BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
_____________________
NGUYỄN ĐÌNH MINH
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG TRỊ
( Bản thảo)
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60.31.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trương Sĩ Quý
Đà Nẵng-Năm 2012
MỤC LỤC
TỪ VIẾT TẮT
AFTA Hiệp định thương mại Việt Mỹ
CCN Cụm công nghiệp
CHDCND Cộng hoà dân chủ nhân dân
CNH-HĐH Công nghiệp hoá-hiện đại hoá
KCN Khu công nghiệp
NGTK Niên giám thống kê
NXB Nhà xuất bản
PCI Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh
TSCĐ Tài sản cố định
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
VLXD Vật liệu xây dựng
WTO Tổ chức thương mại thế giới
MỤC LỤC BẢNG BIỂU
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Trị thuộc miền Trung Việt Nam, phía đông giáp biển Đông, phía tây
giáp nước CHDCND Lào, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế và phía bắc giáp tỉnh
Quảng Bình; diện tích tự nhiên 4.739,82 km
2
, dân số tính đến 31/12/2010 là 600.462
người.
Quảng Trị từng là vùng đất bị tàn phá nặng nề trong 2 cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc. Sau ngày đất nước được giải phóng, nhân dân Quảng Trị bắt tay vào
công cuộc tái thiết kinh tế-xã hội và bước đầu đạt được những thành tựu đáng kể.
Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2006-2010 đạt bình quân 10,6%/năm, thu nhập
bình quân đầu người năm 2011 đạt 16,468 triệu đồng. Cơ cấu kinh tế chuyển biến
theo hướng tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần
tỷ trọng nông nghiệp.Hiện nay, nông nghiệp chiếm 28,4%; công nghiệp-xây dựng
chiếm 35,8% và dịch vụ chiếm 35,8%.
Tuy vậy, so với mặt bằng chung cả nước, Quảng Trị vẫn được xếp là tỉnh
nghèo. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế đang là một thách thức lớn. Để khắc phục tình
trạng kém phát triển, từ lý luận và thực tiễn cho thấy tiến lên công nghiệp hoá -hiện
đại hoá là bước đi tất yếu. Trong đó, xác định phát triển công nghiệp là nhiệm vụ cơ
bản và lâu dài.
Công nghiệp là một bộ phận trong cơ cấu của nền kinh tế quốc dân và được
đánh giá là ngành kinh tế chủ đạo. Sự phát triển của công nghiệp có ý nghĩa quan
trọng, đóng góp vào tạo ra thu nhập cho đất nước, của cải cho xã hội, tích luỹ vốn
cho phát triển, là động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy các ngành
kinh tế khác cùng phát triển. Đặc biệt, đứng trước xu thế toàn cầu hoá, hội nhập
kinh tế quốc tế, công nghiệp càng khẳng định vai trò tiên phong trong việc đón đầu
những cơ hội và cả thách thức mà xu thế này mang lại. Sự thích ứng một cách nhanh
chóng và dễ dàng với thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, khả năng thu hút vốn
đầu tư cao, cách thức tổ chức quản lý tiên tiến là những ưu thế để lựa chọn phát
triển công nghiệp trong giai đoạn hiện nay, tạo cơ sở cho việc rút ngắn khoảng cách
về kinh tế giữa các nước và khu vực.
2
Đứng trước yêu cầu đó, trong thời gian vừa qua, đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu của các học giả, các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, của các cấp
quản lý về đề tài này. Những đóng góp về mặt lý luận và những thành tựu đạt được
qua thực tiễn là rất đáng trân trọng và cần được ghi nhận. Tuy nhiên, phần lớn các
đề tài tập trung nghiên cứu chung cho cả nước hoặc một số địa phương nhất định.
Riêng đối với tỉnh Quảng trị, với những đặc thù riêng, xét thấy có rất ít đề tài nghiên
cứu một cách có hệ thống và sát với thực tế hiện nay. Đây là cơ sở để tác giả chọn
đề tài: “ Phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng trị” để tiến hành nghiên
cứu và giải quyết.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Một là, làm rõ những lý luận và kinh nghiệm thực tiễn liên quan đến vấn đề
phát triển công nghiệp ở một địa phương đặc thù như tỉnh Quảng Trị. Xây dựng một
số các chỉ tiêu đánh giá liên quan đến phát triển công nghiệp.
Hai là, đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp của địa phương, từ đó chỉ ra
những hạn chế, nguyên nhân cần khắc phục.
Ba là, đề xuất một số giải pháp có tính thực tiễn đề giải quyết các vấn đề còn
tồn tại, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp tỉnh Quảng Trị.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Các mối quan hệ kinh tế-xã hội trong nội bộ ngành công nghiệp và giữa công
nghiệp với các ngành khác phát sinh trong quá trình phát triển công nghiệp tại
Quảng Trị.
Phạm vi nghiên cứu
Về không gian nghiên cứu: địa bàn tỉnh Quảng Trị.
Về thời gian nghiên cứu: Trong phạm vi 20 năm, bao gồm phân tích, đánh giá
thực trạng giai đoạn 2005-2010, phương hướng và giải pháp đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2025.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn tiếp cận đối tượng nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng phương pháp
duy vật biện chứng của duy vật lịch sử làm phương pháp chung. Luận văn coi trọng
nền tảng kiến thức lý luận sẵn có, tổng kết thực tiễn, từ đó khái quát hoá, nêu lên
3
những kiến nghị hoàn thiện giải pháp.
Các phương pháp cụ thể:
- Hệ thống hoá các văn bản, chính sách liên quan, nhất là những quyết định có
tác động trực tiếp và gián tiếp đến phát triển công nghiệp.
- Phương pháp thống kê so sánh được dùng để tính toán một chỉ tiêu và cũng
được dùng để phân tích thực trạng.
- Số liệu thứ cấp: niên giám thống kê các năm, báo cáo của các cơ quan liên
quan như: Sở Kế hoạch đầu tư, Sở Công thương, các bài báo, đề tài nghiên cứu khoa
học,.v.v.
5. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu và kế thừa có chọn lọc các quan điểm, ý kiến của các
nhà nghiên cứu, nhà quản lý.v.v. Đề tài đã đóng góp trên một số khía cạnh sau:
- Về lý luận: hệ thống hoá những quan điểm, lý thuyết về phát triển công
nghiệp làm cơ sở cho những nghiên cứu sau này và phục vụ yêu cầu phát triển kinh
tế- xã hội của địa phương.
- Về thực tiễn: thông qua đánh giá thực trạng, phát hiện những biến động, xu
thế từ đó làm rõ những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, tìm hướng
giải quyết và đề xuất các giải pháp có tính thực tiễn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG TRỊ
GIAI ĐOẠN 2005-2010.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐẨY MẠNH PHÁT
TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG TRỊ.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP
4
1.1. Khái niệm và phân loại công nghiệp
1.1.1. Khái niệm công nghiệp
Công nghiệp, là một bộ phận của nền kinh tế, là lĩnh vực sản xuất hàng hoá vật
chất mà sản phẩm được chế tạo, chế biến nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hoặc
phục vụ hoạt động kinh doanh tiếp theo. Đây là hoạt động kinh tế, sản xuất quy mô
lớn, được sự hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ của các tiến bộ về công nghệ, khoa học và kỹ
thuật.
Một nghĩa rất phổ thông khác của công nghiệp là "hoạt động kinh tế quy mô
lớn, sản phẩm (có thể là phi vật thể) tạo ra trở thành hàng hoá ". Theo nghĩa này,
những hoạt động kinh tế chuyên sâu khi đạt được một quy mô nhất định sẽ trở thành
một ngành công nghiệp, ngành kinh tế như: công nghiệp phần mềm máy tính, công
nghiệp điện ảnh, công nghiệp giải trí, công nghiệp nghiệp thời trang, công nghiệp
báo chí, v.v [Theo Wekipedia]
1.1.2. Phân loại ngành công nghiệp
Theo cách phân loại của Tổng cục Thống kê, công nghiệp gồm 3 nhóm
ngành: công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến và công nghiệp điện khí nước.
Công nghiệp khai thác có nhiệm vụ khai thác tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho
sản xuất và đời sống.
Khai thác năng lượng: dầu mỏ, khí đốt, than…
Khai thác quặng kim loại: sắt, thiếc, bô-xít…
Khai thác quặng: uranium, thori…
Khai thác vật liệu xây dựng: đá, cát, sỏi…
Sản phẩm công nghiệp khai thác cung cấp nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp chế
biến. Sự phát triển của công nghiệp khai thác thường gắn với nguồn tài nguyên tạo
điều kiện để phát triển vùng-lãnh thổ.
Công nghiệp chế biến bao gồm:
Công nghiệp chế tạo công cụ sản xuất gồm cơ khí, chế tạo máy, kỹ thuật điện, điện
tử. Đây là ngành công nghiệp có vai trò quan trọng hàng đầu vì nó cung cấp tư liệu
sản xuất cho toàn bộ nền kinh tế, trang bị cơ sở vật chất cho tất cả các ngành.
5
Công nghiệp sản xuất đối tượng lao động gồm hoá chất, hoá dầu, luyện kim, vật liệu
xây dựng. Sản phẩm ngành này lại tiếp tục cung cấp các yếu tố đầu vào cho các
ngành khác. Cung cấp phân bón hoá học, thuốc trừ sâu cho nông nghiệp, cung cấp
vật liệu cho ngành xây dựng.
Công nghiệp sản xuất vật phẩm tiêu dùng như dệt may, chế biến thực phẩm đồ
uống, chế biến gỗ-giấy, chế biến thuỷ tinh-sành sứ…
Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước: cung cấp đầu vào thiết
yếu cho sản xuất và đời sống. Mọi hoạt động diễn ra ngày nay đều phụ thuộc rất lớn
vào sự phát triển ngành này.[5, tr 360-361]
1.2. Đặc điểm và vai trò của công nghiệp
1.2.1. Đặc điểm của sản xuất công nghiệp
- Tính chất hai giai đoạn của quá trình sản xuất
Quá trình sản xuất công nghiệp thường được chia thành 2 giai đoạn: giai đoạn tác
động vào đối tượng lao động để tạo ra nguyên liệu và giai đoạn chế biến các nguyên
liệu thành tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng. Tất nhiên, trong mỗi giai đoạn
lại bao gồm nhiều công đoạn sản xuất phức tạp và chúng có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau.
Tính chất hai giai đoạn của quá trình sản xuất công nghiệp là do đối tượng lao động
của nó đa phần không phải sinh vật sống, mà là các vật thể của tự nhiên, thí dụ như
khoáng sản nằm sâu trong lòng đất hay dưới đáy biển. Con người phải khai thác
chúng để tạo ra nguyên liệu, rồi chế biến nguyên liệu đó để tạo nên sản phẩm.
- Sản xuất công nghiệp có khả năng thực hiện chuyên môn hoá sản xuất sâu và hiệp
tác hoá sản xuất rộng
Do hai giai đoạn của sản xuất công nghiệp không phải theo trình tự bắt buộc như
nông nghiệp, mà có thể tiến hành đồng thời và thậm chí cách xa nhau về mặt không
gian. Bởi vì sản xuất công nghiệp chủ yếu là quá trình tác động cơ, lý, hoá trực tiếp
vào giới tự nhiên để lấy ra và biến đổi các vật thể tự nhiên thành các sản phẩm cuối
cùng phục vụ cho nhân loại. Do đó, trong sản xuất công nghiệp, các nhà sản xuất có
thể lựa chọn mức độ chuyên môn hoá phù hợp.
- Sản xuất công nghiệp có xu hướng phân bố ngày càng tập trung cao độ theo lãnh
thổ
6
Phân bố tập trung theo lãnh thổ là quy luật phát triển của sản xuất công nghiệp thể
hiện ở quy mô xí nghiệp và mật độ sản xuất các xí nghiệp công nghiệp trên một đơn
vị lãnh thổ. Tính tập trung theo lãnh thổ của sản xuất công nghiệp có nhiều ưu điểm,
song cũng có nhiều nhược điểm.
Công nghiệp phân bố tập trung theo lãnh thổ hình thành những điểm công nghiệp,
khu công nghiệp, vùng công nghiệp sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi để thực hiện
chuyên môn hoá sản xuất và hiệp tác hoá sản xuất, khai thác sử dụng có hiệu quả
các nguồn tài nguyên, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản xuất, đưa lại hiệu
quả kinh tế xã hội cao. Tuy nhiên nếu quy mô tập trung công nghiệp theo lãnh thổ
quá mức,vượt quá sức chứa của lãnh thổ, sẽ gây ra rất nhiều khó khăn đó là: làm
hình thành những khu công nghiệp lớn, những trung tâm dân cư đông đúc, những
thành phố khổng lồ, tạo sức ép lớn lên hệ thống cơ sở hạ tầng, gây khó khăn phức
tạp cho tổ chức, quản lý xã hội và môi trường. Vì vậy cần nghiên cứu toàn diện
những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội trong từng địa phương; từng vùng cũng
như trên lãnh thổ cả nước để lựa chọn quy mô phân bố công nghiệp cho phù hợp.
- Đặc điểm công nghệ sản xuất: công nghệ sản xuất trong công nghiệp do con người
tạo ra. Quá trình tạo ra sản phẩm công nghiệp được thực hiện thông qua hệ thống
máy móc, thiết bị với đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao. Khi công nghệ
ngày càng được cải tiến, hiện đại thì đổi hỏi trình độ lao động phải tăng theo và
ngược lại.
- Đặc điểm về sự biến đổi các đối tượng lao động: sau mỗi chu kỳ sản xuất từ một
nguồn nguyên liệu với những công nghệ khác nhau có thể tạo ra nhiều sản phẩm với
nhiều công dụng khác nhau; cùng một sản phẩm có thể tạo ra nhiều mẫu mã, kiểu
dáng khác nhau. Đây là tính ưu việt của sản xuất công nghiệp.[6, tr 55-56]
1.2.2. Vai trò của công nghiệp với phát triển kinh tế
- Công nghiệp tăng trưởng nhanh và làm gia tăng thu nhập quốc gia
Năng suất lao động của khu vực công nghiệp cao hơn hẳn các ngành kinh tế khác,
mà năng suất lao động là yếu tố quyết định nâng cao thu nhập, thúc đẩy nhanh tăng
trưởng công nghiệp và đóng góp ngày càng lớn vào thu nhập của quốc gia. Công
7
nghiệp có vai trò quan trọng này là do thường xuyên được đổi mới và ứng dụng
công nghệ tiến tiến; hơn nữa, giá cả sản phẩm công nghiệp thường ổn định và cao
hơn các sản phẩm khác ở thị trường trong nước và ngoài nước.
- Công nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sản xuất cho toàn bộ nền kinh tế
Công nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm làm chức năng tư liệu sản xuất, cho nên nó là
ngành có vai trò quyết định trong việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế.
Trình độ phát triển công nghiệp cao thì tư liệu sản xuất càng hiện đại, tạo điều kiện
nâng cao năng suất lao động xã hội.
Ngày nay, sự phát triển của công nghiệp đang đưa hoạt động kinh tế thế giới đến
trình độ sản xuất rất cao, đó là tạo ra các tư liệu sản xuất có khả năng thay thế phần
lớn sức lao động của con người. Đó chính là sự ra đời và phát triển mạnh mẽ các tư
liệu sản xuất có khả năng tự động hoá trong một số khâu hoặc toàn bộ quá trình sản
xuất. Máy móc tự động hoá thể hiện sự phát triển cao của công nghiệp trong việc
tạo ra tư liệu sản xuất phục vụ cho các ngành sản xuất và cho bản thân ngành công
nghiệp.
- Công nghiệp thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp
Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp được coi là
nhiệm vụ cơ bản nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho đời sống nhân
dân và nông sản cho xuất khẩu. Để thực hiện nhiệm vụ này nông nghiệp không thể
tự thân vận động nêu không có sự hỗ trợ của công nghiệp.
Công nghiệp chính là ngành cung cấp cho sản xuất những yếu tố đầu vào quan
trọng như phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, máy móc cơ khí nhỏ đến cơ giới lớn.
Công nghiệp còn có vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho phát
triển nông nghiệp và cho xây dựng nông thôn mới.
Công nghiệp chế biến đã có những đóng góp quan trọng vào việc tăng giá trị sản
phẩm, tăng khả năng tích trữ, vận chuyển của sản phẩm nông nghiệp và làm cho sản
phẩm nông nghiệp ngày càng đa dạng về chủng loại. Do sản phẩm của nông nghiệp
mang tính thời vụ cao và khó bảo quản, nếu không có công nghiệp chế biến sẽ hạn
chế lớn đến khả năng tiêu thụ.
- Công nghiệp cung cấp hàng tiêu dùng cho đời sống nhân dân
8
Nông nghiệp cung cấp những sản phẩm tiêu dùng tất yếu, đáp ứng nhu cầu cơ bản
nhất của con người. Còn công nghiệp cung cấp những sản phẩm tiêu dùng ngày
càng phong phú, đa dạng hơn. Kinh tế càng phát triển, thu nhập của dân cư càng
tăng thì nhu cầu của con người ngày càng mở rộng. Chính sự phát triển của nhu
cầu đã góp phần thúc đẩy công nghiệp phát triển. Song ngược lại sự phát triển của
công nghiệp không những đáp ứng nhu cầu của con người mà nó lại hướng dẫn tiêu
dùng của con người, hướng đến nhu cầu cao hơn. Như vậy, công nghiệp càng phát
triển thì các sản phẩm hàng hoá càng đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu mã,
càng nâng cao về chất lượng.
- Công nghiệp thu hút lao động nông nghiệp, góp phần giải quyết việc làm xã hội
Công nghiệp tác động vào sản xuất nông nghiệp làm nâng cao năng suất lao động
nông nghiệp, tạo khả năng giải phóng sức lao động trong nông nghiệp. Đồng thời
sự phát triển mạnh mẽ công nghiệp đã làm cho sản xuất công nghiệp ngày càng mở
rộng, tạo ra các ngành sản xuất mới, các khu công nghiệp mới, đến lượt mình, công
nghiệp đã thu hút lao động nông nghiệp và giải quyết việc làm cho xã hội. Việc thu
hút số lao động ngày càng tăng từ nông nghiệp vào công nghiệp không chỉ góp phần
giải quyết việc làm, mà còn tạo điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn, tăng thu
nhập cho người lao động.
- Công nghiệp tạo ra hình mẫu ngày càng hoàn thiện về tổ chức sản xuất
Do đặc điểm của sản xuất, công nghiệp luôn có một đội ngũ lao động có tính tổ
chức, kỷ luật cao, có tác phong lao động “ công nghiệp” . Do đó, đội ngũ lao động
trong công nghiệp luôn là bộ phận tiên tiến trong dân cư. Lao động trong công
nghiệp ngày càng có trình độ chuyên môn hoá cao tạo điều kiện nâng cao trình độ
chuyên môn của người lao động và chất lượng sản phẩm
- Công nghiệp tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, làm thay đổi sự phân công lao động và giảm mức độ chênh lệch về trình độ
phát triển giữa các vùng.
Công nghiệp tạo điều kiện khai thác có hiệu quả tài nguyên ở khắp mọi nơi từ mặt
đất, dưới lòng đất, kể cả dưới đáy biển. Nhờ làm tốt công tác thăm dò, khai thác và
9
chế biến tài nguyên mà danh mục các điều kiện tự nhiên trở thành tài nguyên thiên
nhiên phục vụ công nghiệp ngày càng thêm phong phú.
Công nghiệp làm thay đổi sự phân công lao động vì dưới tác động của nó, không
gian kinh tế đã bị biến đổi sâu sắc. Nơi diễn ra hoạt động công nghiệp cần có các
hoạt động dịch vụ phục vụ cho nó như nhu cầu lương thực, thực phẩm, nơi ăn chốn
ở của công nhân, đường giao thông, cơ sở chế biến. Công nghiệp cũng tạo điều kiện
hình thành các đô thị hoặc chuyển hoá chức năng của chúng, đồng thời là hạt nhân
phát triển các không gian kinh tế.
Hoạt động công nghiệp còn làm giảm bớt sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa
thành thị và nông thôn. Chính công nghiệp đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn, làm
cho nông thôn nhanh chóng bắt kịp với đời sống thành thị .[5, tr 361-364]
1.3. Nội dung phát triển công nghiệp
1.3.1. Tăng trưởng sản lượng công nghiệp
Tăng trưởng về sản lượng công nghiệp theo chiều rộng bằng cách tăng quy
mô sản xuất và quy mô lao động, vốn. Để tăng trưởng công nghiệp theo hướng này
cần chú trọng mở rộng quy mô cơ sở sản xuất, đa dạng hoá ngành nghề, phát triển
các loại hình doanh nghiệp, tăng số lao động, vốn trong công nghiệp, phát triển các
khu công nghiệp, khu kinh tế từ đó tạo ra ngày càng nhiều hơn các sản phẩm công
nghiệp đáp ứng nhu cầu của thị trường, góp phần gia tăng thu nhập cho nền kinh tế
quốc dân.
Nhóm chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng công nghiệp: đó là chỉ tiêu phản ánh về
quy mô và tốc độ tăng trưởng công nghiệp hàng năm hay bình quân năm của một
giai đoạn nhất định. Quy mô phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, cồn tốc độ tăng
trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh
hay chậm giữa các thời kỳ.
- Giá trị sản xuất công nghiệp: thường được dùng để đo lường toàn bộ kết quả sản
xuất công nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Giá trị sản xuất công nghiệp được
tính theo giá cố định và giá hiện hành. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công
nghiệp được tính bằng giá cố định.
- Giá trị gia tăng hay giá trị tăng thêm (VA) ngành công nghiệp là chỉ tiêu cốt lõi
phản ánh tăng trưởng về sản lượng công nghiệp, đồng thời là chỉ tiêu định lượng để
10
phản ánh chất lượng tăng trưởng. Giá trị gia tăng là một bộ phận của giá trị sản xuất
(GO) và chi phí trung gian (IC) gồm : thu nhập của người lao động từ sản xuất, thuế
sản xuất, khấu hao tài sản cố định và thặng dư sản xuất. Mối quan hệ giữa VA, GO,
IC được biểu diễn như sau: VA=GO-IC; theo cách tính trên thì VA tỉ lệ thuận với
GO và tỉ lệ nghịch với IC.
- Tốc độ phát triển liên hoàn: thể hiện sự biến đổi của đối tượng nghiên cứu giữa 2
giai đoạn liên tiếp (hoặc 2 năm liên tiếp) và được tính theo công thức:
%100
1
1
×
−
=
−
−
i
i
i
Y
YYi
y
Trong đó: yi: tốc độ phát triển giá trị sản xuất công nghiệp
Yi: giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn i
Y
i-1
: giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn i-1
- Tốc độ phát triển bình quân: chỉ tiêu này phản ánh mức độ phát triển trung bình
trong cả giai đoạn nghiện cứu.
%100%100
1
−×=
n
Y
Yt
y
Trong đó:
y
tốc độ phát triển bình quân
Yt: giá trị sản xuất công nghiệp của năm cuối của giai đoạn nghiên cứu
Y
1
: giá trị sản xuất công nghiệp năm gốc
N: số năm trong giai đoạn nghiên cứu ( không tính năm gốc)
- Số lượng, sản lượng sản phẩm công nghiệp: phản ánh quy mô, tính đa dạng trong
sản xuất sản phẩm công nghiệp.
- Tăng trưởng về số lượng và quy mô cơ sở sản xuất công nghiệp: phát triển số
lượng cơ sở sản xuất công nghiệp trong đó phải chú trọng đến việc phát triển các
doanh nghiệp công nghiệp. Doanh nghiệp là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của
sản xuất công nghiệp. Có càng nhiều doanh nghiệp lớn mạnh thì ngành công nghiệp
càng phát triển. Doanh nghiệp mạnh phản ánh năng lực cạnh tranh và thích nghi
trong môi trường biến động. Thực hiện tập trung hoá sản xuất công nghiệp để tạo
điều kiện hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn. Để phản ánh quy mô doanh
nghiệp và so sánh quy mô doanh nghiệp ta có thể sử dụng một số tiêu chí:
+ Số lượng sản phẩm (tính bằng giá trị hoặc hiện vật)
11
+ Số lao động
+ Giá trị tài sản cố định
Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức liên kết trong công nghiệp cũng rất quan trọng. Đây là
phạm trù phản ánh mối quan hệ phối hợp hoạt động kinh tế giữa các chủ thể kinh tế
để thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ sản xuất kinh doanh nhất định. Liên
doanh là một trong những dạng biểu hiện cụ thể của hoạt động liên kết. Có thể phát
triển các loại liên kết như liên kết để tạo ra các yếu tố đầu vào cho sản xuất, liên kết
ở khâu sản xuất, liên kết ở khâu tiêu thụ. Tăng cường liên kết kinh tế trong công
nghiệp là cơ hội để tăng số lượng doanh nghiệp công nghiệp, đồng thời tạo điều
kiện để doanh nghiệp phát triển hiệu quả và bền vững, nâng cao khả năng cạnh
tranh trên thị trường nội địa và thế giới.
1.3.2. Nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp
Nâng cao chất lượng tăng trưởng công nghiệp phản ánh sự phát triển công
nghiệp về chiều sâu. Đó là sự gia tăng về quy mô và sản lượng phải dẫn đến những
biến đổi tích cực trong sản xuất và sản phẩm công nghiệp. Sản xuất công nghiệp
phải theo hướng ngày càng hiện đại, tính chuyên môn hoá cao, dây chuyền và thiết
bị sản xuất tiên tiến, nâng cao trình độ tay nghề lao động, sản phẩm phải đa dạng
chủng loại, tạo ra chuỗi giá trị cao.
Một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự phát triển công nghiệp về chất là tỷ lệ giữa
giá trị gia tăng (VA
CN
) và giá trị sản xuất công nghiệp (GO
CN
). Tỷ lệ này càng cao
phản ánh hiệu quả trong sản xuất công nghiệp. Làm được điều đó, đòi hỏi sản xuất
công nghiệp phải phát huy tối đa các nguồn lực sẵn có, đồng thời phải đẩy mạnh
đầu tư đổi mới trang thiết bị, máy móc để tăng năng suất; nâng cao tính chuyên
nghiệp, chuyên môn hoá trong lao động, tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm có tính
cạnh tranh cao.
Năng suất lao động cũng là một chỉ tiêu quan trọng khi đánh giá hiệu quả
trong sản xuất công nghiệp. Chỉ tiêu này phản ánh sự phù hợp của lao động với
trình độ công nghệ trong quá trình sản xuất công nghiệp, đồng thời phản ánh mức
độ hiệu quả khi sử dụng lao động của doanh nghiệp. Để năng suất lao động tăng
cao, đòi hỏi người lao động phải thường xuyên được bồi dưỡng, đạo tạo về trình độ
chuyên môn để thích ứng với các dây chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Đồng thời,
12
đẩy mạnh cách thức tổ chức, quản lý theo các tiêu chuẩn quốc tế sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả trong sản xuất công nghiệp.Về mặt lượng, năng suất lao động được
tính bằng tỷ số giữa giá trị sản xuất công nghiệp và số lượng lao động trong từng bộ
phận công nghiệp cụ thể.
Ngoài ra, cơ cấu công nghiệp hợp lý trong từng giai đoạn phát triển cụ thể cũng rất
quan trọng trong đánh giá chất lượng tăng trưởng công nghiệp. Cơ cấu công nghiệp
hợp lý là cơ cấu phản ánh được xu thế phát triển chung. Đó là, cơ cấu đa dạng
nhưng thống nhất và có khả năng hỗ trợ tốt cho nhau, cho phép tạo ra các giá trị gia
tăng lớn nhất. Trong đó, hàm lượng khoa học, công nghệ và chế biến sâu trở thành
động lực tăng trưởng, quy định nội dung về chất của cơ cấu. Về mặt lượng, cơ cấu
công nghiệp được xác định bằng tỷ trọng giữa giá trị sản lượng của từng bộ phận
chiếm trong tổng giá trị sản lượng ngành công nghiệp.[4, tr1]
Trong lựa chọn cơ cấu công nghiệp, cần thấy rằng mỗi ngành công nghiệp muốn
phát triển phụ thuộc rất lớn vào các ngành công nghiệp khác có liên quan. Vì thế
năng lực cạnh tranh của một ngành công nghiệp chuyên môn hoá phụ thuộc vào
ngay trong khả năng liên kết trong nội bộ ngành công nghiệp, cũng như liên kết với
các ngành và các lĩnh vực liên quan khác.
Để phát triển hiệu quả các ngành công nghiệp đã lựa chọn, cần chuyển dịch cơ cấu
ngành theo các mô hình liên kết như:
- Liên kết giữa các ngành khai thác tài nguyên và chế biến tài nguyên thành
các sản phẩm (có thể trở thành đầu vào cho các ngành công nghiệp chế biến
hoặc có thể là những sản phẩm hoàn chỉnh). Lựa chọn cơ cấu công nghiệp
theo mô hình liên kết các ngành công nghiệp có liên quan chặt chẽ với nhau,
từ khai thác đến chế biến tài nguyên phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và sản
xuất trong nước, đồng thời hướng đến phục vụ xuất khẩu có ý nghĩa rất quan
trọng về cả kinh tế, xã hội và môi trường.
- Liên kết giữa ngành công nghiệp chế biến với ngành sản xuất nông, lâm,
thuỷ sản trên từng vùng lãnh thổ. Mô hình này sẽ đảm bảo cho các nhà máy
chế biến chủ động về nguồn nguyên liệu, từ đó chủ động trong sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tạo vị thế cạnh tranh. Đây là cơ
sở để ngành công nghiệp chế biến và ngành sản xuất nguyên liệu phục vụ
13
cho công nghiệp chế biến nông-lâm-thuỷ sản có thể phát triển một cách bền
vững, lâu dài.
Lựa chọn cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng phát triển các mô hình liên kết là
xu hướng tất yếu, phù hợp với tiềm năng và lợi thế về tài nguyên, về nguồn nguyên
liệu do các ngành sản xuất nông-lâm-thuỷ sản sản xuất ra và phù hợp với xu thế hội
nhập quốc tế. Đây là quá trình chuyển dần từ các ngành công nghiệp dựa vào lợi thế
tài nguyên sang lợi thế về vốn, khoa học và công nghệ.
Cơ cấu công nghiệp theo vùng
Phát triển công nghiệp theo vùng là nhằm khắc phục tình trạng phân bổ công
nghiệp mất cân đối giữa các vùng, địa phương. Sự phát triển công nghiệp không cân
đối giữa các vùng làm hạn chế trong khai thác tiềm năng, lợi thế của vùng mà còn
gây mất cân đối thu nhập giữa các vùng, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, gây áp
lực lên hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội. Vì vậy, chính sách phát triển công
nghiệp theo vùng là nhằm thúc đẩy sự phát triển công nghiệp một cách cân đối, hài
hoà trên cơ sở phát huy được tất các tiềm năng, lợi thế của vùng.
Cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế
Để phát triển công nghiệp theo hướng đã lựa chọn, nhất là các ngành công
nghiệp được ưu tiên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phát triển công
nghiệp cân đối trên các vùng lãnh thổ cần có các chính sách khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển công nghiệp.
+ Cần đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển công
nghiệp theo định hướng và quy hoạch, nghĩa là không có sự phân biệt đối xử trong
chính sách ưu đãi.
+ Nhà nước cần xác định cụ thể trong chiến lược phát triển công nghiệp lĩnh vực
nào nhà nước cần phải đầu tư, lĩnh vực nào thì khuyến khích các thành phần xã hội
khác tham gia đầu tư.
+ Đối với ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao, hiện đại cần
có cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo các hình thức đầu tư
trực tiếp, liên doanh với các doanh nghiệp trong nước. Các hình thức liên doanh với
nước ngoài trong phát triển công nghiệp cần có chiến lược và quy hoạch cụ thể để
tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm chế tạo. Bên cạnh đó, cũng cần tăng cường
14
quan hệ liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo các ngành công
nghiệp phát triển một cách bền vững.
Mục tiêu của việc khuyến khích các thành phần kinh tế trong phát triển công nghiệp
là nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển công nghiệp theo định hướng
đã lựa chọn, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
1.3.3. Lựa chọn công nghệ trong phát triển các ngành công nghiệp
Quá trình phát triển công nghệ từ thấp đến cao tương ứng với các loại công
nghệ như: công nghệ thâm dụng tài nguyên (các ngành khai thác tài nguyên, chế
biến nông sản ); công nghệ thâm dụng lao động (các ngành sản xuất quần áo, giày
dép, hàng gia dụng ); công nghệ thâm dụng vốn (các ngành sản xuất máy móc,
thiết bị ); công nghệ thâm dụng kỹ thuật (các ngành sản xuất phần cứng, phần
mềm máy vi tính, công nghệ sinh học ). Các nước đi sau có lợi thế của kẻ đi sau,
vừa có thể phát triển tuần tự, vừa có thể nhảy vọt ở một số ngành kỹ thuật cao nếu
có điều kiện phù hợp.
Việc tận dụng lợi thế về tài nguyên phong phú và lao động giá rẻ là nguyên
nhân trực tiếp để đa số các nước đang phát triển lúc đầu lựa chọn công nghệ thâm
dụng tài nguyên và lao động. Những ngành sử dụng loại công nghệ này thường dễ
xây dựng, vốn đầu tư không lớn, tạo được nhiều việc làm cho người lao động, góp
phần tích luỹ vốn ban đầu. Nhưng về lâu dài lại tạo ra giá trị gia tăng thấp, ít sự
sáng tạo, năng suất lao động tăng chậm. Lúc này, việc tận dụng lợi thế của kẻ đi sau
lại tạo ra bước đột phá trong sản xuất, phát triển các ngành công nghệ cao, nâng cao
năng suất lao động, tạo ra giá trị gia tăng lớn.
Công nghệ thích hợp khi có tỉ lệ vốn-lao động phù hợp với nguồn lực sẵn có
của đất nước, địa phương. Thực tế cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài thường cung
cấp những công nghệ phù hợp với điều kiện của họ, tức là có tỉ lệ vốn-lao động cao.
Ứng dụng công nghệ hiện đại sẽ đạt được năng suất cao, tạo nhiều mối liên kết và
tiềm năng sẽ tạo ra được những ngành công nghiệp chiến lược, đặc biệt trong hoàn
cảnh chính sách thay thế nhập khẩu. Tuy nhiên, trên cơ sở nguồn lực của các nước
đang phát triển, công nghệ hiện đại chỉ có thể đạt được thành công khi có chính
sách can thiệp của Nhà nước. Một số chính sách can thiệp chủ yếu như:
15
- Chính sách giá trần và giá sàn của Nhà nước: chính sách lương tối thiểu hay lương
theo thoả thuận của công đoàn dẫn đến xu hướng chuyển sang sử dụng công nghệ
thâm dụng vốn.
- Chính sách lãi suất trần, quản lý tín dụng làm cho các doanh nghiệp lớn có cơ hội
hơn và chuyển sang công nghệ thâm dụng vốn.
- Chính sách ngoại thương nói chung khuyến khích các doanh nghiệp lớn thông qua
miễn giảm thuế nhập khẩu máy móc thiết bị.
Nhưng những can thiệp trên sẽ không có lợi cho các doanh nghiệp quy mô
nhỏ. Các công nghệ không thích hợp thể hiện:
- Sản phẩm không thích ứng với nhu cầu và thị hiếu của đại đa số người tiêu dùng
trong nước.
- Sử dụng nguyên liệu nhập khẩu trong khi địa phương có khả năng cung ứng.
- Quy mô hoạt động quá lớn vượt quá khả năng quản lý.
- Sử dụng lao động kỹ thuật cao không có sẵn tại địa phương.
- Sử dụng nhiều máy móc nhập khẩu đắt tiền không thích hợp với điều kiện địa
phương.
- Thông thường chỉ thích hợp với một số doanh nghiệp quy mô lớn chứ không thích
hợp với nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ.
- Công nghệ thâm dụng vốn có sản lượng cao hơn trên một đồng vốn đầu tư nên gia
tăng GDP. Công nghệ thâm dụng lao động có sản lượng trên một đồng vốn thấp
nhưng tạo nhiều việc làm hơn.
1.3.4. Tận dụng lợi thế theo quy mô trong phát triển một số ngành công nghiệp
Trong nhiều ngành công nghiệp sản xuất quy mô lớn có thể giảm được chi
phí. Lợi thế kinh tế theo quy mô tồn tại vì những lý do:
- Do tính không thể chia được của quá trình sản xuất, trong quá trình sản xuất luôn
cần một số lượng tối thiểu các đầu vào để duy trì hoạt động của doanh nghiệp, nó
không phụ thuộc vào việc có sản xuất hay không sản xuất, các chi phí đó gọi là chi
phí cố định và nó không thay đổi theo mức sản lượng, nghĩa là các chi phí không
thể chia nhỏ được nữa, nó bắt đầu từ những mức sản lượng thấp và không tăng cùng
với mức tăng của sản lượng. Vì vậy, khi sản lượng tăng, doanh nghiệp sẽ đạt được
lợi thế kinh tế nhờ quy mô vì chi phí cố định này có thể chia cho một số lượng
16
nhiều hơn các đơn vị sản lượng và như vậy nó làm giảm chi phí bình quân cho một
đơn vị sản phẩm.
- Do tính chuyên môn hoá, một số ngành nghề riêng lẻ, một mình phải đảm đương
tất cả các công việc trong kinh doanh nhưng nếu họ mở rộng sản xuất và thuê thêm
lao động thì mỗi người công nhân có thể tập trung vào một công việc cụ thể và giải
quyết công việc đó có hiệu quả hơn, do đó góp phần làm giảm chi phí bình quân.
- Do tính quan hệ chặt chẽ, doanh nghiệp có quy mô lớn thường cần đến lợi thế của
các máy móc mới, hiện đại, với mức sản lượng cao thì chi phí khấu hao máy móc có
thể trải đều cho một số lượng lớn sản phẩm và với kỹ thuật đó có thể sản xuất ra
nhiều sản phẩm đến mức làm cho chi phí bình quân giảm.
Các doanh nghiệp quy mô lớn thường có khả năng chi phối thị trường, sử dụng kỹ
thuật sản xuất hàng loạt, có đủ tiềm năng tài chính để tự nghiên cứu và phát triển, có
bộ máy quản lý chuyên nghiệp và được xem là đầu tàu kéo các doanh nghiệp khác
cùng phát triển.
Phát triển các ngành công nghiệp quy mô vừa và nhỏ
Trong một số ngành công nghiệp mà sản phẩm có tính thời trang như quần áo, giày
dép, đồ gỗ gia dụng, vật liệu xây dựng, thực phẩm, thì quy mô vừa và nhỏ tỏ ra khá
hiệu quả. Việc phân loại quy mô lớn, vừa hay nhỏ dựa vào tiêu thức số lao động hay
số vốn và chỉ mang tính chất tương đối.
Doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng
thoả mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử
dụng nhiều lao động với trình độ lao động kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt rất linh
hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của thị
trường, phát huy và tận dụng tốt các nguồn lực ở những vùng sâu, vùng xa.
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp quy mô nhỏ ở các thành phố lớn còn
nhiều hơn các doanh nghiệp quy mô lớn. Hơn nữa, doanh nghiệp quy mô nhỏ nói
chung thường sử dụng công nghệ thâm dụng lao động. Loại hình doanh nghiệp này
tạo nhiều việc làm, góp phần phân phối lại thu nhập. Công nghiệp quy mô nhỏ còn
thúc đẩy phi tập trung hoá do phân bổ ở nông thôn hay những thành phố nhỏ, đó là
xí nghiệp thôn dã. Những ngành công nghiệp truyền thống cũng thường phát triển ở
quy mô vừa và nhỏ. Doanh nghiệp nhỏ còn là vườn ươm cho các tài năng quản lý.
17
Tuy nhiên, hiệu quả của các doanh nghiệp quy mô nhỏ phụ thuộc nhiều vào
hiệu quả sinh ra do sự kết hợp nhiều doanh nghiệp và do các hoạt động thay thế hay
hỗ trợ. Những người sản xuất quy mô nhỏ cần tiếp cận với các đầu vào trung gian
nên thích phân bổ gần các cảng hay những tiện ích giao thông khác. Các doanh
nghiệp nhỏ ít tự đào tạo lao động, nhưng hưởng lợi do gần các trung tâm đô thị nơi
lao động có tay nghề. Các doanh nghiệp nhỏ có tỉ lệ phá sản khá cao.
Chính phủ tạo điều kiện để cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển như:
cung cấp hệ thống luật pháp, những thể chế khác, duy trì những chính sách dựa trên
cơ sở thị trường, loại bỏ những chính sách làm nản lòng nhà kinh doanh. Chính phủ
còn hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng trong dài hạn, trợ cấp
cho các doanh nghiệp này sẽ tốn kém và tỏ ra kém hiệu quả.[1, tr 190-192]
1.4.Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển công nghiệp
1.4.1.Vị trí địa lý
Vị trí địa lý bao gồm vị trí tự nhiên, vị trí kinh tế, giao thông, chính trị. Vị trí địa lý
tác động rất lớn tới việc lựa chọn địa điểm xây dựng xí nghiệp cũng như phân bố
các ngành công nghiệp và các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp.
Nhìn chung, vị trí địa lý có ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình thành cơ cấu ngành công
nghiệp và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành trong điều kiện tăng cường mở rộng
các mối quan hệ kinh tế quốc tế và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế
giới.
Sự hình thành và phát triển của các xí nghiệp, các ngành công nghiệp phụ thuộc rất
nhiều vào vị trí địa lý. Có thể thấy rõ hầu hết các cơ sở công nghiệp ở các quốc gia
trên thế giới đều được bố trí ở những khu vực có vị trí thuận lợi như gần các trục
đường giao thông huyết mạch, gần sân bay, bến cảng, gần nguồn nước, khu vực tập
trung đông dân cư.
Vị trí địa lý thuận lợi hay không thuận lợi tác động mạnh tới việc tổ chức lãnh thổ
công nghiệp, bố trí không gian các khu vực tập trung công nghiệp. Vị trí địa lý càng
thuận lợi thì mức độ tập trung công nghiệp càng cao, các hình thức tổ chức lãnh thổ
công nghiệp càng đa dạng và phức tạp. Ngược lại, những khu vực có vị trí địa lý
kém thuận lợi sẽ gây trở ngại cho việc xây dựng và phát triển công nghiệp cũng như
việc kêu gọi vốn đầu tư ở trong và ngoài nước.
18
1.4.2.Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên được coi là tiền đề vật chất không thể
thiếu được để phát triển và phân bố công nghiệp. Nó ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình
thành và xác định cơ cấu ngành công nghiệp. Một số ngành công nghiệp như khai
khoáng, luyện kim, vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến nông- lâm- thuỷ hải sản
phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên. Số lượng, chất lượng, phân bố và sự kết
hợp của chúng trên lãnh thổ có ảnh hưởng rõ rệt đến tình hình phát triển và phân bố
của nhiều ngành công nghiệp.
Tuy nhiên, đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế nói chung, đối với phát triển
công nghiệp nói riêng, tài nguyên thiên nhiên là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Vì tài
nguyên thiên nhiên là nguồn lực có hạn, nếu chỉ biết khai thác thì dần dần trở nên
cạn kiệt một cách nhanh chóng. Tài nguyên thiên nhiên chỉ trở thành một sức mạnh
kinh tế khi con người biết khai thác và sử dụng nó một cách hiệu quả. Thực tế cho
thấy, nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc,.v.v là những nước có ít tài nguyên
nhưng lại là những nước có nền công nghiệp phát triển mạnh nhờ biết cách tận dụng
các lợi thế và tiềm năng của mình. Trong khi, đa phần các nước đang phát triển ở
giai đoạn đầu thường quan tâm nhiều đến xuất khẩu sản phẩm thô, đó là những sản
phẩm được khai thác trực tiếp từ nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước, chưa
qua chế biến hoặc ở dạng sơ chế. Tuy điều này đem lại sự gia tăng thu nhập ban đầu
cho quốc gia, nhưng đây không phải là con đường để phát triển bền vững trong dài
hạn.
Đối với những ngành công nghiệp chủ chốt thì khoáng sản là một trong những
nguồn tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa hàng đầu đối với việc phát triển và phân bố
công nghiệp. Khoáng sản được coi là “bánh mì” cho các ngành công nghiệp. Số
lượng, chủng loại, trữ lượng, chất lượng khoáng sản và sự kết hợp các loại khoáng
sản trên lãnh thổ sẽ chi phối qui mô, cơ cấu và tổ chức các xí nghiệp công nghiệp.
Các nhân tố tự nhiên khác cũng có tác động tới sự phát triển và phân bố công
nghiệp như đất đai, tài nguyên sinh vật biển:
+ Về mặt tự nhiên, đất ít có giá trị đối với công nghiệp. Suy cho cùng, đây chỉ là nơi
để xây dựng các xí nghiệp công nghiệp, các khu vực tập trung công nghiệp. Quỹ đất
19
dành cho công nghiệp và các điều kiện về địa chất công trình ít nhiều có ảnh hưởng
tới qui mô hoạt động và vốn kiến thiết cơ bản.
+ Tài nguyên sinh vật và tài nguyên biển cũng có tác động tới sản xuất công nghiệp.
Rừng và hoạt động lâm nghiệp là cơ sở cung cấp vật liệu xây dựng (gỗ, tre, nứa…),
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp giấy, chế biến gỗ và các ngành tiểu thủ
công nghiệp (tre, song, mây, giang, trúc…), dược liệu cho công nghiệp dược phẩm.
Sự phong phú của nguồn thuỷ, hải sản với nhiều loại động, thực vật dưới nước có
giá trị kinh tế là cơ sở để phát triển ngành công nghiệp chế biến thuỷ hải sản.
Ngoài các dạng tài nguyên biển khác như dầu mỏ, khí đốt,.v.v. được con người biết
đến và khai thác từ lâu, thì cùng với sự tiến bộ của khoa học thăm dò, khai thác con
người ngày càng phát hiện nhiều hơn các loại khoáng sản, năng lượng từ đại dương
như năng lượng sóng, năng lượng thuỷ triều để tạo ra điện, hay các dạng kim loại
quý nằm dưới đáy biển là cơ hội, tiềm năng để phát triển các ngành công nghiệp
mới trong tương lai.
- Khí hậu :cũng có ảnh hưởng nhất định đến sự phân bố công nghiệp. Đặc điểm của
khí hậu và thời tiết tác động không nhỏ đến hoạt động của các ngành công nghiệp,
đặc biệt là công nghiệp khai khoáng. Trong một số trường hợp, nó chi phối cả việc
lựa chọn kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Chẳng hạn, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa
làm cho máy móc dễ bị hư hỏng. Điều đó đòi hỏi lại phải nhiệt đới hoá trang thiết bị
sản xuất. Ngoài ra, khí hậu đa dạng và phức tạp làm xuất hiện những tập đoàn cây
trồng vật nuôi đặc thù. Đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp chế biến
lương thực- thực phẩm.
1.4.3. Đặc điểm kinh tế- xã hội
Những đặc điểm kinh tế xã hội đặc trưng của từng địa phương, quốc gia có ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển công nghiệp. Với những điều kiện đặc thù về
xuất phát điểm của nền kinh tế, đời sống, phong tục tập quán văn hoá của nhân dân
địa phương sẽ tác động đến việc lựa chọn con đường phát triển công nghiệp phù
hợp với những đặc trưng đó.
Đặc điểm dân cư và nguồn lao động: Dân cư và nguồn lao động là nhân tố quan
trọng hàng đầu cho sự phát triển và phân bố công nghiệp, được xem xét dưới hai
góc độ sản xuất và tiêu thụ.
20
Nơi nào có nguồn lao động dồi dào thì ở đó có khả năng để phân bố và phát
triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như dệt- may, giày- da, công
nghiệp thực phẩm. Những nơi có đội ngũ lao động kỹ thuật cao và đông đảo công
nhân lành nghề thường gắn với các ngành công nghiệp hiện đại, đòi hỏi hàm lượng
công nghệ và chất xám cao trong sản phẩm như kỹ thuật điện, điện tử- tin học, cơ
khí chính xác… Nguồn lao động với trình độ chuyên môn kỹ thuật và khả năng tiếp
thu khoa học kỹ thuật mới là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghệ
cao và nâng cao hiệu quả sản xuất trong các ngành công nghiệp khác. Ngoài ra, ở
những địa phương có truyền thống về tiểu thủ công nghiệp với sự hiện diện của
nhiều nghệ nhân thì sự phát triển ngành nghề này không chỉ thu hút lao động, mà
còn tạo ra nhiều sản phẩm độc đáo, mang bản sắc dân tộc, được ưa chuộng trên thị
trường trong và ngoài nước. Nếu biết đầu tư, khai thác, phát huy những yếu tố này
sẽ mở ra một cơ hội mới trong phát triển công nghiệp, vừa đáp ứng nhu cầu trong
nước vừa mang lại giá trị xuất khẩu cao.
Quy mô, cơ cấu và thu nhập của dân cư có ảnh hưởng lớn đến quy mô và cơ
cấu của nhu cầu tiêu dùng. Đó cũng là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp,
nhất là các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng để đáp ứng nhu cầu ngày
càng phát triển của dân cư. Bên cạnh đó, phong tục tập quán, lịch sử truyền thống
cũng ảnh hưởng rất lớn đến phát triển công nghiệp mỗi quốc gia nói chung và từng
địa phương nói riêng. Khi tập quán và nhu cầu tiêu dùng thay đổi sẽ làm biến đổi về
quy mô và hướng chuyên môn hoá của các ngành và xí nghiệp công nghiệp. Từ đó
dẫn đến sự mở rộng hay thu hẹp của không gian công nghiệp cũng như cơ cấu
ngành của nó.
Phân tích nhân tố này, đòi hỏi mỗi quốc gia cũng như địa phương phải biết
tận dụng những lợi thế trong việc lựa chọn những ngành công nghiệp cần ưu tiên
phát triển, mặt khác cần có sự kết hợp các ngành có lợi thế về mặt xã hội với các
ngành đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn và hàm lượng khoa học công nghệ cao.
1.4.4. Các yếu tố về nguồn lực
- Vốn sản xuất và vốn đầu tư
Vai trò của vốn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế đã được chứng minh trong
lý thuyết của kinh tế học phát triển như: mô hình Harrod-Domar, J.Keynes. Đối với
21
sản xuất công nghiệp, vốn có vai trò quan trọng trong quá trình tái sản xuất và mở
rộng; góp phần gia tăng năng lực sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh nhờ đầu
tư đổi thiết bị, công nghệ sản xuất. Đối với cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển
công nghiệp, vốn góp phần đầu tư mới, duy trì và mở rộng theo hướng ngày càng
hoàn thiện, đồng bộ, hiện đại.
Trong các hoạt động đầu tư cho sản xuất thì đầu tư cho tái sản xuất tài sản sản cố
định được xem là một hoạt động hết sức quan trọng, có tính chất lâu dài và có
những mối quan hệ ổn định, ảnh hưởng đến tất cả các ngành, các khâu và các yếu tố
trong nền kinh tế. Do đó, đầu tư vào tài sản cố định cần phải được xem xét một cách
thận trọng, đảm bảo khả năng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Đây là những
khoản đầu tư ban đầu rất lớn, thời gian thu hút vốn chậm nên rất cần huy động các
nguồn lực từ bên ngoài tham gia đầu tư phát triển; cũng như cần có các chính sách
khuyến khích, hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp trong hoạt động này.
Đối với công nghiệp, nguồn vốn FDI có vai trò hết sức quan trọng thể hiện ở những
tác dụng sau:
+ Giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế nhất là trong lĩnh vực phát
triển công nghiệp. Do tích luỹ nội bộ của đa phần các nước đang phát triển thấp, là
cản trở lớn cho sự phát triển nên đây được xem là yếu tố quan trọng để gia tăng
nguồn lực cho phát triển.
+ Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các công ty nước ngoài chuyển giao
công nghệ từ nước này sang nước khác, từ đó giảm dần khoảng cách về khoa học
công nghệ giữa các nước, nhất là trong công nghiệp là ngành đòi hỏi yếu tố về khoa
học công nghệ tiên tiến hiện đại trong quá trình sản xuất cao hơn nhiều so với các
ngành khác trong xã hội.
+ Đầu tư FDI còn làm cho các hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh trong nước
phát triển, thúc đẩy tính năng động và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp,
tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các tiềm năng của đất nước. Từ đó, có tác động
mạnh mẽ đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
- Tiến bộ khoa học- công nghệ
Tiến bộ khoa học- công nghệ không chỉ tạo ra những khả năng mới về sản
xuất, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành, làm tăng tỉ trọng của chúng trong
22
tổng thể toàn ngành công nghiệp, làm cho việc khai thác, sử dụng tài nguyên và
phân bố các ngành công nghiệp trở nên hợp lý, có hiệu quả và kéo theo những thay
đổi về quy luật phân bố sản xuất, mà còn làm nảy sinh những nhu cầu mới, đòi hỏi
xuất hiện một số ngành công nghiệp với công nghệ tiên tiến và mở ra triển vọng
phát triển của công nghiệp trong tương lai.
Nhân tố khoa học công nghệ còn ảnh hưởng quyết định đến nâng cao năng
suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhờ các tiến bộ của khoa học công
nghệ các dây chuyền, thiết bị trong khai thác, sản xuất công nghiệp ngày càng trở
nên tiến tiến, hiện đại; từ đó tăng khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực phục vụ cho sản xuất, tiết kiệm được chi phí trong sản xuất, từ đó nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ứng dụng và đổi mới công nghệ giúp tạo
ra những sản phẩm có ưu thế vượt trội, có hàm lượng khoa học công nghệ cao, đa
tính năng, chủng loại và mẫu mã, nâng cao khả năng chiếm lĩnh thị trường, do đó
mở rộng được thị trường tiêu thụ.
Công nghệ và đổi mới công nghệ trong công nghiệp còn góp phần giải quyết
nhiệm vụ bảo vệ môi trường, cải thiện điều kiện làm việc, giảm lao động nặng nhọc
độc hại, biến đổi cơ cấu lao động theo hướng: nâng cao tỷ lệ lao động có trình độ
chuyên môn cao, lao động kỹ thuật có tay nghề giỏi, giảm dần lao động phổ thông
và lao động giản đơn.
Tiến bộ khoa học công nghệ thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động
xã hội. Ở mỗi trình độ công nghệ có những hình thức và mức độ phân công lao
động thích ứng. Đồng thời sự phân công lao động xã hội hợp lý là môi trường thuận
lợi để thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ phát triển . Phân công lại lao động là tác
nhân trực tiếp của sự hình thành công nghiệp và sự phân hoá nội bộ công nghiệp
thành những phân hệ khác nhau. Bởi vậy, trình độ tiến bộ của khoa học công nghệ
càng cao, phân công lao động xã hội càng sâu sắc, sự phân hoá công nghiệp diễn ra
càng mạnh và cơ cấu công nghiệp càng phức tạp.
Tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra những nhu cầu mới. Chính những nhu cầu
này là tác nhân dẫn đến sự ra đời và phát triển một số ngành công nghiệp mới đại
diện cho công nghiệp trình độ cao. Những ngành này khi xuất hiện được xem là