Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

LUẬN VĂN: Nguồn lực tài chính từ đất đai trong nền kinh tế nước ta hiện nay pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.66 KB, 94 trang )











LUẬN VĂN:

Nguồn lực tài chính từ đất đai trong
nền kinh tế nước ta hiện nay












MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai luôn là nguồn tài nguyên quý của mọi quốc gia, bởi lẽ đó là tư liệu sản
xuất quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài


người; đồng thời, đất đai là nguồn tài nguyên có hạn về số lượng, nên việc quản lý, sử
dụng đất đai có hiệu quả nhất luôn là vấn đề mà Chính phủ của các quốc gia quan tâm và
được bảo vệ chặt chẽ bằng luật pháp.
Khi đất nước ta trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đất đai mới chỉ
được coi trọng về mặt hiện vật, các nguồn lực tài chính từ đất đai chưa được quan tâm
nhiều, việc khai thác sử dụng chưa thực sự có hiệu quả, kết quả thu được cho Nhà nước,
xã hội từ đất đai chưa lớn. Kể từ khi đổi mới, với sự hình thành và phát triển của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đất đai đã thực sự trở thành nguồn lực
tài chính quan trọng của đất nước. Từ đó, vai trò đại diện chủ sở hữu về đất đai của Nhà
nước không những thể hiện qua sự quản lý, khai thác, sử dụng đất đai với tư cách là tư
liệu sản xuất mà còn thể hiện qua việc khai thác, sử dụng các nguồn lực tài chính quan
trọng từ đất đai phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách về đất đai nhằm thực hiện quyền sở hữu toàn dân về đất đai, điển hình
như Luật Đất đai năm 1993 và các Luật sửa đổi bổ sung năm 1998, 2001 cùng hệ thống
các văn bản dưới Luật. Những chính sách đó đã góp phần tạo thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế của đất nước ta hơn một thập kỷ qua. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng về
kinh tế - xã hội những năm gần đây, với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật đất
đai theo Luật 1993 đã bộc lộ một số hạn chế lớn như: chưa xác định rõ các hình thức thực
hiện lợi ích kinh tế của sở hữu toàn dân về đất đai trong nền kinh tế thị trường, từ đó gây
ra khó khăn cho việc Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo Luật; việc quản lý, sử
dụng đất đai vẫn còn mang nặng tính bao cấp; sự thiếu hụt các chế định cần thiết về giá
đất, về điều tiết địa tô chênh lệch, về điều tiết lợi nhuận qua chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, về bồi thường thu hồi đất, về đấu thầu, đấu giá quyền sử dụng đất; dẫn tới

tình trạng sử dụng đất đai lãng phí, không hiệu quả; sự yếu kém trong quản lý thị trường
bất động sản; cơ chế xin cho, tiêu cực trong quản lý đất đai không những gây thất thu cho
ngân sách nhà nước mà còn ảnh hưởng xấu tới môi trường đầu tư.
Để khắc phục những thiếu sót trên, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX xác định: "Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất
đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Ngày 26/11/2003,

tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XI đã thông qua Luật
Đất đai năm 2003 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004. Luật Đất đai năm 2003 là
cơ sở pháp lý mới để giải quyết các quan hệ về đất đai; vấn đề nguồn lực tài chính từ đất
đai trong Luật đã được đề cập rõ hơn. Tuy vậy, đến nay việc khai thác nguồn lực tài
chính từ đất đai với tư cách là hình thức, cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế của sở hữu toàn
dân về đất đai, đồng thời đóng vai trò là công cụ điều tiết quản lý đất đai trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN vẫn chưa thực sự được làm sáng tỏ, đòi hỏi phải được
tiếp tục nghiên cứu bổ sung. Vì vậy, "Nguồn lực tài chính từ đất đai trong nền kinh tế
nước ta hiện nay" được chọn làm đề tài nghiên cứu của luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Các vấn đề liên quan đến tài chính đất đai như đền bù, hỗ trợ và tái định cư, thuế
và các khoản thu liên quan đến đất là một vấn đề lớn có quan hệ tới hầu hết mọi người
trong xã hội nên luôn được toàn xã hội quan tâm. Tuy nhiên, việc khai thác tài chính từ
đất đai là vấn đề liên quan đến việc xây dựng cơ chế chính sách của các cơ quan, ban
ngành có liên quan nên các công trình đã nghiên cứu chưa được công bố nhiều.
Qua tham khảo, chúng tôi thấy rằng trước đây đã có một số tác giả nghiên cứu
các vấn đề liên quan, nhưng phạm vi nghiên cứu hẹp (thường là một địa phương), hoặc
có những tác giả nghiên cứu sâu vào một nội dung cụ thể của vấn đề như: công tác đền
bù giải phóng mặt bằng, giá đất, thị trường bất động sản, nhằm tìm ra những giải pháp
giải quyết những bức xúc về kinh tế trước mắt; trên góc độ của chuyên ngành Kinh tế
chính trị thì đến nay chưa có đề tài nghiên cứu về vấn đề này, đặc biệt là trên góc độ lý
luận; ngoài ra, đề tài có tính thời sự, vì Luật Đất đai năm 2003 mới có hiệu lực thi hành

từ ngày 01/7/2004, các văn bản hướng dẫn thi hành đã ban hành nhưng chưa đầy đủ, nhất
là vấn đề tài chính đất đai.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn
của vấn đề nguồn lực tài chính từ đất đai trong điều kiện nước ta hiện nay khi đất đai
thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu; từ đó đề xuất những giải
pháp để việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai có hiệu quả hơn.

- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
+ Làm rõ được cơ sở lý luận, những vấn đề liên quan đến nguồn lực tài chính từ
đất đai trong thời gian qua, trong đó chú trọng đến các quy định tại Luật Đất đai năm
2003 và các văn bản hướng dẫn dưới Luật đã ban hành.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai ở nước ta
trong thời gian qua, đặc biệt từ đổi mới đến nay; đưa ra những đánh giá ưu, nhược điểm
trong việc khai thác các nguồn lực tài chính từ đất đai thời gian qua.
+ Đề xuất các giải pháp để hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, trong đó chủ
yếu là các chính sách tài chính liên quan đến khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai
trong điều kiện nước ta hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu về mặt không gian là quan hệ tài chính về đất đai giữa một
bên là Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - đại diện chủ sở hữu về đất đai - với một
bên là các đối tượng sử dụng đất bao gồm: các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài
được Nhà nước giao đất, cho thuê đất; được bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất; đối tượng phải nộp các loại thuế liên quan đến sử dụng, giao dịch đất
đai; biểu hiện ra bên ngoài của mối quan hệ này là việc Nhà nước được hưởng lợi bằng
tiền, bằng sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Về mặt thời gian, đề tài sẽ
nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn của những vấn đề liên quan đến tài chính đất
đai từ năm 1986 đến nay.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài sẽ nêu ra thực tiễn việc sử dụng đất đai của nước
ta trong thời gian qua; trình bày các quy định về tài chính của Nhà nước đối với đất đai,
phân tích mặt được và chưa được đối với thực tiễn của các quy định này để tìm ra, kiến
nghị sửa đổi bổ sung những vấn đề chưa phù hợp gây thiệt thòi, ảnh hưởng đối với cả hai
bên: Nhà nước và các tổ chức, cá nhân sử dụng đất.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; các quan điểm chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về đất đai; đồng thời, trong
luận văn có sử dụng các phương pháp hệ thống, tổng hợp, phân tích, thống kê cùng với

phương pháp khảo sát thực tế để đánh giá làm sáng tỏ vấn đề.
6. Một số kết quả nghiên cứu của luận văn
Nêu ra và bước đầu làm rõ khái niệm nguồn lực tài chính từ đất đai, phân tích so
sánh khái niệm này với khái niệm nguồn lực, nguồn lực tài chính.
Hệ thống hóa các hình thức khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai của chế độ sở
hữu toàn dân về đất đai trong nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN.
Khái quát những đổi mới về cơ chế chính sách khai thác nguồn lực tài chính từ
đất đai và phân tích thực trạng khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai kể từ khi đổi mới,
nêu ra những vướng mắc và vấn đề đặt ra trong khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai.
Đề xuất hệ thống quan điểm và giải pháp khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai
trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phục lục và danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH TỪ ĐẤT ĐAI

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH TỪ ĐẤT ĐAI
1.1.1. Bản chất và đặc điểm của nguồn lực tài chính từ đất đai
"Đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng
các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng" [18, tr. 1]. Trong nền KTTT,
vai trò đặc biệt quan trọng của đất đai không những thể hiện với tư cách là nguồn lực về
hiện vật, mà còn trở thành nguồn lực tài chính to lớn có thể khai thác để nâng cao hiệu
quả hoạt động kinh tế của từng chủ thể SXKD có sử dụng đất đai và của toàn xã hội.
1.1.1.1. Khái niệm nguồn lực tài chính từ đất đai

* Nguồn lực là hệ thống những yếu tố tự nhiên, xã hội có ích đối với sự phát triển
của xã hội loài người, thông qua việc khai thác, sử dụng chúng mà con người có thể tạo
ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình.
Tùy theo trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã
hội, các nguồn lực được khai thác nhằm phục vụ cho nhu cầu của con người rất khác
nhau. Do đó, vị trí, vai trò của các nguồn lực là rất khác nhau. Thậm chí, đối với các quốc
gia có trình độ phát triển khác nhau, các nguồn lực cũng phát huy tác dụng không giống
nhau.
Nguồn lực phát triển kinh tế có thể phân theo ngành, theo lĩnh vực, Theo nhận
thức phổ biến hiện nay, các nguồn lực bao gồm: nguồn lực con người, nguồn lực đất đai,
nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học công nghệ, hay cách hiểu tương tự là vốn, lao
động, đất đai, tri thức,

Trong hệ thống các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội kể trên, nguồn lực đất
đai luôn có vị trí rất quan trọng. Vai trò đó còn càng quan trọng hơn đối với các quốc gia
có trình độ phát triển thấp, đặc biệt đối với nền kinh tế còn mang nặng đặc trưng nông
nghiệp.
* Nguồn lực tài chính là khối lượng giá trị dưới hình thái tiền tệ được hình thành
trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, phản ánh các mối quan hệ kinh tế - xã
hội trong phân phối nhằm đáp ứng các yêu cầu chi tiêu bằng tiền để thực hiện quá trình
tái sản xuất các mặt hoạt động của các chủ thể trong xã hội.
Như vậy, bản chất của nguồn lực tài chính là phạm trù phân phối; đó là sự phân
phối bằng giá trị chứ không phải bằng hiện vật và thông qua hiện vật.
Nguồn lực tài chính được biểu hiện rất khác nhau, tùy theo nguồn gốc hình thành
mà chủ thể có thể thực hiện để có được các quỹ tiền tệ. Thông qua các nguồn lực tài
chính mà những chủ thể trong xã hội có được hệ thống các quỹ tiền tệ tập trung và không
tập trung vận động độc lập với các chức năng cất trữ hay phương tiện thanh toán. Nguồn
lực tài chính là sự vận động của tiền tệ.
Với cách hiểu như vậy, để hình thành nguồn tài chính hay các quỹ tiền tệ vận
động tập trung, các chủ thể trong xã hội có thể khai thác từ nhiều nguồn lực khác nhau

trong đó có nguồn lực từ đất đai.
Nguồn lực tài chính từ đất đai là nguồn lực tài chính được hình thành từ nguồn
lực đất đai thông qua quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong một xã hội nhất định và chịu
sự chi phối của quan hệ sở hữu của xã hội đó.
Tài chính và nguồn lực tài chính phản ánh mặt quan hệ giữa các chủ thể trong xã
hội cụ thể là biểu hiện của quan hệ phân phối, song vì đó là sự phân phối giá trị cho nên
quan hệ đó chỉ được thực hiện trong nền kinh tế hàng hóa. Tuy nhiên, biểu hiện rõ nhất
của mặt phân phối và thực hiện giá trị từ các nguồn lực là trong nền kinh tế hàng hóa phát
triển ở trình độ cao hay KTTT. Vì KTTT mới có khả năng biến mọi nguồn lực trở thành

hàng hóa và biến các hàng hóa đó trở thành những biểu hiện của giá trị, mặc dù có thể
chúng không phải do lao động làm ra.
Với ý nghĩa như vậy, nguồn lực tài chính từ đất đai chỉ có thể được hình thành và
phát triển trong nền KTTT, khi mà các quan hệ đất đai được thị trường hóa. Tức là chúng
có thể được mua bán và trao đổi trên thị trường.
1.1.1.2. Bản chất của nguồn lực tài chính từ đất đai
Về mặt nguyên lý, những gì không phải là sản phẩm của sự hao phí lao động trừu
tượng của con người tạo ra thì chúng không có giá trị. Tuy nhiên, chúng lại có thể là
phương tiện để thực hiện lợi ích của các chủ thể sở hữu chúng. Với tư cách là phương
tiện để thực hiện lợi ích trong nền KTTT thì chúng có vai trò trong việc hình thành các
quỹ tiền tệ tập trung và vì thế chúng góp phần hình thành các nguồn lực tài chính. Đất đai
là một trong những yếu tố có đặc trưng như vậy.
Bản thân đất đai không là sản phẩm của lao động, vì thế theo cách hiểu thông
thường chúng không có giá trị; tuy nhiên, đất đai lại là nguồn lực mang tư cách là điều
kiện quan trọng tham gia vào các quá trình tạo ra của cải cho xã hội. Đất đai không là
nguồn gốc tạo ra giá trị nhưng đất đai là điều kiện tạo ra của cải; khi khoác áo là điều
kiện cho quá trình tạo ra của cải thì người ta có thể thực hiện được lợi ích từ chúng miễn
là phải làm thế nào để sở hữu chúng mà thôi. Từ việc sở hữu đất đai, các chủ thể có thể
đem đất đai ra để trao đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng như những yếu tố sản xuất
khác; thông qua sự trao đổi và chuyển quyền sử dụng đó, chủ thể thực hiện được lợi ích

của họ. Hay đất đai là điều kiện để các chủ thể sở hữu thực hiện được nguồn thu nhập
dưới dạng hình thái tiền, các nguồn tiền tệ để hình thành các quỹ tiền tệ đó là những
nguồn lực tài chính từ đất đai.
Về bản chất, nguồn lực tài chính từ đất đai phản ánh quan hệ phân phối giá trị
để hình thành các quỹ tiền tệ thông qua quan hệ giữa các chủ thể về đất đai.
Đó là quan hệ phái sinh được hình thành trên cơ sở thực hiện lợi ích kinh tế từ
quyền sở hữu đất đai, mà việc thực hiện lợi ích từ quyền sở hữu đất như Mác đã phân tích

thể hiện trước mắt thông qua các hình thức địa tô, nhưng với tư cách là hình thái biểu
hiện của quan hệ tài chính thì địa tô đó phải là địa tô dưới hình thái tiền, không phải là tô
hiện vật hay tô lao dịch.
Vì phản ánh mặt quan hệ phân phối nên nguồn lực tài chính mang tính lịch sử,
nghĩa là xét về mặt hình thức, cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế từ quan hệ đất đai sẽ do
quan hệ sở hữu của chế độ xã hội đó quyết định. Trong mỗi chế độ xã hội với kiến trúc
thượng tầng khác nhau sẽ quy định chế độ sở hữu đặc trưng của xã hội đó.
Nếu đất đai thuộc quyền sở hữu của nhân dân và nhà nước của dân, do dân đứng
ra làm đại diện chủ sở hữu thì nguồn lực tài chính từ đất đai sẽ hình thành và thực hiện
trên cơ sở chế độ sở hữu tương ứng. Từ đó, quy định cách thức sử dụng các quỹ tiền tệ
tập trung hình thành từ nguồn lực đất đai, trái lại, nếu đất đai thuộc về sở hữu tư nhân thì
mục đích sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai chắc chắn không phải phục vụ cho số
đông mà là chỉ là một bộ phận trong xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nguồn lực tài chính từ đất
đai phản ánh tính chất quá độ của quan hệ sản xuất của nước ta.
Quan hệ đất đai tập trung nhất trong quan hệ sở hữu và những quan hệ tổ chức
quản lý, phân phối phát sinh từ quyền sở hữu đó.
Tùy thuộc vào từng nước, đất đai có thể thuộc sở hữu riêng của từng thành viên
hoặc từng nhóm thành viên và có thể là sở hữu chung của tất cả các thành viên trong
cộng đồng quốc gia hoặc hỗn hợp cả hai loại hình sở hữu trên. Ở hầu hết các nước tư bản,
đất đai thuộc sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước. Ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn
dân.

1.1.1.3. Đặc điểm của nguồn lực tài chính từ đất đai
Không giống với các nguồn lực tài chính khác, nguồn lực tài chính từ đất đai có
những đặc điểm riêng.
Thứ nhất, nguồn lực tài chính từ đất đai luôn gắn với quan hệ sở hữu đất đai.

Như trên đã chỉ ra, muốn đất đai đem lại lợi ích dưới hình thái tiền tệ thì trước
hết các chủ thể phải nắm quyền sở hữu đất đai. Việc sở hữu đó sẽ là tiền để sinh ra các
quyền năng khác, giúp cho chủ thể sở hữu thực hiện được lợi ích của mình. Quyền sở
hữu là điều kiện cần để thực hiện được lợi ích hay khai thác nguồn lực tài chính từ đất
đai.
Khi quan hệ sở hữu được xác lập đối với đối tượng là đất đai, các chủ thể sở hữu
mới có cơ sở để thực hiện lợi ích của mình, thông thường quan hệ sở hữu đó phải được
thể chế hóa thành chế độ sở hữu về đất đai.
Cơ sở thực hiện các nguồn lực tài chính từ đất đai là các hình thái địa tô. Trong
chủ nghĩa tư bản, địa tô là hình thức thực hiện lợi ích kinh tế của chế độ sở hữu tư nhân
về đất đai của phương thức sản xuất đó.
Thứ hai, nguồn lực tài chính từ đất đai chỉ hình thành và được thực hiện trong cơ
chế kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế tự cung tự cấp, ở đó trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, nên
phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa chưa sâu sắc, do đó các quan hệ giá trị
chưa trở thành phổ biến; việc trao đổi giữa các thành viên trong xã hội chủ yếu để thỏa
mãn nhu cầu giá trị sử dụng, hình thức thực hiện lợi ích từ quyền sở hữu đất đai của các
chủ thể thường gắn với hiện vật hơn là giá trị. Trong khi đó, nguồn lực tài chính từ đất
đai lại biểu hiện dưới hình thái của giá trị, hay dưới dạng tiền tệ; hơn thế, nguồn lực đó
phải không ngừng vận động độc lập tương đối với các chức năng cất trữ và phương tiện
thanh toán của tiền tệ. Để có thể thực hiện được điều đó, cần một cơ chế kinh tế mà trong
đó mọi yếu tố đều có thể chuyển hóa thành hàng hóa bất luận chúng có phải do hao phí
lao động làm ra hay không. Cơ chế KTTT đáp ứng được yêu cầu đó, KTTT là biểu hiện
của trình độ văn minh nhân loại và cũng là môi trường để tạo khả năng hình thành các
nguồn tiền tệ cho các chủ thể trong xã hội.

1.1.2. Các hình thức khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai

Về mặt lý thuyết, có nhiều hình thức khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai,
trong đó phổ biến nhất là thông qua khai thác địa tô. Từ mức địa tô, người ta có thể xác
định được giá cả ruộng đất. Từ địa tô và giá cả ruộng đất các chủ thể sẽ thực hiện được
những quỹ tiền tệ hay các nguồn lực tài chính phục vụ cho các nhu cầu chi tiêu của mình.
Trong lý luận của Mác, có các hình thức địa tô cơ bản như: địa tô chênh lệch
(biểu hiện bao gồm chênh lệch I và chênh lệch II), địa tô tuyệt đối, các hình thức địa tô
khác như: địa tô hầm mỏ, địa tô đất xây dựng, Cơ sở để các chủ thể thực hiện được địa
tô là quyền sở hữu về đất đai. Trong chủ nghĩa tư bản, độc quyền sở hữu tư nhân về đất
đai là điều kiện để chủ thể sở hữu thu được địa tô tuyệt đối.
Xác định giá cả ruộng đất thông thường được căn cứ vào mức địa tô và tỷ suất lợi
tức nhận gửi của ngân hàng, mối quan hệ đó được thể hiện qua công thức sau đây:
Giá cả ruộng đất =
Mức địa tô
Tỷ suất lợi tức nhận gửi của ngân hàng
Trong đó, giá cả ruộng đất được xem như là giá bán đất (trong các nước tư bản),
còn mức địa tô tương đương với giá thuê đất.
Tùy theo đặc điểm chế độ sở hữu khác nhau, điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau
mà có các hình thức khai thác các nguồn lực tài chính khác nhau. Đối với Việt Nam, đất
đai thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện, cho nên việc thực hiện khai thác
nguồn lực tài chính từ đất đai trên thực tế là quan hệ giữa một bên là Nhà nước còn lại là
các chủ thể khác trong xã hội.
Cơ sở lý luận của việc thực hiện các hình thức khai thác nguồn lực tài chính từ
đất đai là chủ sở hữu phải thực hiện được lợi ích của mình từ đất
đai; thông qua quan hệ đất đai mà củng cố địa vị thống trị của giai cấp nắm chính quyền.
Ở nước ta, từ Hiến pháp năm 1980 (Điều 19, Điều 20) và đặc biệt là đến Hiến pháp
năm 1992, tại Điều 17 đã khẳng định rõ về sở hữu đất đai ở nước ta: "Đất đai, rừng núi,
sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng biển thềm lục địa và


vùng trời đều thuộc sở hữu toàn dân" [11, tr. 5]. Từ đó, Nhà nước thống nhất việc quản
lý quy hoạch và sử dụng đất đai trên phạm vi cả nước để thực hiện định hướng phát triển
kinh tế đất nước.
Thế giới đang đứng trước xu thế toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại diễn ra một
cách mạnh mẽ; hội nhập để phát triển, chính là mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế mà
Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn: " phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn
lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và
bền vững " [6, tr. 12]. Nguồn nội lực ở đây được hiểu một cách toàn diện bao gồm: con
người, đất đai, tài nguyên, trí tuệ, truyền thống dân tộc. Các quốc gia muốn tồn tại và
phát triển trước hết phải dựa vào các nguồn nội lực của mình là tài sản quốc gia; trong đó
đất đai là tài sản quốc gia quan trọng nhất. Từ xa xưa "đinh, điền" vẫn là "quốc sách",
ngày nay trong cơ chế thị trường thì "tấc đất" thực sự là "tấc vàng". Khai thác sử dụng đất
đai có hiệu quả là một nguồn lực quan trọng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất
nước.
Nước ta có tổng diện tích tự nhiên 32.924,061 ngàn ha, hiện nay cơ cấu các loại
đất như sau: đất nông, lâm nghiệp 20.920,775 ngàn ha chiếm 63,5% tổng diện tích; đất ở
443,178 ngàn ha chiếm 1,35%; đất phi nông nghiệp 1.532,843 ngàn ha chiếm 4,65%;
nhóm đất chưa sử dụng 10.027,265 ngàn ha chiếm 30,5% [4, tr. 1]. Trong đó, quĩ đất
nông, lâm nghiệp là tư liệu sản xuất không thể thay thế của sản xuất nông nghiệp, đảm
bảo nguồn nông sản để cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, xuất khẩu và nguyên
liệu cho các ngành công nghiệp chế biến. Nhóm đất phi nông nghiệp và đất ở tuy chiếm
tỷ trọng không cao trong tổng quỹ đất nhưng đảm bảo phần lớn cho sự hoạt động và phát
triển của nền kinh tế quốc dân (không kể nông lâm nghiệp), có ý nghĩa nhiều mặt, trong
đó vai trò là tư liệu sản xuất đặc biệt để phát triển nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập
quốc tế là quan trọng nhất. Bên cạnh đó, với quĩ đất chưa sử dụng là nguồn tiềm năng đáp
ứng nhu cầu sử dụng đất của toàn bộ nền kinh tế quốc dân; đất chưa sử dụng không chỉ
có ở vùng núi, vùng cao, biên giới, hải đảo, vùng sâu vùng xa, mà còn nằm ngay ở các
đô thị, vùng đồng bằng là những nơi có thể khai thác với hiệu quả cao - nguồn tiềm năng
này sẵn sàng biến thành hiện thực.


Trong lý luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Mác và
Ăngghen thấy rằng, cần phải bỏ hình thức sở hữu tư nhân về đất đai, biến nó thành sở
hữu toàn dân bằng cách thực hiện quốc hữu hóa đất đai. Mác nhận xét đại ý như sau: sự
phát triển kinh tế - xã hội, mức độ phát triển và tập trung dân cư, sự xuất hiện máy móc
nông nghiệp và phát minh sáng chế khác làm cho việc quốc hữu hóa đất đai trở thành
quy luật khách quan tất yếu. Tất cả mọi lý luận về sở hữu đều bất lực trước biện pháp tất
yếu này.
Phát triển học thuyết của Mác và Ăngghen về quốc hữu hóa đất đai, V.I. Lênin
đã xây dựng học thuyết "về vô sản quốc hữu hóa đất đai". Người viết: "Quốc hữu hóa đất
đai là chuyển tất cả đất đai vào sở hữu nhà nước. Quyền sở hữu đất đai của Nhà nước
được thể hiện bằng quyền thu địa tô, quyền quy định các luật lệ về việc chiếm hữu, phân
phối, quản lý và sử dụng đất đai" [27, tr. 57].
Mục đích lý luận của các nhà kinh điển nhằm giúp cho giai cấp vô sản thực hiện
được nguồn lực tài chính từ đất đai nhờ vào cơ sở chuyển hóa việc thực hiện lợi ích từ đất
bởi số ít thành của toàn thể nhân dân lao động. Từ đó mà làm tăng tính hiệu quả của việc
khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai. Việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai thực
chất là sử dụng quyền sở hữu đất đai một cách hiệu quả.
Việc thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai là cơ sở hình thành các hình
thức chủ yếu để khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai tại nước ta hiện nay. Các hình
thức đó bao gồm:
1.1.2.1. Thu từ giao quyền sử dụng đất
- Thu từ giao đất
Nhà nước thực hiện việc giao đất theo hai hình thức: giao đất không thu tiền sử
dụng đất hoặc giao đất có thu tiền sử dụng đất tùy mục đích sử dụng đất và đối tượng
được giao đất. Thông thường các công trình phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng,
sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng là những đối tượng được giao đất không thu
tiền sử dụng đất. Khi giao đất theo hình thức có thu tiền sử dụng đất thì có nhiều hình

thức thu tiền với các mức động viên nguồn lực tài chính khác nhau đối với người được
giao.

Căn cứ của việc giao đất mà không thu tiền sử dụng đất là đối tượng được giao
đất mà tính chất và chức năng của chúng thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đất -
Nhà nước. Đất đai ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân, có nghĩa nhân dân là chủ thể cơ bản
thực hiện lợi ích kinh tế từ đất đai, bởi vậy, những công trình kết cấu hạ tầng, phục vụ
cho quốc kế dân sinh của chính nhân dân lao động thì khi giao đất chủ đại diện quyền sở
hữu đất là Nhà nước sẽ không thu tiền từ việc giao đất theo các mục đích sử dụng này.
Khi giao đất có thu tiền sử dụng đất, người được giao đất không phải là chủ sở
hữu, nhưng họ có quyền được sử dụng đất lâu dài và có nhiều quyền định đoạt đối với đất
được giao; tiền sử dụng đất nộp một lần khi Nhà nước giao đất, được xác định trên cơ sở
đơn giá đất và diện tích đất được giao.
Việc giao đất có thu tiền sử dụng đất nhằm mục đích một mặt thực hiện khai thác
nguồn lực tài chính phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của đại diện chủ sở hữu là Nhà nước,
mặt khác là nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất; vì vậy mức thu từ giao đất thường thấp
hơn giá cả ruộng đất bởi lẽ đó là cơ chế chia sẻ lợi ích kinh tế giữa Nhà nước (với tư cách
là chủ thể sở hữu toàn dân về đất đai) với các chủ thể kinh tế khác. Khi các chủ thể được
giao đất nhưng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước thì trách nhiệm và
hiệu quả sử dụng đất có thể sẽ được nâng cao hơn.
- Thu từ cho thuê đất
Nhà nước có thể cho các tổ chức, cá nhân thuê đất để sử dụng; đồng thời các tổ
chức, cá nhân được Nhà nước giao quyền sử dụng đất (QSDĐ) có quyền cho các tổ chức, cá
nhân khác thuê, thuê lại QSDĐ. Người đi thuê đất chỉ được sử dụng đất trong thời gian thuê
đất và chỉ có một số quyền hạn nhất định đối với đất thuê; người đi thuê đất phải trả tiền thuê
đất cho chủ sở hữu đất (Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân) theo đơn giá thuê và diện tích đất
thuê. Nhà nước thu được tiền thuê đất đối với đất của nhà nước cho tổ chức, cá nhân thuê sử
dụng; thu được thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân đối với tổ chức và cá nhân
cho thuê đất. Căn cứ chủ yếu của thu từ cho thuê đất là địa tô chênh lệch I.

Tiền thuê đất là khoản thu ổn định, thường xuyên hàng năm và có xu hướng dần
tăng lên theo sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.2.2. Thu từ góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất

Nhà nước cho phép các tổ chức, cá nhân có QSDĐ được dùng giá trị QSDĐ để
góp vốn liên doanh với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đây là một chính sách
tài chính đối với đất đai hết sức quan trọng, cần thiết trong quá trình hội nhập, nhất là
trong giai đoạn hiện nay năng lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp;
Nhà nước sẽ thu được lợi nhuận khi cho doanh nghiệp sử dụng đất của Nhà nước để góp
vốn liên doanh và điều tiết qua thuế, phí, phúc lợi chung cho xã hội đối với trường hợp
các tổ chức, cá nhân sử dụng đất của mình góp vốn liên doanh; căn cứ để tính giá trị
QSDĐ là giá cả ruộng đất. Hiện tại, Nhà nước đã tạo hành lang pháp lý để khuyến khích
các doanh nghiệp trong và ngoài nước liên doanh đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh,
cụ thể như sau:
- Trường hợp liên doanh với tổ chức, cá nhân trong nước: tùy từng trường hợp,
giá trị vốn góp liên doanh được xác định tối thiểu bằng giá đất (đối với trường hợp được
Nhà nước giao đất) hoặc bằng tiền thuê đất tính trong thời hạn liên doanh (trường hợp
được Nhà nước cho thuê đất);
- Trường hợp liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài: Tổ chức được Nhà nước
giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc nhận chuyển nhượng hợp pháp QSDĐ mà tiền đó
không có nguồn gốc ngân sách nhà nước (NSNN) thì chỉ nộp thuế sử dụng đất, không phải
xác định thành vốn ngân sách để nộp tiền sử dụng vốn NSNN. Tổ chức được Nhà nước cho
thuê đất, thì số tiền thuê đất góp vốn liên doanh là phần vốn của Nhà nước đầu tư cho doanh
nghiệp bên Việt Nam và doanh nghiệp phải nộp tiền thu về sử dụng vốn NSNN trong thời
gian liên doanh.
1.1.2.3. Thu từ các khoản thuế liên quan đến đất
Các khoản thuế đối với đất đai được hình thành và tồn tại tất yếu khách quan, là
một bộ phận không thể thiếu được trong hệ thống thuế của mỗi quốc gia. Căn cứ để tính

thuế là yêu cầu thực hiện lợi ích kinh tế của Nhà nước về đất đai và yêu cầu bù đắp những
chi phí quản lý của Nhà nước về đất đai. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định mức địa tô
không phải là điều đơn giản, bởi vì còn phải căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận thực tế; mà tỷ
suất lợi nhuận thực tế đó lại luôn vận động thay đổi theo sự vận động của nền kinh tế. Do
đó, thực tiễn các mức thuế suất thường áp dụng trên cơ sở chính sách thuế theo từng giai

đoạn của nền kinh tế. Một số vai trò chủ yếu của thuế đối với đất đai là:
- Thuế đối với đất đai là công cụ huy động nguồn thu ổn định và bền vững cho
NSNN, nhất là ngân sách địa phương;
- Thuế đối với đất đai là công cụ quản lý, thúc đẩy sử dụng đất tiết kiệm, có hiệu
quả, góp phần ổn định giá cả đất đai và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu và phát
triển kinh tế; thông qua thuế đối với đất đai sẽ góp phần khuyến khích đầu tư, khai hoang,
mở rộng diện tích đất, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nguồn thu cho NSNN;
- Thuế đối với đất đai góp phần đảm bảo sự công bằng, hợp lý giữa các đối tượng
hoạt động SXKD, giữa các đối tượng sử dụng tài sản quốc gia nói chung và tài sản đất
đai nói riêng;
- Thuế đối với đất đai góp phần điều hòa thu nhập, ngăn ngừa sự đầu cơ lũng
đoạn đất đai, đảm bảo công bằng xã hội.
Tùy theo đặc thù của mỗi nước, thuế đối với đất đai thể hiện ở nhiều sắc thuế
khác nhau; đồng thời Nhà nước quy định thuế suất cao hay thấp tùy thuộc vào yêu cầu,
mục tiêu quản lý, mục đích điều tiết trong từng thời kỳ. Ở nước ta hiện tại có ba khoản
thuế đối với đất đai và lệ phí trước bạ nhà đất; cụ thể là:
- Thuế nhà đất: Là loại thuế thu ổn định hàng năm, thu trên tổng giá trị đất nhân
với thuế suất.
Cơ sở khoa học của xác định việc phải thu thuế đối với nhà đất là xuất phát từ
bản chất của thuế là công cụ để điều tiết thu nhập của các chủ thể trong xã hội. Việc đó
một mặt tạo ra sự bình đẳng hơn trong xã hội, mặt khác nguồn lực thu được từ thuế sẽ
góp phần trang trải cho các hoạt động của Nhà nước trong quá trình cung cấp các dịch vụ

cho quá trình xác định QSDĐ cho nhân dân hoặc các dịch vụ liên quan đến quan hệ đất
đai,
Người được Nhà nước giao đất sử dụng ổn định, lâu dài có trách nhiệm nộp thuế
đất như một loại thuế đánh vào tài sản. Mục đích thu thuế giá trị đất là nhằm tận dụng và
thúc đẩy sử dụng đất có hiệu quả, trong trường hợp không sử dụng và bỏ hoang hóa thì
cũng cần thu thuế để thúc đẩy việc sử dụng đất tiết kiệm, chống lãng phí; mục đích tiếp
theo là ngăn ngừa lũng đoạn, đầu cơ đất đai.

Thuế nhà đất thu trên tổng giá trị đất, đất đai càng nhiều thì tổng số thuế phải nộp
càng cao, nếu thuế suất lũy tiến thì thuế phải nộp càng lớn. Chủ đất sử dụng đất không
hiệu quả, thì phải chuyển nhượng cho người khác, qua đó thúc đẩy việc sử dụng đất đai
một cách hợp lý, phòng ngừa đầu cơ đất đai vào các chủ lớn, đồng thời điều tiết cung về
đất đai. Nhưng thực tế hiện nay ở nước ta thuế này chưa có tác dụng nhiều trong việc sử
dụng đất đai có hiệu quả do mức thu rất thấp.
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp: Thuế này sử dụng để thực hiện điều tiết đối với
đất dùng vào sản xuất nông nghiệp, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản, đất trồng rừng.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp chấp hành Trung ương khóa VII
ngày 10/6/1993, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp, thay thuế
nông nghiệp bằng thuế sử dụng đất nông nghiệp, nội dung cơ bản như sau:
Căn cứ tính thuế và thu thuế là diện tích, hạng đất và định suất thuế tính bằng
kilôgam thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất.
+ Hạng đất tính thuế được xác định dựa vào 5 yếu tố: chất đất, vị trí, địa hình,
điều kiện khí hậu thời tiết, điều kiện tưới tiêu; đồng thời tham khảo năng suất bình quân
đạt được trong điều kiện canh tác bình thường của 5 năm trước (1986-1990). Đất trồng
cây hàng năm và đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản được chia làm 6 hạng, đất trồng
cây lâu năm chia làm 5 hạng.
+ Định suất thuế (mức thuế) một năm tính bằng kg thóc/1 ha của từng hạng đất.

Đối với cây lấy gỗ và các loại cây lâu năm thu hoạch một lần: mức thuế bằng 4%
giá trị sản lượng khai thác.
Căn cứ vào các tiêu chuẩn của các hạng đất tính thuế, Ủy ban nhân dân (UBND) xã,
phường, thị trấn tổ chức phân hạng đất theo phương pháp bình nghị công khai trình
UBND huyện, UBND tỉnh duyệt cho từng huyện và tổng hợp kết quả phân hạng đất của
địa phương báo cáo Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn làm căn cứ tính
và thu thuế. Thuế tính bằng thóc thu bằng tiền theo vụ thu hoạch chính của cây trồng chủ
yếu ở địa phương.
Giá thóc thu thuế do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
quyết định không được thấp hơn 10% so với giá thóc ở thị trường địa phương trong vụ

thu thuế.
- Thuế chuyển QSDĐ: là khoản thu đánh một lần khi phát sinh việc chuyển
QSDĐ; mục tiêu là để điều chỉnh thu nhập từ chuyển QSDĐ. Luật thuế chuyển QSDĐ đã
được Quốc hội thông qua ngày 22/6/1994 và được bổ sung, sửa đổi vào năm 1999. Thi
hành Luật, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/2000/NĐ-CP ngày 8/6/2000 qui định
chi tiết thi hành các Luật thuế chuyển QSDĐ, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số
104/2000/TT-BTC ngày 23/10/2000 hướng dẫn thi hành, nội dung cơ bản là:
+ Căn cứ tính thuế là diện tích đất, giá đất tính thuế và thuế suất.
+ Giá đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất do UBND cấp tỉnh ban hành
theo khung giá đất của Chính phủ phù hợp với thực tế ở địa phương.
+ Thuế suất thuế chuyển QSDĐ: đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản, làm muối, thuế suất là 2%; đất ở, đất xây dựng công trình và các loại đất
khác, thuế suất là 4%.
- Lệ phí trước bạ nhà đất: lệ phí trước bạ nhà đất phát sinh khi có chuyển nhượng
QSDĐ từ tổ chức, cá nhân này sang tổ chức, cá nhân khác.
Thực chất việc thu lệ phí trước bạ nhà đất là nhằm thực hiện việc quản lý nhà
nước về quá trình sử dụng đất đai hay thực hiện lợi ích kinh tế - chính trị hơn là phân

phối thu nhập. Tuy nhiên, cách hiểu bản chất của việc thu lệ phí trước bạ nhà đất của
nước ta hiện nay như là việc điều tiết thu nhập là không đúng bản chất của vấn đề lệ phí
trước bạ.
Trước đây, khoản thu này bị thất thu nhiều do Nhà nước không quản lý được các
giao dịch về đất đai; đến nay, cùng với chủ trương của nhà nước là cấp quyền sử dụng đất
để quản lý thì các giao dịch về đất đai sẽ được quản lý chặt chẽ hơn, từ đó khoản thu này
cũng sẽ ổn định và hạn chế được thất thu.
Những nhân tố ảnh hưởng đến việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai:
Để có thể khai thác tốt nguồn lực tài chính từ đất đai, ngoài những nỗ lực chủ
quan của chủ thể sở hữu và các chủ thể sử dụng ra còn có ảnh hưởng rất quan trọng của
các nhân tố khách quan.
Những nhân tố khách quan đó là:

- Quy mô đất đai;
- Đặc điểm và cấu tạo tự nhiên, thổ nhưỡng, môi trường đất đai;
- Vị trí không gian địa lý lãnh thổ;
- Trình độ phát triển của nền kinh tế.
1.2. VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC TÀI CHÍNH TỪ ĐẤT ĐAI TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Vai trò của đất đai có thể được xem xét dưới nhiều góc độ: kinh tế, văn hóa, xã
hội, giáo dục, tinh thần. Luận văn này nghiên cứu đất đai dưới góc độ là nguồn lực tài
chính, do vậy mục tiêu chủ yếu và cơ bản là sử dụng đất đai phục vụ sự nghiệp phát triển
kinh tế đất nước.
Một là, nguồn lực tài chính từ đất đai phản ánh kết quả của việc thực hiện lợi
ích kinh tế của Nhà nước

Nhà nước là chủ thể duy nhất có khả năng làm đại diện cho toàn dân nắm quyền
sở hữu về đất đai. Với vị trí đó, Nhà nước nhất thiết phải thực hiện được lợi ích kinh tế từ
quyền sở hữu đó. Việc động viên các nguồn tài chính từ đất thông qua quan hệ giữa Nhà
nước với tư cách là chủ sở hữu với các chủ thể khác trong xã hội thực chất là Nhà nước
thực hiện lợi ích của mình.
Quyền sở hữu về đất đai chỉ thực sự có ý nghĩa khi quyền đó đem lại lợi ích kinh
tế thực cho chủ sở hữu. Lợi ích kinh tế thực được biểu hiện thành những nguồn tiền mà
Nhà nước huy động được trên đất thông qua việc giao cho các chủ thể trong nền kinh tế
sử dụng đất.
Lợi ích kinh tế của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN có thể thu được
từ nhiều nguồn khác nhau, mặc dù vậy, đối với một nước có trình độ phát triển thấp như
Việt Nam thì nguồn lực tài chính từ đất là một bộ phận rất đáng kể. Lợi ích kinh tế mà
chủ thể đại diện nhân dân về sở hữu đất đai thu được thông qua quyền sở hữu phản ánh
lợi ích của nhân dân lao động, của đất nước. Nguồn lực đó sẽ được tập trung và phục vụ lợi
ích của số đông. Điều đó khác hẳn về bản chất với việc thực hiện lợi ích của chủ thể sở hữu
đất đai trong các nước tư bản. Trong các nước tư bản, nguồn lực tài chính từ đất đai thuộc về
số ít những người sở hữu tư nhân về đất đai. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh thêm rằng, trên

thực tế lợi ích đó được sử dụng như thế nào lại là một chủ đề khác. Về mặt nguyên lý, chế
độ sở hữu đất đai của nước ta là không thừa nhận đất đai thuộc sở hữu tư nhân cho nên lợi
ích từ nguồn lực tài chính từ đất đai mà chủ thể sở hữu khai thác được phải được phục vụ
cho lợi ích của nhân dân.
Hai là, nguồn lực tài chính từ đất đai góp phần làm tăng quy mô NSNN từ đó
tham gia tích cực vào việc đảm bảo nguồn tài chính cho việc Nhà nước thực hiện vai
trò kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN
Trong nền KTTT định hướng XHCN, vai trò kinh tế của Nhà nước có những
điểm đặc thù, song bên cạnh đó cũng có những điểm chung giống như vai trò kinh tế của
các nhà nước khác. Điểm chung đó là Nhà nước phải tích cực thực hiện chức năng kinh
tế của mình, chẳng hạn đầu tư phát triển, đầu tư kết cấu hạ tầng, Để có thể thực hiện tốt

được vai trò kinh tế của mình trong nền KTTT định hướng XHCN, Nhà nước trước hết
cần phải có nguồn thu hay nguồn lực tài chính để có thể tài trợ cho các khoản chi tiêu đó.
Muốn vậy, cần phải huy động trong nội bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, không phải cứ gia
tăng tỷ lệ huy động nguồn thu cho ngân sách là tốt, trái lại, nhiều khi gia tăng sự nỗ lực
tận dụng nguồn thu lại có thể gây ra hiện tượng bóp nghẹt hay hạn chế sự năng động của
các chủ thể trong nền kinh tế. Một sự kiện mang tính quy luật đối với mọi nền kinh tế,
nhất là đối với các nền kinh tế đang phát triển là thâm hụt ngân sách, các chính phủ luôn
gặp phải một mâu thuẫn kinh tế là nguồn thu thì có hạn, trong khi nhu cầu chi tiêu luôn
không ngừng gia tăng; Việt Nam cũng không nằm ngoài đặc điểm vừa nêu. Mặt khác,
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta đang đòi hỏi những nguồn lực tài
chính khổng lồ, trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của NSNN.
Để có thể tháo gỡ được mâu thuẫn đó đồng thời vẫn thúc đẩy được các hoạt
động của những chủ thể trong nền kinh tế, đòi hỏi Nhà nước phải đa dạng được các
kênh huy động nguồn lực tài chính cho ngân sách. Một trong những nguồn lực tài chính
quan trọng hiện nay ở nước ta là nguồn lực tài chính từ đất đai. Với ý nghĩa đó, nguồn
lực tài chính từ đất đai là một thành tố quan trọng trong hệ thống các nguồn lực tài
chính có thể huy động vào ngân sách. Từ đó góp phần vào cung ứng kinh phí cho Nhà
nước thực hiện vai trò kinh tế ngày càng quan trọng trong nền KTTT định hướng

XHCN của mình.
Dẫn chứng cho những nhận định về vai trò nói trên của nguồn lực tài chính từ đất
đai trong nền kinh tế nước ta được thấy rất rõ trong những thập kỷ trước đây trong lịch sử
Nhà nước ta cũng như hiện nay. Chẳng hạn, chỉ tính riêng 4 năm (1951-1954) tính từ khu 4
trở ra, số thuế nông nghiệp đã thu được 1.580 nghìn tấn lương thực quy thóc (nguồn:
Tổng cục thuế - Bộ Tài chính), đảm bảo lương thực nuôi cán bộ và bộ đội kháng chiến
chống Pháp, là nguồn thu chủ yếu của NSNN, vai trò ấy vẫn được duy trì ở những năm
đầu khôi phục cải tạo và xây dựng XHCN ở miền Bắc. Trong những năm chống Mỹ cứu
nước, lương thực động viên từ thuế nông nghiệp đóng vai trò rất quan trọng vừa để nuôi
quân đánh giặc, vừa để xây dựng đất nước.

Những năm gần đây, nền kinh tế ta chuyển sang cơ chế thị trường và từng bước
hội nhập vào nền kinh tế thế giới, cơ cấu kinh tế được chuyển đổi theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ, kéo theo sự tăng trưởng không
ngừng của nguồn thu NSNN. Tuy nhiên, nguồn tài chính thu được từ đất đai vẫn là nguồn
thu ổn định, bền vững của NSNN, ngoài ra đất còn tạo nguồn thu từ quỹ đất công ích của
xã. Đây là nguồn tài chính quan trọng đảm bảo cho việc xây mới và duy trì các công trình
công ích của xã hội.
Mặt khác, đất đai là tài sản có thể dùng làm vốn góp liên doanh. Trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, việc thu hút đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là mục tiêu quan trọng
của mỗi quốc gia; các nước chưa phát triển và đang phát triển nhu cầu về vốn là rất lớn,
vì thế lượng giá trị từ giá cả đất đai trở thành nguồn quan trọng để góp vốn liên doanh.
Góp vốn mà tài sản không mất đi, đó cũng là đặc điểm của tài sản đất đai; càng sử dụng
và sử dụng vào nhiều mục đích thì đất đai càng tăng giá trị của nó. Thực tế hơn 10 năm
đổi mới, Nhà nước ta đã cho phép các doanh nghiệp được sử dụng giá trị QSDĐ vào góp
vốn liên doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài. Theo thống kê đến nay, không tính các
dự án trong khu công nghiệp, khu chế xuất, trên địa bàn cả nước đã có 3.197 dự án đầu tư
nước ngoài đăng ký, sử dụng hơn 20.000 ha đất các loại cho các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN, trong đó giá trị góp vốn bằng tiền thuê đất khoảng 2,5 tỷ USD và đã huy động
nguồn vốn ĐTNN vào Việt Nam gần 40 tỷ USD để xây dựng dự án với nhiều ngành nghề

khác nhau (Nguồn: Bộ Tài chính).
Ba là, nguồn lực tài chính từ đất đai góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử
dụng đất đai
Việc phát huy vai trò này của nguồn lực tài chính từ đất đai thể hiện ở khía cạnh
khi các chủ thể sử dụng đất phải có trách nhiệm thực thi nghĩa vụ tài chính đối với chủ sở
hữu. Khi đó, việc thực hiện nguồn lực tài chính từ đất đai của chủ sở hữu sẽ có tác dụng
đòn bẩy lợi ích kinh tế thúc đẩy kích thích các chủ thể sử dụng đất hiệu quả hơn. Dù
muốn hay không muốn, các chủ thể phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đất để

một mặt thực hiện được lợi ích của mình từ việc sử dụng đó, mặt khác phải có một nguồn
lực đủ để thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với chủ thể sở hữu là Nhà nước.
Trong lý luận về địa tô, Mác đã phân tích rất sâu sắc ý nghĩa của việc sử dụng
hiệu quả đất đai đi thuê của các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp. Khi đó, để có thể thu
được lợi ích của mình từ hoạt động kinh doanh nông nghiệp nhà tư bản ít nhất cũng phải
thu được lợi nhuận bình quân, phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân là
phần nộp cho địa chủ dưới dạng địa tô.
Vận dụng phân tích trên đây của Mác vào trong điều kiện nền kinh tế nước ta có
thể cho thấy, việc huy động nguồn lực tài chính từ các chủ thể sử dụng đất là cần thiết,
phù hợp với tính quy luật trong nền KTTT, rằng các nguồn lực phục vụ cho sản xuất cần
phải được thông qua thị trường. Không nên cấp không đất cho các chủ thể mà không có
sự kiểm soát về mặt tài chính. Việc kiểm soát người được quyền sử dụng đất thông qua
đòn bẩy tài chính là công cụ kiểm soát mang tính kinh tế và phù hợp với điều kiện KTTT
hơn cả. Mọi mệnh lệnh hành chính bất chấp quy luật kinh tế tất yếu sẽ bị đào thải và
thường không đem lại hiệu quả cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Với ý nghĩa đó, việc thực hiện nguồn lực tài chính từ đất đai không những có ý
nghĩa rất quan trọng đối với chủ thể sở hữu đất mà ngay cả đối với các chủ thể sử dụng
đất. Suy cho cùng, đất đai tự thân nó không nảy ra nguồn lực tài chính, thực chất nguồn
lực đó là sự vận động và có được từ trong các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong
nền kinh tế mà đất đai là điều kiện cho quá trình đó. Xét về ý nghĩa này thì đất đai cũng
có vai trò giống như các nguồn lực khác. Tuy nhiên, nguồn lực tài chính từ đất đai có tác

động tích cực hai mặt, đối với cả người sở hữu và người sử dụng. Thông qua quan hệ tài
chính đất đai trở nên có chủ. Khi đã có chủ, đất đai sẽ được sử dụng hiệu quả hơn vì chủ
sở hữu hay chủ sử dụng đều cần phải quan tâm đến lợi ích của mình.
Bốn là, nguồn lực tài chính từ đất đai sẽ góp phần vào việc điều tiết thị trường
bất động sản (BĐS)
Nguồn lực tài chính thu được từ đất đai, như đã chỉ ra, góp phần vào việc cung
cấp nguồn lực tài chính cho các hoạt động của Nhà nước trong quá trình cung cấp các

dịch vụ công cho xã hội, trong đó có hoạt động quản lý nhà nước về thị trường BĐS. Với
ý nghĩa như vậy, nguồn lực tài chính gián tiếp góp phần vào quá trình làm cho thị trường
BĐS vận hành có trật tự hơn.
Một trong những hình thái thị trường quan trọng trong nền KTTT định hướng
XHCN cần được điều tiết một cách hiệu quả đồng thời phải tích cực hoàn thiện thể chế
cho nó hoạt động là thị trường BĐS. Không giống với các hình thái thể chế thị trường
khác, thị trường BĐS có vai trò quan trọng đối với cả nhu cầu sản xuất và nhu cầu sinh
hoạt. Trong xã hội, hẳn mọi cá nhân đều muốn có một địa điểm thuận lợi cho hoạt động
sinh tồn của mình, thông thường đó là các nơi để cư trú. Trong nền kinh tế bao cấp trước
đây, nhà ở được phân phối trực tiếp đến người sử dụng nếu đó là cán bộ công chức nhà
nước. Tuy nhiên, trong cơ chế KTTT, để có được nhà ở người ta cần phải thông qua thị
trường. Đối với các chủ thể tiến hành hoạt động SXKD, đất đai gắn liền với nhu cầu về
mặt bằng hoặc tư liệu cho hoạt động SXKD. Với ý nghĩa đó, đất đai nói riêng và BĐS
nói chung là một trong những thành tố vẫn còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền
kinh tế, mặc dù ngày nay nhiều người cho rằng tri thức mới là nguồn lực quan trọng nhất.
Điều đó đúng, song đối với một nước có trình độ nền kinh tế rất thấp như Việt Nam thì
đất đai vẫn là một trong những nguồn lực quan trọng hàng đầu.
Tuy vậy, trong điều kiện KTTT hiện nay, để thỏa mãn nhu cầu của mình, các chủ
thể (ngoại trừ Nhà nước) đều phải thực hiện thông qua thị trường. Với tính chất đặc biệt
của nó, thị trường BĐS luôn chứa đựng những thông tin không cân xứng vì xuất hiện
nhiều hiện tượng đầu cơ đất đai. Để hạn chế được những hiện tượng đầu cơ hoặc các
nhân tố gây méo mó quan hệ thị trường, giúp cho thị trường bất động sản vận hành lành

mạnh thì giải pháp tốt nhất là công khai hóa thông tin về giá đất, thông tin về mức thuế, phí,
mà các chủ thể tham gia thị trường phải có nghĩa vụ phải thực thi đối với người đại diện chủ
sở hữu đất đai. Muốn công khai hóa được thông tin thì phải có chi phí cho hoạt động như
vậy. Nguồn lực tài chính từ đất đai sẽ góp phần vào cung cấp nguồn kinh phí cho các
hoạt động đó. Thông qua đó, nguồn lực tài chính góp phần vào việc điều tiết thị trường
BĐS trong nền kinh tế nước ta hiện nay.

Năm là, quyền sử dụng đất có thể giúp các chủ thể, nhất là các doanh nghiệp
nâng cao được khả năng huy động vốn cho hoạt động SXKD của mình
QSDĐ là tài sản có giá trị sử dụng làm tài sản thế chấp tại các tổ chức tín dụng
để vay vốn. Với đặc điểm riêng của tài sản đất, khi là tài sản để thế chấp vay vốn, đất đai
không bị cầm giữ như tài sản khác, mà trái lại người mang đất đai thế chấp thì sau khi
vay được vốn họ vẫn được sử dụng đất vào mục đích SXKD của mình. Như vậy, vốn đầu
tư vào SXKD đã được nhân đôi. Một mặt là hiện vật đất đai có giá trị sử dụng và được
dùng vào mục đích nhất định; mặt khác, đất đai được tính giá trị đảm bảo việc huy động
vốn nhà rỗi trong dân cư để đầu tư cho SXKD với những mục tiêu nhất định. Đó là giá trị
đặc biệt của đất đai mà con người có thể tận dụng, khai thác trở thành nguồn tài chính
cho đầu tư phát triển. Ở những nước phát triển, việc sử dụng đất đai là tài sản thế chấp để
vay vốn là rất phổ biến và được coi là một trong những biện pháp quan trọng để huy động
vốn.
Với những gì đã trình bày ở trên, chúng ta đã thấy nguồn lực tài chính từ đất đai
thực sự là nguồn nội lực quan trọng, nguồn tài chính tiềm năng để xây dựng và phát triển
kinh tế đất nước.
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC
1.3.1. Thực tiễn việc quản lý, sử dụng để khai thác nguồn lực tài chính tại
một số nước (chủ yếu là Trung Quốc, do Trung Quốc có nhiều đặc điểm về sở hữu đất
đai gần tương tự Việt Nam)
* Tại hầu hết các nước tư bản, chế độ sở hữu đối với đất đai tồn tại dưới hai hình
thức: đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước tư bản và đất đai thuộc sở hữu tư nhân, trong đó
sở hữu tư nhân là chủ yếu.

Tuy chế độ sở hữu có khác nhau nhưng ở tất cả các quốc gia đều xác định vai trò
quan trọng của đất đai đối với việc phát triển kinh tế nhằm phục vụ cho lợi ích chung của
toàn xã hội; việc xây dựng các chính sách tài chính đối với đất đai cũng xuất phát từ mục
tiêu này và với từng thời kỳ mà Nhà nước sẽ áp dụng các hình thức giao đất, cho thuê

×