Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.78 KB, 78 trang )












LUẬN VĂN:

Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1












Lời nói đầu

Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn
các rủi ro. Trong điều kiện hiện tại, khi mà xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế


ngày càng phát triển thì nguy cơ gặp phải rủi ro của các doanh nghiệp ngày càng lớn. Việc
chủ động phòng ngừa rủi ro, đảm bảo an ninh tài chính và khả năng phát triển bền vững
của các doanh nghiệp trở thành vấn đề thời sự, cấp thiết trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của các doanh nghiệp. Trong quá trình quản lý và điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh, một trong những yếu tố quan trọng tác động đến kết quả hoạt động của doanh
nghiệp là việc huy động và sử dụng tài sản bằng tiền. Do đó, nhiệm vụ quan trọng của nhà
quản lý là luôn giữ được sự cân bằng hợp lý giữa các luồng tiền vào và luồng tiền ra của
doanh nghiệp, hay nói cách khác là luôn duy trì được một lượng tiền nhất định đủ để đáp
ứng các yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Bưu điện trung tâm 1 là đơn vị trực thuộc Bưu điện Hà Nội, trong thời gian qua
cũng đã quan tâm đến công tác quản lý ngân quỹ, song gặp không ít những khó khăn. Với
chiến lược phát triển của ngành Bưu điện trong xu thế hội nhập cạnh tranh, quản lý tốt
ngân quỹ đã và đang là một yêu cầu đối với Bưu điện trung tâm 1.
Vì vậy, sau một thời gian thực tập tại Bưu điện trung tâm 1, em đã chọn đề tài:
“Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại Bưu điện trung tâm 1” cho luận
văn tốt nghiệp của mình. Nội dung luận văn tốt nghiệp của em được trình bày theo 3
chương:
Chương 1: Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường.
Chương 2 : Thực trạng công tác quản lý ngân quỹ của Bưu điện trung tâm 1.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân quỹ tại
Bưu điện trung tâm 1.
Chương 1:
Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường

1.1 . Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường
1.1.1 Doanh nghiệp và chức năng tài chính của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, nơi kết hợp các yếu tố cần thiết để sản xuất và
bán các sản phẩm, dịch vụ tạo ra với mục đích thu lợi nhuận . Hoạt động của doanh nghiệp

được đặc trưng bởi 2 dạng:
+ Sản xuất : Thực hiện chế biến các sản phẩm và dịch vụ mua vào để tạo ra các sản
phẩm và dịch vụ có thể bán.
+ Trao đổi : Mua các yếu tố đầu vào (cung ứng) để phục vụ cho việc sản xuất ra các
sản phẩm, dịch vụ và đem bán (thương mại).
Hình 1.1 thể hiện hai chức năng cơ bản của doanh nghiệp là thương mại và cung
ứng-sản xuất. Hai chức năng này được gọi chung là hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.



Hình 1.1 : Dòng biến đổi vật chất của doanh nghiệp
Hoạt động trao đổi tạo ra dòng vật chất và tài chính đối ứng (Hình 1.2). Để có thể
tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể bán được, doanh nghiệp cần dùng vốn để mua sắm các
tài sản và sử dụng các tài sản đó để tạo ra giá trị gia tăng.





Hình 1.2: Dòng vật chất và dòng tài chính của doanh nghiệp
Tạo ra vốn và phân bổ hợp lý vốn vào các tài sản dùng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh để tạo ra giá trị gia tăng ổn định, ngày càng lớn và phân chia lợi ích tạo ra cho
các chủ thể liên quan là hoạt động cơ bản hình thành nên chức năng thứ ba của doanh
nghiệp là tài chính hay còn gọi là hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Chức năng tài chính hay hoạt động tài chính trước hết có nhiệm vụ hỗ trợ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành ổn định và có hiệu quả bằng các tài
sản dùng trong sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, hoạt động này cũng có thể tạo ra những thu
Sản xuất
Trao

đ
ổi

Dòng vào Dòng ra
Trao
đ
ổi

Trao
đổi
Cung
ứng

Sản xuất
Trao
đổi
Cung
ứng

Trao
đổi
Cung
ứng

Dòng v
ật chất



Dòng tài chính

Dòng v
ật chất



Dòng tài chính
nhập ngoài sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp bằng các tài sản tài chính. Hai mảng
hoạt động tài chính này cấu thành hoạt động tài chính trọn vẹn trong doanh nghiệp và có
mối quan hệ mật thiết với nhau cho dù mỗi mảng có đặc trưng riêng.
Đối với doanh nghiệp, trong giai đoạn ngắn hạn, việc đảm bảo cân bằng giữa khả
năng và nhu cầu tài trợ thường xuyên được xem là mục tiêu chính của quản lý tài chính.
Việc đảm bảo cân bằng tài chính ngắn hạn giúp cho doanh nghiệp hoạt động ổn định, có
hiệu quả, cơ sở của sự tăng trưởng đều đặn và liên tục theo định hướng chiến lược. Vì vậy
trong quản lý tài chính ngắn hạn, quản lý ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng.
1.1.2 Vai trò của ngân quỹ đối với hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường
1.1.2.1 Khái niệm ngân quỹ
Ngân quỹ là khái niệm dùng để chỉ tiền ( bao gồm tiền mặt trong két tại doanh
nghiệp và tiền gửi ngân hàng) và các khoản tương đương tiền như chứng khoán dễ bán.
Các loại chứng khoán giữ vai trò như một “ bước đệm ” cho tiền mặt, vì nếu số dư tiền mặt
nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng
khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém
chi phí. Những khoản phải thu có khả năng thu được tiền ngay khi cần cũng được coi là
một phần của ngân quỹ.
Chúng ta có thể hiểu ngân quỹ là khoản chênh lệch giữa thực thu ngân quỹ và thực
chi ngân quỹ tại một thời điểm nhất định của doanh nghiệp.
Ngân quỹ tác động tới cả đầu vào và đầu ra của hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây
là công cụ giúp doanh nghiệp thực hiện việc thanh toán các khoản chi, trao đổi hàng hoá…
nhằm mục tiêu sinh lợi. Doanh nghiệp duy trì một mức dự trữ tiền dương là nhằm để có
phương tiện giao dịch giúp doanh nghiệp mua sắm hàng hoá, nguyên vật liệu và thanh toán

các khoản chi cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong hiện tại
cũng như những khoản chi bất thường hay những nhu cầu về tiền đột xuất trong tương lai.
Tiền giúp doanh nghiệp thực hiện được điều đó vì tiền có các chức năng chủ yếu: tiền là
phương tiện lưu thông, tiền là phương tiện thanh toán, tiền là phương tiện đo lường giá trị,
tiền là phương tiện dự trữ về mặt giá trị.
1.1.2.2 Ngân sách hoạt động hàng năm và sự hình thành ngân quỹ
a) Các loại ngân sách hoạt động hàng năm của doanh nghiệp
a.1) Ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh
Ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tổng hợp các dòng tài
chính vào và ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đó là doanh thu và
các khoản chi có xuất quỹ liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Các dòng tài
chính được thiết lập căn cứ trên giá trị phát sinh trong từng khoảng thời gian xem xét. Việc
thiết lập ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ làm xuất hiện các thành phần liên
quan đến tài sản lưu động và nợ ngắn hạn. Việc thiết lập ngân sách hoạt động sản xuất
kinh doanh thường theo từng tháng và tập hợp thành các ngân sách theo chức năng trên cơ
sở ngân sách hoạt động của các bộ phận.
Các ngân sách chức năng trong ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp bao gồm:
+ Ngân sách bán hàng là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận bán hàng.
Ngân sách bán hàng hình thành hai dòng tài chính cơ bản:
- Dòng doanh thu phụ thuộc vào khối lượng bán ra và biểu giá bán.
- Dòng chi liên quan đến chi phí cho hoạt động bán hàng không tính đến chi
phí khấu hao tài sản cố định dùng trong bán hàng.
Chính sách tín dụng đối với khách hàng của doanh nghiệp sẽ tác động đến ngân
sách bán hàng và làm xuất hiện khoản Phải thu dự tính.

























Hình 1.3 -Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh-
+ Ngân sách sản xuất là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận sản xuất.
Ngân sách sản xuất chỉ bao gồm các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản
xuất chế biến : Chi mua nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất
chung, không tính đến chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong sản xuất. Ngân sách sản
xuất được hình thành từ chương trình sản xuất của doanh nghiệp căn cứ vào chương trình
Kế hoạch
bán hàng
Ngân sách
bán hàng
T

ồn kho
hàng hoá
Kế hoạch
s
ản xuất

T
ồn kho
NVL
Kế hoạch
cung
ứng

Ngân sách
sản xuất
Doanh thu

Chi phí bán hàng
Phải thu
Giá bán, s
ố l
ư
ợng bán

Chính sách thương mại
T
ồn kho
đ
ầu kỳ


Chính sách dự trữ
S
ố l
ư
ợng sản xuất

Mức tiêu hao
T
ồn kho
đ
ầu kỳ

Chính sách mua
Ngân sách
quản lý
Chi phí QL

Hàng tồn kho
Phải trả
Chi phí s
ản xuất

Hàng tồn kho
Phải trả
Ngân sách hoạt động SXKD
bán hàng dự kiến có tính tới mức tồn kho thành phẩm đầu kỳ, mức tồn kho thành phẩm
cuối kỳ mong muốn.
Ngân sách sản xuất sẽ bao gồm trong nó cả ngân sách cung ứng vì quá trình sản
xuất sẽ làm xuất hiện nhu cầu tiêu hao nguyên vật liệu. Từ mức tồn kho nguyên vật liệu
đầu kỳ, mức tồn kho nguyên vật liệu cuối kỳ mong muốn và nhu cầu sử dụng phát sinh sẽ

xác định tổng giá trị nguyên vật liệu cần mua, phương thức cung ứng. Từ ngân sách sản
xuất sẽ xác định được mức Tồn kho và khoản Phải trả dự tính.
+ Ngân sách quản lý chung là tổng hợp toàn bộ ngân sách của các bộ phận gián
tiếp.
Ngân sách quản lý chung chỉ bao gồm các khoản chi phục vụ quản lý và cũng
không tính tới chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong quản lý.
a.2) Ngân sách đầu tư
Đầu tư là một hoạt động nằm trong chiến lược của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc
đầu tư thường đòi hỏi một khoản tiền lớn, sẽ ảnh hưởng đến ngân quỹ khi thực hiện các
khoản chi đầu tư theo lịch giải ngân đã được hoạch định. Trong phạm vi quản lý tài chính
ngắn hạn, ngân sách đầu tư sẽ liên quan đến dòng tài chính ra nhằm mua sắm tài sản cố
định dùng trong sản xuất kinh doanh (đầu tư bên trong) , bao gồm:
Các khoản chi đầu tư hàng năm (đầu tư thay thế ).
Các khoản chi cho đầu tư phát triển ( mở rộng, hiện đại hoá ).






Hình 1.4 - Sơ đồ hình thành ngân sách đầu tư -

a.3) Ngân sách hoạt động tài chính
Ngân sách hoạt động tài chính liên quan đến các hoạt động vay, cho vay và đầu tư
tài chính dài hạn, góp vốn liên doanh, bao gồm các dòng tài chính vào như thu tiền ứng với
các khoản cho vay, thu tiền từ các tài sản tài chính dài hạn, và các dòng tài chính ra như trả
Đầu tư phát triển đầu tư hàng năm
Ngân sách đầu tư
Đầu tư thay thế
Đầu tư mở rộng

hiện đại hoá
Thu HĐtc Chi hđtc
tiền ứng với các khoản đi vay, trả tiền cho các tài sản tài chính dài hạn, góp vốn liên
doanh.






Hình 1.5- Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động tài chính -
a.4) Ngân sách hoạt động bất thường
Ngân sách này, khi lập kế hoạch, chỉ xét đến các khoản thu và chi do bán tài sản cố
định cần thanh lý. Các khoản thu, chi bất thường khác không được xem xét. Tuy nhiên,
nếu doanh nghiệp thực hiện điều chỉnh các quỹ dự phòng thì việc điều chỉnh sẽ được thể
hiện ở ngân sách này:
Điều chỉnh tăng các quỹ dự phòng được xem như dòng tài chính ra tức là khoản chi
bất thường.
Điều chỉnh giảm các quỹ dự phòng được xem như dòng tài chính vào tức là khoản
thu bất thường.







Hình 1.6 - Sơ đồ hình thành ngân sách hoạt động bất thường-
b) Sự liên kết của các ngân sách hoạt động hình thành ngân quỹ
Để xác lập được trạng thái ngân quỹ cần phải liên kết các ngân sách hoạt động bộ

phận. Trước khi liên kết các ngân sách hoạt động bộ phận, cần có sự điều chỉnh đối với
ngân sách hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự điều chỉnh đối với ngân sách hoạt động sản
Thu bất thường Chi bất thường
Ngân sách hđ bất thường
Thanh lý TSCĐ

Điều chỉnh giảm các
quỹ dự phòng
Chi phí liên quan đ
ến
việc thanh lý TSCĐ
Điều chỉnh tăng các
quỹ dự phòng
xuất kinh doanh sẽ căn cứ trên chính sách thương mại dự kiến của doanh nghiệp và chính
sách của Người bán đối với cách mua dự kiến mà doanh nghiệp lựa chọn.









Hình 1.7 -Sơ đồ liên kết các ngân sách hoạt động hình thành ngân quỹ-
Chính sách thương mại của doanh nghiệp được thể hiện ở cách thức thanh toán áp
dụng cho khách hàng. Điều này làm cho khoản thực thu trong kỳ xem xét có thể khác biệt
so với doanh thu. Việc điều chỉnh là để xác định dòng thực thu của doanh nghiệp trong
thời kỳ xem xét sau khi đã loại bỏ lượng tiền mà doanh nghiệp cung cấp tín dụng (tín dụng
thương mại) cho khách hàng (Phải thu).Việc điều chỉnh đối với khoản thu từ bán hàng sẽ

cho thấy một phần khả năng tài trợ bên trong thực tế của doanh nghiệp từ hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Chính sách của Người bán cũng đòi hỏi việc điều chỉnh theo cách tương tự. Tất
nhiên nó sẽ có tác động đối với khoản chi mua của doanh nghiệp trong thời kỳ xem xét và
cho biết một phần nhu cầu tài trợ thực tế phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Việc điều chỉnh cũng có thể phải áp dụng đối với ngân sách hoạt động bất thường
liên quan đến thanh lý tài sản cố định. Việc điều chỉnh các quỹ dự phòng sẽ chưa thực hiện
ở bước này.
Các ngân sách đầu tư và ngân sách hoạt động tài chính cũng sẽ không điều chỉnh ở
bước thiết lập ngân quỹ đầu tiên vì các ràng buộc hợp đồng đối với các khoản vay hoặc
các ràng buộc chiến lược đối với việc đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Ngân
quỹ
Ngân sách ho
ạt
động sxkd
Ngân sách ho
ạt
động đầu tư
Ngân sách ho
ạt
động tài chính
Ngân sách ho
ạt
động bất thường
Tổng hợp các ngân sách hoạt động sẽ xác định ngân quỹ của doanh nghiệp trong
thời kỳ xem xét và là cơ sở để đưa ra các quyết định tài chính của doanh nghiệp.
1.1.2.3 Vai trò của ngân quỹ trong hoạt động của doanh nghiệp
Chu trình tài chính của doanh nghiệp có 3 chu kỳ: Chu kỳ tạo vốn; chu kỳ sử dụng

vốn; chu kỳ phân chia thu nhập. Đối với một doanh nghiệp đang hoạt động thì ba chu kỳ
này đan xen nhau, có lúc kế tiếp, có lúc song hành và cũng có lúc gián đoạn. Điều này
tương ứng với tính chất đan xen trong việc hình thành nhu cầu cũng như khả năng tài trợ
của doanh nghiệp trong suốt một thời kỳ nhất định. Trong giai đoạn ngắn hạn, việc đảm
bảo cân bằng giữa khả năng và nhu cầu tài trợ thường xuyên được xem là mục tiêu chính
của quản lý tài chính. Việc đảm bảo cân bằng tài chính ngắn hạn sẽ giúp cho doanh nghiệp
hoạt động ổn định, có hiệu quả, cơ sở của sự tăng trưởng đều đặn và liên tục theo định
hướng chiến lược. Vì vậy, ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của doanh
nghiệp, với mục tiêu kiểm soát quá trình hoạt động của doanh nghiệp theo thời gian.
Các doanh nghiệp dự trữ tiền mặt vì 3 động lực chính: động lực giao dịch; động lực
dự phòng; động lực đầu cơ.
Động lực dự trữ tiền để giao dịch nghĩa là doanh nghiệp dự trữ tiền để có thể mua
sắm hàng hoá, nguyên vật liệu và thanh toán các chi phí cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Tuỳ vào đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà
doanh nghiệp có thể cần nhiều tiền hay ít. Đối với các doanh nghiệp bán lẻ, hầu như hoạt
động nào cũng đòi hỏi cần đến tiền. Có những thời điểm, nhu cầu tiền của doanh nghiệp
rất cao, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp dịch vụ vào các dịp lễ tết hay các doanh
nghiệp có ngành nghề kinh doanh theo mùa vụ… Đến thời điểm này, nhu cầu tiền của
doanh nghiệp lên rất cao để mua hàng hoá, nguyên vật liệu. Ngoài ra, khi ngân quỹ thặng
dư tiền sẽ giúp doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh cho nhà cung ứng, điều này có
thể là thuận lợi cho doanh nghiệp rất nhiều vì uy tín doanh nghiệp được nâng cao và doanh
nghiệp có thể hưởng lợi thế chiết khấu.
Doanh nghiệp giữ tiền nhằm phòng ngừa khả năng thu chi tiền trong tương lai biến
động không thuận lợi như sự thay đổi các chính sách của nhà nước, đình công, hỏa hoạn,
khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh doanh. Điều đó cũng có nghĩa là nếu khả năng
dự báo thu chi bằng tiền trong tương lai của doanh nghiệp kém thì nhu cầu tiền dự phòng
là cao và ngược lại, nếu doanh nghiệp nắm rõ được dòng tiền vào ra trong thời gian tới thì
nhu cầu tiền dự phòng sẽ thấp… Doanh nghiệp sẽ không thể duy trì hoạt động bình thường
để tồn tại và cạnh tranh trên thị trường nếu không có một mức tồn quỹ rộng rãi đủ để bù
đắp sự mất mát về máy móc, nguyên vật liệu…

Ngoài ra, doanh nghiệp giữ tiền vì động lực đầu cơ nhằm chuẩn bị sẵn sàng để lợi
dụng ngay các cơ hội tốt trong kinh doanh, đầu tư khi phát sinh những cơ hội đem lại lợi
nhuận, thường là đầu tư vào các chứng khoán dễ bán. Việc đầu tư vào chứng khoán dễ bán
còn nhằm mục đích dự phòng mà không phải giữ tiền mặt.
Như vậy, ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của một doanh
nghiệp, là phương tiện giúp doanh nghiệp duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh và
đảm bảo khả năng thanh toán. Doanh nghiệp sẽ phải làm thế nào để ổn định mức cân đối
ngân quỹ, tránh những trường hợp biến động bất thường xảy ra. Điều này đòi hỏi phải
quản lý tốt ngân quỹ.

1.2 Công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường
Mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hóa giá trị của doanh nghiệp. Một cách cụ
thể, quản lý tài chính là việc thiết lập và thực hiện thủ tục phân tích, đánh giá và hoạch
định tài chính, giúp cho nhà quản lý đưa ra các quyết định đúng đắn cũng như kiểm soát
hữu hiệu quá trình thực hiện các quyết định về mặt tài chính với các nguyên tắc:
 Không bao giờ để thiếu tiền đảm bảo khả năng thanh toán.
 Đưa ra các quyết định đầu tư đúng, đạt hiệu quả cao.
 Đưa ra các quyết định tài trợ hợp lý với chi phí vốn thấp.
Ngân quỹ là một bộ phận của vốn lưu động có tính lỏng cao nhất, với hai bộ phận
chủ yếu là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng liên quan đến các dòng tiền vào ra doanh
nghiệp - có nghĩa là nó liên quan tới các khoản thu chi bằng tiền. Bất cứ khi nào phát
sinh các khoản thu chi liên quan đến tiền, mức dự trữ tiền trong ngân quỹ đều biến động.
Mặt khác, các khoản thu chi tiền mặt lại không đồng thời và thường diễn ra bất thường,
ảnh hưởng không nhỏ tới mức dự trữ tiền. Vì vậy, để tránh những trường hợp biến động
bất thường của ngân quỹ đòi hỏi các doanh nghiệp phải quản lí ngân quỹ.
1.2.1.1 Đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Doanh nghiệp luôn quan tâm tới mức dự trữ tiền vì ngân quỹ biến động theo chiều
hướng bất lợi sẽ ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Như vậy,

một vai trò quan trọng của quản lý ngân quỹ là giúp cho doanh nghiệp đảm bảo khả năng
thanh toán. Khả năng thanh toán là khái niệm dùng để chỉ khả năng đáp ứng các khoản nợ
hay các khoản chi khi đến hạn. Do sự khác biệt về thời điểm ghi nhận giữa thu nhập và chi
phí với thu và chi ngân quỹ, lợi nhuận trên báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
chỉ là con số trên sổ sách kế toán, lợi nhuận này nếu không được biểu hiện dưới hình thái
tiền, thì cho dù cao đến mức nào cũng không thể hiện được khả năng tái sản xuất mở rộng
cũng như đảm bảo khả năng thanh toán doanh nghiệp được diễn ra bình thường. Trong
nhiều trường hợp doanh nghiệp không đủ tiền để trang trải các khoản nợ, khoản chi phát
sinh do các dòng tiền vào, ra doanh nghiệp không diễn ra cùng thời điểm, độ lớn, cùng chu
kỳ. Trong khi đó, việc dự đoán khi nào phát sinh các khoản thu, các khoản chi bằng tiền,
số lượng là bao nhiêu và chu kì các khoản thu, các khoản chi đó như thế nào rất khó.
Vì vậy, khả năng thanh toán tốt có ý nghĩa quan trọng với doanh nghiệp bởi lẽ nó
quyết định tới mối quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng, ảnh hưởng tới uy tín của
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp thường xuyên thanh toán đúng hạn có thể được hưởng
chiết khấu hay các ưu đãi khác, duy trì được mối quan hệ lâu dài với nhà cung cấp, có
được nguồn hàng ổn định. Ngoài ra, một doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt sẽ dễ
dàng vay tiền từ ngân hàng hay tìm kiếm các nguồn tài trợ khác cả trong ngắn hạn lẫn dài
hạn. Ví dụ, doanh nghiệp có thể xin được hưởng chính sách tín dụng thương mại hay phát
hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn. Vì vậy, doanh nghiệp cần nhận thức
được tầm quan trọng của công tác quản lí ngân quỹ để dự báo những trường hợp có thể
dẫn đến thiếu hụt tiền, có thể đẩy doanh nghiệp vào trạng thái khó khăn, từ đó có biện
pháp khắc phục như tìm nguồn tài trợ hay tìm cách tăng thu giảm chi. Đồng thời dự báo
những trường hợp ngân quỹ có thể thặng dư để có biện pháp sử dụng tiền nhàn rỗi, tạo
thêm nguồn cho ngân quỹ, phòng ngừa cho biến động bất thường có thể xảy ra trong tương
lai.
1.2.1.2 Lựa chọn nguồn tài trợ với chi phí thấp
Khi ngân quỹ thâm hụt do phát sinh nhiều các khoản chi nhằm duy trì hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tìm cách tạo nguồn ngắn hạn để bù
đắp thâm hụt, tránh tình trạng mất khả năng thanh toán. Doanh nghiệp có nhiều cách để
tìm nguồn tài trợ ngắn hạn nhưng vì những lí do nào đó, doanh nghiệp không thể tìm được

nguồn chi phí thấp mà phải vay các tổ chức, vay cá nhân, hay huy động từ các nguồn có
chi phí cao hơn. Nếu như doanh nghiệp có kế hoạch phòng ngừa trường hợp này, doanh
nghiệp đã có thể có biện pháp khắc phục tối ưu. Chẳng hạn, doanh nghiệp có thể giảm các
khoản phải thu khách hàng; tăng cường quan hệ tốt với nhà cung cấp bằng cách thanh toán
nhanh để có thể được hưởng các ưu đãi về giá hay trả chậm trong tương lai; đầu tư tiền vào
chứng khoán và đặc biệt là có kế hoạch vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng, hạn chế
các khoản vay không cần thiết để vay trong tương lai. Nếu doanh nghiệp không có kế
hoạch chủ động trước sẽ khiến doanh nghiệp có thể phải “vay nóng” từ các tổ chức, cá
nhân có chi phí cao, phải chịu các điều kiện ràng buộc bất lợi cho doanh nghiệp.
Như vậy, các hình thức tài trợ với chi phí lớn khiến chi phí vốn của doanh nghiệp
cao, làm chi phí của doanh nghiệp trong tương lai tăng lên, ảnh hưởng tới lợi nhuận đồng
thời hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp trong tương lai. Và đặc biệt trong
trường hợp doanh nghiệp không thể tìm được nguồn tài trợ nào, doanh nghiệp sẽ có nguy
cơ mất khả năng thanh toán. Rõ ràng, nếu không có sự quản lí chặt chẽ ngân quỹ, để tình
trạng thâm hụt ngân quỹ bất lợi xảy ra, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ
bị ảnh hưởng và việc tối thiểu hoá chi phí vốn sẽ không đạt được.
Đối với doanh nghiệp dịch vụ, mọi khoản chi lớn thường đã phát sinh vào kì trước,
đến kì sau, doanh nghiệp mới thực hiện cung ứng dịch vụ và đồng thời nhận được các
khoản thu bằng tiền. Như vậy, ngân quỹ của doanh nghiệp sẽ thặng dư tiền vì thu bằng tiền
của doanh nghiệp vượt trội các khoản chi trả bằng tiền trong kỳ. Tiền để tại két của doanh
nghiệp hay gửi không kì hạn vào ngân hàng không đem lại mấy lợi nhuận. Doanh nghiệp
cũng không thể tính tới việc đầu tư dài hạn vì đây chỉ là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong
ngắn hạn; cho dù đầu tư dài hạn sẽ hứa hẹn nhiều lợi nhuận thì nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi
ro khi doanh nghiệp có nhu cầu thanh toán. Một số doanh nghiệp sẽ tìm cách đầu tư ngắn
hạn tiền nhàn rỗi vào tài sản sinh lợi mà độ rủi ro có thể chấp nhận. Tuy nhiên sẽ có những
doanh nghiệp không đầu tư tiền nhàn rỗi mà chỉ gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng bởi họ
luôn duy trì một mức dự trữ tiền rộng rãi. Như vậy, quản lí ngân quỹ tốt sẽ sẽ tạo cơ hội
sinh lợi, tăng lợi nhuận và và lựa chọn nguồn tài trợ phù hợp với chi phí thấp.
1.2.1.3 Dự phòng cho những biến động bất thường
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không tránh khỏi

những biến động bất thường như thiên tai, đình công, khách hàng của doanh nghiệp mất
khả năng thanh toán Những tác động trên có thể trực tiếp làm giảm các khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp hay buộc doanh nghiệp phải chi những khoản chi bất thường. Vì
vậy, doanh nghiệp phải dự trữ một khoản tiền nhất định để dự phòng cho những biến động
bất thường đó. Chi phí cho việc dự phòng những biến động bất thường đó chính là khoản
thu nhập mà doanh nghiệp có thể thu được nếu sử dụng khoản tồn quỹ đó vào kinh doanh.
Khi xảy ra những tổn thất, khoản được doanh nghiệp sử dụng ngay để thanh toán
cho những tổn thất là ngân quỹ. Nếu mức tồn quỹ không đủ tài trợ cho những tổn thất có
nghĩa là thời điểm đó có thể doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán. Vì vậy, công tác
quản lý ngân quỹ đóng vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp.
1.2.2 Nội dung công tác quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp
1.2.2.1 Dự tính thu nhập và chi phí
Để có thể dự tính được thu nhập và chi phí trong kỳ tới, doanh nghiệp cần phải
thường xuyên tiến hành nghiên cứu thị trường, xác định được nhu cầu của thị trường về
sản phẩm của đơn vị mình trong kỳ tới là bao nhiêu, xây dựng kế hoạch sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp trong kỳ tới như thế nào. Từ đó doanh nghiệp có thể dự tính
lượng hàng hoá, dịch vụ được cung cấp trong từng kỳ. Ngoài ra, doanh nghiệp phải dự tính
trước những biến động trên thị trường sắp tới về cung các hàng hóa, nguyên vật liệu đầu
vào để từ đó có thể tính được các chi phí mà doanh nghiệp sẽ phải bỏ ra trong kỳ. Như
vậy, hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp phải bao hàm đầy đủ thông tin phản ánh tình
hình hoạt động doanh nghiệp trong kỳ và dự tính mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp
trong kỳ tới.
 Căn cứ vào nguồn hình thành, thu nhập của doanh nghiệp gồm:
+)Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh
Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản thu chủ yếu trong thu nhập của
doanh nghiệp. Doanh thu bán hàng là nguồn thu chủ yếu trong thu nhập từ hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, thời điểm để xác định doanh thu là khi người
mua chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc tiền đã thu được hay chưa.
Đối với doanh nghiệp dịch vụ, doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền
bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ sau khi trừ khoản giảm giá hàng bán (nếu có

chứng từ hợp lệ) được khách hàng chấp nhận thanh toán không phân biệt đã thu được tiền
hay chưa. Ngoài ra, doanh thu từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp còn bao gồm các
khoản phí thu thêm ngoài giá bán nếu có, phụ thu theo quy định của nhà nước mà doanh
nghiệp được hưởng đối với dịch vụ cung cấp trong kỳ.
+ )Thu nhập từ hoạt động tài chính :
Thu nhập hoạt động tài chính được xác định tại thời điểm tính lãi thu được, không
phụ thuộc tiền lãi đã thu được hay chưa.
+)Thu nhập từ hoạt động bất thường
Thời điểm để xác định thu nhập từ hoạt động bất thường là khi các đối tác của
doanh nghiệp chấp nhận thanh toán cho các khoản trên, không phụ thuộc tiền đã thu được
hay chưa.
 Căn cứ vào nguồn hình thành, chi phí của doanh nghiệp gồm:
+ )Chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các chi phí
như: Chi phí nguyên, nhiên vật liệu, khấu hao tài sản cố định, tiền lương và các khoản chi
phí có tính chất lương, chi phí dịch vụ mua ngoài Các chi phí này phát sinh có tính chất
thường xuyên và gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm.
Đối với doanh nghiệp thương mại dịch vụ, chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh
bao gồm các chi phí từ khi mua hàng cho đến khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng và bảo
hành cho khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác, chi phí kinh
doanh dịch vụ bao gồm chi phí vận chuyển, chi phí quản lý, chi phí bằng tiền khác
+) Chi phí cho hoạt động tài chính :
Chi phí cho hoạt động tài chính bao gồm những khoản lãi mà doanh nghiệp chi trả
cho việc đầu tư ra bên ngoài nhằm mục đích sử dụng hợp lý các nguồn vốn, chi trả tiền vay
ngân hàng, chi trả lãi cho bên góp vốn liên doanh và các khoản chi khác có liên quan đến
hoạt động tài chính của doanh nghiệp đều được coi là những khoản chi phí cho hoạt động
tài chính của doanh nghiệp.
+) Chi phí cho hoạt động bất thường
Chi phí cho hoạt động bất thường của doanh nghiệp bao gồm : Chi phí phạt vi phạm
hợp đồng, chi phí thanh lý tài sản và các chi phí cho các hoạt động bất thường khác.

1.2.2.2 Dự tính nhu cầu tiền
Trên cơ sở thu nhập và chi phí được dự tính cho kỳ sau, nhà quản lý tài chính cần
dự tính nhu cầu tiền của doanh nghiệp. Nguồn tiền của doanh nghiệp là những khoản
doanh nghiệp thực thu được trong kỳ và mức tồn quỹ của kỳ trước còn việc sử dụng nguồn
tiền chính là việc chi trả trong kỳ.
Việc dự tính này nhằm hai mục đích: thứ nhất, giúp các nhà quản lý nắm được nhu
cầu tiền trong tương lai; thứ hai, cho biết khả năng thu được tiền để đáp ứng các nhu cầu
chi tiêu. Việc dự tính các khoản thu chi là không dễ song doanh nghiệp có thể căn cứ vào
thu chi của kỳ trước, kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh kỳ này để ước lượng một cách
tương đối thời điểm, chu kỳ, khối lượng các dòng tiền vào, ra. Từ đó doanh nghiệp có thể
xác định mức cân đối tiền mặt khi có nhu cầu thu chi phát sinh.
Trước hết, doanh nghiệp cần phải dự đoán tiền thu ngân quỹ. Các khoản thực thu
ngân quỹ bao gồm: Thu tiền bán hàng trong kỳ; Thu tiền nợ kỳ trước của khách hàng; Thu
từ hoạt động tài chính; Thu từ hoạt động bất thường. Doanh nghiệp phải xác định thời gian
trả tiền trung bình của các khoản phải thu khác nhau. Từ đó, doanh nghiệp có thể xác định
được tỷ lệ phần trăm doanh thu được chuyển thành tiền trong kỳ.
Sau khi dự tính các khoản thu vào ngân quỹ, nhiệm vụ tiếp theo là cần dự toán các
khoản chi ra từ ngân quỹ như: Thanh toán các khoản phải trả; Chi tiền lương cho công
nhân viên, nhà quản lý và chi khác; Thanh toán thuế, lợi tức, lãi cổ phần.
Cuối cùng từ những dự báo về thực thu, thực chi ngân quỹ nhà quản lý sẽ tìm ra
chênh lệch thu chi ngân quỹ, đối chiếu với mức tồn quỹ tiền mặt tối ưu của doanh nghiệp
trong từng thời kỳ để thấy được nhu cầu tiền mặt của doanh nghiệp trong kỳ tới.
1.2.2.3 áp dụng phương pháp quản lý ngân quỹ thích hợp
Sau khi có được những thông tin về nhu cầu tiền, căn cứ vào kế hoạch sản xuất kinh
doanh và khả năng của doanh nghiệp, doanh nghiệp cần áp dụng một phương pháp quản lý
ngân quỹ thích hợp. Có rất nhiều phương pháp quản lý ngân quỹ trong doanh nghiệp, các
doanh nghiệp chủ yếu lựa chọn hai phương pháp sau:
a) Phương pháp quản lý theo mô hình Baumol
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải tính toán mức tiền mặt dự
trữ hợp lí và hiệu quả nhất sao cho chi phí cơ hội của doanh nghiệp là nhỏ nhất đồng thời

doanh nghiệp gặp ít rủi ro thanh toán nhất. Vì vậy, doanh nghiệp sẽ thường tìm cách đầu tư
số tiền mặt nhàn rỗi vào hình thức đầu tư ít rủi ro nhất đó là đầu tư vào tín phiếu kho bạc.
Tín phiếu kho bạc là loại chứng khoán được coi là ít rủi ro nhất và dễ chuyển hoá
thành tiền nhất. Vì thế chúng ta có thể coi chi phí cơ hội của việc giữ tiền là lãi suất tín
phiếu kho bạc. Việc dùng tiền nhàn rỗi để đầu tư vào tín phiếu kho bạc sẽ đem lại cho
doanh nghiệp khoản lợi nhất định. Tuy nhiên, tín phiếu kho bạc không phải là phương tiện
thanh toán nên khi doanh nghiệp cần tiền mặt phải tìm cách bán tín phiếu. Điều này làm
phát sinh chi phí bán các tín phiếu kho bạc. Như vậy, chi phí cơ hội tăng lên nếu dự trữ
tiền tăng lên đồng thời chi phí bán tín phiếu sẽ giảm đi nếu số lần phải bán tín phiếu ít đi
tức là dự trữ tiền tăng lên. Do đó mức tiền dự trữ hợp lí và hiệu quả nhất đạt được khi tổng
chi phí cho việc duy trì lượng tiền đó trong ngân quỹ là nhỏ nhất.











Mức dự trữ tiền mặt tối ưu (mức tồn quỹ tối ưu) đạt được khi:
Chi phí do thiếu tiền cận biên = Chi phí cơ hội của dự trữ tiền cận biên
Khi hết tiền trong ngân quỹ doanh nghiệp mới đem bán tín phiếu nên tại thời
điểm đó, lượng tiền mặt dự trữ bằng 0. Khi doanh nghiệp bán tín phiếu doanh nghiệp có
đủ lượng tiền dự trữ tính toán. Như vậy, lượng tiền dự trữ bình quân trong doanh nghiệp
là:
lượng tiền dự trữ (tính toán)


ợng tiền dự
tr


Chi phí cơ hội của dự trữ tiền
Chi phí do d
ự trữ
ti
ền gây ra

Chi phí do thi
ếu tiền

điểm cực tiểu

ợng dự trữ
T
ổng c
hi phí do
2
Vậy chi phí cơ hội của việc giữ tiền là:
lượng tiền dự trữ (tính toán) x chi phí cơ hội của lượng tiền dự trữ
2 lượng tiền dự trữ
Chi phí cơ hội của việc dự trữ tiền cận biên là:
chi phí cơ hội của một đơn vị tiền dự trữ
2



Từ đó, ta có thể tính được lượng dự trữ tiền tối ưu là:

2 x tổng nhu cầu tiền để chi trả các hoá đơn trong năm x chi phí do mỗi lần
thiếu tiền
chi phí cơ hội của một đơn vị tiền dự trữ

Theo giả định ban đầu, toàn bộ tiền nhàn rỗi sau khi đã tính lượng tiền dự trữ hợp lí
được đầu tư toàn bộ vào tín phiếu kho bạc nên áp dụng cho trường hợp này ta suy ra được
công thức tính lượng tiền dự trữ tối ưu như sau:

2 x tổng nhu cầu tiền để chi trả các hoá đơn trong năm x chi phí cho mỗi lần
bán tín phiếu
lãi suất

Như vậy mô hình Baumol giả định việc chi trả các hoá đơn là đều đặn, chủ động mà
không tính đến sự bất thường của các dòng tiền đi ra doanh nghiệp, và hơn thế nữa không
tính đến các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp cũng làm thay đổi mức dự trữ tiền mặt
mà giả định khi thu về, tiền được dùng để chuyển hoá luôn thành tín phiếu. Do đó, các nhà
kinh tế học đã xây dựng mô hình phù hợp hơn với thực tế, tức là mô hình này có tính đến
cả những khả năng tiền ra vào ngân quỹ.
b) Phương pháp quản lý theo mô hình Miller-orr
Q
=

Q=
==
Kho
ảng cách của
giớ i hạn trên và
giới hạn dưới của
mức cân đối tiền
= 3

4
3

Để khắc phục tình trạng biến động tiền mặt trong doanh nghiệp, các nhà kinh tế học
đã đưa ra mô hình kiểm soát ngân quỹ căn cứ sự biến động của dòng vào và dòng ra với
đơn vị thời gian là ngày có tên gọi là mô hình Miller – Orr. Mô hình này cho phép nhà
quản lý nắm giữ tiền ở mức độ hoàn toàn tự do trừ khi nó đạt tới điểm giới hạn trên và giới
hạn dưới.
Ta có đồ thị sau:













Trong mô hình này, nhà quản lý cần xác định được 3 chỉ tiêu: Giới hạn trên, giới
hạn dưới của cân đối tiền mặt và mức tồn quỹ theo thiết kế. Tại giới hạn trên hoặc giới hạn
dưới, doanh nghiệp sẽ phải điều chỉnh mức tồn quỹ bằng cách đầu tư ngắn hạn hoặc tài trợ
cho ngân quỹ để có mức tiền mặt theo thiết kế ban đầu. Khoảng dao động của mức cân đối
tiền mặt trong mô hình phụ thuộc các yếu tố: nếu như mức dao động của thu chi ngân quỹ
hàng ngày rất lớn hoặc là chi phí cố định của việc đầu tư ngắn hạn cao thì doanh nghiệp
nên quy định khoảng dao động tiền mặt lớn. Ngược lại, nếu như lợi tức khoản đầu tư ngắn
hạn cao thì doanh nghiệp nên thu hẹp khoảng dao động tiền mặt. Khoảng dao động tiền

mặt được xác định theo công thức sau đây:



Chi phí giao dịch x phương sai của
Lãi
3
1

Giới hạn dưới
Mức tồn
quỹ theo
thi
ết kế

Giới hạn
Thời
Lượng tiền mặt

Doanh nghiệp thường thiết kế mức cân đối tiền mặt ở điểm một phần ba khoảng cách
kể từ giới hạn dưới lên giới hạn trên. Mức tiền mặt theo thiết kế được xác định như sau:


Mô hình Miller–Orr trên đây chỉ ra rằng nếu doanh nghiệp duy trì được mức tiền
mặt theo như thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối thiểu hoá chi phí giao dịch và chi phí
do lãi suất gây ra.
Mô hình Miller–Orr có thể thích ứng với nhu cầu kiểm soát ngân quỹ trong đơn vị
thời gian rất ngắn (ngày) và phù hợp với một thị trường tài chính năng động. Mô hình này
xem xét mức dao động của ngân quỹ trong hành lang giới hạn trên, giới hạn dưới của mức
cân đối tiền và coi một nửa của mức dao động này thể hiện nhu cầu cần điền đầy mức

thiếu hụt tiền. Cách đặt vấn đề này cho phép xem xét đồng thời dòng vào và ra nhưng đòi
hỏi doanh nghiệp phải dự báo được dòng vào và ra một cách chi tiết (hàng ngày là tốt
nhất). Vì vậy, khi doanh nghiệp có những trở ngại trong công tác dự báo ngân quỹ, mô
hình Baumol vẫn có giá trị ứng dụng nhất định vì sự đơn giản của nó.
Những mô hình quản lý ngân quỹ trên đây sẽ là những định hướng cho nhà quản lý
tài chính trong quá trình thực hiện công tác quản lý ngân quỹ. Tuy nhiên, đã là mô hình thì
sẽ ít nhiều mang tính cứng nhắc và không thể hoàn toàn tất cả những biến động của thực
tế. Vì vậy, để vận dụng tốt được mô hình, các doanh nghiệp cần chú trọng nâng cao nhận
thức và trình độ của đội ngũ cán bộ tài chính trong doanh nghiệp.
1.2.2.4 Lập kế hoạch quản lý ngân quỹ
Việc lập kế hoạch quản lý ngân quỹ bao gồm các quyết định để sử dụng nguồn tiền
nhàn rỗi khi có thặng dư ngân quỹ vượt qua giới hạn trên theo mô hình mà doanh nghiệp
áp dụng và các quyết định tìm nguồn tài trợ khi có ngân quỹ xuống thấp hơn giới hạn cho
phép của mô hình. Đối với hình thức tài trợ hay sử dụng ngân quỹ nào thì doanh nghiệp
cần phải xem xét có phù hợp với chu kỳ kinh doanh và chu kỳ tiền mặt của đơn vị mình
hay không.
Chu kỳ kinh doanh là khoảng thời gian mà tất cả các bước của quá trình tái sản
xuất phải trải qua như: nguyên vật liệu – sản phẩm dở dang – bán thành phẩm – thành
phẩm – giao hàng – chờ thu tiền về.
Khoảng dao dộng tiền
3
Mức tiền theo
thiết kế
=
Mức tiền mặt
giới hạn dưới
+
Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ dự trữ + Chu kỳ chờ thu tiền
Chu kỳ dự trữ là khoảng thời gian từ lúc bắt đầu mua nguyên vật liệu nhập kho cho
đến khi xuất kho sản phẩm giao cho khách hàng.

Chu kỳ chờ thu tiền được tính từ khi giao hàng cho khách đến khi nhận lại tiền bán
hàng.
Chu kỳ kinh doanh còn tính theo chu kỳ trả tiền và chu kỳ tiền mặt
Chu kỳ kinh doanh = Chu kỳ trả tiền + Chu kỳ tiền mặt
Chu kỳ tiền mặt là khoảng thời gian từ khi trả tiền cho nhà cung cấp cho đến khi
thu được tiền của khách hàng. Như vậy, trong quản lý ngân quỹ doanh nghiệp cần phải
quan tâm đến chênh lệch độ dài chu kỳ thu tiền và độ dài chu kỳ trả tiền để đưa ra những
quyết định phù hợp cho công tác quản lý ngân quỹ.
 Các nguồn tài trợ ngắn hạn cho ngân quỹ
 Bán chứng khoán ngắn hạn, giấy tờ có giá
Khi mức tồn quỹ thực tế nhỏ hơn mức tối ưu, doanh nghiệp có thể bán chứng
khoán để tài trợ cho ngân quỹ. Các chứng khoán sẽ được bán trên thị trường trước hết là để
đáp ứng nhu cầu tiền mặt, thứ hai là để thực hiện lợi nhuận cho các khoản đầu tư. Các
chứng khoán dễ bán có thể được bán trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, hoặc có
thể đem thương phiếu đến ngân hàng để chiết khấu.
 Vay ngân hàng
Nếu doanh nghiệp không có các chứng khoán thanh khoản để bán hoặc doanh
nghiệp chưa muốn bán chứng khoán thì doanh nghiệp có thể vay ngân hàng. Doanh nghiệp
có thể vay ngân hàng theo nhiều phương thức khác nhau với các điều kiện như thời hạn
trả, số dư tối thiểu, cách hoàn trả nợ vay với mức lãi suất tương ứng. Ngân hàng có khả
năng đáp ứng những nhu cầu này cho doanh nghiệp với thời hạn có thể từ vài ngày đến cả
năm, có thể đảm bảo hoặc không có đảm bảo. Với hình thức tài trợ này, doanh nghiệp cần
phải so sánh giữa vay ngân hàng và việc bán chứng khoán. Lãi suất mà doanh nghiệp phải
trả cho ngân hàng có thể cao hơn lãi suất mà doanh nghiệp nhận được từ việc bán chứng
khoán. Nếu doanh nghiệp không chắc chắn về thu chi ngân quỹ trong tương lai thì doanh
nghiệp cần phải giữ mức cân đối tiền mặt lớn với mục đích là sẽ không phải đi vay. Ngược
lại, nếu doanh nghiệp biết chắc chắn về khả năng thu chi ngân quỹ trong tương lai thì có
thể giữ tiền mặt ở mức thấp hơn.
 Tín dụng thương mại
Doanh nghiệp nhận chính sách tín dụng thương mại của nhà cung cấp sẽ làm cho

cân đối tiền mặt của ngân quỹ bớt căng thẳng do doanh nghiệp không cần phải chi ngay
các khoản tiền mua hàng. Khi đó doanh nghiệp sẽ phải trả thêm một khoản tiền do việc
thanh toán chậm và phải chấp nhận với một giá thanh toán cao hơn. Tuy nhiên, doanh
nghiệp phải rất thận trọng vì khoản tiền doanh nghiệp trả chậm trong kỳ này sẽ có thể trở
thành gánh nặng cho ngân quỹ trong các kỳ sau.
 Các biện pháp sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi
 Đầu tư vào các chứng khoán thanh khoản cao trên thị trường
Việc đầu tư chứng khoán của doanh nghiệp là nhằm tận dụng khoản tiền nhàn rỗi
tạm thời. Có rất nhiều những chứng khoán dễ bán mà doanh nghiệp có thể lựa chọn như:
tín phiếu kho bạc, chấp nhận thanh toán của ngân hàng, thương phiếu Vì thế, việc quyết
định đầu tư vào chứng khoán hay không và đầu tư vào loại nào phụ thuộc vào: lãi suất,
tính thanh khoản, ngày đáo hạn. Thực hiện hoạt động này doanh nghiệp cần phải quản lý
một danh mục đầu tư hợp lý sao cho lợi nhuận thu được đủ bù đắp các rủi ro và mức lợi
tức mong muốn. Đối với các doanh nghiệp lớn, chi phí giao dịch để mua và bán chứng
khoán không đáng kể so với chi phí cơ hội của viêc giữ tiền mặt nên các doanh nghiệp này
cần chú ý tới công cụ đầu tư này.
 Cung cấp tín dụng cho khách hàng
Cung cấp tín dụng cho khách hàng là một công cụ quan trọng mà doanh nghiệp cần
phải chú trọng. Chính sách cung cấp tín dụng thương mại cho khách hàng có nhiều ưu
điểm như : Doanh nghiệp có thể bán được nhiều hàng hoá hơn với mức giá cao hơn; Hiệu
quả sử dụng tiền của doanh nghiệp tăng do cung cấp các khoản phải thu sẽ thu được mức
lãi cao hơn hẳn so với việc đầu tư vào các khoản mục khác đồng thời doanh nghiệp có thể
tạo lập mối quan hệ lâu dài với những khách hàng lớn. Tuy nhiên, doanh nghiệp có thể gặp
rủi ro khi khách hàng không thanh toán đúng hạn. Vì vậy, việc doanh nghiệp có cung cấp
tín dụng thương mại cho một khách hàng hay không cần phải được cân nhắc và tìm hiểu
kỹ lưỡng, doanh nghiệp nên chọn những khách hàng có uy tín, quan hệ lâu dài.
 Trả trước cho nhà cung cấp
Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi của mình để thanh toán
trước cho nhà cung cấp. Khi thực hiện việc này, doanh nghiệp sẽ được nhà cung cấp cho
hưởng một khoản chiết khấu tiền mặt.

1.3 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ của doanh nghiệp
1.3.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý ngân quỹ thông qua đánh giá khả năng
thanh toán của doanh nghiệp
Để đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp, người ta sử dụng các chỉ tiêu:
 Khả năng thanh toán hiện hành

Tài sản lưu động
Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn
Tỷ lệ này cho biết một đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm bảo bằng
bao nhiêu đồng giá trị tài sản lưu động. Tài sản lưu động thường bao gồm tiền, các chứng
khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng, các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho). Nợ ngắn hạn
thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các
khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác
Tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành thể hiện khả năng thanh toán tổng quát của
doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải
bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn
của các khoản nợ đó. Nếu tỷ lệ khả năng thanh toán hiện hành >1 thì doanh nghiệp được
coi như đang ở trạng thái thuận lợi. Tuy nhiên hệ số này chưa đủ chặt chẽ trong việc
đánh giá cân bằng tài chính ngắn hạn vì còn tính đến khoản mục Hàng tồn kho. Nếu
khoản mục này chiếm tỷ trọng đáng kể trong tài sản lưu động và thời gian chuyển hoá
cần thiết đủ dài thì vẫn tồn tại nguy cơ mất cân bằng ngắn hạn.
 Khả năng thanh toán nhanh

Tài sản lưu động - Tài sản dự trữ (tồn kho)
Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh =
Nợ ngắn hạn

Đây là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng
nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: Tiền, chứng

khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển
thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, khả năng
thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào
việc bán tài sản dự trữ (tồn kho).
 Khả năng thanh toán tức thời
Ngân quỹ
Tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời =
Nợ đến hạn

Khả năng thanh toán tức thời thể hiện khả năng thanh toán ngay bằng tiền cho các
khoản nợ đến hạn. Nếu tỷ lệ khả năng thanh toán tức thời cao thì tỷ lệ này có thể minh
chứng cho khả năng thanh toán tốt nhưng mặt khác lại thể hiện sự kém hiệu quả trong việc
sử dụng nguồn lực tài chính với một ngân quỹ ứ đọng. Còn với một giá trị đủ nhỏ thì
nguồn lực tài chính được sử dụng dường như có hiệu quả nhưng khả năng thanh toán sẽ
yếu đi, đặc biệt khi các thành phần khác của tài sản lưu động có khả năng luân chuyển kém
(nhất là đối với các doanh nghiệp mà hoạt động có đặc trưng mùa vụ).
Ngoài các chỉ tiêu trên, các nhà quản lý còn xem xét đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng
và nhu cầu vốn lưu động ròng. Hai chỉ tiêu này cũng là yếu tố quan trọng và cần thiết cho
việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp.
Vốn lưu động ròng (VLĐR) là khoản chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động
(TSLĐ) và tổng nợ ngắn hạn hoặc giữa nguồn dài hạn và tài sản cố định (TSCĐ):
VLĐR = Nguồn vốn dài hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn
+ Vốn lưu động ròng < 0, có nghĩa nguồn vốn dài hạn không đủ đầu tư cho TSCĐ. Doanh
nghiệp phải đầu tư vào TSCĐ một phần nguồn vốn ngắn hạn, TSLĐ không đủ đáp ứng
nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất cân bằng,
doanh nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Như vậy,
doanh nghiệp phải tăng cường huy động vốn ngắn hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư
dài hạn hoặc thực hiện đồng thời cả 2 giải pháp đó.
+ Vốn lưu động ròng > 0, nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào TSCĐ, đồng thời
TSLĐ > nguồn vốn ngắn hạn do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt. Tuy nhiên,

nếu vốn lưu động ròng quá cao thì sẽ làm giảm hiệu quả đầu tư vì lượng tài sản lưu động
quá nhiều so với nhu cầu và phần dư thêm này không làm tăng thu nhập.
 Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng
Dự trữ
Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng =
Vốn lưu động ròng
Tỷ lệ này cho biết dự trữ chiếm bao nhiêu phần trăm vốn lưu động ròng.
Trên đây mới chỉ là ràng buộc về mặt giá trị mang tính chất chung. Với doanh
nghiệp cụ thể, thường có thể xác định gần đúng “độ hóa lỏng” của tài sản cố định căn cứ
vào đặc trưng công nghệ và hoạt động thương mại. Khi độ hóa lỏng của tài sản lưu động
lớn hơn tính cấp thiết của khoản nợ ngắn hạn thì một mức vốn lưu động ròng âm cũng
không gây ra sự mất cân bằng như đối với các công ty kinh doanh siêu thị chẳng hạn.
Trong trường hợp ngược lại, vẫn có thể xảy ra mất cân bằng khi vốn lưu động ròng dương
không vượt qua một giá trị an toàn nhất định.
Nhu cầu vốn lưu động ròng là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho
1 phần tài sản lưu động, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu.
Nhu cầu vốn lưu động ròng = Tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn
+ Khi nhu cầu VLĐR > 0, tức là tồn kho và các khoản phải thu > nợ ngắn hạn, nghĩa là các
sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có
được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh
lệch.

×