Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn tại Chi nhánh Đông Đô - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (574.9 KB, 45 trang )






LUẬN VĂN:

Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay trung và
dài hạn tại Chi nhánh Đông Đô - Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam









lời mở đầu

Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN, cùng với công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì nền
kinh tế đất nước cần phải được tăng trưởng và phát triển. Để làm được điều đó cần có một
đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng nhằm giúp cho ngân hàng có quyết định đúng đắn
trong hoạt động cho vay của ngân hàng, giúp ngân hàng thu được lợi nhuận và giảm rủi
ro, đảm bảo đồng vốn cho vay phát huy được hiệu quả kinh tế - xã hội.
Tại Chi nhánh Đông Đô - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, công tác tín
dụng có vai trò rất quan trọng, không chỉ trực tiếp tác động đến sự sống còn của hoạt
động kinh doanh tại Chi nhánh mà còn tác động gián tiếp tới sự phát triển của đất nước.


Do đó trong những năm gần đây, công tác tín dụng tại Chi nhánh Đông Đô - NHĐT & PT
Việt Nam được chú trọng, không ngừng phát triển và đã đạt được nhiều thành công.
Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, sau thời gian thực tập, tìm hiểu thực tế tại Chi
nhánh Đông Đô -NHĐT&PT Việt Nam em nhận thấy mục đích nghiên cứu của đề tài là
nhằm hệ thống hoá những lý luận cơ bản về công tác tìn dụng trung và dài hạn. Việc đánh
giá chất lượng công tác tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Đông Đô - NHĐT&PT
Việt Nam nhằm rút ra những kết quả, những hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân đưa
đến hạn chế đó. Từ đó, đưa ra một số giải pháp và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn. tại NHTM nói chung và tại - Chi nhánh Đông
Đô - HĐT&PT Việt Nam nói riêng.
Khoá luận tập trung nghiên cứu các vấn đề có liên quan tới công tác tín dụng trung
và dài hạn Phạm vi nghiên cứu là công tác cho vay vốn trung và dài hạn tại Chi nhánh
Đông Đô - NHĐT&PT Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận sử dụng các phương pháp như: phương
pháp phân tích, luận giải, phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng để phân tích, đánh
giá, rút ra kết luận và những đề xuất chủ yếu. Là một sinh viên sắp tốt nghiệp trong giai
đoạn này của đất nước, với những kiến thức đã được học tập tại trường và mong muốn
được góp phần nhỏ bé của mình vào viêc giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay trong
hoạt động này của ngành ngân hàng. Vì vậy, em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao

chất lượng cho vay trung và dài hạn tại Chi nhánh Đông Đô - Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Việt Nam” để nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề được trình bày theo bố cục như sau:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về cho vay trung và dài hạn tại các ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng cho vay trung và dài hạn tại Chi nhánh Đông Đô - Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động cho vay trung và dài hạn tại
Chi nhánh Đông Đô - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.


chương1
Một số vấn đề cơ bản về chất lượng cho vay trung và dài hạn tại các ngân hàng
thương mại
1.1. Hoạt động cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại:
1.1.1. Khái niệm:
Cho vay ( Tín dụng ) là hình thức quan hệ giữa hai đối tượng : người đi vay và người
cho vay, trong đó người cho vay nhượng lại quyền sử dụng vốn cho người đi vay dựa trên
sự tín nhiệm và theo nguyên tắc có hoàn trả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Sự
hoàn trả này không chỉ bảo tồn về mặt giá trị , mà vốn tín dụng còn được tăng thêm dưới
hình thức lợi tức, ở đây quá trình vận động mang tính chất hoàn trả của tín dụng là biểu
hiện đặc trưng nhất về sự khác biệt giữa tín dụng và hình thức kinh tế khác.
Tín dụng đã xuất hiện từ khi xã hội có phân công lao động sản xuất và trao đổi
hàng hoá. Trong quá trình trao đổi hàng hoá đã hình thành những quan hệ vay mượn lẫn
nhau để thanh toán. Thời kì chiếm hữu nô lệ xuất hiện sự tư hữu dẫn đến sự ra đời của
quan hệ vay mượn nặng lãi. Cho vay nặng lãi nhằm mục đính thoả mãn nhu cầu tiêu dùng
của người đi vay, chưa có tác dụng phục vụ cho sản xuất. Hình thức biểu hiện của vốn
trong quan hệ cho vay nặng lãi là rất đa dạng, ví dụ: cho vay bằng tiền thu nợ bằng tiền,
cho vay bằng tiền thu nợ bằng hiện vật… Đặc điểm nổi bật của cho vay nặng lãi là lãi
xuất vay rất cao và chưa có sự quy định chung. Chủ nghĩa tư bản ra đời đẩy lùi quan hệ
cho vay nặng lãi, tuy nhiên nó vẫn chưa bị thủ tiêu mà vẫn tồn tại ở hàng thứ yếu. Trong
nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá. Các chủ thể kinh tế
phải tự kiếm nguồn vốn trên thị trường và tự chủ trong việc sử dụng nguồn vốn đó. Tuy
nhiên không phải khi nào nhu cầu về vốn tiền tệ cũng đảm bảo nghĩa là nhu cầu giao lưu
vốn xuất hiện, nhu cầu này từ phía những người cần vốn và những người có vốn. Những
người cần vốn là những xí nghiệp, các hộ gia đình, chính phủ và các tổ chức kinh tế – xã
hội, đây cũng là người có khả năng cung cấp vốn. Có thể nói nhờ quan hệ cho vay đã góp
phần thúc đẩy quy mô tái sản xuất mở rộng, tăng nhanh vòng quay vốn tư bản. Có 2 hình
thức cho vay là cho vay trực tiếp và cho vay thông qua các trung gian tài chính. Bên canh
ưu điểm là chi phí thấp thì cho vay trực tiếp vẫn còn tồn tại những nhược điểm lớn:
- Thứ nhất là sự hạn chế về không gian địa lí.


- Thứ hai, giữa những người đi vay và người cho vay khó đạt được điểm chung về
quy mô và thời hạn của khoản vốn vay.
- Thứ ba, cho vay trực tiếp mang rủi ro cao do không có sự phân tán rủi ro.
Chính vì vậy cho vay thông qua các trung gian tai chính đặc biệt hoạt động cho
vay của các ngân hàng thương mại là rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Hoạt
động cho vay của các ngân hàng thương mại diễn ra bao gồm 2 đối tượng: một bên là
ngân hàng, một bên là các tổ chức khác hoặc dân cư.
Hoạt động cho vay của các ngân hàng mang bản chất chung của quan hệ vay
mượn, đó là có sự hoàn trả gốc và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng hai bên cùng có lọi có tính
chất thoả thuận lón. Điểm khác biệt giữa hoạt động cho vay của các ngân hàng và cho vay
trực tiếp là hoạt động cho vay của các ngân hàng không có sự dịch chuyển vốn trực tiếp
từ nơi có vốn đến nơi thiếu vốn mà có sự tham gia của ngân hàng. Hoạt động cho vay này
đã khắc phục được những hạn chế của cho vay trực tiếp, cung cấp lượng vốn lón cho nền
kinh tế đáp ứng mọi nhu cầu của các đơn vị xin vay về thời gian, địa điểm, quy mô va
thời hạn khoản vay.
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Để quản lí các
khoản cho vay các nhà ngân hàng phân loại các khoản cho vay theo nhiều tiêu thức khác
nhau như: mức độ tín nhiệm với khách hàng, đối tượng vay, mục đích sử dụng khoản vay,
hình thái giá trị của tín dụng… và theo một tiêu chí không thể thiếu được là thời gian
khoản vay.
Cho vay trung và dài hạn là một bộ phận của hoạt động cho vay tại các ngân hàng
được phân theo thời gian. Cho vay trung và dài han là cho vay có thời hạn trên 1 năm và
thời gian cho vay không quá thời gian khấu hao của tài sản hình thành từ vốn vay. Tuỳ
theo từng quốc gia mà thời hạn của khoản vay trung và dài hạn sẽ được quy định khác
nhau, ở Việt nam một khoản vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm được coi là trung hạn và
khoản vay có thời hạn 5 năm trở lên được coi là dài hạn. Cho vay trung hạn chủ yếu được
sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ và
mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi

vốn nhanh. Cho vay dài hạn nhằm đáp ứng những nhu cầu về vốn dài hạn như xây dựng
nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có giá trị lớn, các công trình có quy mô lớn

1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn
1.2.2.1. Nâng cao chất lượng cho vay trung và dài hạn là cần thiết để phát triển kinh tế
Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá, cho vay đã có những đóng góp đáng kể trong
việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để đẩy mạnh quá trình phát triển xã hội.
Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, cho vay cũng
ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp ứng nhu cầu
giao dịch hàng ngày càng tăng trong xã hội. Trong điều kiện đó, chất lượng cho vay ngày
càng được quan tâm, bởi lẽ:
Đảm bảo chất lượng cho vay là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm
thanh toán: khi chất lượng cho vay được đảm bảo sẽ tăng vong quay vốn cho vay, với một
lượng tiền như cũ có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền
trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng tiền.
Chất lượng cho vay góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh
tế, tăng uy tín quốc gia. Điều này xuất phát từ chức năng tạo tiền của ngân hàng thương
mại, thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, ngân
hàng thương mại có thể mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với số tiền thực có, hoặc vì
lí do nào đó, các chủ tài khoản có khả năng phát hành séc và thanh toán bằng các phương
tiện khác cho khách vượt quá số tiền gửi thực có, hay khi ngân hàng xử lý nghiệp vụ
thanh toán cho khách hàng đã cung cấp cho doanh nghiệp một khối lượng thanh toán
bằng cách ghi “có” trước ghi “nợ” sau. Như vậy, nghiệp vụ cho vay của ngân hàng
thương mại có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền trong lưu thông và là nguyên nhân
tiềm ẩn của lạm phát. Đảm bảo chất lượng cho vay sẽ tạo khả năng giảm bớt tiền thừa
trong lưu thông, góp phần hạn chế lạm phát ổn định tiền tệ, tăng uy tín quốc gia bằng việc
phát huy tác dụng của các sản phẩm, dịch vụ trong tương lai của các công trình đầu tư.
Hoat động cho vay là công cụ thực hiên chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát
triển kinh tế xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực. Mặt khác thông qua sự đánh giá phân
tích khả năng phát triển của các đối tượng định đầu tư để có những quyết định đúng đắn

nhằm khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên, lao động , tiền vốn…để tăng cường
năng lực sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động… Chất lượng cho vay trung và dài hạn được

nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa
các vùng, các ngành trong cả nước, ổn định và phát triển kinh tế.
Cho vay nói chung và cho vay trung và dài hạn nói riêng có quan hệ mật thiết với
nền kinh tế xã hội, thiết lập một mối cơ chế chính sách cho vay đồng bộ, có hiệu quả sẽ
có tác động tích cực tới mọi mặt của nền kinh tế xã hội, điều đó cũng thể hiện chất lượng
hoạt động cho vay trong nền kinh tế thị trường.
1.2.2.2. Nâng cao chất lượng cho vay quyết định sư tồn tại và phát triển của các ngân
hàng thương mại
Chất lượng cho vay trung và dài hạn làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ của các
ngân hàng thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng vòng quay vốn cho vay và thu
hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm, dịch vụ tạo ra một hình ảnh
tốt đẹp về biểu tương, uy tín của ngân hàng va sự trung thành của ngân hàng.
Chất lượng cho vay trung và dài hạn làm tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm,
dịch vụ ngân hàng do giảm được sự châm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí quản lý, các
chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn cho vay.
Chất lượng cho vay trung và dài hạn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận
của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh.
Chất lượng cho vay trung và dài hạn tao thuận lơi cho sư tồn tại lâu dài của ngân hàng
bởi vì chất lượng cho vay cho phép ngân hàng có những khách hàng trung thành và uy tín
đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Chất lượng cho vay sẽ củng cố thêm mối quan hệ
xã hội của ngân hàng và điều này là rất cần thiết ở các ngân hàng thương mại.
Với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng cho vay trung và dài
hạn là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của ngân hàng thương
mại. Và cũng chính vì vậy, chất lượng cho vay luôn luôn đòi hỏi sự cải tiến.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay trung và dài hạn
Chất lượng cho vay là một khái niệm vừa tương đối vừa trừu tượng mang nhiều

định tính. Để một phần đánh giá chỉ tiêu này, các nhà kinh tế nói chung và các nhà ngân
hàng nói riêng đã nghiên cứu và đưa ra một loạt các chỉ tiêu, mỗi chỉ tiêu phản ánh một
khía cạnh của chất lượng cho vay. Với hình thức cho vay trung và dài hạn ta có thể đánh
giá qua các chỉ tiêu sau đây:
1.2.3.1. Tỉ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn

Nợ quá hạn là khoản nợ mà thời gian tồn tại của nó vượt quá thời gian cho vay
theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng cộng với thời gian gia hạn thêm nếu khách
hàng yêu cầu. Chỉ tiêu tỉ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn cho thấy trong tổng dư nợ cho
vay trung và dài hạn có bao nhiêu % là nợ quá hạn.
Nợ quá hạn của cho vay trung và dài hạn
Tỉ lệ nợ quá hạn của cho =
vay trung và dài hạn(%) Tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn
Nợ quá hạn có thể chia làm hai loại:
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ mà người vay vốn có thể
tiếp tục trả nợ ngân hàng sau khi quá hạn. Lý do của những khoản nợ bị chậm trễ này có
thể là do ngân hàng định kì trả nợ chưa phù hợp, hoặc do sự thay đổi về cơ chế, luật pháp,
chính sách hoặc do những thay đổi trên thị trường, thiên tai, dịch hoạ … dẫn đến những
thay đổi trong môi trường kinh tế làm cho dòng ngân quỹ của khách hàng không ăn khớp
với thời hạn trả nợ đã định trước. Kết quả là khách hàng không có khả năng hoàn trả
khoản nợ đúng hạn nhưng vẫn có khả năng thanh toán khoản vay sau đó.
- Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: là những khoản nợ quá hạn mà ngân
hàng không có khả năng thu nợ từ người vay hoặc khả năng thu nợ là rất nhỏ. Nợ quá hạn
không có khả năng thu hồi xảy ra khi người vay lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ và mất khả
năng trả nợ, khi đó ngân hàng bị mất vốn. Chỉ tiêu này càng cao thì ảnh hưởng xấu đến uy
tín và trực tiếp ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng do nó ảnh hưởng tới
kế hoạch thu nợ của ngân hàng, tăng thêm chi phí quản lý cho ngân hàng. Tiêu chí này
càng nhỏ càng tốt.
Dư nợ quá hạn không có khả năng đòi
Tỷ lệ nợ quá hạn không =

có khả năng thu hồi (%) Tổng dư nợ quá hạn
Chỉ tiêu này phản ánh tỉ lệ bao nhiêu nợ quá hạn không có khả năng thu hồi trong
tổng số nợ quá hạn. Một ngân hàng có tỉ lệ nay càng cao thì phải dùng càng nhiều vốn từ
quỹ bù đắp rủi ro hoặc từ vốn tự có để bù đắp lại.
1.2.3.2. Chỉ tiêu lợi nhuận: chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của các khoản cho
vay trung và dài hạn.
Lợi nhuận cho vay trung và dài hạn

Chỉ tiêu lợi nhuận =
(%) Tổng dư nợ trung và dài hạn

Thông thường đối với một khoản cho vay trung và dài hạn thành công thì tỉ này rất
cao nhưng do các khoản cho vay trung và dài hạn có mức rủi ro cao (bao gồm rủi ro mất
vốn và rủi ro thanh khoản) nên phần lợi nhuận thu được nay phải trích một phần cho quỹ
bù đắp rủi ro. Vì vây chỉ tiêu lợi nhuận của các khoản cho vay trung và dài hạn là chỉ tiêu
rất quan trọng phản ánh chất lượng các khoản cho vay trung và dài hạn. Chỉ tiêu này càng
cao thì càng tốt.
1.2.3.3. Vòng quay vốn tín dụng
Chỉ tiêu này cho biết ngân hàng thu được bao nhiêu để có thể lại cho vay dự án
mới. Vòng quay của vốn càng tăng lên tức là ngân hàng cũng thu được nhiều nợ và càng
chứng tỏ rằng nguồn vốn trung và dài hạn mà ngân hàng đầu tư có hiệu quả.
Vòng quay vốn tín dụng = Error!
Ngoài ra, ở góc độ kinh tế xã hội, chúng ta có thể xem xét một số chỉ tiêu phản ánh
các giá trị gia tăng được tạo ra từ khoản cho vay của ngân hàng, đó là:
- Tổng số việc làm tạo ra từ các dự án có sử dụng cho vay trung và dài hạn.
- Tổng giá trị gia tăng được tạo ra từ doanh số cho vay của ngân hàng. Phần giá trị
gia tăng của một dự án có thể do nhiều nguồn vốn khác nhau của dự án tạo ra. Do đó, rất
khó để xác định đâu là phần giá trị gia tăng do khoản cho vay tao ra, đâu là phần gia tăng
do các nguồn vốn khác tạo ra. Tuy nhiên, có thể ước lượng một cách tương đối là tính
theo % vốn góp vào dự án từ khoản cho vay của ngân hàng.

Nhiều tác động khác của khoản cho vay của ngân hàng khó có thể đánh giá qua
các chỉ tiêu định lượng mà chỉ có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định tính như tác dụng của
cho vay trung và dài hạn với việc: đổi mới cơ cấu kinh tế xã hội, nâng cao trình độ nghề
nghiệp, tăng năng suất lao động xã hội…
1.2.4.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng:
a. Chính sách cho vay của ngân hàng:
Mỗi một ngân hàng thương mại đều xây dựng cho mình một chính sách cho vay
rieng dưới những hình thức khác nhau. Thông thường chính sách cho vay được thể hiện
dưới hình thức là một văn bản chính thức và một số văn bản ghi nhớ không chính thức.

Tuy nhiên, trong một số trường hợp chính sách cho vay chỉ có thể là chỉ thị bằng lời của
ban lãnh đạo ngân hàng hoặc là một tập hợp các hành vi, các thông lệ và những tập quán…
Đối với các ngân hàng thương mại ở Việt nam thì chính sách cho vay thường được
thể hiện dưới hình thức văn bản,trong đó đưa ra lý luận và khái niệm cơ bản của việc đầu
tư, cho vay. Văn bản này bao gồm các tiêu chuẩn, các hướng dẫn và các giới hạn để chỉ
đạo quy trình ra quyết định cho vay. Chính sách cho vay tạo cho người cán bộ tín dụng ý
thức về phương hướng và một khung tham chiếu xác định dể theo đó xem xét cân nhắc
một đon vị vay nhất định. Khi xây dựng chính sách cho vay, các nhà quản lý cần chú ý
nội dung của chính sách cần phù hợp với đường lối phát triển của chính phủ, đồng thời
đảm bảo kết hợp hài hoà quyền lợi của người gửi tiền, người đi vay và chính bản thân của
ngân hàng. Một chính sách cho vay tốt sẽ giúp cán bộ tín dụng có cơ sở vững chắc để đưa
những khoản cho vay an toàn hiệu quả,
b. Khả năng nguồn vốn:
Trong việc nâng cao chất lượng cho vay, nguồn vốn huy động đóng vai trò quan
trọng. Ngân hàng có nguồn vốn dồi dào sẽ tạo điều kiện cho việc tăng doanh số doanh số
cho vay. Mặt khác kì hạn của các khoản huy động vốn cũng ảnh hưởng rất lớn tới kì hạn,
doanh số và lợi nhuận từ các khoản cho vay. Nguồn huy động vốn bao gồm:
- Tiền gửi giao dịch.
- Tiền gửi phi giao dịch.
- Tiền đi vay.

- Vốn tự có của ngân hàng.
Với cho vay trung và dài hạn nguồn đáp ứng phải tương đối ổn định, lãi xuất phải
hợp lý để một măt cạnh tranh được với các ngân hàng khác một mặt đảm bảo các chi phí
và có lãi.
c. Quy trinh cho vay:
Quy trình cho vay bao gồm những quy định cần phải thực hiện trong quá trình cấp
vốn, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn cho vay, nó được bắt đầu từ khi điều tra, thẩm
định, thiết lập hồ sơ, xét duyệt cho vay, giải ngân, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay, thu
lãi cho đến khi thu hồi được nợ. Chất lượng cho vay có đảm bảo hay không tuỳ thuộc vào
thực hiện tốt các quy định ở từng bườc và sự phối hợp chặt chẽ, nhip nhàng giữa các bước
trong quy trình cho vay.

Trong quy trình cho vay bước điều tra thẩm định cho vay, thiết lập hồ sơ và xet
duyệt cho vay rất quan trọng, là cơ sở để định lượng rủi ro trong quá trình cho vay. Cho
vay trung và dài hạn được sử dụng để tài trợ cho việc thực hiện các dự án đầu tư lớn nên
thực chất công tác thẩm định là xem xét dự án đầu tư nhằm rút ra kết luận chính xác về
tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra của dự án để
ra quyết định cho vay hoặc từ chối, quyết định mức tiền cho vay, thời gian cho vay, mức
thu nợ hợp lý…giúp cho ngân hàng lựa chọn được phương án tót nhất. Có làm tốt công
tác thẩm định mới đảm bảo nguyên tắc quản lý tiền cho vay, bảo toàn và phát triển hoạt
động cho vay, tránh các rủi ro, tạo ra uy tín hoạt động của ngân hàng… mới có thể thu hút
được khách hàng, nhất là khách hàng xin vay vốn trung và dài hạn để đầu tư cho các dự
án xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục và ứng dụng khoa học công nghệ nhằm
mục tiêu thu lợi nhuận. Tiếp theo, bước kiểm tra quá trình cho vay giúp ngân hàng nắm
được nguyên nhân diễn biến của khoản cho vay đã cung cấp để có những hành động điều
chỉnh hoặc can thiệp khi cần thiết nhằm ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra.
Thu nợ, thu lãi và thanh lý nợ là khâu có tính quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng,
do đó ngân hàng phải tích cực trong công tác thu lãi, thu nợ. Sự nhạy bén của ngân hàng
thông qua việc thu lãi, thu nợ để phát hiện kịp thời những hiện tượng bất thường đối với
mỗi món vay cùng với biên pháp xử lý chính xác, đúng lúc sẽ giảm thiểu các khoản nợ

quá hạn và điều đó sẽ có tác động tích cực tới chất lượng cho vay.
d. Chất lưọmg nhân sự:
Nhiệm vụ cụ thể của một cán bộ tín dụng phải thực hiện phụ thuộc vào quy mô và tổ
chức nhân sự của ngân hàng, ở một ngân hàng thương mại lớn, cán bộ tín dụng có thể là
các chuyên gia giải quyết một số lượng nhất định các món vay lớn có liên quan đến một
ngành. ở một ngân hàng trung bình, cán bộ tín dụng có thể giải quyết một số lượng lớn
các hoạt động kinh doanh, từ các hoạt động dịch vụ bán lẻ quy mô nhỏ đến các hoạt động
sản xuất quy mô lớn. Cán bộ tín dụng ở một ngân hàng thương mại nhỏ có thể thực hiện
bất cứ nghiệp vụ gì, bao gồm cả công việc liên quan tới cho vay tư nhân đến trả góp thu
nợ và marketing. Khi thực hiện nhiệm vụ cụ thể của mình người cán bộ tín dụng phải
hoàn thành 2 mục tiêu cơ bản là: phục vụ các nhu cầu của khach hàng một cách nhiệt tình
đảm bảo sự công bằng, đồng thời đảm bảo khoản cho vay có hiêu quả, tạo lợi nhuận cho
ngân hàng trên cơ sở an toàn. Ngoài ra, cán bộ tín dụng có trách nhiệm kiểm tra các món

vay hiện có , báo cáo tiến độ giải ngân thu nợ dịnh kì từ người vay, liên tục đánh giá triển
vọng các khoản cho vay để xác định các vấn đề khó khăn phát sinh càng sớm càng tốt. Có
thể nói, cán bộ tín dụng giữ một vai trò quyết trong hoạt động cho vay của ngân hàng.
Trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, một cán bộ tín dụng hàng ngày phải
xử lý nhiều nghiệp vụ có tính biến động liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh tế,
gặp gỡ trực tiếp nhiều loại khách hàng, đối mặt với nhiều loại cám dỗ, có nhieu cơ hội để
thực hiện hành vi vụ lợi… Vì vậy, cán bộ tín dụng cần được tuyển chọn cẩn trọng, phải
đảm bảo cả về mặt đạo đức lẫn nghề nghiệp. Nếu trình độ của cán bộ tín dụng hạn chế
không có khả năng phân tích thẩm định dự án, không có khả năng phân tích dược năng
lực tài chính, khả năng quản lý của khách hàng, thiếu khách quan khi đánh giá dự án thì
dễ chọn phải dự án tồi không mang tính khả thi, khi đi vao hoạt động dự án không mang
lại hiệu quả, doanh nghiệp làm ăn thua lỗ và việc không trả nợ được cho ngân hàng là
điều tất yếu. Do vậy sự thành công của mỗi khoản cho vay trực tiếp phụ thuộc vào khả
năng, tính chủ động và sự cống hiến của cán bộ tín dụng.
e. Thông tin tín dụng:
Trong nền kinh tế thị trường, ai nắm bắt được nhiều thông tin chính xác kịp thời

hơn, người đó sẽ thắng trong cạnh tranh. Trong hoạt động cho vay, ngân hàng bỏ tiền ra
trên cơ sở lòng tin. Lòng tin có chính xác hay không phụ thuộc vào chất lượng thông tin
có được. Để việc cho vay có chất lượng hiêu quả, giảm thiểu rủi ro, ngân hàng phải có
được và phân tích, xử lý chính xác nhiều thông tin có liên quan. Thông thường có 2 nhóm
thông tin sau:
- Thông tin phi tài chính: là những thông tin không phải từ những sổ sách, số liệu tài
chinh. Chúng có rất nhiều loại phong phú bao gồm thông tin trực tiếp và thông tin gián
tiếp. Thông tin trực tiếp như tính cách, uy tín, năng lực quản lý, năng lực sản xuất kinh
doanh … của người vay. Loại thông tin gián tiếp như tình hình kinh tế xã hội, xu hướng
phát triển, khả năng cạnh tranh của ngành nghề. Những yếu tố có thể thay đổi hay ảnh
hưởng tới khu vực, dự án… trong tương lai.
- Thông tin tài chính: bao gồm các thông tin liên quan đến tình hình tài chính như:khả
năng tài chính, kết quả sản xuất kinh doanh của phương án …
Tóm lại, nắm chắc được 2 nhóm thông tin trên sẽ giúp ngân hàng có cái nhìn chính xác,
toàn diện về đối tượng cho vay, hạn chế được thấp nhất mọi rủi ro có thể xảy ra.

f. Công tác tổ chức của ngân hàng:
Công tác tổ chức tác động tới mọi mặt của hoạt động ngân hàng đặc biệt tác động mạnh
tới hoạt động cho vay. Ta đã biết hoạt động cho vay có khả năng rủi ro lớn hơn tất cả các
loại hình kinh doanh khác, do đó một sự sắp xếp hợp lý chức năng , nhiệm vụ của các
phòng ban với nhau tạo nên một sự phối hợp chặt chẽ sẽ giúp cho việc đánh giá một món
vay toàn diên hơn và chất lượng hơn.
Công tác tổ chức ở đây cũng đề cập đến vấn đề giao đúng người đúng việc. Sự phân
công việc hợp lý khoa học sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng, khi
đánh giá một khoản cho vay họ sẽ dụa trên cơ sở thực tế khách quan dám làm dám chịu
với cách xử lý của mình.
Từ vai trò quan trọng của công tác tổ chức trên nên trong hoạt động của mình cán bộ tổ
chức cần sắp xếp cơ cấu bộ máy hoạt động trong ngân hàng một cách khoa học, linh hoạt
trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc huy động vốn lẫn nguyên tắc cho vay, quản lý tài sản
nợ, tài sản có cua ngân hàng.

Làm tốt công tác tổ chức là cơ sở để tiến hành nghiệp vụ cho vay lành mạnh.
g. Kiểm soát nội bộ:
Đây là biên pháp giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng có được các thông tin về tình hình
kinh doanh nhằm duy trì có hiệu quả các hoạt động kinh doanh đang xúc tiến phù hợp với
các chế độ, chính sách và đáp ứng được mục tiêu đã định.
Trong lĩnh vực cho vay trung và dài hạn hoạt động kiểm soát bao gồm:
- Kiểm soát chính sách cho vay, quy trình cho vay và các thủ tục có liên quan đến các
khoản vay ( thẩm quyền về điều hành, quản lý, giám sát các khoản tiền cho vay, hồ sơ thủ
tục cho vay…).
- Kiểm tra định kì do kiểm soat viên nội bộ thực hiện, báo cáo các trường hợp ngoại
lệ, những vi phạm chính sách, thủ tục, kiểm soát kế toán kể cả các nghiệp vụ liên quan tới
kế toán cho vay.
Chất lượng cho vay trung và dài hạn tuỳ thuộc vào mức độ phát hiện kịp thời nguyên
nhân các sai sót phát sinh trong quá trình thực hiện một khoản cho vay trung và dài hạn
của công tác kiểm soát nội bộ để có biện pháp khăc phục kịp thời.
h. Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động cho vay trung và dài hạn:

Đây là nhân tố tác động gián tiêp tới chất lượng cho vay trung và dài hạn của. Các ngân
hàng có trang thiết bị hiện đại sẽ là điều kiện thuận lợi cho các công tác thu thập thông
tin, tìm kiếm khách hàng, phục vụ nhu cầu của khách hàng, thẩm định , giám sát từ đó
nâng cao được chất lượng hoạt động cho vay của ngân hàng.
1.2.4.2. Các nhân tố thuộc về phía khách hàng.
Khách hàng là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cho vay trung và dài hạn bởi
hiệu quả và chất lượng cho vay dựa trên hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng mà
điều đó phụ thuộc vào năng lực của khách hàng.
Một khách hàng vay vốn sản xuất kinh doanh không có hiệu quả, sản phẩm sẽ không tiêu
thụ được, kinh doanh không có lãi, tình trạng mất vốn do thua lỗ … sẽ là những nguyên
nhân trực tiếp làm cho các khoản vay không thực hiện được đúng hạn. Trong trường hợp
người vay bị mất vốn thì tình trạng của ngân hàng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Lợi
nhuận của các nhà ngân hàng chính là một phần lợi nhuận của các nhà sản xuất để trả

thay cho ngân hàng dưới hình thức lợi tức tiền vay. Vì vậy, nếu người vay vốn đầu tư vào
sản xuất kinh doanh mà không thu được lợi nhuận thì không đủ tiền để trích lập lợi nhuận
đó trả cho ngân hàng. Thậm chí, nếu tình trạng đó kéo dài hoặc sản xuất kinh doanh thua
lỗ ở mức nghiêm trọng bản thân người vay cũng không có đủ vốn tự có của minh để trả
nợ gốc và lai vay ngân hàng. Do đó, ngân hàng có thu được tiền gốc và lãi vay hay không
là phụ thuộc chủ yếu vào người vay, họ sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả hay không.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của khách hàng trong việc quản lý tiền vay nên trước
khi cho vay ngân hàng cần đánh giá được năng lực của khách hàng trên các khía cạnh
sau:
a. Năng lực thị trường của khách hàng:
Năng lực thị trường được thể hiên qua chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, chu ki
sống của sản phẩm, vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Tìm hiểu năng lực thị trường
của khách hàng sẽ giúp ngân hàng đánh giá được mặt mạnh, yếu sản phẩm của khách
hàng trên thị trường, biết được sự phù hợp của dự án hoạt động so với khả năng của
khách hàng.
b. Năng lực tài chính:

Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiên ở khả năng độc lập tự chủ tài chính
trong kinh doanh, khả năng thanh toán và trả nợ. Nó còn thể hiện ở số vốn tự có và tỉ
trọng vốn tự có trong tông số vốn doanh nghiệp sử dụng.
Một doanh nghiệp có năng lực tài chính tốt sẽ phản ánh việc kinh doanh của danh
nghiệp từ trước là có hiệu quả, nó cho thấy khách hàng có thể quản lý vốn vay một cách
tối ưu.
c. Năng lực sản xuất:
Năng lực của sản xuất thể hiện ở giá trị của công cụ lao động mà chủ yếu là tài sản cố
định biểu hiện cụ thể qua các quá trình sản xuất sản phẩm, công nghệ sản xuất… Nghiên
cứu năng lực sản xuất cho biết quy mô sản xuất kinh doanh của dónh nghiệp và sự phù
hợp của quy mô đó trên thị trường.
d. Năng lực quản lý:
Năng lực quản lý của doanh nghiệp thể hiện ở khả năng thích nghi của bộ máy quản lý

doanh nghiệp trước những biến độnh của cơ chế thị trường, thể hiện ở trình độ của cán bộ
quản lý. Một doanh nghiệp có bộ máy quản lý tốt sẽ phân bố kế hoạch sản xuất hợp lý,
tiết kiệm được các chi phí hoạt động, sử dụng hợp lý các nguồn lực, là cơ sở để doanh
nghiệp làm ăn có lãi và trả được nợ cho ngân hàng.
e. Uy tín của khách hàng:
Ngân hàng có thể xem xét quan hệ kinh doanh của khách hàng với các tổ chức kinh tế
khác qua nhiều năm để có cơ sở đánh giá uy tín của khách hàng. Tránh chọn phải những
khách hàng vay vốn sử dụng sai mục đích, khi có tiền thì không chịu trả cho ngân hàng
hay cố tình trây ì, trì hoãn.
f. Quyền sở hữu tài sản:
Ngay từ đầu, tất cả các khoản cho vay phải có 2 phương án trả nợ tách biệt. Nếu hoạt
động kinh doanh có hiệu quả thì kết quả kinh doanh sẽ mang lại nguồn thu, khách hàng
sử dụng nguồn thu đó để trả nợ cho ngân hàng, nếu dự án hoạt động không có hiệu quả
thì khách phải lấy tài sản của họ trả nợ thay hay đi vay để trả nợ. Việc xem xét quyền sở
hữu hợp pháp của tài sản đảm bảo là một trong những yếu tố quan trọng để ngân hàng ra
quyết định cho vay đồng thời nó cũng là mối ràng buộc đối với khách hàng trong việc sử
dụng hợp lý, hiệu quả vốn vay vì nếu thua lỗ họ sẽ mất tài sản thế chấp.
1.2.4.3. Các nhân tố khách quan khác.

Bên cạnh những nhân tố thuộc về phía ngân hàng và khách hàng thì còn một số nhân
tố khác cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cho vay trung và dài hạn.
a. Đường lối chủ trương phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước va chính quyền địa
phương:
Đặc trưng cơ bản của hệ thống cho vay là do tính chất và cơ cấu quản lý kinh tế quyết
định do đó môt khoản cho vay trung và dài hạn được đầu tư phù hợp với chủ trương phát
triển kinh tế của Đảng, của Nhà nước và địa phương sẽ có sự an toàn và hiệu quả hơn.
Mức độ phát triển kinh tế của địa phương quy định quy mô và khối lượng đầu tư tín
dụng. Nếu đầu tư tín dụng vượt quá khối lượng cần thiết, không phù hợp với mức độ phát
triển kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cho vay. Nhiều ngân hàng thương mại
do nóng vội mở rộng đầu tư nâng cao dư nợ, đẩy nhanh tỉ lệ tăng trưởng cho vay vượt quá

nhiều so với mức tăng trưởng kinh tế trên địa bàn nên đã phải trả giá cho sự nóng vội này.
b. Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế dù có thay đổi theo chiều hướng nào cũng sẽ tác động tới chất
lượng cho vay của ngân hàng. Khi nền kinh tế hưng thịnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp trong việc kinh doanh và đạt lợi nhuận cao, trên cơ sở doanh nghiệp sẽ
hoàn trả cả gốc và lãi đầy đủ cho ngân hàng. Ngược lại khi nền kinh tế suy thoái, khủng
hoảng sẽ làm sản xuất ngưng trệ, các doanh nghiệp không bán được hàng, nguy cơ thua lỗ
là rất lớn, khi doanh nghiệp đã làm ăn thua lỗ thì sẽ không có tiền trả lại cho ngân hàng.
Không chỉ môi trường kinh tế trong nước thay đổi sẽ làm ảnh hưởng tới chất lượng
cho vay mà môi trường kinh tế thế giới thay đổi cũng tác động tới chất lượng cho vay, ví
dụ như với những doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, sự biến động trạng thái kinh
tế của nước bạn hàng cũng sẽ tác động tới tỉ giá hối đoái, điều này có thể dẫn đến việc
kinh doanh của doanh nghiệp xuât nhập khẩu gặp khó khăn, thậm chí thua lỗ, ảnh hưởng
tới việc trả nợ cho ngân hàng.
c. Môi trường pháp lý:
Môi trương pháp lý trong nước cũng là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cho
vay trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại. Hoạt động cho vay gắn chặt với các
quy định về pháp lý, tất cả các cá nhân, tổ chức kinh tế phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật để họat động. Thực tế ở Việt nam cho thấy đất nước đang trong đà chuyển đổi
nền kinh tế do đó chưa có những quy hoạch cụ thể, ổn định lâu dài ở tầm vĩ mô, từ đó có

những văn bản vừa mới ra đời đã lại thay đổi. Nhiều doanh nghiệp đầu tư vừa mới lắp đặt
xong thiết bị khai thác, khi bước vào sản xuất thì sản phẩm không tiêu thụ được do Nhà
nước có chủ trương cấm sản xuất hoặc hạn chế, một số mặt hàng lại không đủ nguyên
liệu đầu vào cho sản xuất dẫn tới việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không diễn
ra theo đúng kế hoạch, ảnh hưởng tới việc thu hồi vốn của doanh nghiệp và công tác trả
nợ cho ngân hàng. Vì thế trong nền kinh tế thi trường đầy sôi động thì một hệ thống pháp
luật ổn định, chặt chẽ, nghiêm minh là điều kiện dảm bảo cho mọi hoạt động kinh doanh
thuận lợi, sự ổn định, chặt chẽ nghiêm minh của pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp trong kinh doanh đồng thời buộc mọi người vay vốn phải có ý thức trong

sản xuất kinh doanh và hoàn trả vốn cho ngân hàng.

Chương 2
Chất lượng cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Đông Đô- Ngân hàng đầu tư và
phát triển việt nam

2.1. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh tín dụng tại chi nhánh Đông Đô:
2.1.1. Lịch sử Chi nhánh Đông Đô - NHĐT&PTVN:
Hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tiền thân là Ngân hàng Kiến thiết
Việt Nam được thành lập từ năm 1957, đến nay đã có 48 năm xây dựng, trưởng thành,
góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một trong bốn Ngân hàng thương mại
quốc doanh lớn nhất Việt Nam. Ngay từ khi được thành lập, với vai trò là ngân hàng
chuyên ngành phục vụ trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
đã sử dụng các nghiệp vụ ngân hàng: cho vay vốn lưu động thi công xây lắp, sản xuất,
cung ứng vật liệu xây dựng; thanh toán (chuyển khoản và tiền mặt) trong xây dựng cơ
bản để chuyển tải toàn bộ vốn Ngân sách nhà nước dành cho xây dựng cơ bản, hình thành
nên cơ sở vật chất, kỹ thuật cho đất nước, góp phần thực hiện các nhiệm vụ chiến lược
trong từng thời kỳ cách mạng của dân tộc.
Chi nhánh NHĐT & PT Đông Đô là chi nhánh cấp I của NHĐT & PT Việt Nam.
Chi nhánh được thành lập theo quyết định số 191/QĐ-HĐQT ngày 5/7/2004 của chủ tịch
HĐQT NHĐT & PT Việt Nam.
Trụ sở chính đặt tại 14 Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội, khai trương hoạt động từ ngày
1/8/2004. Năm 2004 là năm khởi đầu ghi nhận sự hoạt động của chi nhánh NHĐT & PT
Đông Đô. Là một chi nhánh được tách ra từ SGD, ngay từ buổi đầu thành lập, chi nhánh
đã có một nền tảng tương đối tốt không chỉ từ bên trong nội lực bản thân chi nhánh: cán
bộ có trình độ học vấn tương đối đồng đều, có sự hăng hái nhiệt tình cao của tuổi trẻ, sự
đoàn kết gắn bó phấn đấu của toàn bộ tập thể cán bộ chi nhánh, mà còn có những điều
kiện thuận lợi của môi trường kinh doanh: nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của Thủ
đô, địa bàn hoạt động nhiều tiềm năng phát triển, xung quanh trung tâm 14 Láng Hạ có

nhiều doanh nghiệp nên thuận tiện trong việc phát triển khách hàng mới…Tuy nhiên, chi
nhánh cũng gặp không ít khó khăn do sự cạnh tranh của các Ngân hàng khác trên cùng
địa bàn, thời gian hoạt động của cán bộ chưa nhiều, mạng lưới khách hàng còn mỏng…

Với sự cố gắng, đoàn kết của tập thể cán bộ, sau 5 tháng đi vào hoạt động, chi nhánh
NHĐT & PT Đông Đô đã đạt được nhiều kết quả khả quan.

2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn:
2.1.2.1. Thuận lợi
– Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển với tốc độ cao, môi trường kinh tế, xã hội,
chính trị ổn định, các chương trình kinh tế trọng điểm các dự án lớn được triển khai mạnh
và phát huy hiệu quả
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của ban lãnh đạo NHĐT&PT VN và ban giám
đốc Chi nhánh, đặc biệt trong thời gian triển khai dự án HĐH
- Thứ ba, Chi nhánh là đơn vị được áp dụng những chương trình, hê thông phần
mềm hiện đại nhất.
- Thứ tư, Chi nhánh đã thực hiện hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn chất
lượng quốc tế ISO 9000 – 2000, đồng thời dự án hiện đại hóa Ngân hàng đã đi vào hoạt
động và sự tuân thủ chặt chẽ quy trình nghiệp vụ và nề nếp lao động đã tạo điều kiện
thuận lợi cho mọi hoạt động của Chi nhánh.
2.1.2.2. Khó khăn
- Tình hình chính trị kinh tế thế giới có nhiều diễn biến không thuận lợi.Xung đột
chiến tranh tại nhiều điểm nóng trên thế giới, có sự phát triển không ổn định của một số
nền kinh tế lớn trên thế giới
- Nền kinh tế trong nước tuy có sự tăng trưởng phát triển nhưng phải chịu không it
những trở ngại do thiên tai dịch bệnh
- Tiềm lực vốn của nền kinh tế hạn chế, quá trình cải cách các doanh nghiệp còn
chậm. Thêm vào đó là độ cạnh tranh hoạt động Ngân hàng ngày càng gay gắt, cơ hội tìm
kiếm lợi nhuận càng ít và khoảng chênh lệch thu chi tính trên một đồng vốn ngày càng bị
thu hẹp.

- Là một chi nhánh mới được thành lập, số lượng khách hàng còn ít, đồng thời lại
diễn ra trong thời điểm gần cuối năm.Do đó những trở ngại ban đầu của Chi nhánh mới
cộng với khối lượng công việc lớn dồn vào cùng một thời điểm là những khó khăn không
nhỏ phải đối mặt và vượt qua.


2.1.3. Hoạt động tín dụng
Kể từ ngày 01 tháng 08 năm 2004, chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Đông Đô
được khai trương và đi vào hoạt động, sau 5 tháng chi nhánh đã đạt được một số kết quả
kinh doanh như sau:
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu 31/07/2004 31/12/2004
Tổng tài sản 755.597 1.000.000
Huy động vốn 729.471 800.000
Tín dụng 26.361 400.000
Thu dịch vụ 174 800

Dư nợ tín dụng hết năm 2004 ước đạt 400 tỷ đồng, tăng 35 tỷ, tăng 9,5% so với năm
2003, đạt 80% kế hoạch (500 tỷ). Dư nợ nhận bàn giao từ SGD là 205 tỷ VND và 3 triệu
USD. Doanh số cho vay năm 2004 là 160 tỷ và thu nợ 100 tỷ . Trong đó:







D nî theo kú h¹n
35%
65%

Ng¾n h¹n
Trung, dµi h¹n
D nî theo TPKT
30%
70%
DNNN
DNNQD



D nî theo tiÒn tÖ
87%
13%
Néi tÖ
Ngo¹i tÖ
D n¬ theo lÜnh vùc
43%
57%
X©y l¾p
Th ¬ng m¹i,
kh¸c

Hoạt động tín dụng tại chi nhánh bước đầu mới chủ yếu phát triển được ở cho vay
VND. Dư nợ có tài sản đảm bảo chiếm 70% tổng dư nợ. Tín dụng ngoại tệ phát triển chưa
cao, chưa sử dụng được nhiều nguồn ngoại tệ huy động được, nhất là ngoại tệ khác USD.
Khách hàng chủ yếu là các DNNQD, dư nợ cũng chủ yếu tập trung ở các khách hàng này.
Số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động có hiệu quả, doanh nghiệp nhà nước
chưa có nhiều. Công tác cho vay thu nợ được thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định hiện
hành của NHNN và NHĐT & PTVN. Do chi nhánh mới thành lập hoạt động tín dụng
chưa phát sinh nhiều, không có NQH, không có nợ xấu. Hoạt động tín dụng tại Chi nhánh

đang thực hiện chuyển dịch theo đúng định hướng của ngành: tăng tỷ trọng dư nợ cho vay
ngắn hạn, cho vay ngoài quốc doanh và tăng cường tối đa tài sản đảm bảo.

2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng trung dài hạn tại Chi nhánh Đông Đô -
NHĐT&PTVN:
2.2.1. Phân tích cơ cấu cho vay trung và dài hạn tại Chi nhánh Đông Đô:
Tình hình cho vay trung và dài hạn theo thành phần kinh tế
( Đơn vị: tỷ đồng )
Chỉ tiêu
Số khách
hàng
Dư nợ
(tỷ. đồng)
Tỉ trọng
%
CV TDH với DNNN 5 20 17 %
CV TDH với DNNQD 10 100 83%
Thực hiện chính sách đa năng tổng hợp trong kinh doanh, không ngừng mở rộng hoạt
động cho vay, đặc biệt là hình thức cho vay trung và dài hạn. Chi nhánh đã mở rộng đối
tượng phục vụ của mình gồm cả doanh nghiệp Nhà nước, ngoài quốc doanh. Trong tổng
dư nợ cho vay, Chi nhánh tập trung chủ yếu vào thành phần kinh tế ngoài quốc danh.
Đến 31/12/2004, tỉ trọng cho vay với doanh nghiệp Nhà nước chỉ có 17%, tương ứng với
20 tỷ. Khách hàng vay vốn trung và dài hạn là các DNNN cũng gia tăng nhưng vẫn còn
chiếm tỉ trọng nhỏ.
Như vậy quy mô cho vay KTNQD là rất lớn chiếm 83% tổng cho vay trung và dài hạn đạt
100 tỷ, điều này thể hiện đặc trưng riêng của NHĐT&PTVN cũng như đặc trưng của Chi
nhánh. Khách hàng chủ yếu của Chi nhánh là các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh với số
lượng ngày càng tăng, trong đó có một số lượng lớn khách hàng truyền thống uy tín

như:Các đơn vị thuộc tổng công ty xây dựng công trình giao thông Sông đà, Tổng công

xây dựng CNVN Nguyên nhân sự vượt trội của các khách hàng là DNNQD có thể nêu
ở một vài điểm sau:
Thứ nhất, do truyền thống của NHĐT&PTVN nói chung và của Chi nhánh nói riêng có
những lợi thế về nguồn vốn, kinh nghiệm, khách hàng, ưu đãi của NH về các khoản
cho vay trung và dài hạn với DNNQD nên Chi nhánh không ngừng phát huy những lợi
thế này, tăng cường mối quan hệ tín dụng với những khách hàng uy tín và mở rộng thêm
nhiều khách hàng mới. Chi nhánh đã có những chính sách ưu đãi với các DNNQD về lãi
suất, thời gian trả nợ, thế chấp
Thứ hai, các DNNQD ngày càng phát triển do được mở rộng quyền và thích nghi
với nền kinh tế mới. Các DNNQD lớn thường nhận được nguồn vốn ưu đãi từ nước
ngoài, có điều kiện cải tiến công nghệ, tạo nên ưu thế cạnh tranh, như vậy có nhu cầu và
điều kiện vay vốn ngân hàng.
Thứ ba, nghị quyết Trung ương Đảng đã khẳng định nền kinh tế nước ta hiện nay là đi
theo nền kinh tế mở, định hướng XHCN có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước nên thành
phần kinh tế quốc doanh vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã định hướng hoạt động cho vay trung và
dài hạn của Chi nhánh.
Thư tư, khi bước sang nền kinh tế mở, các DNNQD tuy có gặp một số những khó khăn
nhưng dần dần từng bước đã đi vào ổn định và làm ăn có hiệu quả và mở rộng sản xuất.
Ngoài ra Chính phủ cũng có một số chính sách ưu đãi với thành phần KTQD nên các
DNNQD có ưu thế hơn trong vay vốn của Chi nhánh.
Như vậy, cũng như tình hình chung của toàn ngành và tình hình chung của các
ngân hàng thương mại quốc doanh, cơ cấu cho vay trung và dài hạn của Chi nhánh lệch
hẳn về các DNNQD. Chi nhánh ngày càng phát huy lợi thế riêng của mình, có những
chính sách cho vay ưu đãi, chính sách khách hàng phù hợp tăng cường mối quan hệ tín
dụng tốt đẹp với các DNNQD. Tuy nhiên, Chi nhánh cũng không xem nhẹ các thành phần
kinh tế nhà nước và coi đó là thị trường tiềm năng, an toàn nhằm đa dạng hoá nghiệp vụ
cho vay của Chi nhánh. Điều này thể hiện ở doanh số cho vay trung và dài hạn với các
DNNN vẫn tăng khá quan trong.


2.2.2. Đánh giá thực trạng chất lượng cho vay trung và dài hạn tại chi nhánh Đông
Đô:
2.2.2.1. Chỉ tiêu nợ quá hạn
Các khoản nợ quá hạn đã được gia hạn nhiều lần, nợ khó đòi vẫn có thể là các
khoản nợ có khả năng thu hồi cho nên ngân hàng đề ra chỉ tiêu hoạt động kinh doanh
không có nợ quá hạn.
Do cho vay trung và dài hạn có thời gian vay vốn dài ( trung hạn từ 1 – 5 năm; dài hạn >
5 năm ) nên hoạt động cho vay trung và dài hạn mang rất nhiều rủi ro. Vì là một Chi
nhánh mới thành lập cho đến nay được 8 tháng , chưa có nợ quá hạn. Nên chưa đánh giá
được chỉ tiêu nợ quá hạn.
2.2.2.2. Vòng quay vốn trung và dài hạn
Tuy dư nợ tín dụng trung và dài hạn thương mại nhỏ hơn so với tín dụng trung và
dài hạn nhưng vòng quay vốn của nó lại lớn hơn. Có thể nói, đồng vốn đầu tư cho dự án
tín dụng thương mại có khả năng thu hồi vốn, quay vòng nhanh hơn, có khả năng đem lại
lợi nhuận nhiều hơn cho Chi nhánh. Còn tín dụng ngắn hạn có vòng quay thấp, dư nợ lớn
có nghĩa là một lượng vốn lớn ứ đọng, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Chi
nhánh .Trong thời gian qua Chi nhánh đã tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn thương
mại trong tổng dư nợ cho vay trung và dài hạn từ 65% so với chỉ tiêu là 55% tổng dư nợ
cho vay.

2.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng nhìn từ phía khách hàng:
Hầu hết các dự án do Chi nhánh cho vay vốn trung và dài hạn đều góp phần làm cho hoạt
động của doanh nghiệp được mở rộng và làm ăn có hiệu quả . Các chỉ tiêu như lợi nhuận,
lao động, thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước của các doanh nghiệp đều tăng.
Các khoản tín dụng trung và dài hạn đầu tư vào các dự án, dự án mở rộng nâng cấp, do
vậy không chỉ làm lợi cho doanh nghiệp về mặt lợi nhuận mà còn góp phần mở rộng,
nâng cao hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật cho doanh nghiệp, và cả nền kinh tế nói chung.
Những dự án như dự án đồng tài trợ công ty xây dựng SôngĐà …được triển khai có hiệu
quả, chất lượng phục vụ của công ty tốt hơn, khách hàng của công ty ngày càng tăng. Tuy
nhiên không phải không có những doanh nghiệp có nợ quá hạn,nợ khó đòi, không có khả


năng thanh toán nhưng do chi nhánh mới thành lập nên cũng chưa xảy ra trường hợp nợ
quá hạn.
Nói chung, quan niệm đánh giá về chất lượng tín dụng của ngân hàng và doanh nghiệp là
hoàn toàn cùng chiều, không hề có sự đối nghịch. Do tính chất hoạt động khác nhau,với
doanh nghiệp hàng hoá sản xuất ra được tiêu thụ một cách trực tiếp, với ngân hàng là
cung cấp dịch vụ nên cách nhìn nhận một vấn đề là khác nhau. Nhưng cuối cùng, một
khoản tín dụng có chất lượng tốt sẽ đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và doanh nghiệp, nói
rộng ra là mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Do vậy, cả hai bên đều phải hết sức giúp đỡ,
tạo điều kiện cho nhau để tạo ra những khoản tín dụng chất lượng cao, góp phần cải thiện
đời sống kinh tế xã hội, và vào sự phát triển bền vững của đất nước.
2.2.3. Một số nhân tố chủ yếu tác động đến chất lượng cho vay trung và dài hạn tại
chi nhánh Đông Đô:
2.2.3.1. Những nhân tố thuộc tích cực:
Nền kinh tế đang chuyển dịch cơ cấu sản xuất, từng bước thích nghi hơn với biến động
của cơ chế thị trường trong nước và quốc tế.
Uy tín của Ngân hàng ĐT&PTVN ngày càng được khẳng định và nâng cao cả ở thị
trường trong nước và quốc tế.
Tiến độ cơ cấu lại ngân hàng, sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân
hàng đã được Chính phủ phê duyệt và cho triển khai thực hiện.
Ngân hàng từng bước đổi mới điều hành các công cụ chính sách tiền tệ quốc gia. Cơ sở
pháp lý cho hoạt động ngân hàng tiếp tục được hoàn thiện, công nghiệp hoá hiện đại hoá
ngân hàng. Hiệp hội ngân hàng đã bước đầu thể hiện vai trò của mình thông qua việc hạn
chế sự cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng trong toàn quốc cũng như
trên địa bàn.
Là đơn vị mới được tách ra từ SGD1 – NHĐT&PTVN luôn được sự quan tâm, tạo mọi
điều kiện của ban lãnh đạo NHĐT&PTVN và các phòng ban chức năng.
Khách hàng của Chi nhánh đa dạng, nhiều tiềm năng và không ngưng tăng trưởng, đặc
biệt tập trung nhiều tổng công ty có doanh số hoạt động lớn tại Chi nhánh .
2.2.3.2. Những nhân tố tiêu cực:

a. Nhân tố thuộc về phía Ngân hàng:

×