Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

CHƯƠNG 7: ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ CẢI CÁCH THỂ CHẾ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.21 KB, 28 trang )

267
chương 7
ĐỔI MỚI TƯ DUY VÀ CẢI CÁCH THỂ CHẾ
nhỮng YÊU cẦU TỪ ThỰc TẾ
Phân tích tình hình kinh tế trong nước tại Hội nghị 3 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI), ngày 10/10/2011, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã xác định yêu cầu: “đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ
cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh”. Đặc biệt, Tổng Bí thư đã chỉ ra ba lĩnh vực ưu tiên cần tái cơ
cấu là: “tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm là đầu tư công”, “cơ cấu lại thị
trường tài chính với trọng tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thương
mại, các tổ chức tài chính” và “ tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước mà
trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước”. Tổng Bí thư cũng
chỉ rõ phải khắc phục “tư duy nhiệm kỳ” và “lợi ích nhóm” trong đầu
tư công trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách đầu tư. Đó
là những tư tưởng chính sách quan trọng, định hướng cho cải cách và
phát triển kinh tế của nước ta trong những năm tới và cần được tiếp tục
làm rõ nội dung, phương pháp thực hiện, phạm vi, quy mô hoạt động,
nguyên nhân và cách ngăn chặn. Nếu chỉ dừng lại ở chỗ điểm tên hai
khái niệm trên thì tác dụng thực tế sẽ rất hạn chế.
Tổng Bí thư đã thẳng thắn chỉ ra những yếu kém, bất cập trong việc
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước:
“Tuy nhiên, một số chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội năm 2011 chưa hoàn thành, nhất là mục tiêu kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Cho đến nay, kinh
tế - xã hội nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế
vĩ mô chưa thật ổn định; lạm phát vẫn ở mức cao, tiềm ẩn nguy cơ bùng
phát; nợ công, đặc biệt là nợ nước ngoài tăng nhanh; dự trữ ngoại hối
268
mỏng, áp lực đối với tỉ giá còn lớn; thị trường tài chính, thị trường bất
động sản giảm sút, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Sản xuất, kinh doanh của các


doanh nghiệp đang phải đối mặt với tình trạng giá cả đầu vào, lãi suất
cao, hàng tồn kho lớn. Việc thực hiện các chủ trương của Đại hội XI
về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế còn chậm. Đời
sống của nhân dân, nhất là người nghèo, các đối tượng chính sách xã
hội, người lao động ở các đô thị, khu công nghiệp, vùng miền núi, đồng
bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn. Lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y
tế, văn hóa còn nhiều bất cập. Tai nạn và ùn tắc giao thông chưa giảm,
còn xảy ra nhiều vụ tai nạn nghiêm trọng; khiếu kiện đông người, đình
công xảy ra ở nhiều nơi; số vụ tội phạm, tệ nạn xã hội gia tăng, gây lo
lắng, bức xúc trong nhân dân”.
Tổng Bí thư đã nêu rõ nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là:
“Tình hình nêu trên có nguyên nhân khách quan là do tác động
của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; nguyên nhân
chủ quan là do những yếu kém của nội tại nền kinh tế với mô hình tăng
trưởng và cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả, tích tụ kéo dài từ lâu,
chậm được khắc phục và do những hạn chế, khuyết điểm trong lãnh
đạo, quản lý, điều hành của các cấp, các ngành, đặc biệt là trong điều
hành chính sách tiền tệ, tài khoá; quản lý quy hoạch, đầu tư, đất đai, tài
nguyên, thị trường bất động sản, v.v ”.
Về yêu cầu tái cấu trúc đầu tư và đầu tư công, Tổng bí thư Nguyễn
Phú Trọng cũng đã chỉ rõ những hạn chế và yếu kém bắt nguồn từ thể
chế:
“Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách đầu tư phải có
tầm nhìn xa, không bị “tư duy nhiệm kỳ”, tư tưởng cục bộ, bệnh thành
tích, chủ quan duy ý chí hay “lợi ích nhóm” chi phối. Quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm và 5 năm 2011-2015 phải cụ
thể hoá được những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ do Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đề ra và gắn kết chặt chẽ với chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và vùng lãnh thổ sao cho
phù hợp nhất với tình hình đất nước và thế giới trong từng thời kỳ. Quy

269
trình và phương pháp xây dựng, tổ chức điều hành thực hiện quy hoạch,
kế hoạch phải thực sự khoa học, đi từ tổng thể chung của cả nước, đến
các vùng lãnh thổ, rồi mới đến từng địa phương, cơ sở. Theo đó, cần
khẩn trương soát xét, điều chỉnh luật pháp, chính sách và cơ chế quản lý
đầu tư nói chung và đầu tư công nói riêng; đặc biệt là vấn đề phân cấp
quản lý nhà nước về thu chi ngân sách và đầu tư. Khẩn trương xác định
các tiêu chí và thứ tự ưu tiên làm căn cứ để phê duyệt hay từ chối hoặc
cắt giảm các dự án đầu tư, nhất là dự án đầu tư công. Khắc phục tình
trạng phát triển quá nhiều các khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công
nghiệp, khai thác quá mức tài nguyên, khoáng sản mà chưa tính toán
đầy đủ khả năng thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư, hiệu quả kinh
tế - xã hội và tác động đến môi trường; cũng như tình trạng phê duyệt
quá nhiều dự án vượt khả năng nguồn lực hiện có, kế hoạch đầu tư bị cắt
khúc ra nhiều năm, dẫn đến đầu tư dàn trải, kéo dài thời gian thi công,
nợ xây dựng cơ bản lớn, gây lãng phí, thất thoát, hiệu quả thấp”.
Rõ ràng rằng muốn khắc phục “tư duy nhiệm kỳ” và “lợi ích nhóm”
cũng như những yếu kém được nêu trên đây, phải cải cách thể chế bao
gồm một số quan điểm, pháp luật, chính sách và phương thức hoạt động
của bộ máy. Ở Việt Nam chính thể chế đã cho phép hình thành và ra đời
kinh tế thị trường, cho phép hội nhập quốc tế, cho phép ra đời và hình
thành khu vực kinh tế tư nhân. Thể chế nào thì doanh nghiệp ấy, các mặt
mạnh và yếu của doanh nghiệp nhà nước, tư nhân của Việt Nam hiện
nay đều do thể chế tác động đến.
Bên cạnh một số tiến bộ nhất định đã đạt được còn dưới tiềm năng
phát triển của đất nước, thực trạng kinh tế có nhiều mặt yếu kém, mất
cân đối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn và nguy cơ. Các yếu kém hiện nay
bắt nguồn sâu xa từ một số quan điểm xây dựng kinh tế chậm được đổi
mới cũng như những yếu kém trong quá trình tổ chức thực hiện bắt
nguồn từ tư duy (như “kinh tế nhà nước là chủ đạo”), từ vai trò, chức

năng của thể chế kinh tế đến luật pháp, vận hành của bộ máy v.v
Sau đây, xin thử phân tích một vài biểu hiện điển hình:
(i) Đặc trưng của mô hình tăng trưởng hiện nay là tăng trưởng chủ
yếu theo chiều rộng, dựa vào đầu tư, khai thác tài nguyên theo hướng
270
công nghiệp hóa đối với tất cả 63 tỉnh, thành phố, không tính đến điều
kiện cụ thể của từng địa phương. Công nghiệp hóa ở Hà Giang thì khác
với Bình Dương thế nào? Nhưng tỉnh nào cũng phải công nghiệp hóa,
đề ra chỉ tiêu tăng trưởng GDP thật cao. Thước đo chủ yếu cho hoạt
động của nền kinh tế, các Bộ, ngành, các địa phương là chỉ tiêu tăng
trưởng GDP, trong khi các chỉ tiêu chất lượng về tăng năng suất lao
động, hiệu quả, năng lực cạnh tranh, tiến bộ khoa học - công nghệ chỉ
chiếm vai trò thứ yếu (tuy có được đề cập đến một cách chung chung,
không có biện pháp thực hiện và giám sát), càng không có chỉ tiêu ràng
buộc về bảo vệ môi trường. Các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, xã hội đều có
nhưng không có trọng lượng và cũng không được chú ý đúng mức trong
quá trình thực hiện. Vì vậy, tất cả các tỉnh, thành phố đều chạy theo chỉ
tiêu tăng trưởng thật cao, đặt ra chỉ tiêu tăng trưởng GDP cao hơn mức
tăng trưởng của cả nước rất nhiều. Chỉ tiêu tăng trưởng càng cao chứng
tỏ tinh thần cách mạng tiến công, sự sáng tạo, chủ động của lãnh đạo địa
phương càng lớn. Không tính đến những đặc điểm đặc thù về điều kiện
tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng về vốn, nhân lực, khoa học
- công nghệ v.v…, các tỉnh đều đề ra mục tiêu công nghiệp hóa, đều phải
xây dựng một nền kinh tế có đủ bến cảng, sân bay, khu công nghiệp,
cụm công nghiệp, v.v Cách làm đó đã dẫn đến lãng phí tài nguyên,
đầu tư kém hiệu quả rất lớn, hình thành 63 nền kinh tế trong nền kinh
tế quốc dân. Để chuyển đổi mô hình tăng trưởng, cần từ bỏ cách đề ra
chỉ tiêu tăng trưởng hiện nay mà chuyển sang một tập hợp các chỉ tiêu
kinh tế - xã hội, trong đó đề cao các chỉ tiêu về hiệu quả như tăng năng
suất lao động, nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng, tài nguyên, v.v ;

tôn trọng tính đa dạng của các đặc điểm kinh tế - xã hội, địa lý, địa hình
của các địa phương; hướng tới tăng trưởng xanh, bền vững. Chính vì
muốn đạt chỉ tiêu tăng trưởng cao, tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ
để bằng và hơn các địa phương khác nên tỉnh nào cũng lập khu, cụm
công nghiệp, cảng, sân bay với hiệu quả rất thấp về kinh tế - xã hôi
nhưng lại rất có lợi cho lợi ích nhóm, ăn chênh lệch giá đất. Nếu không
thay đổi tư duy này và các luật có liên quan như Luật Đất đai thì khó
có thể tác động đến “tư duy nhiệm kỳ” và “lợi ích nhóm”. Vì vậy, cần
271
có thay đổi mạnh mẽ từ hệ thống chỉ tiêu, hệ thống đánh giá, kế hoạch
hóa mới thay đổi được mô hình tăng trưởng, mới tạo cơ hội cho mỗi địa
phương phát triển phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của
mình. Nhật Bản là nước đất chật, người đông, công nghiệp hóa rất cao
nhưng nhiều địa phương vẫn duy trì được môi trường, phong cảng, sắc
thái riêng, không biến cả nước thành đại công trường như nước ta. Các
nước khác như Mỹ, Thụy Điển cũng vậy, không phải mọi nơi đều phải
công nghiệp hóa bằng mọi giá.
(ii) Phải thay đổi tư duy “kinh tế nhà nước là chủ đạo” vì điều này
rõ ràng không hiệu quả trong thực tế, mâu thuẫn với cam kết cạnh tranh
bình đẳng theo luật pháp. Trong khi dựa vào “kinh tế nhà nước là chủ
đạo”, xây dựng các tập đoàn kinh tế thành “quả đấm thép”, là “công cụ
ổn định kinh tế vĩ mô” thì thực tế cho thấy tình trạng kém hiệu quả, lãng
phí, thua lỗ, thất thoát của các tập đoàn kinh tế nhà nước là nguyên nhân
dẫn đến đầu tư cao nhưng hiệu quả thấp, nợ công tăng lên, các tập đoàn
độc quyền tăng giá không kiểm soát được (giá điện, giá xăng), chi phí
xây cầu, đường cao tốc cao quá mức so với thế giới, chưa dùng đã hỏng,
làm tăng chi phí,giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
Trong khi về hình thức luôn nhấn mạnh “kinh tế nhà nước là chủ đạo”
thì các công ty sân sau của con, cháu, thân quen của lãnh đạo các cấp
đều là kinh tế tư nhân. Các công ty sân sau này đang đem lại lợi nhuận

hợp pháp cho tư nhân, phần lỗ do các công ty nhà nước chịu. Việc dùng
các tập đoàn kinh tế, công ty nhà nước để bù lỗ, ổn định giá đều quá tốn
kém, không hiệu quả và bị chia chác trong “lợi ích nhóm”. Hoàn toàn
có thể trả chi phí vận tải cho các công ty tư nhân tham gia vận chuyển
lên miền núi, vùng sâu, vùng xa, chi trả chênh lệch tiền điện trực tiếp
cho người dân thay vì bù lỗ và chỉ sử dụng các công ty nhà nước. Thực
tế mất ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong thời gian qua hoàn
toàn bác bỏ vai trò là công cụ “ổn định kinh tế vĩ mô” của các tập đoàn
kinh tế và tổng công ty nhà nước. Nếu các tập đoàn kinh tế nhà nước,
công ty nhà nước là công cụ hữu hiệu để ổn định kinh tế vĩ mô thì tại
sao tình hình kinh tế vĩ mô mất ổn định gay gắt, kéo dài như hiện nay?
272
Tập đoàn kinh tế nhà nước, tổng công ty nhà nước là doanh nghiệp,
chạy theo lợi nhuận, đã đầu tư ra ngoài ngành vào những lĩnh vực mạo
hiểm như chứng khoán, bất động sản để tìm kiếm lợi nhuận, nay phải
thoái vốn thì làm sao hy vọng họ là “công cụ ổn định kinh tế vĩ mô”.
Chức năng này trái với các lý thuyết kinh tế và không phù hợp với kinh
nghiệm quốc tế. Có thể nói quan điểm “kinh tế nhà nước là chủ đạo”
đang bị các nhóm lợi ích tận dụng triệt để cho lợi ích của một số cá nhân
có liên quan. Đây là miếng đất mầu mỡ để tạo ra các mối “quan hệ”
vây quanh các tập đoàn và tổng công ty nhà nước nẩy nở và phát triển.
Vì vậy, nếu chưa thể thay đổi được “kinh tế nhà nước là chủ đạo” thì
nhất thiết phải kiểm soát độc quyền, luật về chủ sở hữu nhà nước, luật
về đầu tư công, mua sắm công, thực hiện cạnh tranh lành mạnh, thực
hiện công khai, minh bạch, tăng cường giám sát độc lập để làm giảm
bớt sự lạm dụng và những tiêu cực liên quan đến kinh tế nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước. Chính sách coi “kinh tế nhà nước là chủ đạo”
trong thực tế dẫn đến sự chèn ép trong thực tế đối với khu vực kinh tế
tư nhân trong nước trong khi khu vực này cần mau chóng mạnh lên để
cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài đang xâm nhập vào kinh

tế Việt Nam theo các cam kết hội nhập và cạnh tranh quyết liệt với các
doanh nghiệp Việt Nam. Các tập đoàn kinh tế nhà nước đã không tự
hài lòng với lĩnh vực độc quyền kinh doanh của mình mà còn mở rộng
đầu tư kinh doanh ra các lĩnh vực ngoài ngành chính như bất động sản,
tài chính - chứng khoán, nhà hàng, khách sạn, taxi, v.v… là những lĩnh
vực mà kinh tế tư nhân có ưu thế hơn. Cùng với môi trường kinh doanh
đòi hỏi mức đầu tư rất cao của khu vực tư nhân về thời gian và tiền bạc
cho thiết lập và duy trì các mối quan hệ. Doanh nhân phải lo đến thăm
người bệnh, dự đám giỡ, đám tang, đám cưới, chúc Tết của các quan
chức lớn, nhỏ, v.v… để giữ mối quan hệ. Thực trạng này đã dẫn đến sự
ra đời và lớn mạnh nhanh chóng của những “đại gia” tư nhân lớn, nhỏ
ở Việt Nam, phất lên nhanh chóng không do có tiến bộ khoa học - công
nghệ, không do tăng năng suất lao động hay đóng góp vào bảo vệ môi
trường, đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội mà chủ yếu do khai
thác tài nguyên đất đai, khai thác gỗ, mỏ, biển, v.v Những đại gia này
273
mặc nhiên tự cho mình có những đặc quyền riêng, trong không ít trường
hợp thiếu tôn trọng pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động. Sự phát triển lệch lạc này khu vực kinh tế tư nhân rất không bền
vững, không phù hợp với tăng trưởng xanh và phát triển hài hòa các lợi
ích của xã hội
(iii) Cần xác định cụ thể quyền sở hữu toàn dân được chuyển thành
sở hữu nhà nước, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm chủ sở hữu nhà
nước về đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài sản công, hạn chế sự lạm
dụng vì lợi ích nhóm. Ý tưởng sở hữu toàn dân nhằm hạn chế quyền tư
hữu nhằm giảm bất công xã hội, chênh lệch giàu-nghèo đã không thực
hiện được. Trong thực tế, lạm dụng quy định trong Luật Đất đai, Luật
Đầu tư công, Luật Ngân sách và các luật khác liên quan đã làm cho các
quan chức có liên quan giàu lên nhanh chóng mà không có đóng góp gì
cho ngân sách, cho tiến bộ xã hội. Trái lại, sự bất bình đẳng trong xã hội

tăng lên, khiếu kiện về đất đai không được giải quyết thỏa đáng, biến
thành những xung đột xã hội gay gắt. Trong quyền sở hữu về đất đai của
nhà nước đã được trao cho nông dân năm quyền cụ thể như quyền sử
dụng, quyền thừa kế, quyền thế chấp, v.v , vì vậy không thể tách bạch
giữa quyền sở hữu nhà nước và quyền sử dụng của nông dân. Thay đổi
tư duy, nhìn nhận quyền sử dụng đất đai của tư nhân như những bộ phận
trong quyền sở hữu nhà nước một cách hợp lý và giám sát chặt chẽ các
quyền liên quan đến sở hữu là đòi hỏi cấp bách để sử dụng có hiệu quả
tài nguyên, giải quyết thỏa đáng xung đột lợi ích giữa nông dân và nhà
đầu tư, giảm căng thẳng và xung đột xã hội.
(iv) Việc thiết kế và vận hành một bộ máy quyền lực ngày càng
phình to, xa dân, kém hiệu quả và kém hiệu lực, không theo nguyên tắc
“quyền lực phải được giám sát”, không công khai minh bạch là nguồn
gốc sâu xa dẫn đến tham nhũng, lạm dụng chức quyền vì tư lợi, làm thoái
hóa, biến chất bộ máy. Điều này thể hiện rất rõ trong hoạt động của bộ
máy nhà nước cũng như trong cuộc sống hàng ngày của người dân và
doanh nghiệp cũng như trong các so sánh quốc tế. Sự thật là gánh nặng
chi phí để tuân thủ luật pháp và các quy định của bộ máy hành chính ở
274
nước ta đang đè nặng lên người dân và doanh nghiệp. Nhiều quy định
của luật pháp và cách hành xử của viên chức nhà nước nhằm tận thu của
người dân và doanh nghiệp dưới dạng thu chính thức, hợp pháp và phi
chính thức, bất hợp pháp. Nếu cộng tất cả các khoản lót tay, phong bì mà
ô tô vận tải, ô tô khách, người dân phải nộp cho cảnh sát (ngoài khoản
thu hơn 2.500 tỉ nộp ngân sách), người dân phải nộp cho nhà trường,
bệnh viện, công sở, v.v… thì chi phí để nuôi bộ máy cao hơn gấp nhiều
lần những con số chính thức đã được công bố. Cần làm rõ thực trạng
này và phải cải cách bộ máy và hệ thống chính trị theo nguyên tắc quyền
lực phải được giám sát, phải có trách nhiệm giải trình, hạn chế tối đa sự
độc quyền về quyền lực (như điều tra, giam giữ, quản lý nhà tù), thực

hiện độc lập tư pháp, toàn án chỉ tuân thủ pháp luật, hiến pháp, nghiêm
trị mọi hành động can thiệp, bao che hay trù dập, lạm dụng chức quyền
ức hiếp, đàn áp người dân. Sửa đổi, bãi bỏ nhưng quy định đã lỗi thời,
hạn chế quá đáng các quyền tự do, dân chủ của người dân như cho phép
giam giữ và cải tạo hành chính không thông qua xét sử tại toàn án. Tôn
trọng quyền con người của những phạm nhân bị giam giữ, thực hiện
kiểm tra, giám sát độc lập với nhà tù, trại giam hiện đã có quy mô rất
lớn. Xây dựng bộ máy theo nguyên tắc công khai, minh bạch trong tất cả
các khâu, các hoạt động có liên quan đến người dân, thường xuyên duy
trì quan hệ đối thoại lấy ý kiến của người dân về tất cả các văn bản luật
pháp, quy định có liên quan đến người dân. Bộ máy nhà nước, giới cầm
quyền phải cùng chia sẻ lợi ích với dân, không cho phép hình thành một
bộ máy đặc quyền, đặc lợi, sống cách biệt với dân, đè đầu, cưỡi cổ người
dân. Một bộ máy như vậy, cần phải đào thải và chắc chắn sẽ bị nhân dân
đào thải. Các nghiên cứu mới đây (xem Acemoglu) cho thấy chính thể
chế, bộ máy nhà nước là nguyên nhân dẫn đến sự giàu có hay nghèo khổ
của các dân tộc. Cải cách thể chế là khâu then chốt nhất để thúc đẩy cải
cách kinh tế và tiến bộ xã hội ở Việt Nam hiện nay.
(v) Phân cấp quản lý và quan hệ giữa trung ương và địa phương ở
Việt Nam hiện nay đang có những vấn đề cấp bách và căn bản cần giải
quyết. Thực trạng cơ cấu kinh tế của các tỉnh, thành phố phát triển thiếu
275
điều hòa phối hợp giữa ngành và địa phương, thiếu tính thống nhất của
một nền kinh tế quốc dân trong một chỉnh thể hợp lý có đóng góp của
cả hai phía trung ương và địa phương, trong đó trách nhiệm chính thuộc
về trung ương. Chính các quyết định phân cấp đầu tư, phân cấp đất đai
với những phân quyền đồng đều, quá rộng cho các tỉnh, thành phố (về
nguyên tắc tỉnh Hà Giang cũng được phân cấp như Hà Nội hay Thành
phố Hồ Chí Minh), không tính đến năng lực thẩm định, giám sát đầu tư
đã tạo điều kiện cho thực trạng hiện nay. Các quyết định xây dựng cảng

biển, sân bay, trường đại học đều do Thủ tướng Chính phủ hay các bộ
quyết định trên cớ sở các đề nghị của địa phương, nên quy trách nhiệm
cho tình trạng phân tán, dàn trải của đầu tư hiện nay chủ yếu cho địa
phương là chưa thỏa đáng mà phải quy trách nhiệm chủ yếu ở khâu thiết
kế và thực hiện ở cấp trung ương. Cần nhận thức rõ sự thỏa hiệp, hợp
tác, “đi có, về có, đi không, về không”, tình trạng trung ương “gửi dự
án” để tỉnh ký quyết định, song sự quyết định thực đã được thực hiện ở
cấp trung ương rồi.
(vi) Hiện trạng quy hoạch hiện tại của Việt Nam bao gồm xây dựng
100 cảng biển (trong đó 20 cảng biển quốc tế) và 22 sân bay (8 sân bay
quốc tế). Các tỉnh vẫn tiếp tục quy hoạch xây dựng thêm cảng biển và
sân bay, điều này đòi hỏi lượng vốn đầu tư khổng lồ. Hiên tại các sân
bay và cảng biển địa phương đều trong tình trạng báo cáo hoạt động
thua lỗ lớn.
- Hiện có 18 vùng kinh tế ven biển, 30 khu kinh tế cửa khẩu, 260
khu công nghiệp và 650 cụm công nghiệp không được khai thác sử
dụng hiệu quả.
- Từ 2001-2010, cả nước xây dựng mới khoảng 307 trường đại
học, viện nghiên cứu và trường dạy nghề và mỗi tỉnh phải có ít nhất một
viện/trường (trừ tỉnh Đăk Nông).
- Mỗi tỉnh đều có đài phát thanh truyền hình và báo chính thức
riêng.
276
Hình 7.1. Các cảng biển nước sâu đang được triển khai
Nguồn: Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright.
(vii) Một số vấn đề trong phân cấp hiện tại
- Việt Nam đã trở thành nước có hệ thống hành chính phi tập trung
hóa mức cao so với các nước trong khu vực.
- Phân cấp được các chính quyền địa phương đánh giá cao, khơi dậy
và thúc đẩy sáng kiến của các địa phương, tiềm năng của địa phương

được khai thác tốt hơn.
- Cách tiếp cận thiếu tính hệ thống: quy định phân cấp giống nhau
đổi với tất cả các tỉnh và thành phố, không tính đến năng lực và khả
năng hấp thu của các tỉnh, thành phố. Phân cấp không đảm bảo trách
nhiệm giải trình cần thiết và thiếu giám sát, từ đó dẫn đến tình trạng
manh mún, dàn trải trong nền kinh tế, khai thác các nguồn tài nguyên
thiên nhiên kém hiệu quả. Thiếu sự phối hợp trong thực thi các chính
sách và quy định về đất đai, xây dựng, khai thác khoáng sản và bảo vệ
môi trường, v.v…
Hướng giải quyết không phải là tái thiết lập hệ thống tập trung
quan liêu, bao cấp đã được xóa bỏ trước đây mà là quy định cân đối
277
giữa quyền hạn, trách nhiệm, năng lực, phân cấp phù hợp với điều kiện,
năng lực của địa phương. Đồng thời cần thực hiện công khai, minh
bạch, hạn chế tối đa những can thiệp ngoài pháp luật để ép địa phương
nhận dự án đầu tư này, đầu tư khác của doanh nhân A hay B. Cần tiến tới
cho phép thực hiện quyền tự chủ địa phương (local autonomie) về thu
một số loại thuế, phí và một số khoản chi cho kết cấu hạ tầng hay giáo
dục, y tế. Điều này cần thực hiện với tất cả địa phương, không riêng cho
thủ đô Hà Nội. Một chế độ tự chủ địa phương như vậy cho phép phát
huy sự sáng tạo, tự chủ của địa phương, tạo ra sự khác biệt, đa dạng của
địa phương. Đồng thời phải quy định trách nhiệm cá nhân của người ra
quyết định, loại bỏ các hình thức lợi ích nhóm, “gửi dự án” v.v…
(viii) Theo định nghĩa của Wikipedia tiếng Việt, “nhóm lợi ích”
là một tập thể gồm nhiều cá nhân, tổ chức cùng chia sẻ một mối quan
tâm chung và cùng nhau thúc đẩy các mục tiêu đó bằng cách tác động
vào các chính sách của chính phủ. Là những nhóm vận động hành lang
hay cửa hậu (lobby) để tạo ra hay thay đổi những luật lệ và cách thực
thi có lợi cho phe nhóm mình, nhằm tạo dựng một vài đặc quyền, đặc
lợi để thụ hưởng

115
. Ở các nước có luật về vận động hành lang (lobby),
các nhóm lợi ích hình thành và hoạt động công khai như nhóm doanh
nghiệp, tài chính - ngân hàng, công đoàn, hiệp hội, truyền thông, v.v
nhằm tác động tới các chính sách của Quốc hội và Chính phủ một cách
công khai và hợp pháp. Họ vận động qua nhiều kênh khác nhau, sử
dụng các chuyên gia và công ty tư vấn. Do những lý do về thể chế, pháp
luật và truyền thống nhóm lợi ích ở Việt Nam chưa có kênh tác động
chính thức đến quá trình soạn thảo, ban hành luật pháp của Quốc hội
và chính sách của Chính phủ, quá trình vận động chưa được công khai
và luật hóa nên nhóm lợi ích ở Việt Nam rất đa dạng, phức tạp và chưa
được xác định rõ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là người đầu tiên đã
công khai nêu địch danh “nhóm lợi ích” trong bài phát biểu kết thúc Hội
nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 10/10/2011
116
.
Lợi ích nhóm ở Việt Nam có đặc trưng là liên quan đến những người
có chức, có quyền, nhất là quyền liên quan đến cán bộ, tài chính, ngân
115
/>116
/>278
sách, đầu tư, đất đai, hầm mỏ, rừng, biển, v.v… Những người này có
thể ở cấp trung ương, tỉnh, huyện, xã phường hay ở cấp sở, phòng, thậm
chí cá nhân thanh tra, cảnh sát hay ở doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn,
dự án, v.v Những hoạt động này len lỏi cả vào các hoạt động rất trí
thức và cao sang nhự nghiên cứu khoa học, cấp bằng, mua điểm, chấm
luận án. Những nhóm lợi ích ở Việt Nam hoạt động rất linh hoạt, theo
từng vụ, việc, vây quanh một số cá nhân nhất định. Lợi dụng tính thiếu
công khai, minh bạch các nhóm lợi ích thường tiếp xúc theo “quan hệ”
cá nhân, có thể đặt quan hệ trực tiếp hay qua con cái, thân quen mà chất

kết dính là lợi ích tiền bạc. Đã có câu dân gian thể hiện các nhóm lợi ích
như sau: “Thứ nhất tiền tệ, thứ nhì hậu duệ, thứ ba quan hệ, thứ tư mới
đến trí tuệ” để mô tả nhóm lợi ích trong bổ nhiệm cán bộ vào một chức
vụ, một vị trí nào (như cảnh sat giao thông đứng ở đâu, quan chức ngoại
giao đi nước nào). Lợi ích càng lớn thì nhóm lợi ích hoạt động càng
mạnh. Luật pháp càng lỏng lẻo hay quyền lực ít bị giám sát thì nhóm lợi
ích hoạt động càng trắng trợn, liều lĩnh. Nhóm lợi ích ở Việt Nam hoạt
động trong một không gian chủ yếu phi chính thức, bất hợp pháp, trong
không ít trường hợp có quan hệ đến buôn lậu hay các hoạt động có tính
chất phạm pháp ở mức độ khác nhau. Việc xác định bản chất, hình thức,
phạm vi hoạt động của các loại nhóm lợi ích khác nhau cần được đầu tư,
nghiên cứu thêm trong thời gian tới để làm rõ những lỗ hổng hay khe hở
luật pháp để các nhóm lợi ích lợi dụng.
(ix) Sớm ban hành Luật về hội, sửa đổi Luật Báo chí nhằm tạo ra
một không gian tranh luận bình đẳng vì lợi ích dân tộc, khuyến khích
các hoạt động phản biện xã hội theo luật pháp, bảo đảm quyền tự do,
dân chủ đã được hiến định của người dân. Xã hội loài người đã thay đổi
rất mạnh mẽ, nhanh chóng, trở nên rất đa dạng và phức tạp. Công nghệ
thông tin, truyền thông, Internet đã xóa bỏ độc quyền thông tin, độc
quyền chân lý, che dấu sự thật. Một xã hội muốn phát triển phải là xã
hội cởi mở, bao dung, tạo ra cơ hội phát triển bình đẳng cho mọi người,
chia sẻ lợi ích công bằng với đóng góp của mỗi thành viên trong xã hội,
thực sự thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân, không phân biệt chính kiến,
tôn giáo, sắc tộc, quá khứ, thành phần giai cấp ở trong nước hay ngoài
nước, thống nhất trong lợi ích dân tộc, xây dựng đất nước.
279
(x) Những ý tưởng thay đổi trên không có gì mới, đã được ghi
trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945, Hiến pháp 1946, trong các
Nghị quyết Đại hội Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội IX. Tuy vậy, việc
thực hiện sẽ rất khó khăn gian khổ vì hiện nay đã hình thành một tầng

lớp đặc quyền, đặc lợi, cản trở mọi cải cách cần thiết nhân danh ổn định
chính trị - xã hội. Cần thấy rằng xã hội Việt Nam hiện nay đang chứa
đựng những yếu tố mất ổn định gay gắt, nếu không cải cách có thể sẽ
không kiểm soát được tình hình. Bước đầu tiên có thể và cần làm là
quay lại những gì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố, thực hiện đối với
dân như phổ thông đầu phiếu và tự do ứng cử, bầu cử, quyền tự do ngôn
luận, biểu tình, lập hội, thu hút đông đảo tầng lớp ưu tú trong xã hội vào
lãnh đạo đất nước. Những thay đổi tiếp theo có thể diễn ra từng bước.
Nếu không có thay đổi mạnh mẽ tư duy, thiết kế và vận hành hệ
thống thể chế những mục tiêu thay đổi cần đạt được là đổi mới mô hình
tăng trưởng, nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh, tái cấu trúc kinh tế
sẽ rất khó có thể đạt được.
Trước hết, cần nhìn thẳng vào sự thật, phân tích một cách khách
quan thực trạng kinh tế - xã hội để thấy rõ những mặt mạnh, yếu, tiềm
năng cần và có thể được phát huy cũng như những hạn chế, yêu kém
phải được khắc phục. có nhiều phân tích, song một số vấn đề vẫn chưa
được làm rõ như tham nhũng, lợi ích nhóm và tư duy nhiệm kỳ cũng
như nguồn gốc sâu xa dẫn đến những tệ nạn này là quyền lực không
được giám sát, bộ máy hoạt động thiếu công khai minh bạch. Để cải
cách và tái cấu trúc nền kinh tế một cách đúng đắn, có hiệu quả cũng
không thể không phân tích tình hình kinh tế - xã hội thế giới, làm rõ xu
thế, động lực phát triển, những mô hình đã bị đầo thải, những bài học
kinh nghiệm cần được rút ra, những cơ hội và thách thức mà cách mạng
khoa học - công nghệ đang đặt ra để tiến hành công cuộc tái cấu trúc
phù hợp với xu hướng phát triển của nhân loại.
Theo Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng của Việt Nam ngày càng
phụ thuộc nhiều hơn vào vốn và đóng góp của TFP trong những năm
1994, 1995 đạt 40-60% đã giảm xuống chỉ còn 15% trong những năm
2000-2006 và từ 2007 đã giảm xuống mức báo động dưới 10%.
280

Từ năm 2009 Chính phủ ngày càng can thiệp vào các sự vụ và
không dự đoán được vào các hoạt động kinh tế và cơ chế thị trường với
hiệu quả rất đáng tranh cãi như lập quỹ bình ổn giá, xây quá nhiều sân
bay, cảng biển, chấp thuận các dự án đầu tư công mà không cân đối vốn
trong khi không kiểm soát được các khoản nợ của các tỉnh, v.v.
Theo thống kê của Dự án Sáng kiến cạnh tranh Việt Nam (VNCI)
kết hợp với Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho
thấy: từ năm 2005-2008, Việt Nam đã ban hành 17.169 văn bản pháp
luật, lớn hơn cả số văn bản pháp luật được ban hành trong 18 năm trước
đó (14.641). Chỉ tính riêng cấp trung ương, số văn bản pháp luật tăng
đột biến lên 8.520 vào năm 2009. Số lượng văn bản quy phạm tiếp tục
tăng lên trong hai năm gần đây. Chuyên gia VNCI Scott Jacobs nhận
xét: “Số lượng văn bản ngày càng tăng làm Việt Nam phải gánh chịu
nhiều quy định phi thị trường tốn kém”.
Theo Giáo sư Claudio Dordi, chuyên gia trưởng của dự án Hỗ trợ
thương mại đa biên (Mutrap III), các chỉ số đo lường năng lực điều hành
của Chính phủ đang giảm xuống theo thời gian. Ông trích dẫn số liệu của
Diễn đàn Kinh tế Thế giới, theo đó, về thứ hạng hiệu quả khuôn khổ luật
pháp thì Việt Nam từ hạng 57 năm 2009 xuống 74 năm 2012. Tính minh
bạch của Chính phủ giảm từ hạng 58 năm 2007 xuống 91 năm 2012. Về
tiêu chí gánh nặng các quy định của Chính phủ, Việt Nam giảm từ hạng
105 năm 2007 xuống 113 năm 2012.”
Đã có một số đánh giá quốc tế về thể chế của Việt Nam và những
nhu cầu cải cách thể chế. Thể chế của Việt Nam được đánh giá không
cao trong so sánh với khu vực và có những vấn đề chủ yếu sau đây:
Tiếng nói của người dân chưa được chú ý lắng nghe trong khi -
trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước thấp;
Chất lượng chính sách và năng lực điều hành của cơ quan nhà -
nước thấp và chậm được cải thiện. Ngân hàng Thế giới đã công bố bảng
đánh giá sau đây về chất lượng chính sách của Việt Nam.

281
Hình 7.2. So sánh chất lượng thể chế chính sách tại một số nước
Nguồn: World Bank Institute, Global governance indicators, 2009. Giá trị cho các năm 1997, 1999 và 2001 được tính toán bổ sung.
-0.8
-0.6
-0.4
-0.2
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Malaixia
Thái Lan
Trung Quốc
Việt Nam
Chỉ số tổng hợp đo
lường chất lượng thể
chế chính sách
Nguồn: Tính toán của tác giả.
Chỉ số Năng lực cạnh tranh của Việt Nam do Diễn đàn Kinh tế Thế
giới xếp hạng luôn ở mức trung bình thấp, năm 2012 bị tụt 6 bậc so với
năm trước.
Bảng 7.1. Xếp hàng Năng lực cạnh tranh toàn cầu
Quốc gia Xếp hạng
Singapore 2
Đài Loan 13
Malaysia 21
Trung Quốc 26

Thái Lan 39
Indonesia 46
Sri Lanka 52
Ấn Độ 56
Việt Nam 65
Philippines 75
Campuchia 97
Bangladesh 108
Nguồn: Diễn đàn Kinh tế thế giới 2011-2012.
Tương tự như vậy, chỉ số môi trường kinh doanh do Ngân hàng
Thế giới xếp hạng và Chỉ số tự do kinh tế do Quỹ Heritage công bố
cũng ở mức thấp, đặc biệt là so với Thái Lan và một số nước khác trong
khu vực:
282
Bảng 7.2. Chỉ số môi trường kinh doanh
Quốc gia Xếp hạng
Singapore 1
Thái Lan 17
Malaysia 18
Taiwan 25
Sri Lanka 89
Trung Quốc 91
Việt Nam 98
Bangladesh 122
Indonesia 129
Ấn Độ 132
Philippines 136
Campuchia 138
Nguồn: Ngân hàng Thế giới 2010.
Bảng 7.3. Chỉ số tự do kinh tế

Quốc gia Xếp hạng
Singapore 2
Đài Loan 18
Malaysia 53
Thái Lan 60
Sri Lanka 97
Campuchia 102
Philippines 107
Indonesia 115
Ấn Độ 123
Bangladesh 130
Việt Nam 136
Trung Quốc 138
Nguồn: Quỹ Di sản/ Tạp chí Wall Street 2012.
*Chỉ số Tự do kinh tế là một tập hợp 10 chỉ số đánh giá kinh tế do Quỹ Di Sản
(Heritage Foundation) và tạp chí Wall Street xây dựng. Mục tiêu tuyên bố là đánh giá mức độ
tự do kinh tế ở các nước trên thế giới.
283
Mặc dầu chống tham nhũng được tuyên chiến rầm rộ nhưng tiến bộ
trên thực tế rất hạn chế:
Bảng 7.4. Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI)
Quốc gia Xếp hạng
Singapore 5
Đài Loan 32
Malaysia 60
Trung Quốc 75
Thái Lan 80
Sri Lanka 86
Ấn Độ 95
Indonesia 100

Việt Nam 112
Bangladesh 120
Philippines 129
Campuchia 164
Nguồn: Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International 2011).
Chỉ số môi trường điện tử của Việt Nam cũng ở mức thấp:
Bảng 7.5. Chỉ số môi trường điện tử
Quốc gia Xếp hạng
Người sử dụng
Internet
Tỉ lệ người dân sử dụng
Internet %
Singapore 1 3.235.000 71%
Thái Lan 17 17.483.000 21,2%
Malaysia 18 15.355.000 56,3%
Đài Loan 25 16.147.000 71,5%
Sri Lanka 89 1.777.000 12%
Trung Quốc 91 389.000.000 34,3%
Việt Nam 98 23.382.000 27,56%
Bangladesh 122 617.300 3,7%
Indonesia 129 20.000.000 9,9%
Ấn Độ 132 61.338.000 7,5%
Philippines 136 8.278.000 25%
Campuchia 138 78.500 1,26%
Nguồn: Bộ phận Tình báo kinh tế 2009, CIA World Factbook 2009 và Liên minh Viễn
thông Quốc tế 2010.
284
Theo đó chất lượng chính sách của Việt Nam thấp xa so với Trung
Quốc, Thái Lan và Malaysia:
Mức độ thực thi và tuân thủ pháp luật thấp trong khu vực;-

Tính công khai minh bạch thấp và chậm được cải thiện;-
Chống tham nhũng chậm có tiến bộ
Hiệu quả của Chính phủ và chất lượng của các văn bản pháp quy
đều thấp nhất so với một số nước trong khu vực:
Hình 7.3. Hiệu quả của Chính phủ và chất lượng pháp quy
Nguồn: Bộ phận tình báo kinh tế 2009, CIA World Factbook 2009
và Liên minh viễn thông quốc tế 2010.
Có thể thấy cải cách thể chế là tiềm năng lớn để có thể khai thác
nhằm nâng cao hiệu quả, năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế, nếu như vượt qua được lợi ích nhóm và tư duy nhiệm kỳ như Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói. Khó khăn chính là nằm ở quyết tâm
chính trị thực hiện các cải cách thể chế cần thiết.
Chính thể chế, cơ chế, luật pháp và cách hành sử của bộ máy đã
nhào nạn ra những doanh nghiệp và cá nhân hành động phù hợp với thể
chế và bộ máy đó. Thể chế nào, doanh nghiệp ấy, doanh nhân nước ta
không ai tự nguyện chi nhiều tiền bạc và thời gian, tâm sức để đút lót,
thăm viếng, ăn nhậu để duy trì “quan hệ”. Doanh nghiệp các nước khác
285
và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở nước ta không phải chi nhiều đến
như thế. Muốn thay đổi hành vi của cá nhân và doanh nghiệp nhất thiết
phải thay đổi cơ chế, thể chế, tạo ra những động lực đúng hướng và
ngăn chặn những hành vi không mong muốn, không thể chỉ trông chờ
vào kêu gọi đạo đức, rèn luyện, tu dưỡng của từng cá nhân trong khi
không thay đổi thể chế.
Có thể gắn quá trình đổi mới tư duy và tái cấu trúc và cải cách bộ
máy nhà nước với chỉnh đốn và làm trong sạch Đảng được phát động tại
Hội nghị Trung ương 4 cũng như với việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
năm 1992 đang diễn ra hiện nay. Những đối mới thể chế phải gắn với
yêu cầu thực hiện những quyền tự do, dân chủ của dân đã được quy định
trong Hiến pháp cũng như nguyên tắc quyền lực phải được phân định và

kiểm soát, quyền lực tuyệt đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối.
Trên bình diện lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế, tác phẩm của hai
giáo sư Daron Acemoglu và James Robinson “Vì sao có những quốc
gia thất bại, nguồn gốc của quyền lực, thịnh vương và nghèo đói”
117
,
phát hành tháng 3/2012 đã đặt câu hỏi tại sao có những quốc gia nghèo
tài nguyên nhưng lại trở nên giàu có trong khi những quốc gia khác có
thể giàu tài nguyên lại không. Hai ông đã chỉ ra lý do chủ yếu là thể
chế. Hai tác giả đã chia thế giới thành nhóm quốc gia được quản trị
bởi những định chế “bao dung hay dung nạp” (inclusive institutions),
và nhóm quốc gia còn lại bị cai trị bởi những định chế “tước đoạt hay
khai thác” (extractive instituions). Acemoglu nhận định: “Những xã hội
[bao dung] thật sự có sự phân chia quyền lực chính trị hợp lý hơn,
trong khi những xã hội khác lại không có”.
Acemoglu và Robinson lập luận rằng, nếu một chế độ tước đoạt
lên nắm quyền, tức là quyền lực chính trị bị tập trung trong một nhóm
nhỏ thì không có sự thịnh vượng hay quyền tư hữu nào có thể cứu đất
nước đó khỏi kết cục suy tàn vì quyền sở hữu có thể bị thao túng. Nếu
quyền lực chính trị có sự tham gia rộng rãi của quần chúng thì thể chế
117
D.Acemoglu và J.Robinson, Why Nations fail, The Origins of Power, Prosperity, and Pov-
erty, Crown Publishers, New York, 2012. Cũng xem Tại sao các quốc gia thất bại, http://nguy-
endinhhuynh.blogspot.com/2012/03/daron-acemoglu-and-james-robinson.html.
286
chính trị và kinh tế có thể mang lại sự thịnh vượng và phúc lợi cho đông
đảo quần chúng.
Lập luận của họ là mức thịnh vượng hiện đại đó dựa trên những
nền tảng chính trị. Sự thịnh vượng gần như do đầu tư và sáng tạo tạo ra,
nhưng đây là những hành vi của niềm tin: các nhà đầu tư và nhà sáng

tạo phải có những lý do tin cậy để nghĩ rằng, nếu thành công, họ sẽ
không bị những kẻ quyền thế cướp bóc. Để chính thể cung cấp bảo đảm
như vậy, phải có hai điều kiện: phải giữ quyền lực tập trung và các thiết
chế quyền lực phải dân chủ. Nếu không có quyền lực tập trung, sẽ sinh
rối loạn và không tạo điều kiện cho đầu tư và kinh doanh.
Vì vậy, sau đây, xin đề xuất một số vấn đề có tính quan điểm liên
quan đến thể chế, chính sách cần được quan tâm giải quyết để tái cấu
trúc kinh tế đạt được kết quả.
TÁI cẤU TRÚc PhÙ hỢP VỚI hỘI nhẬP QUỐc TẾ
Nền kinh tế nước ta đã hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới: xuất -
nhập khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư tài chính gián tiếp, tiến
bộ khoa học - công nghệ trực tiếp tác động đến kinh tế nước ta. Kinh tế
thế giới cũng đang trong quá trình thay đổi cực kỳ sâu sắc, mô hình kinh
tế thị trường và mô hình nhà nước đang được xem xét lại và điều chỉnh
sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và khủng hoảng nợ công
châu Âu đang diễn ra hiện nay. Cân bằng chiến lược đang có sự thay
đổi với sự lớn mạnh lên của Trung Quốc, đòi hỏi những nước như Việt
Nam phải có đối sách thích hợp để phát triển.
Tài nguyên trên thế giới ngày càng khan hiếm, nước, dầu mỏ, các
mỏ kim loại đang được tranh dành gay gắt, trong đó Trung Quốc đang
ra sức tìm kiếm các nguồn tài nguyên trên khắp thế giới, đặc biệt là ở
Biển Đông.
Biến đổi khí hậu làm thay đổi sâu sắc đến đời sống nhân loại, trong
đó, sản xuất nông nghiệp, nhất là lương thực bị tác động rất mạnh. An
ninh lương thực đang trở thành vấn đề sống còn với mỗi quốc gia, giá
287
lương thực được dự báo sẽ tiếp tục tăng, lương thực sẽ trở thành vũ khí
quan trọng trong thương mại thế giới.
Khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới đang phát triển như vũ bão, tác động mạnh

mẽ đến quốc phòng, an ninh, kinh tế của từng nước.
Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, số các hiệp định thương mại
tự do song phương và khu vực tăng lên nhanh chóng với phạm vi cam
kết ngày càng mở rộng ra các lĩnh vực môi trường, lao động, sở hữu trí
tuệ, v.v… (như Hiệp định hợp tác xuyên Thái Bình Dương - TPP). Các
chuỗi giá trị được hình thành và ngày càng mở rộng, vừa tạo cơ hội và
thách thức lớn cho các quốc gia và doanh nghiệp.
Đối với nước ta, hội nhập quốc tế đã góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế cũng như công cuộc cải cách kinh tế - xã hội trong nước như thu
hút đầu tư nước ngoài, sửa đổi khung pháp luật để thực hiện các cam kết
gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), phát triển công nghệ
thông tin và Internet.
Việt Nam cũng đã ký kết tám hiệp định thương mại tự do (FTA)
song phương hay với tư cách thành viên của ASEAN. Tiếc rằng sau khi
ký kết các Hiệp định trên nhà nước ta đã không tiếp tục các cải cách
pháp luật và môi trường kinh doanh như khi gia nhập WTO năm 2007.
Hội nhập quốc tế là một động lực thúc đẩy cải cách. Việc tham gia vào
TPP sẽ thúc đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước, quan hệ lao động, bảo
vệ môi trường, v.v… tuy đó cũng đồng thời là những thách thức cần
phải vượt qua.
Vị thế địa - chính trị của Việt Nam bên cạnh Trung Quốc tạo ra
những cơ hội và thách thức to lớn: nhiều nước mong muốn Việt Nam
mạnh lên và tiếp tục giúp đỡ, hợp tác với Việt Nam. Tài nguyên, vị
trí chiến lược của Việt Nam cũng thu hút sự chú ý của giới đầu tư. Là
láng giềng của Trung Quốc, hàng hóa, dịch vụ của kinh tế Việt Nam
phải cạnh tranh với hàng hóa, dịch vụ từ kinh tế Trung Quốc trong khi
tiếp tục hợp tác với kinh tế Trung Quốc, Việt Nam phải tạo ra sự khác
288
biệt gì, bổ sung cho kinh tế Trung Quốc để khẳng định vị thế “độc lập,
tự chủ” với Trung Quốc nếu không muốn phụ thuộc vào Trung Quốc.

Trong cấu trúc kinh tế và trên bình diện chiến lược, cần xác định không
những mặt hàng xuất khẩu nào của Việt Nam có năng lực cạnh tranh để
có chiến lược phát triển mà còn phải phát triển các biện pháp cần thiết
và cho phép để bảo vệ thị trường trong nước.
Thay vì hội nhập một cách “phòng thủ” như trong thời gian vừa
qua, Việt Nam phải có chiến lược hội nhập một cách chủ động như Nghị
quyết Đại hội IX và X của Đảng đã chỉ rõ, gắn liền với tái cấu trúc kinh
tế và cải cách thể chế, giáo dục, khoa học - công nghệ.
Tái cấu trúc và cải cách của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và
trong tương lai phảiđặt trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, phải nhằm phát huy lợi thế so sánh, vị trí địa lý - chính trị chiến
lược, tiếp tục thúc đẩy quá trình chuyển từ tăng trưởng chủ yếu dựa vào
đầu tư, sử dụng vốn, khai thác tài nguyên thiên nhiên sang tăng trưởng
xanh, bền vững, nâng cao hiệu quả, năng lực cạnh tranh; tiếp tục hội
nhập quốc tế, rút những bài học kinh nghiệm từ những sai lầm và yếu
kém của vai trò Nhà nước và khu vực tài chính - ngân hàng đã bộc lộ
vừa qua, thích nghi với biến đổi khí hậu và yêu cầu ngày càng cao đối
với sản xuất nông nghiệp và lương thực, tận dụng những thành tựu của
khoa học - công nghệ thế giới, đưa các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi
giá trị toàn cầu.
Tái cấu trúc kinh tế phải theo hướng thị trường, nâng cao hiệu quả
và năng lực cạnh tranh, phù hợp với các thông lệ quốc tế, xu thế hội
nhập quốc tế và toàn cầu hóa, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế đã được
thừa nhận về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các tổ
chức quốc tế mà Việt Nam đã cam kết.
Việt Nam cũng cần tăng cường vận dụng các biện pháp phòng vệ
thương mại có hiệu quả, phù hợp với các cam kết WTO, tránh bẫy “tự
do hóa thương mại”, mở cửa trong khi không có các rào cản để bảo vệ
những ngành sản xuất còn non trẻ của mình.
289

Cớ chế, chính sách hiện nay tạo ra sự cám giỗ rất lớn để khai thác
tài nguyên đất đai, rừng biển, khoáng sản trong khi động lực cho sáng
tạo, khoa học - công nghệ rất nhỏ bé so với lợi ích đạt được từ những
hoạt động kinh tế trên. Cần thay đổi chính sách nhằm giảm các lợi ích
từ khai thác tài nguyên, từ đầu cơ bất động sản như tăng thuế đánh vào
đất, bất động sản nhằm hạn chế, dẫn đến hạn chế tối đa hoạt động đầu
cơ, khai thác tài nguyên mà không đóng góp tương xứng để bảo vệ môi
trường, tái tạo các tiềm năng tăng trưởng cho tương lai. Đồng thời, cần
xây dựng các quỹ đầu tư mạo hiểm, khuyến khích các hoạt động đầu tư
vào khoa học - công nghệ, nâng cao giá trị gia tăng, hiệu quả và năng
lực cạnh tranh.
Không thể đặt vấn đề tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam hiện nay
tách rời với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, cũng không thể tái cấu trúc
theo hướng tăng cường can thiệp của nhà nước vào cơ chế thị trường có
lợi cho lợi ích nhóm và tư duy nhiệm kỳ, trái với các cam kết quốc tế.
Tái cấu trúc phải tận dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ, nhất
là công nghệ thông tin. Thí dụ như có thể vận dụng công nghệ thông
tin trong y tế, tổ chức hội chẩn với các bác sĩ giỏi qua cầu truyền hình,
chăm sóc người bệnh thông qua các trang, thiết bị hiện đại (như đã vận
dụng thành công ở Trường Sa). Cũng không cần quy hoạch mỗi xã có
một chợ nếu như giao thông thông suốt và có thể mua bán qua mạng,
v.v… Quy hoạch các ngành rất cần quán triệt quan điểm toàn cầu hóa,
hội nhập quốc tế, cạnh tranh và phát huy lợi thế so sánh, tránh lặp lại
các lối mòn trước đây.
Thông qua cạnh tranh lành mạnh trên thị trường trong nước và
quốc tế, kiểm soát độc quyền, hạn chế các nhóm lợi ích khai thác tài
nguyên đất đai để kiếm lợi mới có cơ hội vận dụng khoa học - công
nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp
và của sản phẩm, dịch vụ.
Lâu nay có hiện tượng đối với quốc tế ta cam kết theo nguyên

tắc của WTO, thực hiện cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp,
không phân biệt hình thức sở hữu, mặt khác trong nước, nhà nước tiếp
290
tục coi kinh tế nhà nước là chủ đạo, ưu tiên, ưu đãi về vốn, tài nguyên
thiên nhiên, dự án, quyền kinh doanh, v.v… đối với các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước.
TÁI cẤU TRÚc ThỂ chẾ nhÀ nưỚc, chÍnh TRỊ, KInh TẾ
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã quyết định: “Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, thực hiện nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hoàn
thiện cơ chế để tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan
lập pháp, hành pháp, tư pháp”
118
.
Theo tinh thần đó, cần đổi mới tư duy, thực hiện cải cách thể chế
một cách hệ thống, cơ bản theo hướng:
Thiết kế cơ chế và thể chế giám sát theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước ở tất cả các cấp, các cơ quan từ Chủ tịch nước, Thủ tướng đến Chủ
tịch xã đều phải được giám sát chặt chẽ bởi một hay nhiều thể chế độc
lập. Quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm giải trình
về sử dụng vốn, tài sản nhà nước về những quyết định đã được ban hành
và được thực hiện. Quy định sự giám sát như vậy phù hợp với thông lệ
quốc tế, nhằm hạn chế lạm dụng quyền lực hoặc trốn tránh trách nhiệm
để phục vụ lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. Không để bất kỳ cơ quan nào,
cá nhân nào được đứng ngoài và đứng trên trên pháp luật, đứng ngoài
sự giám sát của các cơ quan nhà nước, của báo chí, quần chúng. Làm
rõ cơ chế tập thể lãnh đạo về chủ trương, đường lối đồng thời xác định
rõ trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu cơ quan về các quyết định,
không cho phép trốn tránh trách nhiệm về thất bại nhưng luôn tự nhận

thành tích. Cụ thể cần thực hiện quyền giám sát chặt chẽ trong toàn bộ
quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách nhà nước, đầu tư công, mua
sắm công, quyết định về đất đai, khai thác tài nguyên v.v Mọi loại
thuế, phí phải do Quốc hội hoặc các cơ quan dân cử quyết định trên cơ
sở tham khảo ý kiến công khai của người dân. Thực hiện quyền giám
118
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội , 2011, tr.141-142.
291
sát đối với quyền sở hữu nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước,
nhất là đối với các tập đoàn và tổng công ty nhà nước. Các tập đoàn và
tổng công ty nhà nước phải được quản lý chặt chẽ theo luật pháp, dưới
sự giám sát của các Ủy ban của Quốc hội. Sớm chấm dứt việc thí điểm
đặt các tập đoàn trực tiếp do Thủ tướng quản lý, thay bằng chế độ chủ
sở hữu nhà nước rõ ràng và chế độ quản trị công ty hiện đại, tuyển chọn
công khai các vị trí lãnh đạo tập đoàn, công ty nhà nước theo nguyên tắc
cạnh tranh. Theo tinh thần đó cần bổ sung, sửa đổi Hiến pháp 1992 và
các luật có liên quan đến Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, Tòa án Nhân
dân, Viện Kiểm sát Nhân dân và Chính phủ.
Luật hóa Điều 4 của Hiến pháp về sự lãnh đạo của Đảng, thực
hiện chế độ Đảng cầm quyền, hợp nhất các vị trí lãnh đạo Đảng và lãnh
đạo Nhà nước nhằm xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm cá nhân, tránh
đùn đẩy trách nhiệm cho tập thể. Việc ban hành và thực hiện một luật
như vậy sẽ nâng cao địa vị pháp lý của các hoạt động của Đảng, bảo
đảm các hoạt động đó thực sự trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật
của Nhà nước, thể hiện quyết tâm của Đảng xây dựng một Đảng trong
sạch, vững mạnh, hoạt động trong một nhà nước do dân, vì dân và của
dân. Pháp luật quy định cụ thể quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ
quan giám sát (kiểm toán, thanh tra), bảo đảm quyền tiến hành kiểm tra,
giám sát tất cả những cơ quan hay hoạt động cần thiết, kể cả các cơ quan

Đảng, không cho phép có bất kỳ vùng cấm nào trên pháp luật và ngoài
pháp luật. Nội dung, kết quả kiểm tra, giám sát cần được công bố công
khai. Kinh nghiệm cho thấy thất bại thường là đứa con hoang, thí dụ
như ngay vụ Vinashin cũng không ai đứng ra chịu trách nhiệm cá nhân
và cũng chưa xác định được trách nhiệm cá nhân.
Lập cơ quan phòng, chống tham nhũng độc lập, hoạt động theo
luật pháp dưới sự giám sát của Quốc hội. Các quan chức của cơ quan
phòng, chống tham nhũng do Quốc hội bổ nhiệm và được pháp luật bảo
vệ trong hoạt động của mình trong khuôn khổ luật pháp. Không thể tiếp
tục “vừa đá bóng, vừa thổi còi” trong lĩnh vực quan trọng như chống
tham nhũng.

×