LUẬN VĂN:
Hoạt động tín dụng cho vay tiêu dùng và một số giải
pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân
hàng TMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh
LỜI MỞ ĐẦU
20 năm sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nước ta đã có những chuyển biến
sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực văn hoá đời sống kinh tế xã hội. Chính trị ổn định, kinh tế
tăng trưởng bền vững tạo tiền đề cho các hoạt động đầu tư, xây dựng, kinh doanh, buôn
bán…phát triển, tạo thêm nhiều việc làm góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho người dân. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hàng hoá tiêu dùng trở
nên phong phú, đa dạng với nhiều chủng loại, mẫu mã khác nhau phù hợp với nhu cầu
người mua. Tuy nhiên với mức thu nhập hiện nay, phần lớn người tiêu dùng không thể chi
trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm cùng lúc, đặc biệt là các vật dụng đắt tiền. Nắm bắt
được thực tế đó, các Ngân hàng đã thực hiện cung cấp các dịch vụ cho vay tiêu dùng dưới
nhiều hình thức nhằm tạo điều kiện cho khách hàng có thể thoả mản nhu cầu của mình
trước khi có khả năng thanh toán. Và chỉ trong một thời gian ngắn khi các sản phẩm này ra
đời, số lượng khách hàng tìm tới Ngân hàng không ngừng tăng lên đã tạo nguồn thu nhập
không nhỏ cho hệ thống Ngân hàng. Mặc dù vậy, so với các hoạt động tín dụng khác thì
cho vay tiêu dùng vẫn chiếm một tỷ trọng vô cùng nhỏ bé cả về doanh số cho vay lẫn dư
nợ cho vay và chưa thực sự phát huy được vai trò vốn có của nó. Với tư cách là trung gian
quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế, các Ngân hàng phải làm gì để đẩy mạnh hơn nữa
hoạt động cho vay tiêu dùng, trở thành kênh kết nối hiệu quả giữa nguồn vốn huy động
được với nhu cầu bị giới hạn bởi khả năng thanh toán từ đó tạo ra lợi nhuận cho mình và
cho sự phát triển chung của toàn xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động cho vay tiêu dùng trong đời sống xã
hội nói chung và đối với toàn hệ thống Ngân hàng nói riêng, sau một thời gian thực tập tại
Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh (HDBank) chi nhánh Hà Nội, kết hợp
với những kiến thức trong quá trình học tập, em đã chọn: “Hoạt động tín dụng cho vay
tiêu dùng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng
TMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh ” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp
của mình. Kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục
tài liệu tham khảo gồm có 3 chương:
Chương I: Lý luận tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng.
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Phát triển Nhà
TP Hồ Chí Minh.
Chương III: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Phát
triển Nhà TP Hồ Chí Minh.
CHƯƠNG I.
LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
1.1. Lý luận tổng quan về cho vay tiêu dùng
1.1.1. Vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tiêu dùng rất hữu ích nhằm tài trợ cho nhu cầu chi
tiêu , mua sắm, sửa chữa nhà cửa…của các cá nhân, hộ gia đình. Các khoản vay này giúp
người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho
họ có cuộc sống với chất lượng cao hơn như mua xe hơi, mua nhà, nghỉ ngơi, du lịch…Qua
đó chúng ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về cho vay tiêu dùng: “Cho vay tiêu dùng
là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng thoả thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ
gia đình sử dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc
và lãi trong một thời gian nhất định”.
1.1.2. Đối tượng của hoạt động cho vay tiêu dùng
- Phân theo thu nhập
+ Những người thu nhập thấp: Nhu cầu tín dụng của nhóm người này thường hạn chế
do nguồn thu nhập không đủ để thoả mãn nhu cầu đa dạng của họ. Tuy nhiên họ cũng có
nhu cầu chi tiêu không khác mấy so với nhóm có thu nhập cao hơn. Do đó nếu có phương
pháp phù hợp thì cũng có thể hình thành các khoản vay hợp lý tới nhóm đối tượng này.
+ Những cá nhân có thu nhập trung bình: Nhu cầu tín dụng có xu hướng tăng trưởng
ngày càng mạnh bởi khoản tích luỹ của nhóm này tuy ít song thu nhập trong tương lai của
họ ổn định có thể chi trả cho những nhu cầu hiện tại.
+ Những cá nhân có thu nhập cao: Những người này thường cần tới những khoản vay
với tư cách là các khoản phụ trợ linh hoạt, trợ giúp thêm các khoản thanh toán đặc biệt khi
tiền của họ đã đầu tư vào các khoản đầu tư dài hạn. Mặc dù việc vay mượn nhằm mục đích
tiêu dùng của họ chỉ thể hiện một tỷ trọng nhỏ trong tổng số tài sản mà họ sở hữu nhưng lại
là một món tiền lớn so với các nhóm khách hàng khác nên các ngân hàng rất quan tâm tới
nhóm khách hàng này.
- Phân theo tình trạng công tác hay lao động: Nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân
còn phụ thuộc rất nhiều tính chất công việc, nghề nghiệp. Xét theo khía cạnh này chúng ta
có những nhóm khách hàng:
+ Cán bộ công nhân viên chức.
+ Những người làm công việc kinh doanh riêng.
+ Những người hành nghề chuyên nghiệp ( Bác sĩ, ca sĩ, tư vấn… ).
+ Những người lao động tự do.
Trên thực tế, những khách hàng thuộc ba nhóm khách hàng đầu tiên có thu nhập cao
và ổn định hơn so với nhóm khách hàng cuối nên nhu cầu vay tiêu dùng cũng chủ yếu phát
sinh từ 3 nhóm trên.
1.1.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng
- Quy mô các khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn
Các khách hàng tìm đến ngân hàng với mục đích vay tiêu dùng thường có nhu cầu
vốn không lớn lám. Đó là vì khi xác định mua sắm bất cứ vật dụng gì người tiêu dùng phải
có một khoản tích luỹ từ trước( vì không khi nào ngân hàng cho vay 100% nhu cầu vốn).
Tuy nhiên số lượng các khoản vay tiêu dùng là lớn do đối tượng của vay tiêu dùng là mọi
tầng lớp dân cư trong xã hội.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất “ cứng nhắc”
Không như các khoản vay kinh doanh hiện nay có lãi suất có thể thay đổi theo điều
kiện thị trường, các khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất cố định, đặc biệt là các khoản
vay tiêu dùng trả góp.
- Các khoản vay tiêu dùng thường có độ rủi ro cao
Vì đối tượng của các hoạt động cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình nên bên
cạnh các yếu tố khách quan từ bên ngoài như thiên tai, mất mùa, thất nghiệp, chu kỳ kinh
tế, còn có các yếu tố chủ quan từ chính người tiêu dùng. Đó chính là tâm lý tiêu dùng ,
người tiêu dùng muốn vay tiêu dùng nhưng không muốn trả. Trong những trường hợp như
vậy, cho dù có nắm giữ tài sản đảm bảo ngân hàng vẫn đối mặt với rủi ro giảm thu nhập.
Mặt khác do các khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất cứng nhắc nên khi lãi suất huy
động tăng lên ngân hàng đối mặt với rủi ro lãi suất.
- Cho vay tiêu dùng có chi phí khá lớn
Đặc điểm các khoản vay tiêu dùng thường có quy mô khoản vay nhỏ, thời gian vay
thường không dài nên việc thẩm định tài chính khách hàng tốn nhiều thời gian và chi phí.
Bên cạnh đó ngân hàng còn phải chịu một số chi phí như chi phí quản lý khoản vay, theo
dõi tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng…
- Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản tín dụng có khả năng sinh lời cao
nhất do ngân hàng thực hiện
Chính vì triển vọng về lợi nhận của hoạt động cho vay tiêu dùng mang lại, mặc dù
phải đối mặt với khá nhiều thách thức nhưng các ngân hàng trên thế giới hiện nay đều
hướng sự quan tâm của mình vào hoạt động tín dụng này. Coi nó như một hoạt động chủ
đạo trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng.
1.1.4. Phân loại cho vay tiêu dùng
Thông qua cách phân loại này, chúng ta có thể có được cái nhìn khá toàn diện về hoạt
động cho vay tiêu dùng từ nhiều khía cạnh khác nhau:
- Căn cứ vào mục đích vay, chúng ta có:
+ Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm,
xây dựng hoặc cải tạo nhà cho khách hàng là các cá nhân, hộ gia đình.
+ Cho vay tiêu dùng phi cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho việc trang trải
các chi phí như chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí cho học hành, giải trí, du
lịch…
- Căn cứ vào phương thức hoàn trả
+ Cho vay tiêu dùng trả góp: Đây là hình thức cho vay trong đó người đi vay trả nợ
(gồm cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn
cho vay, phương thức này thường áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập
từng kỳ của người đi vay không đủ để thanh toán hết một lần số nợ vay.
+ Cho vay tiêu dùng phi trả góp: Đây là hình thức cho vay mà tiền vay được khách
hàng thanh toán chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản vay tiêu dùng phi trả góp
được cấp cho các nhu cầu vay nhỏ và thời hạn không dài.
+ Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là khoản vay trong đó ngân hàng cho phép khách
hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc ngân hàng phát hành loại séc cho phép thấu chi dựa trên số
tiền trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng được thoả
thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được
ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một
hạn mức tín dụng.
- Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ:
+ Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các
khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người
tiêu dùng.
Sơ đồ 1: Mô hình các bước tiến hành cho vay tiêu dùng gián tiếp
(1)
(Nguồn: Thời báo ngân hàng số 15 tháng 4/2006)
Trong đó:
(1): Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng ngân
hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu
tối đa và các loại tài sản bán chịu.
(2): Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá.
Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
Ngân
hàng
Công ty
bán lẻ
Người tiêu
dùng
(4)
(5)
(6)
(2)
(3)
(3): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(4): Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.
(5): Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ.
(6): Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có ưu điểm:
• Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng.
• Cho phép ngân hàng tiết kiệm được chi phí trong cho vay.
• Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động khác.
• Trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu dùng gián
tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp.
Bên cạnh những ưu điểm trên, cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số nhược điểm sau:
• Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu.
• Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng
hoá.
• Kỹ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
+ Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân
hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ những người
này. Cho vay tiêu dùng trực tiếp thường được thực hiện theo sơ đồ sau :
Sơ đồ 2: Mô hình các bước tiến hành cho vay tiêu dùng trực tiếp
(Nguồn: Thời báo ngân hàng số 15 tháng 4/2006)
Ngân hàng
Công ty
bán lẻ
Người tiêu
dùng
(3)
(1)
(5)
(2)
(4)
Trong đó:
(1): Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay.
(2): Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ.
(3): Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(4): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(5): Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.
So với cho vay tiêu dùng gián tiếp, cho vay tiêu dùng trực tiếp có những ưu điểm sau:
• Trong cho vay tiêu dùng trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của
nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng
thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi những công ty
bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của công ty bán lẻ. Ngoài ra, trong hoạt động của mình,
nhân viên tín dụng ngân hàng có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các khoản vay có chất
lượng tốt trong khi nhân viên của những công ty bán lẻ thường chú trọng đến việc bán
được hàng. Bên cạnh đó, tại các điểm bán hàng, các quyết định tín dụng thường được đưa
ra vội vàng và như vậy có thể có nhiều khoản tín dụng được cấp ra một cách không chính
đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ
chối cấp tín dụng đối với những khách hàng tốt.
• Cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn so với cho vay tiêu dùng gián tiếp.
• Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng có thể làm thoả mãn nhu cầu của
họ hơn.
1.1.5. Sự khác nhau của cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh của ngân hàng
thương mại
Mặc dù cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh đều là hình thức cấp tín dụng của
ngân hàng song giũa chúng có những điểm khác biệt lớn:
Bảng 1: Phân biệt cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh
Cho vay tiêu dùng Cho vay kinh doanh
Đối tượng Các cá nhân và hộ gia đình Gồm các cá nhân, hộ gia đình
và các hãng kinh doanh
Mục đích sử dụng
vốn vay
Nhằm mục đích phục vụ đời
sống như mua sắm hàng hóa,
dịch vụ, xây dụng và tu sửa nhà
cửa…
Nhằm tài trợ cho việc xây
dụng nhà xưởng, mua sắm
trang thiết bị máy móc,
nguyên vật liệu phục vụ sản
xuất kinh doanh
Đặc điểm - Các kho
ản cho vay tiêu dùng
thường có lãi suất “cứng nhắc”
- Các khoản vay tiêu dùng có độ
rủi ro cao
- Quy mô mỗi khoản vay tiêu
dùng nhỏ nhưng số lượng các
khoản vay tiêu dùng lớn
- Các kho
ản vay tiêu dùng mang
lại lợi nhận cao cho ngân hàng
- Chi phí các khoản vay tiêu
dùng thường lớn
- Các khoản vay kinh doanh có
lãi suất thay đổi theo điều kiện
thị trường
- Các khoản vay kinh doanh có
độ rủi ro thấp hơn
- Quy mô mỗi khoản vay lớn
hơn nhưng số lượng các khoản
vay nhỏ hơn
- Các khoản vay kinh doanh có
độ rủi ro thấp hơn nhưng
mang lại thu nhập thấp hơn
cho ngân hàng.
- Các khoản vay kinh doanh
thuongf có chi phí thấp hơn
Về quy trình cho vay cả hai hình thức tín dụng trên đều phải trải qua các quy trình
sau:
- Bước 1: Tìm hiểu sơ bộ về khách hàng
- Bước 2: Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn
- Bước 3: Phân tích tín dụng
- Bước 4: Giải quyết tín dụng
- Bước 5: Giải ngân
- Bước 6: Thu nợ
Song nội dung, quy trình, thủ tục của từng bước giữa hai hình thức cho vay có nhiều
điểm khác biệt, tùy thuộc vào quy định của từng ngân hàng.
1.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.1.6.1. Các nhân tố vĩ mô.
Giống như các thể chế kinh tế khác, các ngân hàng thương mại cũng hoạt động và
chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh như môi trường kinh tế xã hội, môi trường
quản lý, các môi trường về văn hóa và các chính sách kinh tế của nhà nước.
Môi trường kinh tế xã hội mà đặc trưng là trình độ phát triển kinh tế, thu nhập quốc
dân, thu nhập bình quân đầu người, mức sống của dân cư cùng với chế độ xã hội có ảnh
hưởng khá mạnh đến tới mức tiêu dùng của dân cư. Môi trường này mà ổn định là một
trong những điều kiện thúc đẩy người dân tiêu dùng, hạn chế tiết kiệm do đó dẫn đến mở
rộng hoạt động cho vay của ngân hàng. Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống văn bản
pháp luật của nhà nước cũng là một nhân tố vĩ mô khác có tác động sâu rộng đến hoạt động
cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại. Môi trường pháp lý có ảnh hưởng đến
trật tự, tính ổn định và tạo điều kiện cho hoạt động cho vay tiêu dùng diễn ra thông suốt,
đảm bảo sự phát triển bền vững, hạn chế những rắc rối tổn hại đến lợi ích của các bên tham
gia quan hệ vay mượn. Nếu hệ thống pháp luật có quy định đầy đủ cụ thể các vấn đề về
cho vay tiêu dùng sẽ thúc đẩy người tiêu dùng tìm đến ngân hàng đồng thời cũng khuyến
khích tính tích cực của các ngân hàng tham gia lĩnh vực này. Ngược lại, nếu tất cả các quy
định đều mang tính chung chung không rõ ràng sẽ khiến cả ngân hàng và khách hàng gặp
nhiêu khó khăn trong việc đi đến một thỏa thuận chung.
Môi trường văn hóa như thói quen, tâm lý, trình độ học vấn, bản sắc dân tộc (thể hiện
qua những nét tính cách của người dân như thích tằn tiện hay ưa hưởng thụ) hoặc các yếu
tố về nơi ở, nơi làm việc…cũng ảnh hưởng lớn đến thói quen chi dùng của người tiêu
dùng.
Hoạt động cho vay tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng của hệ thống các chính sách và
chương trình kinh tế của nhà nước, nếu nhà nước tăng đầu tư hoặc đưa ra các biện pháp
thông thoáng để khuyến khích đầu tư trong nước và tăng đầu tư nước ngoài như giảm các
thủ tục rườm rà, giảm thuế cho các công ty mới thành lập, tạo công ăn việc làm cho người
lao động. Đây rõ ràng là tiền đề thuận lợi để phát triển cho vay tiêu dùng. Mặt khác các
chính sách như giảm thuế thu nhập, áp dụng lãi suất ưu đãi đối với cho vay hộ nông dân,
hộ nghèo, các hộ dân tộc ở miền núi, các chương trình xóa đói giảm nghèo nhằm thực hiện
công bằng xã hội. Tất cả các biện pháp này sẽ có ảnh hưởng đến cầu tiêu dùng của dân cư
trước mắt và lâu dài
Tuy nhiên, muốn thực hiện tốt tất cả những chủ trương chính sách và những chương
trình hành động trên cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cấp, các nghành, các cơ
quan, doanh nghiệp với nhau và giữa các tổ chức đó với các ngân hàng thương mại.
1.1.6.2. Các nhân tố vi mô.
Những nhân tố vi mô ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng nằm trong phạm vi
ngân hàng bao gồm các nhân tố khách quan từ phía khách hàng và nhân tố chủ quan từ bản
thân ngân hàng.
* Những nhân tố khách quan:
Trong nhóm các nhân tố khách quan này, trước hết phải kể đến đạo đức khách hàng,
được đánh giá dựa trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm. Vì rằng nếu thực sự khách hàng
có thu nhập cao, ổn định để trả nợ, thậm chí đưa ra được điều kiện đảm bảo tốt thì chưa
chắc họ đã có thiện trí khi trả nợ. Bởi lẽ, khi đi vay, có thể người vay vẫn có ý định trả nợ
đầy đủ, nhưng trong sử dụng tiền vay, có thể do tư cách, do lòng tham hoặc muốn làm giàu
nhanh chóng họ sử dụng vốn vay sai mục đích vì không phải lúc nào ngân hàng cũng có
đầy đủ thông tin về người đi vay. Mặt khác, với những lĩnh vực có rủi ro cao thì khả năng
mang lại lợi nhuận cũng cao do đó người đi vay sẽ tìm mọi cách để có được khoản vay đó.
Nên trước khi cho vay, các cán bộ tín dụng phải đánh gíá độ tín nhiệm của khách hàng trên
cơ sở tính thật thà của người vay, ý muốn kiên quyết của khách hàng trong việc thực hiện
tất cả các giao ước trong hoạt động tín dụng, điều này được thể hiện một phần trong hồ sơ
của người xin vay.
Năng lực pháp lý là những quy định cụ thể về mặt pháp lý mà người vay cần phải có,
đây là cơ sở hình thành nghiệp vụ trả nợ của khách hàng trong quan hệ tín dụng, thông qua
thẩm định về năng lực pháp lý. Ngân hàng có thể biết được hiện khách hàng có liên quan
đến vụ án nào hay không, tài sản đảm bảo có liên quan đến các vụ kiện hoặc các tranh chấp
hay có quan hệ với các tổ chức tín dụng khác không.
Khả năng tài chính của khách hàng cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ ngân hàng, nếu khách hàng có thu nhập cao và ổn định thì việc trả nợ ngân
hàng thường ít ảnh hưởng đến các chi tiêu khác trong gia đình, đặc biệt là các nhu cầu thiết
yếu và với những người này họ sẵn sàng thanh toán tiền cho ngân hàng để tránh những rắc
rối về mặt pháp lý có thể gây ảnh hưởng đến nghề nghiệp công việc của họ. Ngược lại, với
những cá nhân hoặc hộ gia đình có thu nhập không ổn định hoặc thu nhập ở mức trung
bình thì việc thu hồi nợ của ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn do họ không biết trước
thời điểm sẽ nhận được thu nhập là khi nào, và bao giờ mới tích luỹ đủ để trả nợ ngân
hàng. Ngày nay, phần lớn các món vay tiêu dùng quy định nguồn trả là thu nhập thường
xuyên của khách hàng trong tương lai, ngoại trừ các khoản cho vay ngắn hạn.
Tài sản đảm bảo là cơ sở pháp lý có thêm nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng ngoài
nguồn thu nợ thứ nhất, mang tính dự phòng rủi ro. Mặc dù nắm giữ tài sản đảm bảo song
nếu khách hàng không trả nợ thì ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thu nhập vì muốn phát
mại tài sản phải có thời gian và phải mất chi phí khác liên quan, đó là chưa kể đến có thể
tại thời điểm đó giá trị tài sản trên thị trường không được duy trì như khi định giá để cho
vay. Vì vậy, tài sản đảm bảo không giữ vai trò quyết định trong việc khách hàng vay hay
không mà nó chỉ là một tiêu chuẩn để xét duyệt khi cho vay.
* Những yêu tố chủ quan:
Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng
thương mại nằm trong các quy định và các định hướng phát triển của ngân hàng. Nếu ngân
hàng không có một định hướng toàn thể về phát triển cho vay tiêu dùng thì cũng có nghĩa
là không có một hoạt động nào dành cho sự phát triển của hoạt động này.
Nội dung làm việc và chế độ thưởng phạt nghiêm minh cũng ảnh hưởng nhất định đến
hoạt động cho vay tiêu dùng, nội quy làm việc quy định nghiêm ngặt sẽ nâng cao trách
nhiệm của các cán bộ trong công việc cũng như thái độ của họ đối với khách hàng. Việc
thưởng phạt nghiêm minh sẽ khuyến khích các cán bộ ngân hàng học hỏi, phấn đấu để
nâng cao khả năng trình độ của mình, những yếu tố trên không những tạo tâm lý thoải mái
cho khách hàng khi đến ngân hàng mà còn thu hút được sự quan tâm của số lượng lớn các
khách hàng đối với những sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Nếu như đạo đức người vay được xếp vào vai trò hàng đầu các nhân tố khách quan thì
đạo đức cán bộ tín dụng cũng ở vị trí tương đương trong nhóm các nhân tố chủ quan.
Nhiều cán bộ tín dụng vì tư lợi cá nhân mà làm tổn hại cho cả ngân hàng và khách hàng.
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, các khách hàng sẵn sàng tìm đến ngân hàng khác
nếu họ thấy rằng không đáng tin cậy vào cán bộ trực tiếp quản lý khoản vay của họ, nếu
bên cạnh trình độ nghiệp vụ cao và trình độ hiểu biết rộng, các cán bộ ngân hàng phải luôn
trau dồi đạo đức, đặt lợi ích khách hàng và ngân hàng lên hàng đầu, sẵn sàng từ chối các
khoản vay nếu thấy có vấn đề và càng không vì nhu cầu cấp thiết của người vay mà ép họ
tư lợi cho bản thân.
Kỹ thuật và thủ tục thẩm định hiệu quả và không rườm rà, phức tạp là một trong
những phương thức quan trọng để thu hút khách hàng. Tuy nhiên sự tồn tại các kỹ thuật và
thủ tục này là không chỉ nhằm mục đích đó mà nhằm đưa ra các đánh giá đúng đắn về
khách hàng, về các khoản vay, từ đó có các quyết định cho vay đúng đắn. Một hệ thống kỹ
thuật thẩm định hợp lý, khoa học, thống nhất là yếu tố quyết định chất lượng thẩm định và
do đó quyết định chất lượng khoản vay.
Bên cạnh các yếu tố trên, yếu tố vốn cũng giữ vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến hoạt
động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tín dụng nói riêng. Cũng như các
doanh nghiệp kinh doanh khác, muốn tiến hành kinh doanh ngân hàng cũng phải có vốn.
Vốn tự có của ngân hàng càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng mở rộng phạm vi cho
vay và tăng cường cung cấp các sản phẩm dịch vụ… Mặt khác, khi có vốn lớn, các ngân
hàng cũng có điều kiện đầu tư vào các cơ sở hạ tầng, máy móc công nghệ, nâng cao khả
năng cạnh tranh và uy tín của ngân hàng đồng thời đảm bảo được an toàn, hạn chế được rủi
ro trong hoạt động.
1.2. Tổng quan thực trạng cho vay tiêu dùng tại Việt Nam hiện nay.
1.2.1. Khái quát nhu cầu vay tiêu dùng tại Việt Nam hiện nay
Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có nhiều đổi thay: tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn
định, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên đáng kể, hàng hoá phong
phú, đa dạng, vị thế đất nước được cải thiện rõ rệt trong khu vực và trên thế giới. Có được
điều đó, bên cạnh sự nỗ lực của tất cả các thành viên trong xã hội còn có sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng và Nhà nước thể hiện trong việc hoạch định đường lối, chính sách theo
hướng thông thoáng hơn, phù hợp với tình hình chung trên thế giới.
Năm 2006, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ổn định ở mức gần 8,2%, thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn viện trợ phát triển chính thức đạt mức kỷ lục (10,2
tỷ USD), xuất khẩu tăng trưởng cao với tổng kim ngạch đạt 39,6 tỷ USD, thị trường chứng
khoán bùng nổ với chỉ số VN – Index đã lên tới trên 1000 điểm. Sự kiện Việt Nam chính
thức là thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) từ tháng 1 – 2007 và Tổng
thống Mỹ ký Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam (PNTR) tạo cơ hội
cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập bình đẳng với nền kinh tế thế giới.
Kinh tế phát triển đã thúc đẩy nhiều hoạt động, một trong số đó là hoạt động tiêu
dùng của người dân. Nếu như trước đây, mong ước của họ chỉ là “ăn no mặc ấm” thì đến
nay điều họ quan tâm là “ăn ngon mặc đẹp” và làm sao đảm bảo cuộc sống tốt hơn cho bản
thân và những người xung quanh. Mặc dù, thu nhập hiện nay trong dân đã tăng nhưng chưa
đồng đều, một bộ phận nhỏ là có thu nhập cao còn lại là có thu nhập thấp và trung bình, số
thu nhập này thường không đáp ứng đủ nhu cầu chi tiêu và họ phải đi vay. Nắm bắt được
thực tế đó, các tổ chức tín dụng đã thực hiện cung cấp các khoản cho vay tiêu dùng dưới
nhiều hình thức và quy mô, đáp ứng nhu cầu khác nhau của người dân. Các Ngân hàng
thương mại quốc doanh, trước đây, không quan tâm chú trọng nhiều đến lĩnh vực cho vay
tiêu dùng nên thường cung cấp những khoản cho vay có quy mô nhỏ nhưng hiện nay đã bắt
đầu nhìn ra tiềm năng to lớn của thị trường này và có những chiến lược cạnh tranh hợp lý.
Các Ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng nước ngoài thực hiện cho vay tiêu dùng
khá sớm (Ngân hàng thương mại Cổ phần Á Châu, Ngân hàng nhà Hà Nội, Sacombank…)
với các sản phẩm như cho vay mua nhà, cho vay tiêu dùng đối với các cán bộ công nhân
viên chức, cho vay các tiểu thương … nhưng do quy mô vốn nhỏ nên khả năng cạnh tranh
chưa cao. Trong khi các ngân hàng đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng thì các công ty
cho thuê tài chính, ngân hàng tiết kiệm bưu điện … lại chưa thực sự quan tâm đến lĩnh vực
này. Đây là một thuận lợi cho các ngân hàng hiện nay. Nhưng trong tương lai, khi đội hội
đủ điều kiện, các tổ chức tín dụng trên sẽ trở thành những đối thủ cạnh tranh mạnh với các
ngân hàng về sản phẩm, dịch vụ cũng như công nghệ hiện đại và quy mô vốn.
1.2.2. Những thuận lợi và khó khăn của hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt Nam
hiện nay.
* Những thuận lợi
- Sự phục hồi và phát triển kinh tế của nước ta trong nhưng năm qua
Trong thời gian qua nền kinh tế của Việt Nam có mức tăng trưởng nhanh, mạnh và
đứng thứ hai trong khu vực chỉ sau Trung Quốc. Kinh tế tăng trưởng, chính trị ổn định là
môi trường thuận lợi thúc đẩy các hoạt động đầu tư, xây dụng, kinh doanh… phát triển.
Tốc độ tăng trưởng trong GDP trong nhưng năm vừa qua:
Bảng 2 : Tốc độ tăng trưởng GDP
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Tốc độ
tăng GDP
(%)
6.9 7.1 7.3 7.8 8.4
(Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2006)
Và trong nghị quyết của kỳ họp thứ 8 quốc hội khóa XI, GDP năm 2006 sẽ tăng
trưởng 8% so với năm 2005, qua đó có thể nhận thấy quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta
biến Việt Nam là một môi trường đầu tư thuận lợi thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài
nước thúc đẩy nên kinh tế phát triển hơn nưa, tạo ra nhiều công ăn việc làm. Với sự tăng
trưởng manh mẽ trong những năm vừa qua đã cho chúng ta thấy một vị thế mới của Việt
Nam trên trường quốc tế. Những đấu hiệu đó đã chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam đã phục
hồi và sãn sàng bước vào hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho các hoạt động của ngân hàng
nói chung và hoạt động cho vay tín dụng nói riêng ngày càng phát triển.
- Những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế đất nước vượt qua khó khăn thử thách, tiếp tục
quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản
xuất- kinh doanh, hoạt động tài chính- tiền tệ, lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều
chủ trưng, chính sách mới, phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của người dân, trong số
đó có quyết định tăng số ngày nghỉ lên 2 ngày/tuần và quyết định tăng lương với mức tối
thiểu là 450.000 đồng/1lao động/1 tháng đã thúc đẩy hoạt động tiêu dùng của người dân
tăng mạnh
Hoạt động tiền tệ- tín dụng cũng đạt được những kết quả mới sau khi chuyển từ ấn
định lãi suất sang áp dụng lãi suất thỏa thuận, làm cho tăng trưởng tín dụng cao hơn tăng
trưởng huy động- điều chưa từng xảy ra trong các năm trước đó. Tâm lý nắm giữ USD
giảm hẳn do tỷ giá VND/USD ổn định, tốc độ tăng giá đồng USD năm 2005 là 1.2%, bằng
một nửa tốc độ tăng giá hàng tiêu dùng và bằng một nửa so với năm 2003.
Bảng 3: Tổng phương tiện thanh toán, huy động vốn và dư nợ tín dụng so với
GDP trong thời kỳ 1989-2004
(Nguồn: Thông cáo của ngân hàng nhà nước Viêt Nam3/2007)
* Những khó khăn
- Tỷ lệ thất nghiệp tại các đô thị còn khá lớn và diễn biến phức tạp
Bảng 4: Tỷ lệ thất nghiệp tại các thành phố lớn
Năm
Chỉ tiêu
2000 2001 2002 2003
Tp Hà Nội
7.95 7.39 7.08 6.84
Tp Đà Nẵng
5.95 5.54 5.30 5.16
Tp Hồ Chí Minh
6.48 6.04 6.73 6.58
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Từ bảng số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta còn khá cao,
đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh. Hiện nay, tỷ lệ
thất nghiệp tuy đã giảm nhưng vẫn ở mức cao (khoảng 6.01% vào năm 2002). Đặc biệt, cơ
cấu lao động của nước ta còn nhiều điểm bất cập, xuất phát từ cơ chế đào tạo chưa hợp lý,
bộ phận quản lý thì thừa biên chế trong khi các ngành kỹ thuật vẫn thiếu kỹ sư. Mặc dù,
Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động cho
hợp lý nhưng công việc tiến hành rất chậm, chẳng những làm ảnh hưởng đến năng suất lao
động của cả nước nói chung mà còn làm cho thu nhập của dân cư và sức mua có khả năng
thanh toán không được cải thiện nhiều.
- Cơ cấu và thu nhập của dân cư còn nhiều điểm chưa hợp lý
Dân cư nước ta phân bố không đều và có sự chênh lệch về mức sống, trình độ, tích
luỹ và thói quen chi tiêu….Những người có thu nhập trung bình và cao tập trung ở thành
thị cũng có nghĩa là số này chiếm tỷ trọng nhỏ, khoảng 25%, còn lại khoảng 75% dân số
sống ở nông thôn có thu nhập cũng như mức sống thấp, khả năng tiêu dùng hàng hoá rất
hạn chế. Thêm vào đó, mức cầu tiêu dùng của người dân ở khu vực đô thị, tức bộ phận có
thu nhập trung bình và cao, đã giảm so với thu nhập của họ từ 77.48% năm 1996 xuống
còn khoảng 65,15% hiện nay. Bản chất của hoạt động cho vay nói chung và cho vay tiêu
dùng nói riêng là cho phép sử dụng trước thu nhập trong tưng lai. Việc giảm tiêu thụ hàng
hoá cũng có nghĩa là nhu cầu vay để sử dụng hàng hoá giảm, điều này sẽ có ảnh hưởng xấu
đến hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng.
Ngoài các yếu tố trên, các yếu tố về văn hoá- xã hội, cạnh tranh ngân hàng… cũng có
ảnh hưởng rất mạnh đối với hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng
nói riêng của các ngân hàng.
1.2.3. Các đối thủ cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng
Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng đang ngày càng gay gắt, không chỉ giữa các
ngân hàng trong nước với nhau, mà còn giữa các ngân hàng trong nước với ngân hàng
nước ngoài, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính. Tuy nhiên trong lĩnh vực cho
vay tiêu dùng, các tổ chức tài chính chưa thực sự là đối thủ cạnh tranh mạnh vì họ chưa
quan tâm nhiều đến lĩnh vực này. Còn lại, hầu hết các ngân hàng đều tích cực phát triển
hoạt động cho vay tiêu dùng, bởi lẽ, hơn ai hết, họ ý thức được những lợi ích to lớn mà cho
vay tiêu dùng mang lại: việc tập trung tương đối vào khu vực dân cư đã tạo điều kiện thuận
lợi cho các ngân hàng tạo dựng danh tiếng trong khu vực này đồng thời có thể thu hút
nguồn vốn ổn định và tưng đối rẻ do đó, thu về một tỷ suất lợi nhuận cao hơn.
Hiện nay, đối thủ cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng có thể được chia
thành 3 nhóm chính:
+ Nhóm 1: Bao gồm các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Đây là các ngân hàng có
ưu điểm nổi trội về vốn, thị trường, bề dày hoạt động và mạng lưới đối tác. Các ngân hàng
này có quy mô hợp lý, cơ cấu tối ưu, giá thành huy động vốn rẻ vì vậy họ cạnh tranh mạnh
về giá song điểm yếu của họ là chất lượng và tinh thần phục vụ, tác phong làm việc còn
mang nặng tính quan liêu. Tuy nhiên, gần đây họ đã bắt đầu đầu tư vào nâng cấp chất
lượng dich vụ và cạnh tranh ngày càng mạnh trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng, tạo sức ép
ngày càng tăng lên các ngân hàng cổ phần.
+ Nhóm 2: Gồm các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng liên doanh vốn. Các ngân
hàng này nhằm vào các khách hàng truyền thống là cộng đồng người nước ngoài tại Việt
Nam do họ có ưu thế về chất lượng dịch vụ, nổi bật trong số này là HSBC, ANZ…. Bên
cạnh đó, trên tiến trình hội nhập WTO vào ngày 1-4-2007 vừa qua, thống đốc Ngân hàng
Nhà nước đã ký quyết định cho phép các ngân hàng nước ngoài được phép lập ngân hàng
chi nhánh tại Việt Nam. Đây chính là những đối thủ cạnh tranh trước mắt của các ngân
hàng thương mại cổ phân nói chung.
+ Nhóm 3: Các ngân hàng cổ phần. Đây là nhóm không đồng nhất. Các ngân hàng cổ
phần thành công nhất là có định hướng khách hàng rõ ràng, tập trung vào một thị phần nhất
định. Hiện nay, các ngân hàng ACB và SACOMBANK đang dẫn đầu về hoạt động cho
vay mua nhà, cho vay cán bộ công nhân viên và cho vay các tiểu thương.
1.3. Những văn bản pháp luật quy định hoạt động cho vay tiêu dùng
Tính đến thời điểm hiện nay, các văn bản pháp luật quy định các vấn đề có liên quan
đến hoạt động cho vay tiêu dùng như sau:
Thông tư 06/2000/TT-NHNN1 ngày 4/4/2000 trong chưng VI mục 1 quy định: “Tổ
chức tín dụng được phép lựa chọn khách hàng vay để cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản khi cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển
hoặc phưng án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống đối với khách hàng vay”. Trong
đó một trong các điều kiện được vay vốn là “Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ khả thi phù hợp với quy định của pháp luật. Trường hợp vay để phục
vụ nhu cầu thiết yếu của đời sống thì khách hàng vay phải có phương án trả nợ khả thi”.
Tiếp đến, trong quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc
Ngân hàng nhà nước về “Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng”, điều
8 có quy định: “Tổ chức tín dụng xem xét quyết định cho khách hàng vay theo các thể loại
ngắn hạn, trung hạn, và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ đời sống và các dự án đầu tư phát triển”. Đồng thời, điều 19 cũng quy định: “Tổ chức
tín dụng không được cho vay đối với thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng
giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng, cán bộ
nhân viên trong chính tổ chức tín dụng đó thẩm định quyết định cho vay. Tổ chức tín dụng
cũng không được cho vay đối với bố, mẹ, vợ, chồng, con của các thành viên Hội đồng
quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc)”.
Như vậy, với quy định mới này, những đối tượng trên sẽ không được vay (kể cả cho mục
đích tiêu dùng) tại những tổ chức tín dụng mà bản thân họ là người làm nhiệm vụ, người
giữ chức vụ hoăc có thân nhân là người trực tiếp làm nhiệm vụ hoặc giữ chức vụ.
Bên cạnh các văn bản pháp quy quy định về cho vay tiêu dùng đối với khách hàng,
Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam cũng ban hành các văn bản pháp luật quy định việc cho
vay tiêu dùng đối với các cán bộ công nhân viên nhằm mục đích chính đáng như nâng cấp
nhà ở, mua phương tiện đi lại…
Tuy nhiên, các văn bản đó chỉ đưa ra những quy định chung nhất, khi áp dụng vào
thực tế hoạt động của các ngân hàng thì còn nhiều điểm thiếu, chưa phù hợp. Do vậy, mỗi
ngân hàng, tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và đặc điểm của mỗi sản phẩm, dịch vụ
cung cấp, đều đưa ra những quy định riêng dựa trên cơ sở những quy định chung đó. Là
một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần thực hiện hoạt động cho vay tiêu dùng
ngay từ khi nhu cầu của dân cư bắt đầu tăng, HDBank cũng đã ban hành một số quy định
cụ thể về hoạt động cho vay tiêu dùng thông qua thực tiễn hoạt động:
- Quyết định số 00163/QĐ-HĐQT ngày 08/02/2002 của hội đồng quản trị Ngân hàng
thương mại cổ phần Phát triển Nhà TP HCM về “Quy chế cho vay đối với khách hàng”,
khoản 4 điều 6 quy định điều kiện vay vốn “Có khả năng tài chính đủ đảm bảo thực hiện
phương án kinh doanh, phương án phục vụ đời sống và đủ trả nợ trong thời gian cam kết:
Phải có vốn tự có tham gia vào phương án kinh doanh, phương án phục vụ đời sống với tỷ
lệ tối thiểu là 30% tổng chi phí thực hiện phương án kinh doanh, phương án phục vụ đời
sống đối với trường hợp cá nhân vay vốn”
- Quyết định số 00622/TCB-QĐ.TGĐ ngày 8/7/2002 của Tổng giám đốc Ngân hàng
thương mại cổ phần Phát triển Nhà TP HCM về thể lệ “Cho vay nhà mới”, Điều 1 quy định
“Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Nhà TP HCM cho các đối tượng là thể nhân và
pháp nhân vay vốn bằng VND xây, mua, sửa nhà, chuyển quyền thuê lại nhà của Nhà nước
và chuyển quyền sử dụng đất theo chưng trình “Cho vay nhà mới” nhằm thực hiện đa dạng
hoá sản phẩm, tạo điều kiện cho việc cải thiện tình trạng về nhà ở, nâng cao chất lượng
cuộc sống cho nhân dân và tạo điều kiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
trong quá trình sản xuất, kinh doanh”. Đồng thời, điều 3 cũng quy định “Trường hợp vay
vốn xây, sửa nhà, mức vay tối thiểu là 30 triệu đồng, mức vay tối đa là 2 tỷ đồng, trường
hợp mua nhà, chuyển quyền sử dụng đất thì mức vay tối thiểu là 50 triệu đồng, mức vay tối
đa là 7 tỷ đồng”.
- Quyết định 01377/QĐ-TGĐ của Tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần
Phát triển Nhà TP HCM về việc “Cho cán bộ công nhân viên mua nhà trả góp”, điều 2 quy
định điều kiện hưởng ưu đãi như sau: “Cán bộ công nhân viên đang làm việc tại HDBank
tối thiểu là 2 năm, các đối tượng chưa đủ 2 năm nhưng có thành tích công tác xuất sắc, cán
bộ cấp trưởng phòng, trưởng quỹ trở lên có thể được ban Tổng giám đốc xem xét và quyết
định”.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN NHÀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1: Tổng quan về Ngân hàng Thương mại cổ phần Phát triển nhà TP Hồ Chí Minh
(HDBank)
2.1.1: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển
Ngày 04/01/1990 Ngân hàng Thương mại cổ phần( TMCP) Phát triển Nhà TP. Hồ
Chí Minh (HDBank) được thành lập. Là một trong những ngân hàng TMCP đầu tiên của cả
nước với vốn điều lệ ban đầu là 3 tỷ đồng, HDBank đã mang lấy sứ mệnh “phát triển nhà ở
và chỉnh trang đô thị, góp phần xây dựng TP. Hồ Chí Minh văn minh hiện đại”. Lấy sứ
mệnh làm mục tiêu hoạt động và phát triển, HDBank có chức năng thực hiện kinh doanh
tổng hợp, đa dạng trong lĩnh vực nhà ở; kinh doanh tiền tệ, tín dụng thông qua việc đầu tư
vốn, cung ứng tín dụng và dịch vụ nhà; tập trung huy động vốn và quản lý tất cả các nguồn
vốn để phục vụ chương trình phát triển nhà và chỉnh trang đô thị; tư vấn cho Uỷ ban nhân
dân TP. Hồ Chí Minh về chương trình, kế hoạch phát triển nhà và chỉnh trang đô thị.
Ngành nghề kinh doanh huy động vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn với các hình thức
tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn, chứng chỉ tiền gửi. Tiếp nhận vốn đầu tư và phát triển
của các tổ chức trong nước. Vay vốn các tổ chức tín dụng khác. Cho vay ngắn hạn, trung
hạn, dài hạn. Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá. Hùn vốn và liên doanh.
Làm dịch vụ thanh toán giữa các khách hàng, kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc theo tiêu
chuẩn quốc tế ở thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Thực hiện các nghiệp vụ
thanh toán quốc tế, huy động vốn từ nước ngoài và các dịch vụ ngân hàng khác trong quan
hệ với nước ngoài.
Toàn bộ hoạt động của HDBank đều được thực hiện thống nhất theo các Qui trình,
Qui chế của HDBank, tuân thủ nghiêm ngặt theo qui định của pháp luật. Năm 2004 vốn
điều lệ đạt 150 tỷ đồng (tăng 114% so với năm 2003), tỷ lệ chia cổ tức cho cổ đông đạt
12% /năm, giữ được tỷ lệ nợ quá hạn luôn thấp hơn mức Ngân hàng Nhà Nước cho phép.
Cho đến thời điểm tháng 12 năm 2005, HDBank đã đạt được mức vốn điều lệ là 300
tỷ đồng, tăng 100% so với năm 2004. Sau nhiều đợt thanh tra chặt chẽ của thanh tra Ngân
hàng Nhà nước, HDBank đã hoàn toàn đáp ứng được các tiêu chí về sự phát triển lành
mạnh của một ngân hàng thương mại cổ phần. Vào ngày 02-04-2007 vừa qua, tại đại hội
cổ đông của HDBank,các cổ đông đã thống nhất tăng vốn điều lệ của HDBank từ 500 tỷ
đồng (2006) lên 1000 tỷ đồng vào ngay trong tháng 4/2007.
Mặc dù là một ngân hàng TMCP có qui mô còn nhỏ, nhưng nếu xét về "tỷ suất lợi
nhuận đạt được/vốn điều lệ" HDBank có thể sánh ngang với các ngân hàng TMCP hàng
đầu ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh những hiệu quả về lợi nhuận, HDBank cũng rất quan tâm đến việc xây dựng
và quảng bá thương hiệu của mình, nhằm mục đích đưa thương hiệu HDBank trở thành
một thương hiệu có giá trị cao trong thị trường tài chính.
Ngân Hàng Thương mại Cổ Phần Phát Triển Nhà Tp Hồ Chí Minh (dưới đây được
gọi là “Ngân hàng”) được cấp phép hoat động theo Giấy phép hoạt động số 00019/NH-GP
ngày 06 tháng 06 năm 1992 do Thống đốc NHNN Việt Nam cấp và có:
1.Tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2.Tên của Ngân hàng là: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN
NHÀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
. Tên viết tắt: NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ.
. Tên đầy đủ bằng tiếng Anh: HOUSING DEVELOPMENT
COMMERCIAL JOINL STOCK BANK.
. Tên viết tắt bằng tiếng Anh: HOUSING DEVELOPMENT BANK (HDBank).
3. Trụ sở chính đặt tại: Số 33-39 đường Pasteur, P.Nguyễn Thái Bình, Quận 1, TP Hồ
Chí Minh.
Điện thoại: (84-8) 8299344
Fax : (84-8) 8299371
Email :
Webside : www.hdb.com.vn
Hiện nay HDBank đã có 13 chi nhanh trong cả nước tuy nhiên phạm vi hoạt động chủ
yếu tại TP Hồ Chí Minh với 10 chi nhánh, cùng với 1 chi nhánh đặt tại Cần Thơ, 1 chi
nhánh tại Bình Dương và vào tháng 9-2006 HDBank đã mở rộng ra thị trường phía bắc khi
khai trương chi nhánh HDBank tại Hà Nội và có định hướng phát triển các mạng lưới chi
nhánh tại các tinh phía Bắc
2.1.2: Cơ cấu tổ chức
- Cơ cấu cổ đông và đại hội cổ đông: Hiện có 8 doanh nghiệp quốc doanh là cổ đông
của ngân hàng chiếm 55.94% vốn điều lệ, các doanh ngiệp ngoài quốc doanh chiếm
27.99% và các thể nhân chiếm 16.07% vốn điều lệ. Đại hội cổ đông là cơ quan có quyền
quyết định về chuyến lược phát triển của ngân hàng và bầu ra cơ quan quản lý: Hội đồng
quản trị và ban kiểm soát. Đại hội cổ đông tổ chức hàng năm và có thể tổ chức bất thường.
- Hội đồng quản trị và hệ thống ủy ban trực thuộc
Hội đồng quản trị có 8 thành viên. Thường trực hội đồng quản trị gồm có: Chủ tịch,
Phó chủ tịch thường trực, Phó chủ tịch và ủy viên.