm dự án mang tính đơn chiếc, độc đáo.
Thứ 5, Môi trường hoạt động của dự án là: “va chạm”, có sự tương tác phức tạp giữa dự án
này với dự án khác, giữa bộ phận quản lý này với bộ phận quản lý khác.

Thứ 6, Dự án có tính bất định và độ rủi ro cao do đặc điểm mang tính dài hạn của hoạt động
đầu tư phát triển.
1.2.3 Phân loại dự án đầu tư:
Ta có thể phân loại các dự án đầu tư theo các tiêu thức sau:
1.2.3.1 Theo cơ cấu tái sản xuất:
 Dự án đầu tư theo chiều rộng: đòi hỏi khối lượng vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư và
thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao.
 Dự án đầu tư theo chiều sâu: đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư
không lâu, độ mạo hiểm cũng thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
 1.2.3.2 Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội:
 Dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
 Dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật.
 Dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.
1.2.3.3 Theo các giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã
hội.
 Dự án đầu tư thương mại: Là loại dự án đầu tư có thời gian thực hịên đầu tư và hoạt
động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, tính chất bất định không cao
lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt được kết quả cao.

 Dự án đầu tư sản xuất: là loại dự án có thời hạn hoạt động dài hạn ( từ 5 năm trở lên),
vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, tính
chất kỹ thuật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất động khó lường trong tương
lai.
 1.2.3.4 Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra:
 Dự án đâu tư ngắn hạn.
 Dự án đầu tư dài hạn.
 Dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, xây dựng cơ sỡ hạ tầng.
1.2.3.5 Theo sự phân cấp quản lý dự án:
 Dự án quan trọng quốc gia: do quốc hội quyết định chủ trương đầu tư
 Dự án nhóm A.

 Dự án nhóm B.
 Dự án nhóm C.
1.2.3.6 Theo cấp độ nghiên cứu:
 Dự án tiền khả thi: là kết quả của giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi.
 Dự án khả thi: là kết quả của giai đoạn nghiên cứu khả thi.
1.2.3.7 Theo nguồn vốn:
 Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
 Dự án đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn tín dụng do
nhà nước bảo lãnh.
 Dự án đầu tư bằng nguồn vốn huy động của doanh nghiệp và các nguồn vốn khác.
 Dự án đầu tư bằng các nguồn vốn hỗn hợp.
1.2.3.8 Theo vùng lãnh thổ: theo tỉnh, vùng kinh tế của đất nước.
1.2.4 Chu kỳ của một dự án đầu tư.
Sơ đồ 1.1 Các thời kỳ của một dự án:


Ý đồ về
dự án
đầu tư


Chuẩn
bị
đầu tư


Thực
hiện đầu



V
ận
hành
các kết
quả đầu



Ý đồ về
dự án
mới

1.2.5 Các nguồn tài trợ dự án:
Các phương án tài trợ cho dự án thông thường bao gồm tài trợ bằng vốn chủ sở hữu, tài
trợ bằng nợ, tài trợ bằng leasing hoặc kết hợp tài trợ bởi các hình thức trên. Mỗi hình thức tài
trợ đều có những đặc trưng riêng cũng như lợi thế và bất lợi cho các chủ đầu tư. Hơn nữa, quá
trình xác định dòng tiền và lãi suất chiết khấu không được tiến hành một cách độc lập với
phân tích bản chất và phương thức tài trợ.
Hay nói cách khác, phương thức tài trợ sẽ chi phối việc xác định dòng tiền phù hợp
cũng như lựa chọn lãi xuất chiết khấu hợp lý để xác định giá trị hiện tại ròng( NPV) của dự
án.
1.3 Cho vay theo dự án đầu tư:
1.3.1 Khái niệm hoạt động cho vay theo dự án đầu tư.
Cho vay theo dự án đầu tư là phương thức cho vay trong đó “ tổ chức tín dụng cho
khách hàng vay vốn để thực hiệ dự án đầu tư sản xuất kinh doanh dịch vụ phục vụ đời sống”.
Với hình thức tín dụng này, chủ đầu tư dự án là khách hàng, các chi phí của dự án là đối
tượng cho vay. Khi thực hiện cho vay theo dự án, những vấn đề ngân hàng và cán bộ tín dụng
quan tâm nhất là:
 Vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án: Cho vay theo dự án thư thường là với thời gian
dài, rủi ro cao. Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro, ngoài việc quy định tài sản đảm bảo, ngân hàng

cho vay còn quy định khách hàng phải có vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án. Tỷ lệ vốn chủ
sở hữu tham gia vào dự án cao hay thấp tùy thuộc vào độ rủi ro và hiệu quả của dự án. Hiện

nay, một số NHTM Việt Nam quy định mức vốn chủ sở hữu của khách hàng tham gia vào dự
án là:
 Tối thiểu 10% tổng mức vốn đầu tư với dự án cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất, hợp
lý hóa sản xuất.
 Tối thiểu 30% tổng mức vốn đầu tư (sau khi trừ vốn lưu động dự kiến) đối với dự án
xây mới.
 Tối thiểu 30% tổng mức vốn đầu tư (sau khi trừ phần vốn lưu động dự kiến trong tổng
mức vốn đầu tư) đối với dự án phục vụ đời sống.
 Thời hạn trả nợ và nguồn vốn trả nợ.
Thời hạn trả nợ vay phụ thuộc vào tính chất đặc điểm của dự án đầu tư. Nhưng thời hạn trả
nợ vay cũng có thể rút ngắn trong trường hợp hiệu quả của dự án mang lại cao. Việc trả nợ
trước hạn sẽ giúp ngân hàng thu được nợ chắc chắn, nhưng đôi khi ảnh hưởng tới kế hoạch sử
dụng vốn của ngân hàng. Nguồn trả nợ đối với khoản vay dự án được hình thành từ nhiều
nguồn, nhưng chủ yếu là nguồn khấu hao và một phần từ lợi nhuận của dự án.
 Giải ngân trong cho vay dự án: Khoản cho vay một dự án có thể được giải ngân một
lần (với dự án nhỏ) hoặc nhiều lần (với dự án lớn và dài hạn). trong trường hợp giải ngân
nhiều lần, ngân hàng không cho khách hàng rút vốn khi các nhu cầu chi tiêu trong các các dự
án chưa phát sinh, và nhằm đảm bảo cho các khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích.
Việc giải ngân có thể được tiến hành căn cứ vào tiến độ công việc hoàn thành của dự án.
 Lãi suất cho vay: Nhìn chung lãi suất cho vay theo dự án là lãi suất cho vay trung- dài
hạn nên cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Tùy thuộc vào thỏa thuận giữa ngân hàng và
khách hàng mà hợp đồng tín dụng quy định lãi suất thả nổi hay cố định. Việc thu tiền lãi có
thể thu hàng tháng, năm theo số dư nợ thực tế. Khách hàng có thể trả tiền lãi cùng nợ gốc tại
mỗi kỳ hạn trả nợ hoặc trả tiền lãi vào một ngày nào đó trong kỳ hạn theo thỏa thuận.
 Quy trình thủ tục cho vay và hoạt động thẩm định đơn giản , đảm bảo mức độ chính
xác cao: Hiệu quả nổi bật của cho vay theo dự án là giảm đáng kể khối lượng công việc cho
cán bộ tín dụng. Với hình thức cho vay theo hạn mức, ngoài công việc thẩm định cho món


vay năm đầu tiên, cán bộ tín dụng phải tái thẩm định cho các năm tiếp theo để đánh giá hạn
mức tín dụng hợp lý. Việc theo dõi hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp khách
hàng cũng phức tạp và kéo dài liên tục.
Trong khi đó với hoạt động cho vay theo dự án, công việc thẩm định chỉ tiến hành một
lần vào đầu dự án cho một dự án kéo dài nhiều năm. về cơ bản khâu thẩm định dự án cũng
không có nhiều khác biệt so với thẩm định tín dụng hạn mức cho năm đầu của hạn vay. Thậm
chí ở một khái cạnh nào đó thẩm định dự án còn phức tạp với khối lượng công việc lớn. Bên
cạnh những thông tin quan trọng của doanh nghiệp khách hàng như chứng nhận pháp lý, tình
hình tài chính, tài sản đảm bảo,… Thẩm định dự án còn phải tiến hành phân tích và dự báo
dòng tiền, tính toán các chỉ tiêu hiệu quả. Tuy nhiên, công việc phức tạp đó được hỗ trợ lớn về
mặt kỹ thuật. Với các phần mền thẩm định và quản lý dự án, khối lượng công việc của cán bộ
tín dụng được giảm đáng kể. Bên cạnh đó, việc áp dụng công nghệ hiện đại vào quy trình
thẩm định cũng đem lại kết quả chính xác hơn.
 Quản lý chặt chẽ tiến độ giải ngân, thu nợ gốc và lãi linh hoạt.
Khách hàng có sử dụng vốn vay đúng mục đích không? Nhu cầu vốn thực sự của khách
hàng là bao nhiêu? Đó vẫn luôn là những câu hỏi làm đau đầu cán bộ tín dụng. Với hình thức
cho vay theo hạn mức, cán bộ tín dụng rất khó theo dõi tiến độ hoạt động của doanh nghiệp.
Một dự án có sự tham gia của chủ dự án, ngân hàng với tư cách là nhà tài trợ và các cơ quan
quản lý nhà nước. Đồng thời tiến độ công việc luôn phải được báo cáo cụ thể và chi tiết.
Khoản vay chỉ được giải ngân khi có những chi phí liên quan tới những dự án nảy sinh. Toàn
bộ món vay có thể được giải ngân làm nhiều lần. Theo cơ chế đó, chủ đầu tư phải đảm bảo
món vay phải được sử dụng đúng mục đích và dự án đúng tiến độ mới có thể tiếp tục được
giải ngân.
 Phân biệt cho vay dự án và cho vay đầu tư vào TSCĐ
Cho vay dự án đầu tư là một mảng rất quan trọng trong lĩnh vực cho vay trung và dài hạn
các tổ chức, doanh nghiệp của các NHTM. Việc cho vay trung và dài hạn doanh nghiệp
thường được phục vụ cho 2 mục tiêu.

Thứ nhất, cho vay doanh nghiệp để đầu tư vào tài sản cố định. Tài sản này có thể là cơ

sở hạ tầng, nhà cửa, máy móc, vật kiến trúc, từ đó có thể mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng
cao năng xuất chất lượng sản phẩm. Thông thường cho vay doanh nghiệp để đầu tư vào tài
sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh có nhu cầu vốn không quá lớn, mặt khác thời gian
vay vốn thường là trung hạn, phù hợp với chu kỳ phát triển của một loại sản phẩm, khoảng từ
3- 5 năm.
Thứ hai, cho vay các doanh nghiệp để đầu tư vào một dự án. Đó là khi các doanh nghiệp
xây dựng một dự án kinh doanh có thời gian trung và dài hạn (thông thường các dự án có thời
gian từ 5 năm trở lên). Khi đó, nhu cầu về vốn đầu tư là tất yếu, ngoài việc sử dụng vốn tự có
của doanh nghiệp cũng như huy động từ các nguồn tài trợ góp vốn khác các doanh nghiệp
luôn có nhu cầu tìm các trung gian tài chính làm đối tác cho vay vốn trong thời gian đủ dài
của dự án với lãi suất phù hợp.
Quá trình cho vay dự án cũng giúp các NHTM gắn bó với chính tổ chức vay vốn thông
qua việc theo dõi, quá trình giải ngân theo từng gíai đoạn của dự án, và việc thu hồi lãi và gốc
vào các năm đến hạn.
1.3.2 Các hình thức cho vay theo dự án đầu tư:
 Cho vay trực tiếp ( cho vay toàn bộ )
Đây là hình thức đơn giản nhất trong cho vay dự án, đó là việc một NHTM có đủ tiềm năng
về vốn và không bị hạn chế hạn mức tín dụng đối với tổ chức cho vay, sau khi tiến hành thẩm
định dự án phù hợp, NHTM có khả năng bỏ hoàn toàn nguồn vốn của mình ra để trực tiếp cho
vay.Tất cả các công đoạn trong quá trình cho vay và việc giải ngân, thu nợ đều do NHTM
trực tiếp đứng ra thực hiện. Toàn bộ lãi suất thu được từ việc cho vay và những rủi ro có thể
xảy ra do cho vay đều thuộc NHTM cho vay vốn. Tuy nhiên, việc cho vay trực tiếp đòi hỏi
ngân hàng thương mại phải có đủ tiềm lực về vốn khi tiến hành cho vay, đặc biệt là các dự án
lớn, nhu cầu vốn cho vay nhiều. Việc cho vay phải bảo đảm khoản vay đó không vượt quá
15% vốn điều lệ của NHTM.
 Ủy thác cho vay:

Là việc bên ủy thác giao vốn cho bên nhận ủy thác thông qua hợp đồng ủy thác cho vay để
trực tiếp cho vay đến các đối tượng khách hàng, trong đó bên ủy thác trả phí ủy thác cho bên
nhận ủy thác.( Quyết định số 742/2002/QĐ- NHNN Quy định về ủy thác và nhận ủy thác cho

vay vốn của các tổ chứcc tín dụng)
 Đồng tài trợ:
Đồng tài trợ dự án của các tổ chức tín dụng lá quá trình cho vay- bảo lãnh của một nhóm cho
vay tổ chức tín dụng( Từ 2 trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối phối
hợp các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả trong hoạt động- sản
suất kinh doanh của doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng.( Quyết định 154/1998/QĐ- NHNN
về việc ban hành Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng)
1.3.3 Đặc điểm hoạt động cho vay theo dự án đầu tư:
Cho vay dự án đầu tư là một loại hình cho vay cơ bản của các tổ chức tín dụng trên thị
trường tài chính và có đặc điểm chung của nghiệp vụ cho vay.
Một là, có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang người sử dụng.
Người sỡ hữu vốn có thể là chính phủ, các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài. Họ là
những người có nguồn vốn chưa sử dụng và có nhu cầu cho vay vốn để lấy một phần lợi tức
do nguồn vốn đó mang lại.
Và bên vay là những tổ chức cá nhân có những dự án, kế hoạch sản xuất kinh doanh hiệu quả,
có khả năng sinh lời cao, tuy nhiên lại thiếu vốn để phục vụ cho mục đích đó. NHTM là trung
gian tài chính làm cầu nối cho các chủ thể trên gặp nhau. Họ đứng ra huy động các khoản tiền
tiết kiệm trong nền kinh tế, tập hợp lại và với những kinh nghiệm, chuyên môn của mình để
đứng ra cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu vay. Do đặc thù riêng biệt và chuyên nghiệp này,
NHTM sẽ thu một phần lợi nhuận nhờ sự chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho
vay phần vốn đó.
Hai là, sự chuyển nhượng trong hoạt động cho vay là có thời hạn. Thời hạn có thể ngắn
hoặc dài tùy vào nhu cầu của ngườì vay, chính sách cho vay và khả năng cho vay của bản thân
NHTM. Việc xác định thời hạn của vốn vay giúp ngân hàng hoạch định được chính sách cho

vay vốn của mình, từ sự dịch chuyển của luồng tiền cho vay, lãi suất và các biện pháp thu hồi
nợ đối với người vay.
Ba là, sự chuyển nhượng quyền sự dụng vốn này có kèm theo chi phí. Chi phí đó chính
là lãi suất cho vay.Bất cứ một khoản cho vay nào của các NHTM đều phải có một lãi suẩt cho
vay nhất định.Lãi suất phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, đó là đối tượng khách hàng, giá

trị khoản vay, thời hạn của khoản vay, khả năng trả nợ của người vay cũng như những biến
động của nền kinh tế. Và đương nhiên, lãi suất đó cũng sẽ phải đảm bảo là đem lại nguồn thu
cho Ngân hàng lớn hơn khoản chi phí huy động mà Ngân hàng phải bỏ ra.
Vậy khi ta đứng trên giác độ của loại hình cho vay theo đầu tư thì khoản cho vay này có
những đặc trưng riêng nổi bật nào?
Thứ nhất, lượng vốn ban đầu để đầu tư cho dự án là rất lớn, do đó chủ đầu tư dự án phải
huy động từ nhiều nguồn vốn, trong đó nguồn tài trợ từ cho vay dự án của các NHTM là rất
quan trọng. Tuy nhiên, NHTM không tài trợ toàn bộ vốn đầu tư mà yêu cầu chủ đầu tư phải
có lượng vốn tự có với một tỷ lệ nhất định, và đồng thời căn cứ vào các thông tin dữ liệu về
dự án để xác định mức cho vay hợp lý đối với từng dự án cụ thể. Khối lượng vốn Ngân hàng
tài trợ cho dự án được xác định theo nguyên tắc sau đây:
Số tiền cho vay = Nhu cầu vốn đầu tư – VCSH tham gia vào dự án – các vốn khác
Thứ hai, ta biết mức lãi suất cho vay theo đầu tư cao và thực hiện phân tích trước khi
cho vay cũng như quản lý khoản vay chặt chẽ hơn. Thời hạn cho vay của dự án thường kéo
dài nhiều năm, chủ yếu là các khoản cho vay trung và dài hạn. Đặc tính của dự án là cần một
lượng vốn đầu tư lớn, được thực hiện trong khoảng thời gian dài. Như thế, hoạt động cho vay
theo dự án có tiềm ẩn rủi ro cao. Vì vậy, các Ngân hàng đòi hỏi một mức lãi suất cho vay cao
và chặt chẽ để bù đắp và hạn chế rủi ro.
Một dự án được lập và phân tích kỹ đến đâu vẫn thể hiện tính chủ quan của phía chủ
đầu tư, khi quyết định đầu tư vàp dự án bao giờ chủ đầu tư cũng có cái nhìn lạc quan hơn đối
với dự án, vì vậy hồ sơ dự án có thể không đánh giá hết các khía cạnh liên quan đến dự án

như các thông tin số liệu trong luận chứng kỹ thuật, các yếu tố chi phí, lợi nhuận, không dự
báo hết các vấn đề trong dài hạn, … Hơn nữa, trong hoạt động Ngân hàng nhiều lúc xảy ra
tình trạng thông tin không cân xứng, do đó những thông tin về dự án mà khách hàng cung cấp
không phải lúc nào cũng chính xác.
Nguyên tắc cho vay của NHTM là phải dựa trên các dự án có hiệu quả, vì sự thất bại của
dự án sẽ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ, tác động tiêu cực trực tiếp đến hoạt động kinh doanh
của bản thân Ngân hàng cho vay, không chỉ đơn thuần làm giảm lợi nhuận. Mà còn làm giảm
khả năng thanh toán của Ngân hàng. Nếu nghiêm trọng và hiện tượng xảy ra hàng loạt sẽ tác

động xấu đến cả hệ thống, không loại trừ tình trạng khủng hoảng cả hệ thống Ngân hàng.
Nhận thức tầm quan trọng của sự thất bại, đứng trên giác độ là nhà tài trợ, các NHTM trước
hết phải thẩm định dự án đầu tư một cách nghiêm túc, có quyết định chính xác theo quan điểm
của mình liệu dự án có kết quả kinh tế hay không, và có khả năng trả nợ đúng hạn hay không
và từ đó đưa ra các quyết định cho vay chính xác.
1.3.4 Quy trình cho vay theo dự án đầu tư.
Quy trình cho vay theo dự án đầu tư bao gồm các bước sau:
 Bước 1: Khách hàng gửi hồ sơ vay vốn tới ngân hàng. Bộ hồ sơ vay vốn gồm: Giấy đề
nghị vay vốn (theo mẫu), hồ sơ pháp lý, hồ sơ kinh tế (chứng minh khả năng tài chính của
khách hàng), hồ sơ về khoản vay (phương án sử dụng vốn vay), hồ sơ về đảm bảo tiền vay
(nếu vay có đảm bảo bằng tài sản).
 Bước 2: Thu thập thông tin, đánh giá khách hàng và thẩm định dự án.
Việc chấp nhận hay từ chối cho vay một dự án của khách hàng phải dựa vào kết quả
thẩm định của dự án. Cán bộ tín dụng dựa vào hồ sơ phương án kinh doanh sự dụng vốn vay
của khách hàng để tiến hành thẩm định dự án. Trong quá trình thẩm định, ngoài các vấn đề
cần thẩm định về mục tiêu dự án, thẩm định kỹ thuật, thẩm định công nghệ; mối quan tâm lớn
nhất của cán bộ tín dụng là các chỉ tiêu thẩm định tài chính dự án. Các tỷ số phân tích tài
chính dự án rất đa dạng, đi từ đơn giản tới phức tạp, trong đó phổ biến nhất là các tỷ số:

Vốn đầu tư dự án
Tỷ suất lợi nhuận giản đơn( ROI) =
Lợi nhuận sau thuế hàng năm

ROI cho biết một đồng vốn đầu tư cho dự án có được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế
hàng năm. ROI là chỉ số phản ánh khả năng sinh lời của dự án. Ưu điểm của chỉ số này là đơn
giản, dễ tính và dễ so sánh. Tuy nhiên, ROI đã bỏ qua giá trị thời gian của tiền và không phản
ánh được khả năng sinh lời của cả vòng đời dự án.
Tổng vốn vay
Thời gian thu hồi =
vốn vay Khấu hao TSCĐ + Lợi nhuận dự án +Nguồn khác

hthành từ vốn vay dùng trả nợ dùng trả nợ

Chỉ số này cho nhà đầu tư và cán bộ tín dụng biết trung bình sau bao nhiêu năm thì dự án
trả hết vốn vay. Các đại lượng trong công thức là các giá trị trung bình năm mang tính đại
diện, vì vậy cũng không phản ánh một cách chính xác thời gian thu hồi vốn trong suốt vòng
đời dự án. Chỉ tiêu này thực hiện theo phương pháp thẩm định sử dụng các chỉ tiêu giản đơn,
bỏ qua giá trị thời gian của tiền. Để nâng cao tính chính xác cho công việc thẩm định, các chỉ
tiêu phức tạp hơn tính bằng giá trị hiện tại được sử dụng: NPV và IRR.
NPV =




n
i
i
i
CF
k
CF
1
0
)1(


NPV- Giá trị hiện tại ròng – Là chênh lệch giữa tổng giá trị hiện tại của các dòng tiền thu
được trong tương lai với tổng vốn đầu tư bỏ ra được hiện tại hóa. NPV phản ánh giá trị tăng

thêm cho chủ đầu tư, một dự án có NPV dương là có tính khả thi. NPV là một chỉ tiêu quan
trọng giúp chủ đầu tư ra quyết định có đầu tư vào dự án hay không, đồng thời cũng giúp cán

bộ tín dụng xác định những dòng tiền đi vào doanh nghiệp trong tương lai có đủ đảm bảo trả
nợ hay không. NPV là một chỉ tiêu tương đối hoàn thiện, phản ánh giá trị tăng thêm cho cả
vòng đời của dự án. Tuy nhiên, NPV chỉ phản ánh được quy mô tăng thêm tuyệt đối chứ chưa
phản ánh được phần giá trị gia tăng tương đối. Nhược điểm của NPV được khắc bằng cách
khắc phục chỉ tiêu tỷ suất hoàn vốn nội bộ -IRR.
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ - IRR phản ánh tỷ suất hoàn vốn của dự án, dựa trên giả định
của các dòng tiền thu được trong cả năm được tái đầu tư với lãi suất bằng lãi suất chiết khấu.
IRR chính là trường hợp đặc biệt cuả lãi suất chiết khấu khi NPV bằng không. IRR khắc phục
được nhược điểm của NPV ở chỗ có thể so sánh được các dự án có thời gian khác nhau hay
vốn đầu tư khác nhau: IRR thể hiện tỷ suất sinh lời bình quân hàng năm của dự án. Thông
thường hai chỉ tiêu NPV và IRR thường được sử dụng kết hợp, bổ trợ cho nhau để cán bộ
thẩm định có thể đưa ra được những kết luận chính xác nhất. Sau khi thẩm định khách hàng
vay vốn của dự án, cán bộ tín dụng phải đưa ra được những kết luận về tình hình tài chính của
khách hàng, tính khả thi của dự án, mức độ đáp ứng các điều kiện của tài sản đảm bảo (nếu
cho vay đảm bảo bằng tài sản), từ đó đưa ra ý kiến đề suất:
 Đề nghị duyệt cho vay /không duyệt cho vay và nêu rõ lý do.
 Phương thức cho vay.
 Số tiền cho vay cao nhất.
 Thời hạn cho vay.
 Lãi suất cho vay.
 Cách thức trả nợ gốc, lãi vay.
 Bước 3: Ký hợp đồng tín dụng. Sau khi đã có sự phê duyệt của cấp có thẩm quyền,
ngân hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và hợp đồng đảm bảo tiền vay ( nếu có).

 Bước 4 :Thực hiện hợp đồng. Hợp đồng tín dụng được thực hiện trước hết bằng việc
giải ngân, khách hàng rút tiền vay cũng phải xuất trình các chứng từ theo luật định. Thông
thường, ngân hàng sẽ mở tài khoản cho vay để ghi chép số tiền vay phát ra, đồng thời lập giấy
nhận nợ.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, khâu thu nợ gốc và lãi vay chiếm vị trí rất
quan trọng. Dựa vào thời hạn nợ đã thỏa thuận, khách hàng chủ động trả nợ khi đến hạn ( gồm

cả nợ gốc và lãi vay)
1.4. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động cho vay theo dự án
Để đánh giá một vấn đề chúng ta có rất nhiều quan điểm, nhiều giác độ nhìn nhận. Vậy
để đánh giá chất lượng hoạt động cho vay theo dự án bài viết phân loại theo nhóm một cách
tương đối là:
Nhóm chỉ tiêu 1: Quy mô, hình thức cho vay.
Nhóm chỉ tiêu 2: Tính an toàn và khả năng sinh lời của dự án.
Nhóm chỉ tiêu 3: Mở rộng đối tượng cho vay
1.4.1 Nhóm chỉ tiêu 1: Quy mô, hình thức cho vay.
1.4.1.1 Doanh số cho vay, dư nợ cho vay và số lượng dự án.
Quy mô tín dụng nói chung và quy mô cho vay nói riêng trước hết thể hiện ở doanh số
cho vay và dư nợ cho vay. Trong cho vay theo dự án, doanh số cho vay là giá trị những món
vay Ngân hàng cho doanh nghiệp vay. Hiểu đơn giản, doanh số cho vay là con số tuyệt đối
trong hợp đồng tín dụng ký kết giữa Ngân hàng và khách hàng. Tránh nhầm lẫn doanh số cho
vay với tổng đầu tư của dự án. Trong cơ cấu vốn đầu tư của dự án có thể có nhiều nguồn tài
trợ khác ngoài vốn vay Ngân hàng. Để xác định chính xác doanh số cho vay cần dựa vào hợp
đồng tín dụng giữa Ngân hàng và chủ đầu tư. Nếu như doanh số cho vay được xác định vào
thời điểm bắt đầu dự án thì khoảng thời gian tiếp theo khi chủ đầu tư thực hiện trả nợ gốc vã
lãi vay lại ảnh hưởng tới dư nợ cho vay của Ngân hàng. Dư nợ cho vay là số tiền vay mà

khách hàng còn phải trả nằm trong kế hoạch trả nợ của dự án. Như vậy, rõ ràng dự án lớn với
vốn đầu tư lớn không thể tương ứng với doanh số cho vay và dư nợ cho vay nhỏ. Nhìn chung
doanh số cho vay và dư nợ cho vay là những tiêu chí thông dụng nhất đánh giá quy mô cho
vay của Ngân hàng. Bên cạnh đó, số lượng dự án cũng là một tiêu chí hiệu quả đánh giá cho
vay theo dự án.
Các chỉ tiêu doanh số cho vay, dư nợ cho vay hay số lượng dự án chỉ phản ánh những
con số tuyệt đối về quy mô cho vay. Để có được kết luận logic và chính xác hơn, loại hình tổ
chức của Ngân hàng cần được phân tích với những chỉ tiêu như: thẩm quyền quyết định cho
vay của chi nhánh, nguồn vốn huy động của Ngân hàng, quy mô tổng tài sản, quy mô vốn chủ
sở hữu….Không thể sự dụng các con số tuyệt đối về dư nợ cho vay của Ngân hàng quốc

doanh với tiềm lực nguồn vốn cực lớn với NHTM cổ phần. Hoặc không thể so sánh doanh số
cho vay của một chi nhánh của thành phố với chi nhánh tỉnh lẻ. Việc kết hợp các nhân tố khác
sẽ đánh giá chính xác hơn cả về quy mô và tiềm năng cho vay của Ngân hàng.
1.4.1.2 Không gian tín dụng:
Món vay đó được thực hiện trên quy mô khu vực hay quy mô toàn cầu? Điều này phụ
thuộc rất lớn vào quy mô của dự án mà ngân hàng tài trợ trong quá trình mở rộng cho vay.
Nếu dự án được thực hiện là một dự án đa quốc gia hoặc liên kết giữa các chính phủ đó là quy
mô toàn cầu. Tuy nhiên, một dự án tầm cỡ quốc gia hay dự án nghành chỉ thực hiện ở quy mô
khu vực. Thậm chí với các dự án của các khách hàng doanh nghiệp hoặc tư nhân thì dự án chỉ
được thực hiện tại một địa điểm cụ thể. Tới đây có thể sẽ nảy sinh một câu hỏi: Ngân hàng
nhỏ, thậm chí chỉ là một chi nhánh có khả năng thực hiện các dự án tầm cỡ quốc tế hay quốc
gia không. Câu trả lời là CÓ. Với các dự án quy mô quốc tế, dự án thường sẽ được chia làm
các gói thầu nhỏ, và khi đó các ngân hàng/chi nhánh có thẻ thực hiện nghiệp vụ giải ngân
nguồn vốn quốc tế hoặc nguồn vốn chính phủ. Trong những trường hợp đó, ngân hàng đã mở
rộng đáng kể hoạt động tín dụng của mình: đó là kinh nghiệm quản lý nguồn vốn lớn, tiếp cận

với các dự án khổng lồ và xây dựng mối quan hệ với các tổ chức quốc tế. Mục đích của hoạt
động tín dụng không chỉ vì lợi nhuận, mà vì mục tiêu chung của NHTM.
1.4.1.3 Khả năng bao quát của món vay tới các nghành, các thành phần kinh tế.
Vấn đề cần quan tâm ở đây là khách hàng thuộc thành phần kinh tế nào, hoạt động
trong lĩnh vực nào. Điều này cũng không tách rời quy mô của dự án. Những dự án lớn lại
thường có sự tham gia của thành phần kinh tế Nhà nước. Đó dường như là một điều đi ngược
lại xu thế cổ phần hoá ào ạt hiện nay và sự can thiệp thô bạo của các công ty đa quốc gia vào
các nền kinh tế. Các dự án với sự xuất hiện của Chính phủ dù dưới hình thức nào đi nữa (có
thể trực tiếp, nhưng cũng có thể là một công ty nhà nước) - thường đi kèm với một sự đảm
bảo của Chính phủ - là những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng những dự án phát triển dân cư
hay nền kinh tế vì mục tiêu lợi ích xã hội hơn là mục tiêu kinh tế. Ngược lại những dự án do
các công ty đa quốc gia thực hiện lại có mục tiêu kinh tế rõ ràng và thuộc lĩnh vực kinh tế.
Cũng giống như các hình thức cho vay khác, cho vay theo dự án cũng có hai hình thức thông
thường và ưu đãi. Cho vay các dự án của doanh nghiệp hoặc tư nhân thường được thực hiện

thường được thực hiện theo hình thức thông thường với các điều khoản khắt khe về tài sản
đản bảo, lãi vay, thời hạn trả nợ, thời gian ân hạn,…Các dự án quy mô nghành hoặc quốc gia
với sự tham gia của chính phủ hay các tổ chức quốc tế, lại thường có sự ưu đãi. Đó là vì mục
đích lợi ích xã hội của các dự án này: các chương trình điện- đường- trường- trạm, các
chương trình phát triển nông thôn, các chương trình trồng rừng… Trong hình thức cho vay ưu
đãi vấn đề lãi suất dành được sự quan tâm đặc biệt, vì có liên quan trực tiếp tới thu nhập của
ngân hàng. Tuy nhiên, nếu như ngân hàng chỉ thực hiện một hình thức cho vay điều đó không
có nghĩa hoạt động tín dụng không được mở rộng có thể quy mô tín dụng vẫn tăng, nhưng
nếu chỉ tập trung vào một hình thức nào đó, ngân hàng sẽ không tối đa được lợi ích của mình.
Ngân hàng thực hiện được càng nhiều hình thức cho vay dự án, điều đó cũng đồng nghĩa với
hoạt động tín dụng đang được mở rộng. Với hình thức cho vay thông thường có thể ngân hàng
sẽ thu được nhiều lãi vay hơn, nhưng quy mô dự án lại nhỏ hơn, và không có cơ hội tiếp cận
những nguồn vốn lớn. Với hình thức cho vay ưu đãi rõ ràng ngân hàng sẽ không thu được lãi

theo mong muốn. Mở rộng cho vay theo dự án cũng đòi hỏi phải có cơ cấu cho vay hợp lý
trong hình thức cho vay.
1.4.2. Tính an toàn và khả năng sinh lời của dự án
Như bất kỳ khoản cho vay nào khác, hai vấn đề ngân hàng quan tâm nhất khi tài trợ
một dự án là mức độ an toàn và khả năng sinh lời của món vay. Một dự án được coi là an toàn
với ngân hàng khi dự án đảm bảo có đủ dòng tiền vào để trả nợ gốc và lãi cho Ngân hàng. Có
nhiều biện pháp để đảm bảo an toàn cho một dự án, trong đó phổ biến nhất là ngân hàng yêu
cầu tài sản đảm bảo. Cũng có những dự án thuộc diện chính sách, ưu đãi không có tài sản đảm
bảo nhưng có được sự bảo lãnh của Chính phủ. Bên cạnh đó, lãi suất chovay là vấn đề ngân
hàng đặc biệt chú ý. Ngân hàng có thể cho vay với lãi suất cố định, lãi suất cho vay thả nổi
hoặc lãi suất cho vay ưu đăi. Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng thường phải chấp nhận
đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. Cho vay một dự án với mức rủi ro thấp ( ví dụ một dự án ưu
đãi của Chính phủ ) ngân hàng phải chấp nhận lãi suất cho vay thấp ( thông thường là lãi suất
ưu đãi ). Ngược lại, cho vay với các dự án rủ ro cao, mạo hiểm ngân hàng sẽ có được lợi tức
kỳ vọng cao
1.4.3. Mở rộng đối tượng cho vay

Theo đặc thù hình thức cho vay theo dự án là dự toán vốn đầu tư phức tạp, tham gia
vào một dự án có thể có vốn ngân sách nhà nước, vốn đầu tư nước ngoài hoặc vốn vay thương
mại. Không phải chỉ dự án nào có nguồn vốn vay thương mại mới có sự tham gia của NHTM.
Trong trường hợp đó NHTM cần tham gia với vai trò tài trợ, nguồn tài trợ có thể là nguồn huy
động trong dân cư, nguồn tiền gửi của doanh nghiệp. Tuy nhiên có những dự án NHTM đóng
vai trò giải ngân nguồn vốn ngân sách nhà nước hoặc vốn đầu tư nước ngoài. Khi đó ngân
hàng chỉ thu được phí trên số vốn giải ngân mà không thu được đồng lãi nào, nhưng cũng
không phải chịu rủi ro trong thanh toán. Trong hoạt động tín dụng, khi quy mô càng được mở
rộng ngân hàng có cơ hội tiếp cận với nhiều nguồn vốn hơn, tham gia vào nhiều dự án hơn. Vì

vậy có thể coi việc đa dạng hoá nguồn tài trợ cho dự án gắn liền với quá trình mở rộng hoạt
động cho vay theo dự án .
Đối tượng cho vay của một dự án không phải là một khách hàng, đó là các khoản chi phí
cần tài trợ bằng nguồn vốn vay của dự án đó. Quy mô của dự án – hay nói chính xác hơn là
quy mô của chi phí trong dự án đó - càng lớn thì quy một của món vay thương mại càng lớn.
Đó có thể là chi phí cho tài sản cố định của dự án, nhưng cũng có thể nhằm mục đích tài trợ
cho vốn lưu động: để mua nguyên vật liệu hay chi trả lương nhân công. Ngân hàng càng thực
hiện cho vay với nhiều dự án thuộc các nghành, các lĩnh vực khác nhau thì đối tượng cho vay
càng đa dạng.Tuy nhiên, sự đa dạng này không hẳn là tốt hoàn toàn cho ngân hàng. Bên cạnh
việc gia tăng quy mô vốn vay, ngân hàng phải đối mặt với khó khăn do phải có cán bộ chuyên
môn về quá nhiều nghành, nhiều lĩnh vực để có thể đưa ra các quyết định cho vay sáng suốt
với những đối tượng cho vay khác nhau.
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay theo dự án đầu tư.
1.5.1 Các nhân tố thuộc về ngân hàng:
Ngân hàng là chủ thể thực hiện hoạt động cho vay theo dự án, vì vậy nắm trong tay các
công cụ, biện pháp quản lý món vay đảm bảo tính an toàn và tính sinh lời. Nhìn chung, các
biện pháp này do ngân hàng nhà nước hay hội sở chính quy định cho toàn nghành hoặc toàn
hệ thống. Đó là các phương pháp, cách thực hiện mang tính hoạch định, định hướng. Việc
thực hiện cụ thể các quy định đó tương đối linh hoạt và tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng chi
nhánh từng khách hàng. Nổi bật trong các nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng là: điều kiện

cho vay, các hoạt động phòng ngừa rủi ro và quản lí lãi suất, hoạt động thẩm định dự án, hiệu
quả cho vay.
 Điều kiện cho vay
Khi thực hiện cho vay, NHTM luôn đưa ra những ràng buộc đối với khách hàng nhằm
mục tiêu đảm bảo an toàn cho món vay và đảm bảo ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi vay đúng
thời hạn và đủ số lượng. Trong hồ sơ vay vốn ngân hàng, bên cạnh giấy đề nghị vay vốn,

ngân hàng yêu cầu khách hàng có các giấy tờ chứng minh pháp lý, báo cáo chứng minh tình
hình tài chính, giấy tờ tài sản đảm bảo. Chỉ khi những giấy tờ đó đạt yêu cầu tín dụng của
ngân hàng, doanh nghiệp mới được vay vốn. Điều kiện vay vốn chính là công cụ của ngân
hàng để đảm bảo cho hoạt động tín dụng đạt mục tiêu chung của ngân hàng: tính sinh lời và
tính an toàn.
Các ngân hàng khác nhau với những cơ chế hoạt động khác nhau có mức độ khắt khe
trong điều kiện vay vốn khác nhau. Các NHTM nhà nước hoạt động theo cơ chế bao cấp cũ
thường có điều kiện vay vốn rất thoáng cho các doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó, các
NHTM cổ phần nhìn chung có điều kiện vay vốn chặt chẽ hơn vào những giai đoạn phát triển
khác nhau của nền kinh tế điều kiện vay vốn của ngân hàng cũng khác nhau. Khi nền kinh tế
đang tăng trưởng tốt, các doanh nghiệp hoạt động tốt và khả năng trả nợ cao ngân hàng hoàn
toàn có thể nới lỏng điều kiện vay vốn của mình. Trên thực tế NHTM nào áp dụng điều kiện
vay vốn lỏng hơn, những yêu cầu về tình hình tài chính hay tài sản đảm bảo ít khắt khe hơn có
nhiều cơ hội mở rộng tín dụng hơn. Ngược lại những ngân hàng thực hiện điều kiện vay vốn
quá khắt khe khiến cho các doanh nghiệp e dè trong việc lập hồ sơ vay vốn. Hơn thế nữa bản
thân các doanh nghiệp cũng không thoả mãn điều kiện vay vốn của các ngân hàng đó, hậu quả
tất yếu là ngân hàng rất khó mở rộng tín dụng.
 Phòng ngừa rủi ro của ngân hàng.
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro: rủi ro tín dụng,
rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động, rủi ro hối đoái. Ngân hàng có nhiều biện
pháp để chống lại các rủi ro nói trên và đảm bảo tình hình tài chính của mình: nâng cao năng
lực quản lí, đa dạng hoá, vốn chủ sở hữu.
 Nâng cao chất lượng quản lý: Công tác quản lý - năng lực trong điều hành ảnh hưởng

rất lớn tới khả năng xử lý rủi ro trước khi Ngân hàng bị tổn thất. Trong công tác quản lý chất
lượng nguồn nhân lực là vấn đề quan trọng. Khi ra quyết định cho vay với một dự án, cán bộ
thẩm định phải chịu hoàn toàn trách nhiệm của mình. Chỉ khi nào trình độ chuyên môn nghiệp

vụ của cán bộ thẩm định cao mới đảm bảo hầu hết rủi ro trong dự án đã được tính đến và
phòng ngừa hữu hiệu.
 Vốn chủ sở hữu: đây là biện pháp cuối cùng khi các phương pháp ngăn chặn, phòng
ngừa rủi ro không còn hiệu quả. Vốn chủ sở hữu được coi là tấm đệm an toàn cuối cùng cho
hoạt động tín dụng của ngân hàng. Trong quá trình hoạt động cho vay, ngân hàng cần phải
tăng thêm nguồn vốn chủ sở hữu, đảm bảo một tấm đệm chắc chắn cho những trường hợp xấu
nhất có thể xảy ra.
 Quản lý lãi suất
Lãi suất là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu tăng khả năng sinh lời của tín dụng
ngân hàng . Ngân hàng luôn phải thực hiện quản lý lãi suất chi trả và quản lý lãi suất tín dụng.
Quản lý lãi suất chi trả là xác định các loại và cơ cấu lãi suất trả cho các nguồn tiền khác nhau
nhằm đảm bảo duy trì quy mô và kết cấu nguồn phù hợp với yêu cầu sinh lợi của ngân hàng.
Lãi suất chi trả càng cao, ngân hàng càng có thể huy động được nhiều vốn, từ đó mà có thể
mở rộng hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, lãi suất cao làm gia tăng chi phí của ngân hàng và
nếu doanh thu không tăng kịp chi phí, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm tương ứng. Vì vậy
quản lý lãi suất nguồn vốn có liên quan chặt chẽ tới quản lý lãi suất cho vay và đầu tư của
ngân hàng.
Mục tiêu của quản lý lãi suất cho vay và đầu tư nói riêng và mục tiêu quản lý tài sản nói
chung của ngân hàng là tối đa hoá lợi ích trên cơ sở đảm bảo an toàn. Khi ngân hàng quy định
lãi suất cho vay và đầu tư cao, ngân hàng thực hiện được mục tiêu tăng khả năng sinh lời. Tuy
nhiên cùng với các khoản cho vay hay đầu tư lãi suất cao đó là những rủi ro tiềm tàng mà cán
bộ tín dụng khó có thể đánh giá hết được. Ngược lại, nếu ngân hàng quy định lãi suất cho vay
thấp thì có thể thực hiện được các chỉ tiêu kế hoạch đề ra về tín dụng khi cho vay nhiều dự án
hơn. Nhưng với lãi suất thấp doanh thu của ngân hàng có đủ bù đắp những chi phí lãi suất và
chi phí ngoài lãi khác để đảm bảo cho ngân hàng có lợi nhuận không?
 Hiệu quả của quá trình mở rộng cho vay


Mở rộng hoạt động cho vay theo dự án là phát triển chiều rộng hoạt động tín dụng cua
NHTM. Quá trình này gắn liền với phát triển chiều sâu: đạt hiệu quả tín dụng nói riêng và
hiệu quả của dự án nói chung. Ngân hàng quan tâm về hiệu quả đầu tư tín dụng, trong khi chủ
đầu tư và các cơ quan quản lý Nhà nước quan tâm tơi hiệu quả kinh tế xã hội của dự án. Hoạt
động mở rộng tín dụng chỉ được đánh giá là thành công khi đạt hiệu quả trên hai góc độ này.
 Hiệu quả tín dụng của ngân hàng: như đã phân tích ở mục 1.4.2.
 Hiệu quả kinh tế xã hội: Mặc dù đây dường như là mối quan tâm hàng đầu của các cơ
quan quản lý Nhà nước, tuy nhiên nó cũng không nằm ngoài tầm quan sát của chủ đầu tư và
ngân hàng. Chủ đầu tư quan tâm nhất tới khả năng sinh lời của dự án. Tuy nhiên, để có thể đạt
được lợi tức kỳ vọng, trước hết dự án phải có tính khả thi và được cơ quan quản lý nhà nước
phê duyệt. Cùng mối quan tâm đó, trong tờ trình thẩm định dự án của cán bộ tín dụng ngân
hàng luôn có đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của dự án. Đặc biệt, trên thực tế những dự án có
quy mô lớn lại là những dự án mang tính chiến lược, với sự tham gia của Chính phủ hay các
tổ chức phi chính phủ và hiệu quả kinh tế xã hội là mục tiêu lớn nhất của dự án này.
 Hoạt động thẩm định.
Khi mở rộng cho vay, cùng với sự tăng lên về quy mô vốn vay ngân hàng luôn phải đối
mặt với nguy cơ rủi ro tăng cao. Việc mở rộng cho vay phải được xây dựng trên cơ sở nâng
cao sự an toàn cho ngân hàng. Để thực hiện điều đó, chất lượng hoạt động thẩm định là chiếc
chìa khoá dẫn tới thành công cho ngân hàng. Chất lượng hoạt động thẩm định là yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp tới hiệu quả của mở rộng cho vay,do đó ảnh hưởng tới mở rộng cho vay. Hoạt
động cho vay được xây dựng trên cơ sở chất lượng thẩm định tốt sẽ có tính bền vững và mức
độ an toàn cao. Ngược lại, nếu hoạt động thẩm định không hiệu quả, viêc mở rộng cho vay sẽ
phải đối mặt với nguy cơ rủi ro tiềm tàng rất lớn. Nhìn chung, hoạt động thẩm định là yếu tố
ảnh hưởng trực tiếp và rõ ràng nhất tới chất lượng và hiệu quả của quá trình mở rộng cho vay.
Nâng cao chất lượng phải đi cùng mở rộng và phải đặt trong mối quan hệ tổng thể phát
triển chung của ngân hàng mới có sự phát triển toàn diện.
1.5.2 Các nhân tố ngoài Ngân hàng.

×