Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

LUẬN VĂN: Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế xã hội quận Long Biên, thành phố Hà Nội đến năm 2015 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (781.45 KB, 105 trang )












LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội quận Long Biên, thành phố Hà Nội
đến năm 2015






mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa ở Thủ đô Hà Nội đang diễn ra với tốc độ
nhanh. Trong quá trình đó, công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố nói
chung và của từng quận, huyện nói riêng phải đi trước một bước, định hướng đúng cho các
kế hoạch và chương trình phát triển trung hạn và ngắn hạn. Quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội vẫn được coi là một khâu quan trọng trong công tác kế hoạch hóa, làm căn cứ cho việc
xây dựng định hướng phát triển và là cơ sở cho quy hoạch chuyên ngành, quy hoạch xây
dựng đô thị, hoạch định các kế hoạch 5 năm và hàng năm. Điều này càng đặc biệt quan


trọng đối với Hà Nội là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị lớn, là Thủ đô của cả nước.
Long Biên là một quận mới được tách ra từ huyện Gia Lâm với 14 đơn vị hành chính
cấp phường [13]. Quy hoạch của huyện Gia Lâm trước đây đã được xây dựng trên cơ sở coi
Gia Lâm (cũ) là một huyện ngoại thành, chứa đựng nhiều nội dung cho mục tiêu phát triển
nông nghiệp và nông thôn. Trong định hướng phát triển các khu công nghiệp tập trung lớn
trên địa bàn quận Long Biên hiện nay như Sài Đồng A, Sài Đồng B, Đài Tư , công nghệ sản
xuất được quy hoạch chưa phải là công nghệ hiện đại, còn nhiều khả năng gây ô nhiễm môi
trường. Các khu đô thị cũ hầu hết là nhà thấp tầng, chia lô với cơ sở hạ tầng còn thiếu và
chưa đồng bộ. Quy hoạch cũ chưa thực sự gắn kết với hướng quy hoạch nguồn nhân lực,
chưa giải quyết được vấn đề việc làm cho dân cư trên địa bàn, chưa thực sự phát huy có
hiệu quả những tiềm năng cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hiện nay, Long Biên là một quận nội thành với định hướng trước mắt cũng như
lâu dài phải phù hợp với quy hoạch chung của Thủ đô. Chính vì vậy, việc hoàn thiện quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quận đến năm 2015 là rất cần thiết nhằm phát huy tốt
những yếu tố tiềm năng, định rõ phương hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội của
quận trong những năm tới, làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng các đề án quy hoạch chi
tiết và kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận, để Long Biên từng
bước phát triển tương xứng với vị trí của một quận nội thành Thủ đô với tiêu chuẩn của
một đô thị đồng bộ và hiện đại.


Việc nghiên cứu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên đến năm
2015 là một trong những việc làm rất cần thiết hiện nay. Vì thế, tôi chọn vấn đề " Hoàn
thiện quy hoạch phỏt triển kinh tế - xó hội quận Long Biờn, thành phố Hà Nội đến năm
2015" làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, Chính phủ và ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã có
nhiều quyết định, chỉ thị, công văn về điều chỉnh quy hoạch chung của Thủ đô Hà Nội và
điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của một số quận, huyện của Hà Nội. Cụ
thể là:

- Quyết định 108/CP của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh quy hoạch chung của
Thủ đô Hà Nội đến năm 2020.
- Chỉ thị 32/1998/CT-TTg ngày 23/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ về công tác
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010.
- Công văn số 792/UB-KHĐT ngày 9/4/1999 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội chỉ đạo thực hiện công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội.
- Công văn số 516/UB-KHĐT ngày 25/2/2004 của ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội về việc xây dựng, điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các quận, huyện Hai
Bà Trưng, Gia Lâm, Thanh Trì, Long Biên và Hoàng Mai, v.v
Ngoài ra, có một số đề tài luận văn thạc sĩ nghiên cứu về quản lý quy hoạch đô thị,
như: Hoàn thiện quản lý quy hoạch xây dựng đô thị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh,
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế của Huỳnh Khương Ninh, Hà Nội, 2005;
Cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về kinh tế cấp quận/ huyện tại Thành phố Hồ
Chí Minh, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế của Trần Công Lý, Hà Nội,
2005; Phát triển các dịch vụ xã hội cho người nghèo trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế của Phạm Thị Thanh Mai, Hà Nội, 2005
Tuy vậy, đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách hoàn
chỉnh về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên.


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở nhận thức lý luận và đánh giá thực trạng quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội quận Long Biên từ khi thành lập đến nay, đề ra những giải pháp nhằm
hoàn thiện việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên đến năm 2015.
- Nhiệm vụ
+ Làm rõ một số vấn đề lý luận về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận.
+ Phân tích, đánh giá các yếu tố tiềm năng, nguồn lực, những nét đặc thù và thực
trạng quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên từ khi thành lập đến nay, chỉ ra
những nguyên nhân của thành tựu và hạn chế, yếu kém.
+ Đề ra những định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh

tế - xã hội quận Long Biên đến năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên trên các lĩnh vực
chủ yếu.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về không gian: Trong phạm vi ranh giới hành chính của quận Long
Biên.
+ Phạm vi thời gian: Khảo sát đánh giá và xây dựng chương trình quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội quận Long Biên từ khi thành lập (2003) đến năm 2015.
+ Phạm vi các ngành, lĩnh vực: Tất cả các ngành, lĩnh vực chủ yếu của kinh tế - xã
hội trên địa bàn quận Long Biên, không phân biệt cấp quản lý.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận


Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và các quan điểm của
Đảng, Chính phủ và Thành ủy, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội cấp quận ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, luận văn sử dụng các phương pháp điều tra, thống kê,
phân tích, tổng hợp, logic - lịch sử, nghiên cứu tài liệu qua khai thác các dự án, các báo
cáo chuyên đề đã được thực hiện trên địa bàn quận Long Biên nói riêng và Hà Nội nói
chung.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích giúp cấp ủy đảng, chính quyền quận Long
Biên nắm được tình hình chung về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên
trong thời gian qua, vận dụng vào việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận Long
Biên đến năm 2015.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


Chương 1
cơ sở lý luận và thực tiễn về hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội quận
long biên

1.1. Vị Trí, VAI Trò Và Nội DUNG QUY Hoạch Phát Triển KINH Tế - Xã
Hội Cấp Quận
1.1.1. Vị trí, vai trò và chức năng cấp quận
* Vị trí, vai trò cấp quận trong hệ thống tổ chức hành chính nhà nước
Theo quy định của luật pháp Việt Nam, quận/ huyện là một trong bốn cấp hành
chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời quận/ huyện còn được tổ
chức là một cấp chính quyền thuộc hệ thống chính quyền địa phương, là cấp trên của xã,
phường - chính quyền cơ sở và cấp dưới của tỉnh/ thành phố.
Về tổ chức không gian địa lý, quận là địa bàn lãnh thổ với cư dân và tổ chức xã
hội đô thị, bao gồm diện tích tự nhiên và một lượng dân cư nhất định, tuỳ thuộc vị trí, tính
chất và điều kiện phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội. Về hành chính, quận là cơ quan nhà
nước địa phương quản lý một số phường nhất định. Số lượng phường thuộc mỗi quận
không có chỉ tiêu thống nhất, tùy theo đặc điểm và tính chất của từng khu vực quyết định
hình thành quận và địa giới quận thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Xét về tổ chức xã hội - kinh tế, quận là một phần lãnh thổ của thành phố được
phân chia theo địa giới hành chính bao gồm đất đai, dân cư. ở các quận, hầu hết đều có hệ
thống kết cấu hạ tầng phát triển, có đường giao thông thuận tiện, có hệ thống cung cấp
điện, nước sinh hoạt, dân cư đông, tập trung nhiều tầng lớp làm ăn sinh sống chủ yếu dựa
vào sản xuất công nghiệp, thương mại, dịch vụ… với sự đa dạng và phức tạp về ngành
nghề. Mật độ dân số cao và cơ cấu dân cư phức tạp nên trên địa bàn cấp quận cũng dễ nảy
sinh nhiều vấn đề về an ninh, trật tự, về các mối quan hệ giao lưu và quản lý độ thị.



Với hoạt động đa dạng, phức tạp trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của hàng vạn
người trên một địa bàn lãnh thổ khá hẹp đòi hỏi phải có sự quản lý, điều hành của một tổ
chức chính quyền, đó là cơ quan nhà nước cấp quận.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi), Điều
118 xác định như sau:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực
thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường, xã; quận chia thành phường…[5, tr. 64].
Như vậy, đơn vị hành chính của nước ta hiện nay được chia thành bốn cấp: cấp
trung ương, cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; cấp quận, huyện, thị xã và thành phố
thuộc tỉnh; cấp xã, phường, thị trấn. Trong mối quan hệ giữa các cấp hành chính theo phân
định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, thì cấp quận là
một cấp trung gian có mối liên hệ giữa cấp thành phố trực thuộc trung ương với cấp cơ sở
là cấp phường.
Trong mối quan hệ ấy, đơn vị hành chính cấp quận có vai trò rất quan trọng, quyết
định sự thành công hay thất bại trong thực hiện nhiệm vụ của thành phố. Các hoạt động
trong quản lý hành chính nhà nước ở quận, sự lãnh đạo của cấp uỷ đảng được thể hiện ở
đường lối, chủ trương, chính sách và các biện pháp lớn; đó là những vấn đề quan hệ với tất
cả lĩnh vực trong đời sống xã hội có tầm chiến lược, tác động, ảnh hưởng lâu dài đối với
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng những vấn đề về đường lối, chủ trương,
chính sách và các biện pháp lớn ấy chỉ trở thành hiện thực khi thông qua hoạt động của hệ
thống chính quyền cấp quận là Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, qua sự hưởng ứng
thực hiện của quần chúng nhân dân. Để quần chúng nhân dân hiểu rõ đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tự giác thực hiện tất yếu phải thông qua quá trình



tổ chức thực hiện trên phạm vi địa bàn hoạt động của mỗi địa phương, cơ sở. Vì vậy, không
thể thiếu vai trò trung gian của cấp quận.
Cấp quận là một cấp hành chính được lập ra ở các thành phố trực thuộc trung ương
trong cả nước. Cấp quận trực tiếp lĩnh hội mọi vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách từ
cấp thành phố, chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của thành phố. Đối với cấp quận, nhiều
vấn đề trên địa bàn bị chi phối rất lớn và gắn bó về kinh tế, kế hoạch và sự quản lý của thành
phố. Do sự phát triển về kinh tế - xã hội và quá trình đô thị hoá đang diễn ra ngày càng nhanh
ở nước ta, việc hình thành đơn vị hành chính cấp quận là rất cần thiết.
Trong vài thập kỷ qua, qua việc cải cách thí điểm, một số quận, huyện, tỉnh, thành
phố ở nước ta được sáp nhập với quy mô không thích hợp với điều kiện thực tế. Đến nay,
Nhà nước đã phải hoạch định lại địa giới theo hướng nhỏ và gọn hơn, phù hợp thực tế của
từng vùng, cấp quận trở thành đơn vị hành chính có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế địa
phương.
* Chức năng, quyền hạn cấp quận
Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003, chính quyền địa phương ở nước ta
được tổ chức làm ba cấp: tỉnh - thành phố trực thuộc trung ương, quận (huyện), phường
(xã). Trong công cuộc đổi mới đất nước, tổ chức chính quyền địa phương nói chung, chính
quyền quận (huyện) nói riêng có nhiều bước tiến quan trọng. Các cấp chính quyền đã tập
trung vào chức năng quản lý hành chính nhà nước bằng công quyền và pháp luật, quy
hoạch và kế hoạch, có sự kết hợp giữa điều tiết bằng chính sách với sử dụng các nguồn lực
vật chất nhất là nguồn lực về tài chính, tín dụng, kết cấu hạ tầng. Cơ sở pháp lý tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương được quy định trong Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể của Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ở mỗi cấp (25-6-1996). Trong cơ cấu
chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương,
có tính tự quản và thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định chủ
trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương phù hợp với lợi ích của nhân dân
và pháp luật. ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân và nằm trong
tổng thể các cơ quan thuộc nền hành chính quốc gia. Vì vậy, ủy ban nhân dân thực hiện sự



kết hợp chặt chẽ các quá trình quản lý nhà nước cả về mặt lãnh thổ và cả về kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng.
Cụ thể, đối với Hội đồng nhân dân quận (huyện) có chức năng, quyền hạn sau:
- Hội đồng nhân dân quận quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm;
chủ trương, biện pháp về xây dựng, phát triển kinh tế hợp tác xã và kinh tế hộ gia đình ở địa
phương. Quyết định biện pháp bảo đảm thực hiện chương trình khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư, khuyến công và phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ở địa
phương, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế theo quy định của
pháp luật. Dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu chi ngân sách địa phương
và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết
định các chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện ngân sách; điều chỉnh dự toán ngân sách
địa phương trong trường hợp cần thiết; giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng
nhân dân quyết định. Quy hoạch, kế hoạch mạng lưới giao thông, thủy lợi và biện pháp bảo vệ
đê điều, công trình thủy lợi theo quy định của pháp luật. Quyết định biện pháp thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.
- Quyết định các biện pháp và điều kiện cần thiết để xây dựng mạng lưới giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông trên địa bàn theo quy hoạch chung. Quyết định biện pháp bảo
đảm cơ sở vật chất, điều kiện phát triển sự nghiệp văn hóa, thông tin, thể dục thể thao tại địa
phương. Giữ gìn, bảo quản, trùng tu và phát huy giá trị các công trình văn hóa, nghệ thuật, di
tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh theo phân cấp. Quyết định biện pháp phòng,
chống tệ nạn xã hội ở địa phương; bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống dịch
bệnh; chăm sóc người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; bảo vệ, chăm sóc bà
mẹ, trẻ em; thực hiện chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình; chính sách ưu đãi đối với
thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, những người và gia đình có công với nước; thực hiện
chính sách bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, xóa đói, giảm nghèo.
- Quyết định biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, phát huy sáng kiến cải
tiến kỹ thuật để phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân ở địa phương. Quản
lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sống hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở

vùng biển tại địa phương theo quy định của pháp luật. Quyết định biện pháp bảo vệ và cải


thiện môi trường; phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt ở địa phương; thực
hiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm, ngăn chặn
việc sản xuất, lưu hành hàng giả, hàng kém chất lượng ở địa phương, bảo vệ lợi ích của người
tiêu dùng.
- Quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và
quốc phòng toàn dân; bảo đảm thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, xây dựng lực lượng dự bị
động viên, thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ, chính sách hậu phương quân đội và chính sách
đối với lực lượng vũ trang nhân dân ở địa phương; biện pháp kết hợp quốc phòng, an ninh với
kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh. Thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn
xã hội; đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác ở địa
phương [11, tr. 20-24].
Đối với ủy ban nhân dân quận (huyện) có chức năng và quyền hạn sau:
- Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp thông qua để trình ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt; tổ chức và kiểm tra thực hiện
kế hoạch đó. Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách địa
phương, phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; quyết toán ngân sách địa phương;
lập dự toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường cần thiết trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp quyết định và báo cáo ủy ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Tổ chức
thực hiện ngân sách địa phương; hướng dẫn, kiểm tra ủy ban nhân dân phường (xã) xây dựng
và thực hiện ngân sách và kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường (xã) và thực
hiện ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật. Phê chuẩn kế hoạch kinh tế - xã hội
của phường (xã).
- Xây dựng và trình hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua các chương trình
khuyết khích phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp ở địa phương và tổ chức thực
hiện các chương trình đó. Chỉ đạo ủy ban nhân dân phường (xã) thực hiện các biện pháp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp, bảo vệ rừng, trồng rừng và khai thác
lâm sản, phát triển ngành, nghề đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy sản. Thực hiện giao

đất, cho thuê đất và thu hồi đất đối với cá nhân và hộ gia đình, giải quyết các tranh chấp
đất đai, thanh tra đất đai theo quy định của pháp luật. Xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử


dụng đất đai của ủy ban nhân dân phường (xã). Xây dựng quy hoạch thủy lợi; tổ chức bảo
vệ đê điều, các công trình thủy lợi vừa và nhỏ; quản lý mạng lưới thủy nông trên địa bàn
theo quy định của pháp luật.
- Tham gia với ủy ban nhân dân tỉnh (thành phố) trong việc xây dựng quy hoạch, kế
hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn. Xây dựng và phát triển các cơ
sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở các phường (xã). Tổ chức thực hiện xây dựng
và phát triển các làng nghề truyền thống sản xuất các sản phẩm có giá trị tiêu dùng và xuất
khẩu; phát triển các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản và các cơ sở công nghiệp khác theo sự
chỉ đạo của ủy ban nhân dân tỉnh (thành phố).
- Tổ chức lập, trình duyệt hoặc xét duyệt theo thẩm quyền quy hoạch xây dựng
phường, điểm dân cư nông thôn trên địa bàn quận; quản lý việc thực hiện quy hoạch xây dựng
đã được duyệt. Quản lý, khai thác, sử dụng các công trình giao thông và kết cấu hạ tầng cơ sở
theo sự phân cấp. Quản lý việc xây dựng, cấp giấy phép xây dựng và kiểm tra việc thực hiện
pháp luật về xây dựng; tổ chức thực hiện các chính sách về nhà ở; quản lý đất đai và quỹ nhà
thuộc sở hữu nhà nước trên địa bàn. Quản lý việc khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây
dựng theo phân cấp của ủy ban nhân dân tỉnh (thành phố).
- Xây dựng, phát triển mạng lưới thương mại, dịch vụ, du lịch và kiểm tra việc chấp
hành quy định của Nhà nước về hoạt động thương mại, dịch vụ và du lịch trên địa bàn quận.
Kiểm tra việc thực hiện các quy tắc về an toàn và vệ sinh hoạt động thương mại, dịch vụ, du
lịch trên địa bàn. Kiểm tra việc chấp hành quy định của Nhà nước về hoạt động thương mại,
dịch vụ, du lịch trên địa bàn.
- Xây dựng các chương trình, đề án phát triển văn hóa, giáo dục, thông tin, thể dục
thể thao, y tế, phát triển trên địa bàn quận (huyện) và tổ chức thực hiện sau khi được cấp
có thẩm quyền phê duyệt. Tổ chức và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật
về phổ cấp giáo dục, quản lý các trường tiểu học, trung học cơ sở, trường dạy nghề; tổ
chức các trường mầm non; thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục trên địa bàn; chỉ đạo

việc xóa mù chữ và thực hiện các quy định về tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử. Quản
lý các công trình công cộng được phân cấp; hướng dẫn các phong trào về văn hóa, hoạt
động của các trung tâm văn hóa - thông tin, thể dục thể thao; bảo vệ và phát huy giá trị các


di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh do địa phương quản lý. Thực hiện kế
hoạch phát triển sự nghiệp y tế; quản lý các trung tâm y tế, trạm y tế; chỉ đạo và kiểm tra
việc bảo vệ sức khỏe của nhân dân; phòng, chống dịch bệnh; bảo vệ và chăm sóc người
già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa; bảo vệ chăm sóc bà mẹ, trẻ em; thực
hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong
hoạt động của các cơ sở hành nghề y, dược tư nhân, cơ sở in, phát hành, xuất bản phẩm.
Tổ chức, chỉ đạo việc dạy nghề, giải quyết việc làm cho người lao động; tổ chức thực hiện
phong trào xóa đói, giảm nghèo; hướng dẫn hoạt động từ thiện, nhân đạo.
- Thực hiện các biện pháp ứng dụng khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất và đời
sống nhân dân ở địa phương. Tổ chức thực hiện bảo vệ môi trường; phòng, chống, khắc phục
hậu quả thiên tai, lũ lụt. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường
và chất lượng sản phẩm; kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hóa trên địa bàn; ngăn chặn
việc sản xuất và lưu hành hàng giả, hàng kém chất lượng ở địa phương.
- Tổ chức phong trào quần chúng tham gia lực lượng vũ trang và quốc phòng toàn
dân; thực hiện kế hoạch xây dựng khu vực phòng thủ quận (huyện); quản lý lực lượng dự
bị động viên; chỉ đạo việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, công tác huấn luyện dân
quân tự vệ. Tổ chức đăng ký, khám tuyển nghĩa vụ quân sự; quyết định việc nhập ngũ,
giao quân, việc hoãn, miễn thi hành nghĩa vụ quân sự và xử lý các trường hợp vi phạm
theo quy định của pháp luật. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, xây dựng lực lượng công an nhân dân vững mạnh, bảo vệ bí mật nhà nước; thực
hiện các biện pháp phòng ngừa, chống tội phạm, các tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm
pháp luật khác ở địa phương. Chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp
luật về quản lý hộ khẩu, quản lý việc cư trú, đi lại của người nước ngoài ở địa phương.
Tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân tham gia phong trào bảo vệ an ninh, trật tự, an
toàn xã hội [11, tr. 82-89].

Ngoài ra, theo Điều 26 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Hội
đồng nhân dân cấp quận còn được giao thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: quyết
định các biện pháp đảm bảo thực hiện thống nhất kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy
hoạch đô thị của thành phố; quyết định biện pháp bảo đảm trật tự công cộng, giao thông,


phòng, chống cháy, nổ và bảo vệ môi trường, cảnh quan đô thị; quyết định biện pháp quản lý
dân cư đô thị và tổ chức đời sống nhân dân [11].
Như vậy, cấp quận không chỉ thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước ở địa
phương mà còn được pháp luật trao thẩm quyền cho chính quyền trên các lĩnh vực hoạt động
kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh.
Đối với các cấp chính quyền địa phương trong đó có cấp quận, ngoài Hiến pháp 1992,
Pháp lệnh về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của chính quyền địa phương mỗi cấp (25-6-1996),
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003, còn có Pháp lệnh về giám sát
và hướng dẫn của ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hướng dẫn và nguyên tắc kiểm tra của Chính
phủ đối với Hội đồng nhân dân, Pháp lệnh Cán bộ công chức, các luật, nghị định, thông tư về
quản lý nhà nước ở các lĩnh vực ngân sách, đất đai, lao động, thương mại Các văn bản pháp
lý nêu trên đã xác định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của quận (huyện) và đặt chính quyền quận
(huyện) vào khung pháp lý chặt chẽ, bảo đảm hoạt động quản lý của bộ máy chính quyền
được thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp luật, ràng buộc bởi pháp luật
theo đúng định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Nhiệm vụ, nội dung và yêu cầu quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp
quận
* Nhiệm vụ của công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận
Để xác định được nhiệm vụ của công tác quy hoạch, trước hết cần xác định quy
hoạch là gì? Theo Từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 1992, thì qui hoạch là việc "bố trí, sắp xếp
toàn bộ theo một trình tự hợp lý trong từng thời gian, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch dài hạn"
[29, tr. 801].
Quy hoạch là sự phân bố và sắp xếp các hoạt động và các yếu tố sản xuất, dịch vụ và
đời sống trên một địa bàn lãnh thổ (quốc gia, vùng, tỉnh, huyện ) cho một thời kỳ trung hạn,

dài hạn (có chia các giai đoạn) để cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên lãnh
thổ, theo thời gian và là cơ sở để lập các kế hoạch phát triển. Phải dựa trên cơ sở tính toán và
khai thác hợp lý, khoa học, có hiệu quả cao các điều kiện thiên nhiên, kinh tế, xã hội, các yếu
tố của lực lượng sản xuất toàn xã hội nhằm đạt được mục tiêu chiến lược đã đề ra [28, tr. 616].


Chất lượng của quy hoạch phụ thuộc vào công tác điều tra cơ bản, dự đoán phát
triển kinh tế, khoa học kỹ thuật và khả năng mở rộng sự hợp tác kinh tế với nước ngoài.
Có các loại quy hoạch: Quy hoạch đô thị, quy hoạch vùng, quy hoạch xây dựng,
quy hoạch kinh tế, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn
Quy hoạch đô thị là nghiên cứu những quy luật phát triển của đô thị nhằm giúp
cho việc hoạch định những chính sách, kế hoạch, quy hoạch phát triển đô thị đảm bảo việc
sắp xếp, bố trí các yếu tố tạo nên đô thị và tạo ra một cấu trúc hợp lý đảm bảo sự hoạt động
nhịp nhàng của các yếu tố đó và sự hài hòa của đô thị với môi trường.
Quy hoạch vùng là "dự án thiết kế sử dụng tổng hợp lãnh thổ từng vùng đất đai
của một nước về sử dụng đất đai, về xây dựng cơ bản, tổ chức cân đối giữa các ngành công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông, dựa theo thế mạnh của mỗi vùng" [1, tr. 1381].
Nội dung của quy hoạch vùng là bố trí hiệu quả các cơ sở sản xuất - kinh doanh
trên cơ sở sử dụng tổng hợp nguyên liệu, vật tư, lao động, kỹ thuật và tổ chức hợp tác liên
doanh giữa các cơ sở, bố trí dân cư hợp lý nhằm đảm bảo kiến trúc xây dựng, vệ sinh
thuận tiện cho dân, phối hợp sử dụng chung hệ thống cấu trúc hạ tầng và dịch vụ. Quy
hoạch vùng được tiến hành trên cơ sở các vùng kinh tế có ranh giới tương đối ổn định, làm
cơ sở cho việc lập các đồ án thiết kế xây dựng.
Quy hoạch xây dựng là việc tổ chức không gian đô thị và điểm dân cư nông thôn,
hệ thống công trình kỹ thuật, hạ tầng xã hội; tạo lập môi trường sống thích hợp cho người
dân sống tại các vùng lãnh thổ, bảo đảm kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia với lợi ích
cộng đồng, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ
môi trường. Quy hoạch xây dựng được thể hiện thông qua đồ án quy hoạch xây dựng bao
gồm sơ đồ, bản vẽ, mô hình và thuyết minh [12, tr. 10].
Quy hoạch kinh tế là cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế về mặt không gian và

thời gian. Quy hoạch kinh tế là một dự án khoa học tổng hợp các quy hoạch, kế hoạch và
dự án cụ thể, chi tiết thành một bản quy hoạch chung cho cả vùng (hoặc cả ngành) nhằm
đạt các mục tiêu và các định hướng trong chiến lược phát triển đã đề ra cho vùng, ngành
[20, tr. 27].


Vậy quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội là luận chứng khoa học về phát triển và
phân bố các ngành kinh tế trong mối quan hệ cấu trúc, làm cho chúng phát triển cân đối,
hài hòa, thúc đẩy lẫn nhau, trong đó có những ngành mũi nhọn, những ngành chuyên môn
hóa, những ngành hỗ trợ, bổ trợ. Căn cứ vào các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội trong
từng thời kỳ và từng vùng để khai thác hợp lý và bảo vệ môi trường, phân bổ dân cư, phát
triển sản xuất, nâng cao đời sống của nhân dân.
Như vậy, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội là quá trình bố trí, sắp xếp các lĩnh
vực kinh tế, xã hội theo một trình tự hợp lý, có kế hoạch để làm tiền đề cho việc định
hướng phát triển kinh tế theo đúng hướng đã định.
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội là một chức năng gắn liền với nhiệm vụ của
bộ máy công quyền. Chức năng này được thực hiện ở cả bốn cấp chính quyền, trong đó
cấp quận có vai trò quan trọng.
Nhiệm vụ của công tác quy hoạch cấp quận: Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
cấp quận bao gồm nhiều hoạt động liên tục và gồm nhiều giai đoạn: nghiên cứu, thiết kế,
xây dựng chương trình nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Nếu như việc quy hoạch
tổng thể chủ yếu mang tính định hướng thì quy hoạch chi tiết phân khu chức năng cho
từng ngành và cấp dưới (phường) mang tính quản lý cao hơn. Nó quy định cụ thể những
vấn đề cần làm và chính những quy định pháp lý được đề xuất nhằm mang lại phúc lợi và
an toàn cho dân cư. Trong nhiều trường hợp, quy hoạch có tác dụng định hướng cho sự
phát triển kinh tế - xã hội và kiểm soát, ngăn chặn các hoạt động xây dựng, sản xuất không
theo định hướng, tùy tiện, bất chấp lợi ích công cộng.
Bên cạnh quy hoạch tổng thể chung cho quận, trong quản lý còn chú ý đến quy
hoạch cấp cộng đồng vì nó gắn liền với việc cải tạo công trình ở các phường. Việc cải tạo
có hai phương thức: Một là, xây dựng lại, tức là phá bỏ những công trình cũ (nhà cũ,

đường phố cũ…) để xây dựng lại hoàn toàn mới; hai là, tu bổ tức là chỉ sửa sang chút ít. ở
nhiều nước, trước đây người ta thực hiện quy hoạch cải tạo ban đầu nặng về xây dựng lại
và tái trang bị vật chất, gần đây lại thiên về tu bổ và thực hiện các chương trình xã hội; đây
cũng là khuynh hướng chủ yếu của một số nước mới phát triển trong việc xác định bước
quy hoạch xây dựng đô thị của mình. Kinh nghiệm cho thấy, việc cải tạo đô thị nhiều khi


lại làm trầm trọng thêm những vấn đề mà người ta muốn giải quyết. Ví dụ, nhà cũ nát
muốn phá đi để làm cao ốc sang trọng, nhưng khi thực hiện giá thành nhà ở mới lại quá đắt
so với túi tiền của người có thu nhập thấp, một đối tượng chiếm tỷ trọng khá lớn tại các
nước nghèo và đang phát triển. Do vậy, khi tiến hành cải tạo các khu phố cũ nát, người
nghèo bắt buộc phải chuyển chỗ ở, nhường cho những người giàu để tìm những "ổ chuột"
mới hợp với thu nhập của họ.
Đối với việc quy hoạch phát triển các khu đô thị mới, ai cũng biết là các khu đô thị
đều rất khác nhau ở mỗi nước hoặc ở mỗi giai đoạn phát triển trong cùng một nước, nhất là
về quy mô, chuyên biệt hóa trong nội bộ, về phương thức xây dựng khu dân cư, về cơ cấu
dân cư… nhưng khi thiết kế, nhà quy hoạch đều hướng trực tiếp vào việc cải thiện các vấn
đề đô thị. Tại mỗi khu đô thị mới đều nhằm giải quyết những nhu cầu riêng biệt của từng
cơ sở. Tuy nhiên, trong nội bộ cấp quận, việc xác định tính chuyên biệt nhằm định hướng
quy hoạch phát triển cũng đòi hỏi phải có tính khoa học và sự cẩn trọng.
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận và việc tổ chức không gian kiến
trúc, bố trí xây dựng các công trình trong quận qua từng thời kỳ, làm cơ sở cho việc đầu tư
xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, việc quy hoạch có vai trò định hướng phát
triển không gian, là tiền đề sử dụng đất có hiệu quả nhằm phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn quận. Do đó, quy hoạch có vai trò là cơ sở cho việc xác định chiến lược phát triển hợp
lý trong từng giai đoạn và việc định hướng phát triển lâu dài cho quận về mặt tổ chức sản
xuất, tổ chức đời sống và tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan, môi trường ở quận.
Trong những năm qua, do tác động của sự phát triển nền kinh tế thị trường, chính
sách mở cửa, sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác quy hoạch, đầu tư cải
tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng… các đô thị ở nước ta, trong đó có Hà Nội, đã phát triển

nhanh chóng, đảm nhiệm được vai trò trung tâm phát triển công nghiệp với cơ cấu các
ngành công nghiệp, dịch vụ hợp lý, trong đó hình thành các ngành nghề mới, các trung tâm
phát triển và chuyển giao công nghệ trong vùng theo các ngành, là nơi giao lưu thương mại
trong nước và nước ngoài, thu hút đầu tư phát triển kinh tế đối ngoại, trở thành trung tâm
dịch vụ, phát triển văn hóa, giáo dục, nâng cao dân trí, và phát triển nguồn lực, giữ vai trò
tăng thu ngân sách cho nhà nước hàng năm.


Từ năm 1992 về trước, việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các đô thị ít
được chú ý. Ngày 17/8/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 91/CP về điều lệ quản lý
quy hoạch đô thị, trong đó quy định: "Đô thị phải được xây dựng, phát triển theo quy
hoạch…", và "việc cải tạo và xây dựng đô thị phải căn cứ vào quy hoạch xây dựng đô thị
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt" [14], đến năm 2003 có 86 thành phố, thị
xã và hàng trăm thị trấn có quy hoạch xây dựng chung được duyệt hoặc đang điều chỉnh
quy hoạch. Hiện nay, nước ta có gần 700 đô thị các loại với dân số chiếm 25% cả nước,
gần 50% dân số đô thị đang tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Dự báo đến
2010, dân số đô thị chiếm 33%, đến 2020 sẽ chiếm 45% dân số cả nước.
Rõ ràng trong điều kiện nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, đô thị hóa sẽ diễn ra
mạnh mẽ, vai trò của quản lý nhà nước cần được tăng cường mạnh mẽ trong việc quy
hoạch xây dựng đô thị, đòi hỏi phải rà soát lại công tác quản lý quy hoạch xây dựng trên
phạm vi toàn quốc, đối với từng lãnh thổ, từng tỉnh, từng đô thị và mỗi điểm dân cư để
Nhà nước có biện pháp chỉ đạo hiệu quả xây dựng theo quy hoạch, tránh tình trạng manh
mún, phân tán, thiếu mỹ quan và không có quy hoạch. Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa IX) đã nêu ra các nhóm chủ trương,
chính sách, giải pháp lớn cần tập trung thực hiện. Trong đó có nhóm giải pháp về phát
triển kinh tế đã nêu: "Tăng cường đầu tư cho công tác quản lý quy hoạch xây dựng đô
thị…" [4].
Những năm qua, quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra nhanh chóng, Nhà nước đã
ban hành nhiều văn bản pháp quy để quản lý, điều chỉnh quy hoạch, xây dựng đô thị và
thiết lập trật tự kiến trúc đô thị, mới nhất là hai luật đất đai (2003) và Luật Xây dựng

(2003) có hiệu lực từ 1-7-2004, đã đáp ứng được nhu cầu quản lý và phát triển đất nước.
Trong đó, Luật Xây dựng quy định nhiệm vụ công tác quản lý nhà nước về quy hoạch và
quy định nhiệm vụ, nội dung công tác quy hoạch cho cấp quận ở các thành phố. Trên cơ sở
các văn bản luật pháp về quy hoạch, cộng với nhiệm vụ quản lý, kế hoạch hóa của chính
quyền cấp quận, có thể nêu lên ba nhiệm vụ cơ bản sau đây của công tác quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội cấp quận:


- Đối với quy hoạch chung cần xác định tính chất, đặc trưng của quận, quy mô dân
số và định hướng phát triển không gian trong quận, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng
xã hội cho từng giai đoạn 5 năm, 10 năm và dự báo hướng phát triển cho giai đoạn 20
năm. Qua đó phải xác định những khu vực cần giải tỏa, những khu vực được giữ lại để
chỉnh trang, những khu vực cần được bảo vệ và những yêu cầu cụ thể khác theo đặc điểm
của từng đơn vị.
- Đối với quy hoạch chi tiết cần làm rõ yêu cầu diện tích sử dụng đất, quy mô,
phạm vi quy hoạch chi tiết, thiết kế đô thị, thiết kế đồng bộ và các công trình hạ tầng kỹ
thuật, hạ tầng xã hội trong khu vực thiết kế. Lập danh mục đề xuất biện pháp cải tạo cho
những công trình cần giữ lại trong khu vực quy hoạch cải tạo.
- Các đồ án quy hoạch xây dựng ở quận sau khi được duyệt cần được tổ chức và
thực hiện trên cơ sở áp dụng đồng bộ các biện pháp: Ban hành quy chế quản lý xây dựng
theo quy hoạch; tổ chức công bố và công khai các đồ án quy hoạch xây dựng để thực hiện
cơ chế giám sát việc lập và thực hiện quy hoạch xây dựng; cung cấp thông tin về quy
hoạch xây dựng, tạo điều kiện để cho các tổ chức, cá nhân xây dựng công trình phù hợp
với quy hoạch đảm bảo chất lượng kiến trúc, cảnh quan và môi trường của quận.
* Nội dung quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận
- Trên cơ sở quy hoạch chung của thành phố, nội dung của công tác quy hoạch
phát triển kinh tế - xã hội cấp quận là đánh giá việc thực hiện quy hoạch hàng năm và xác
định đúng các nguồn lực hiện có để qua đó bố trí, sắp xếp lại các nguồn lực cho hợp lý
nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội trong quận phát triển ổn định, bền vững.
- Xác định được hệ thống các khu đô thị các điểm dân cư để phục vụ cho quy

hoạch các khu công nghiệp, nông nghiệp và du lịch, các khu vực bảo vệ môi trường, tài
nguyên thiên nhiên và các khu chức năng khác. Bố trí hệ thống các công trình hạ tầng kỹ
thuật, không gian và các biện pháp bảo vệ môi trường. Định hướng phát triển các công
trình chuyên ngành. Xác định đất dự trữ để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế và sử
dụng đất có hiệu quả.


- Nội dung quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận phải xác định tổng mặt
bằng sử dụng đất của quận theo quy mô dân số của từng giai đoạn quy hoạch; phân khu
chức năng đô thị; mật độ dân số, hệ số sử dụng đất và các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật khác
của từng khu chức năng và của đô thị; bố trí tổng thể các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị,
xác định chỉ giới xây dựng, chỉ giới đường đỏ của các tuyến đường giao thông chính đô
thị, xác định cốt xây dựng khống chế của từng khu vực và toàn đô thị. Quy hoạch đô thị
phải được thiết kế theo quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng, phải tận dụng địa hình, cây xanh,
mặt nước và các điều kiện thiên nhiên nơi quy hoạch, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong trường hợp quy hoạch chung xây dựng cải tạo đô thị phải đề xuất được các giải
pháp giữ lại những công trình, cảnh quan hiện có phù hợp với nhiệm vụ đề ra.
- Xác định các khu chức năng, hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã
hội, hướng phát triển cho từng điểm dân cư, thiết kế mẫu nhà ở phù hợp với điều kiện tự
nhiên, phong tục tập quán cho từng vùng để hướng dẫn nhân dân xây dựng. Quy hoạch chi
tiết xây dựng khu trung tâm quận phải xác định vị trí, diện tích xây dựng của các công
trình: trụ sở làm việc của các cơ quan, tổ chức, các công trình giáo dục, y tế, văn hóa, thể
dục thể thao, thương mại dịch vụ và các công trình khác. Đối với các điểm dân cư phường
đang tồn tại ổn định lâu dài, khi thực hiện quy hoạch xây dựng thì phải thiết kế cải tạo,
chỉnh trang các khu chức năng, các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội.
- Quy hoạch các công trình văn hóa xã hội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm: trường
học, bệnh viện, trung tâm văn hóa, các tuyến giao thông, cấp thoát nước, vệ sinh môi
trường, cung cấp năng lượng, chiếu sáng công cộng, thông tin bưu điện… Mọi công trình
văn hóa xã hội, cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở quận khi xây dựng xong phải được tổ chức
nghiệm thu, bàn giao cho các cơ quan chuyên trách của nhà nước quản lý, sử dụng và khai

thác công trình đó.
Công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội có vai trò rất quan trọng, mở đường
cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tránh sự phát triển tự phát về xây dựng và các hoạt
động kinh tế - xã hội, mà thường để lại nhiều hậu quả. Quy trình tổ chức xét duyệt chương
trình quy hoạch, kể cả khâu lập quy hoạch đòi hỏi cần phải đổi mới và thực hiện một cách


cẩn trọng, trách nhiệm, nhằm tránh cho ra đời những sản phẩm quy hoạch kém chất lượng,
gây tổn hại quá trình phát triển kinh tế - xã hội cho quận.
* Yêu cầu đổi mới quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận
- Đô thị hóa là xu thế tất yếu đối với các nước đang phát triển, bên cạnh xu thế ấy
bao giờ cũng có một xu thế khác là sự tự phát hình thành các khu, cụm dân cư. Nguyên
nhân kinh tế dẫn tới sự di dân tự phát và việc chưa coi trọng công tác quản lý quy hoạch
xây dựng của các cấp chính quyền. Nhiều vấn đề thực tiễn liên quan đến quản lý quy
hoạch xây dựng ở quận là sự hỗn độn, mất trật tự trong xây dựng, quản lý đất đai, bảo vệ
môi trường, ùn tắc giao thông… đã khiến cho nhiều vấn đề trở nên khó khăn, phức tạp
trong nhận thức và thực thi các giải pháp đề ra.
- Thời gian gần đây công luận đã nói nhiều đến vấn đề quy hoạch "treo", nhưng
thực tế cho thấy còn có quy hoạch kết hợp với đầu cơ đất, quy hoạch "điều chỉnh"…
Quy hoạch "treo" là loại quy hoạch không mang tính khả thi, làm ra để đó, gây tốn
tiền của, thời gian và luôn đe dọa sự ổn định nơi ở của người dân, kìm hãm sự phát triển.
Quy hoạch kết hợp với đầu cơ đất được ngụy trang với tên gọi quy hoạch chính danh,
không kinh doanh để có thể tiến hành tự đền bù đất trên những diện tích khá rộng, thường
dừng ở việc phân lô và tuy có khá đủ các cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhưng thường thiếu
cơ sở hạ tầng xã hội. Những lô đất được khoanh vùng rồi để đó, không thấy xây dựng mà
chỉ được thực hiện việc mua đi bán lại tìm chênh lệch giá, tạo nên một thị trường ảo về
nhu cầu nhà ở.
Với quy hoạch "điều chỉnh" tuy ban đầu thực hiện quy hoạch chi tiết rất công phu,
đầy đủ. Sau thời gian thực hiện quy hoạch, thông qua đền bù, giải tỏa và đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng kỹ thuật, các bất cập bắt đầu nảy sinh: đền bù không dứt điểm, lợi nhuận

thực tế đối với một số loại hình nhà ở đột biến cao lên, dễ kinh doanh, lợi nhuận siêu
ngạch mà không cần bỏ thêm vốn, không cần thực hiện những công trình hạ tầng xã hội
mang tính nghĩa vụ, tuy nhiên vẫn phải điều chỉnh lại quy hoạch để đảm bảo cho lợi nhuận
siêu ngạch thấy trước. Thông qua những báo cáo, yêu cầu điều chỉnh quy hoạch tại một số


điểm của dự án sẽ được xem là sự cần thiết, khả thi hơn… để có được ủng hộ, phê duyệt từ
những đơn vị nhà nước quản lý quy hoạch.
- Yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và sự phối hợp các
ngành, các cấp trong quản lý quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận. Việc quản lý
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận phải có một bộ máy thích hợp với các yêu
cầu, nhiệm vụ đặt ra. Quản lý cấp quận khác với quản lý cấp huyện trên nhiều lĩnh vực,
bởi tính phức tạp, đa dạng của nó. Nếu việc quản lý ở cấp quận cũng theo một khung với
chế độ quản lý vùng nông thôn thì không thể giải quyết hiệu quả những vấn đề nảy sinh từ
thực tiễn đô thị. Cần phân định rõ chức năng của chính quyền quận và cơ quan chuyên
môn, đồng thời nghiên cứu tổ chức bộ máy quản lý ở quận sao cho phù hợp, thể hiện được
sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong quản lý quy hoạch phát triển kinh tế -
xã hội.
- Sự phân cấp quản lý quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp quận là một yêu
cầu quan trọng về đổi mới quản lý, tuy nhiên sự phân cấp cần thể hiện rõ sự thống nhất
phối hợp, phân định trách nhiệm, tránh việc đùn đẩy công việc cuối cùng gây khó khăn
cho người dân. Cụ thể là, việc quy hoạch phải thông qua Hội đồng nhân dân quận là điều
rất cần thiết. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng việc quy hoạch cần tăng cường tính
chuyên trách hay khả năng phản biện tốt của Hội đồng nhân dân. Thực tế cho thấy, nhiều
bản quy hoạch thông qua Hội đồng nhân dân rất dễ dàng, dường như các đại biểu ít cho ý
kiến hoặc không thể tham gia ý kiến, nhưng sau khi xuất hiện những bất cập trong quá
trình triển khai thực hiện chương trình quy hoạch, Hội đồng nhân dân lại phải họp đi họp
lại nhiều lần để xem xét các khiếu nại của nhân dân.
Đối với việc quản lý quy hoạch cấp quận phải dựa trên một hệ thống thể chế, chính
sách cũng như hệ thống tổ chức thực thi pháp luật thống nhất trên một số lĩnh vực của đời

sống đô thị như quản lý đất đai, quản lý giao thông, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, chính
sách quản lý dân cư, dân số, bảo vệ môi trường, sử dụng các không gian công cộng đô thị…
Về lĩnh vực này, thực tế cho thấy đã xuất hiện những vấn đề vừa thiếu lại vừa thừa, không
đồng bộ, thay đổi liên tục. Do đó, sự phân cấp nếu không phân định rõ trách nhiệm cụ thể thì


việc quy hoạch không thể hiện được tính khả thi và bộ máy quản lý của chính quyền quận dễ
sa vào việc giải quyết những hệ lụy nảy sinh.
1.2. Các Yếu Tố Tiềm NĂNG Và Nguồn Lực Phát Triển KINH Tế - Xã Hội
Quận LONG BIÊN
1.2.1. Các yếu tố tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên
* Về vị trí địa lý
Quận Long Biên được thành lập theo Nghị định 132/2003/NĐ-CP ngày 06-11-
2003 trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính của huyện Gia Lâm với 14 đơn vị hành
chính trực thuộc, gồm các phường Gia Thụy, Ngọc Lâm, Bồ Đề, Phúc Đồng, Phúc Lợi,
Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hưng, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối,
Đức Giang, Sài Đồng.
Quận Long Biên nằm ở cửa ngõ phía Đông Bắc của Thủ đô Hà Nội, phía Bắc giáp
sông Đuống, phía Đông giáp huyện Gia Lâm, phía Tây giáp huyện Đông Anh, phía Nam giáp
sông Hồng. Vị trí địa lý đặc thù của quận, nằm giữa hai con sông lớn là sông Hồng và sông
Đuống, tạo cho Long Biên có tiềm năng quan trọng cho phát triển các cụm công nghiệp kỹ
thuật cao, cho quá trình phát triển đô thị hiện đại, đồng thời tạo được sự giao lưu trong hoạt
động kinh tế. Quận Long Biên cũng là nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng với
nhiều đường giao thông lớn như đường sắt, quốc lộ, đường thủy nối liền các tỉnh phía Bắc
(Lạng Sơn, Bắc Ninh, Bắc Giang), các tỉnh phía Đông Bắc (Hải Dương, Hải Phòng, Quảng
Ninh). Đây là điều kiện thuận lợi cho sự liên kết kinh tế giữa quận với các tỉnh và thành phố
lân cận, mở rộng thị trường kinh doanh và dịch vụ.
Nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, và ở trên trục tam giác kinh tế Hà
Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Vị trí địa lý này tạo nên một sức hút mạnh để quận Long
Biên phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, theo kịp nhịp độ phát triển chung của Thủ đô Hà

Nội.
Quận Long Biên có vị trí địa lý rất thuận lợi gần các trục giao thông chính: đường
bộ, đường hàng không, đường sông, đường sắt nên rất dễ dàng cho các phương tiện vận
chuyển tập kết nguyên vật liệu đầu vào và các sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất.


Long Biên là điểm xuất phát của đường quốc lộ số 5, là điểm trung chuyển của quốc lộ 1A
và nhiều tuyến đường chiến lược khác, là cửa ngõ nối giữa Hà Nội với các trung tâm công
nghiệp lớn của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ như Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên,
Hải Dương, Bắc Ninh…
Long Biên là nơi tập trung các khu công nghiệp lớn của thành phố và cả nước như
Đức Giang, Sài Đồng A và B đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch, nhiều
doanh nghiệp công nghiệp đã đi vào sản xuất ổn định.
Quận Long Biên có nguồn lao động khá dồi dào, nếu được đào tạo tốt sẽ có khả
năng đáp ứng được cho phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng.
Quận Long Biên mới được thành lập, trên địa bàn đang triển khai các công trình
trọng điểm của quốc gia và thành phố, đặc biệt là các công trình xây dựng dân dụng và
giao thông, cơ sở hạ tầng đang đứng trước yêu cầu cấn hoàn thiện phục vụ phát triển kinh
tế - xã hội. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển ngành xây dựng trong thời gian tới.
Với vị trị địa lý thuận lợi, có tính đặc trưng so với các quận nội thành khác sẽ tạo
điều kiện cho quận Long Biên phát triển các ngành kinh tế - xã hội. Vì vậy, tuy mới thành
lập, nhưng quận Long Biên có vai trò nhất định đối với sự phát triển của Thủ đô Hà Nội.
* Về điều kiện tự nhiên
Quận Long Biên nằm trong phạm vi hai tuyến đê sông Hồng và sông Đuống với
địa hình lòng máng cao ven theo đê hai sông. Địa hình quận tương đối bằng phẳng, thấp
dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo hướng chung của địa hình và theo hướng của dòng
sông Hồng. Địa hình Long Biên khá đa dạng, làm nền tảng cho cảnh quan tự nhiên, tạo
thuận lợi cho phát triển kinh tế, xây dựng các công trình hạ tầng, dân dụng và khu công
nghiệp.
Quận Long Biên mang sắc thái đặc trưng của khí hậu vùng nhiệt đới ẩm, gió mùa.

Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh, thời kỳ đầu thường hanh khô nhưng
đến nửa cuối của mùa đông lại thường ẩm ướt. Nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 23 -
24
0
C, biên độ dao động nhiệt giữa ngày và đêm khoảng 6-7
0
C. Độ ẩm trung bình hàng
năm của quận khoảng 82%, ít thay đổi theo các tháng, thường dao động trong khoảng 78 -


87%. Lượng mưa trung bình khoảng 1.600 - 1.800 mm. Long Biên chịu ảnh hưởng chế độ
thủy văn của sông Hồng và sông Đuống: lưu lượng trung bình nhiều năm là 2.710 m
3
/s,
mực nước lũ thường cao từ 9 - 12 m (độ cao trung bình mặt đê là 14 - 14,5 m).
Về đất đai: Theo số liệu thống kê đến ngày 1-10-2004, quận Long Biên có diện tích
6.038 ha, là quận có điện tích lớn nhất trong số các quận nội thành Hà Nội. Trong đó đất nông
nghiệp là 2.258,01 ha, chiếm 34,17%; diện tích đất canh tác là 1.644,2 ha được chia thành hai
vùng: vùng trong đồng là 1.114,8 ha, vùng ngoài bãi là 529,4 ha. Diện tích đất ngoài bãi
thuộc loại đất phù sa được bồi đắp hàng năm, chất đất tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp. Trong tương lai, diện tích đất này có thể chuyển đổi mục đích sử dụng
sang nông nghiệp đô thị - sinh thái kết hợp với phục vụ cho du lịch thì đây có thể trở thành
một nét độc đáo của quận.
Bảng 1.1: Diện tích các loại đất của quận Long Biên (đến 10-2004) [16]
STT Loại đất Hiện trạng (2004)
1 Đất nông nghiệp 2.258,01 ha 37,41%
2 Đất chuyên dùng 1809,64 ha 29,97%
3 Đất ở 724,28 ha 11,99%
4 Đất chưa sử dụng 1246,29 ha 20,631%


Cộng: 6038,24 ha 100%
Diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng diện tích của quận.
Tuy nhiên, do tốc độ đô thị hóa nhanh, diện tích đất sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp trung
bình 1 năm giảm từ 100 - 120 ha nên phần lớn diện tích còn lại là đất kẹt trong các khu dân
cư, khu công nghiệp, ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp và cần có sự chuyển mục đích sử
dụng để tăng hiện quả sử dụng đất hiện có của quận.
Trong số đất nông nghiệp, quận Long Biên còn có 106,94 ha đất vườn tạp, 7,63 ha
đất trồng cây lâu năm và 5,27 ha đất trồng cỏ chăn nuôi. Diện tích đất này không còn phù
hợp với một quân nội thành của Thủ đô. Đây là quỹ đất có thể dành cho phát triển nông


nghiệp đô thị với nét đặc trưng là nông nghiệp sinh thái. Đồng thời đây cũng là quỹ đất dự
trữ cho quá trình đô thị hóa.
Đất chuyên dùng là 1.809,64 ha, chiếm 29,9% tổng diện tích đất toàn quận. Trong đó đất
dành cho xây dựng cơ bản là 562,42 ha, diện tích đất giao thông là 386,58 ha. Đất ở là 724,28
ha, chiếm 12,85% tổng diện tích của quận, trong đó diện tích đất ở nông thôn chiếm 474,41 ha.
Đất chưa sử dụng là 1246,29 ha, chiếm 20,63% diện tích đất tự nhiên toàn quận, trong đó diện
tích đất bằng chưa sử dụng là 67,16 ha sẽ là một nhân tố quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho
việc xây dựng các công trình công cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị. Việc xây
dựng các công trình mới trên địa bàn quận sẽ có thuận lợi hơn so với các quận nội thành khác
về giải phóng mặt bằng cũng như ngân sách chi trả tiền đền bù đất.
Quận Long Biên đang trong quá trình đô thị hóa với tốc độ khá nhanh, nhu cầu sử
dụng đất rất lớn. Đồng thời cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sử dụng
đất cũng sẽ có những biến động liên tục. Với quỹ đất hiện có, đặc biệt là với diện tích đất
nông nghiệp và diện tích đất chưa sử dụng khá lớn, trong khoảng thời gian từ nay đến năm
2015, việc chuyển đổi chức năng sử dụng đất cho quy hoạch tổng thể trên địa bàn quận
còn tương đối thuận lợi. Đây là điều kiện cho sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực và
cho xây dựng cơ sở hạ tầng với quy mô, tương xứng với một quận nội thành của Thủ đô
Hà Nội.
Tài nguyên và khoáng sản: Với hệ thống sông Hồng và sông Đuống có thể làm cơ

sở cho phát triển công nghiệp khai thác cát, đáp ứng nhu cầu vật liệu xây dựng trên địa bàn
quận. Tuy nhiên, cần phải có quy hoạch và quản lý khai thác để tránh ảnh hưởng đến dòng
chảy và sụt lở ở bờ sông.
1.2.2. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội quận Long Biên
Quận Long Biên hiện có hơn 182.000 nhân khẩu. Mật độ dân số bình quân 3.075
người/ km
2
, thấp hơn so với bình quân chung của toàn thành phố Hà Nội. Chính vì vậy,
sức ép về nhà ở, việc làm và một số vấn đề xã hội khác trên địa bàn quận không thực sự là
vấn đề bức xúc như một số quận khác của Thủ đô. Tuy nhiên, sự phân bố dân cư không
đồng đều giữa các phường trong quận. Đông dân nhất là phường Ngọc Lâm với 18.377

×