Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Luận văn: Ứng dụng thương mại điện tử trong phát triển thị trường cho hàng thủ công mỹ nghệ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.52 KB, 34 trang )






Luận văn
Đề tài: Ứng dụng thương
mại điện tử trong phát triển
thị trường cho hàng thủ công
mỹ nghệ


1
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TMĐT Ở VIỆT NAM 2
1.1KHÁI NIỆM THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 2
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển thương mại điện tử 2
1.1.2. khái niệm 2
1.1.3 Đặc trưng của thương mại điện tử 4
1.2. CÁC HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
5
1.2.1 Thư điện tử 5
1.2.2. Thanh toán điện tử 6
1.2.3. Trao đổi dữ liệu điện tử (Electrolic data interchange – EDI ) 7
1.2.4. Giao gửi số hóa các dung liệu ( digital delivery of content ) 7
1.2.5. Bán lẻ hàng hóa hữu hình ( Retail of tangible goods ) 8
1.3. LỢI ÍCH CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 8
1.3.1. Đơn giản hóa truyền thông và thay đổi các mối quan hệ 8
1.3.2. Nắm được thông tin phong phú 9


1.3.3. Giảm chi phí sản xuất 9
1.3.4. Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị 10
1.3.5 Giảm chi phí giao dịch 10
1.3.6. Tạo điều kiện sớm tiếp cận hinh tế số 11
1.4. CÁC BƯỚC TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 12
1.4.1. Chia sẻ thông tin: 12
1.4.2. Đặt hàng 13
1.4.3. Thanh toán 14
1.4.4. Đáp ứng khách hàng 14


1.5. KHÁI QUÁT VỀ SỰ PHÁT TRIÊN TMĐT Ở VIỆT NAM 15
CHƯƠNG II: ỨNG DỤNG TMĐT TRONG PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ 17
2.1. THỰC TRẠNG 17
2.1.1. Thị trường hàng thủ công mỹ nghệ 17
2.1.2. Cơ sở phát triển hàng TCMN của Việt Nam 23
2.2. ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀO PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
CHO HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM 24
2.2.1. Thực trạng 24
2.2.2 Giải pháp ứng dụng TMĐT cho phát triển thị trưòng hàng TCMN ở
Việt Nam 27
KẾT LUẬN 29
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 31


1
LỜI NÓI ĐẦU

Hiện nay thương mại điện tử đang phát triển rất mạnh trên thế giơí. Đó là

xu hướng phát triển tất yếu của nền thương mại thế giới.TMĐT ra đời với sự
phát triển của công nghệ thông tin là một xu hướng mới của thương mại.
Thương mại điện tử ra đời đã giúp cho các mặt hàng có khả năng phát triển trên
nhiều thị truờng. Không chỉ một loại hàng hóa riêng biêt mà tất cả các loại hàng
hóa. Như chúng ta cũng biết hàng thủ công mỹ nghệ là mặt hàng phổ biến trên
mọi vùng đất của Việt nam, từ làng lụa Hà đông đến các làng dệt chiếu ở miền
nam xa xôi. Là một mặt hàng mang tính đặc thù mà chỉ ở việt nam mới có. Xu
thế toàn cầu hóa đã mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội lớn và môt trong nhưng
cơ hội đó là được cạnh tranh công bằng vơi các nươc trên thế giới. Cũng nhờ
vậy mà có nhiều người biết đến hàng thủ công mỹ nghệ của việt nam hơn. Hàng
thủ công mỹ nghệ cũng đã ứng dụng thương mại điện tử vào phát triển thị
trường. Ứng dụng thương mại điện tử không phải chạy theo xu hướng mà chính
là sự đảm bảo cho doanh nghiệp có thể tiến nhanh hơn, tiến xa hơn trong việc
mở rộng thị trường. Bên cạnh đó việc ứng dụng TMĐT đối với hàng thủ acông
mỹ nghệ vẫn còn nhiều bất cập. Do đó, tôi đã chọn đề tài :’’ Ứng dụng thương
mại điện tử trong phát triển thị trường cho hàng thủ công mỹ nghệ’’. Đề tài
muốn đề cập tới việc mở rọng thị trường cho hàng thủ công mỹ nghệ với việc
ứng dụng TMĐT.
Đề tài gồm những phần chính sau đây
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thương mại điện tử ở Việt Nam
Chương 2 : Ứng dụng thương mại điện trong phát triển hàng thủ công
mỹ nghệ






2


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TMĐT Ở VIỆT NAM

1.1KHÁI NIỆM THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển thương mại điện tử
Thương mại điện tử đang phát triển rất nhanh trên toàn thế giới. Sự ra đời
của mạng máy tính và cơ sơ mạng viễn thông cùng với nhu cầu của người tiêu
dùng thì TMĐT ra đời là một tất yếu khách quan. Tuy hiện nay được áp dụng ở
những nước công nghiệp phát triển, riêng Mỹ chiếm khoảng ½ tổng doanh số
thương mại thế giới.Nhưng các nước đang phát triên cũng bắt đầu tham
gia.Ngày nay thương mại điện tử đang giữ vai trò rất quan trọng và khối lượng
giao dịch qua TMĐT la rât lớn.
1.1.2. khái niệm
Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về TMĐT nhưng chung qui laị
có hai quan điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất,TMĐT theo nghĩa rộng
TMĐT theo nghĩa rộng được định nghĩa trong luật mẫu về thương mại điện
tử của ủy ban liên hợp quốc về luât thương mại quốc tế(UNICITRAL):
Thuật ngữ thương mại cần được hiểu theo nghĩa rộng để bao quát các vấn
đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp
đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ
giao dịch nào về thương mại về cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ;
thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lí thương mại; ủy thác hoa hồng;cho
thuê dài hạn;xây dựng các công trình; tư vấn,kĩ thuật công trình; đầu tư,cấp vốn,
ngân hàng , bảo hiểm ,thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng;liên doanh các hình
thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh;chuyên chở hàng hóa hoặc
hành khách bằng đường biển, đường sông, đường không, đường sắt hoặc đường
bộ. Như vậy,có thể thấy rằng phạm vi của thương mại điện tử rất rộng,bao quát



3
hầu hết các hoạt động kinh tế,việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một trong
hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của TMĐT.
Ủy ban châu âu đưa ra định nghĩa về thương mại điện tử như sau: TMĐT
được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử.
Nó dựa trên việc xử lí và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình
ảnh. TMĐT gồm nhiều hành vi trong đó hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ
qua phưong tiện điện tử,giao nhận các nội dung kĩ thuật số trên mạng,chuyển
tiền điện tử,mua bán các cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thưong
mại,hợp tác thiết kế,tài nguyên mạng,mua sắm công cộng,tiếp thị trực tiếp với
người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng.
Thượng mại điện tử được thực hiện với cả thương mại hàng hóa ( như hàng
tiêu dùng thiết yếu,các thiết bị y tế chuyên dùng )và thưong mại dịch vụ (ví dụ
như dịch vụ cung cấp thông tin,dịch vụ pháp lí , tài chính ) ; các hoạt động
truyền thống ( ví dụ : chăm sóc sức khỏe , giáo dục ) và các hoạt động mới ( siêu
thị ảo )
Tóm lại , theo nghĩa rộng thì TMĐT có thể được hiểu là các giao dịch tài
chính và thưong mại bằng phưongn tiệnn điện tử như : trao đổi dữ liệu điện tử ,
chuyển tiền điện tử và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng.
Thứ hai , TMĐT theo nghĩa hẹp : bao gồm các hoạt động thương mại được
thực hiện thông qua mạng Internet.
Theo tổ chức thương mại thế : TMĐT bao gồm việc sản xuất , quảng cáo ,
bán hàng và phân phối sản phẩm dược mua bán và thanh toán trên mạng Internet
, nhưng được một cách giao nhận hữu hình cả các sản phẩm được giao nhận
cũng như các thông tin số hóa thông qua mạng Internet.
Khái niệm về TMĐT do tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của liên hợp
quốc đưa ra là : TMĐT được định nghĩa là các giao dịch thương mại dựa trên
truyềnn dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet.
Như vậy , theo nghĩa hẹp thương mại điện chỉ bao gồm những hoạt động
thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet mà không tính đến các



4
phương tiện khác như điện thoại, fax , telex.
TMĐT được nói đến ở đây là hình thức mua bán hàng hóa được bày tại các
trang web trên Internet với phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng.
Qua hai cách hiểu TMĐT như trên, hiểu theo nghĩa rộng thì hoạt động
thương mại được thực hiện qua các thông tin liên lạc đã xuất hiện hàng chục
năm nay và đạt được doanh số hàng tỷ USD mỗi ngày. Theo nghĩa hẹp thì
thương mạin điện tử mới xuất hiện mấy năm trở lại đây nhưng đã đạt đươc
những kết quả đáng quan tâm, TMĐT chỉ gồm các hoạt động thương mại được
tiến hành trên mạng máy tính mở như Internet. Trên thực tế, chính các hoạt động
thưong mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ TMĐT.
1.1.3 Đặc trưng của thương mại điện tử
Thứ nhất, các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không tiếp
xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước. Đây là đặ trưng
cơ bản nhất của thương mại điện tử. Vì thương mại điện tử chỉ được thực hiện
qua các mạng truyền thông nên chỉ cần hai cái máy tính nối mạng thì các bên có
thể tiến hành giao dịch. Không tiếp xúc trực tiếp với nhau và lại càng không
phải biết nhau từ trước. Trong thương mại thông thường thì các giao dịch giưax
người mua và người bán là trực tiếp.Nhờ đặc trưng nàyn của thương mại điện tử
đã tiết kiệm được rất nhiều chi phí cho nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng
Thứ hai, các giao dịch thưong mại truyền thống được thực hiện với sự tồn
tại của biên giới quốc gia , còn thương mại điện tử được thực hiện trong môt thị
trường không có biên giới ( thị trường thống nhất toàn cầu). Thương mại điện tử
được thực hiện qua các phương tiện như Internet, thanh toán điện tử mà các
loại hình này lại phát triển trên diện rộng. Ngồi ở VIỆT NAM có thể mua được
hàng hóa từ MỸ hay từ bất kì một nước nào khác mà không cần sang tận nơi
hoặc thông qua môi giới. Khái niệm biên giới đã không còn trong thương mại
điện tử. Thương mại điện tử tác động trực tiếp tới môi trường cạnh tranh toàn

cầu. Là một nhân tố tích cực giúp cho quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh hơn
và rộng hơn. Biết sử dụng thương mại điện tử một cách thích hợp sẽ giúp cho


5
doanh nghiệp nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường.
Thứ ba, trong hoạt động giao dịch thương mại điện tử đều có sự tham gia ít
nhất của ba chủ thể : người bán hàng , người mua hàng và có một bên không thể
thiếu được là người cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực. Thương
mại thông thường chỉ diễn ra giữa hai chủ thể : người bán hàng và người mua
hàng nhưng trong thương mại điện tử cần phải có sự tham gia của chủ thể thứ ba
vì tính an toàn cho giao dịch. Do thương mại điện tử được thực hiện qua mạng
truyền thông nên cần phải có người cung cấp dịch vụ mạng. Khi các doanh
nghiệp muốn tham gia vào thương mại điện tử họ cần liên hệ với nhà cung cấp
dịch vụ mạng để có được một địa chỉ cụ thể mà nhờ địa chỉ đó khách hàng có
thể tham gia vào giao dịch. Người cung cấp dịch vụ mạng còn đảm bảo tính an
toàn cho hệ thống giao dịch của doanh nghiệp và chống các virut của các hacker
mũ đen. Các cơ quan chứng thực la những cơ quan đảm bảo thông tin chính xác
cho những thông tin về sản phẩm bày bán trên mạng, điều này giúp cho khách
hàng có thể yên tâm tham gia vào giao dịch
Thứ tư, đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là
phương tiện để trao đổi dữ liệu còn đối với thương mại điên tử thì mạng lưới thông
tin chính là thị trường. Là thị trường và đem lại nhiều lợi nhuận cho người bán.
1.2. CÁC HÌNH THỨC HOẠT ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.2.1 Thư điện tử
- Thư điện tử là một hình thức thư nhằm trao đổi thông tin nhưng được gửi
thông qua mạng truyền thông. Với tốc độ đường truyền như hiện nay thì việc
gửi và nhận tin chỉ trong vòng chưa đến một phút.Ngày nay bất kỳ ai cuãng có
thể có được một địa chỉ thư điện tử riêng cho mình và một tài khoản để giao
dịch . Do tiến bộ của khoa học kỹ thuật và yêu cầu thông tin nhanh chóng, chính

xác thì thư điện tử đã rất phổ biến và tiến tới thay thế thư truyền thống . Thư
điện tử có nhiều lợi ích trong cuộc sống còn đối với thương mại điện tử thì lại là
một phần không thể thiếu . Có thể xem xét thư điện tử đối với người sử dụng
như sau :


6
 Đối với người mua : người mua có thể dùng thư điện tử để gửi đơn đặt
hàng tới người bán . Gửi những thắc mắc, những điều mình chưa hiểu về tính
năng của sản phẩm, cách thức sử dụng sản phẩm như thế nào cho hợp lý . Hoặc
có thể người mua dùng thư để hỏi mặt hàng sắp tới của công ty . Những kiến
nghị của khách hàng đối với dịch vụ sau bán hàng hoặc cũng chỉ có thể là một
lời cảm ơn về chất lượng, giá cả hàng hóa và dịch vụ.
 Đối với người bán: đây là một công cụ quảng cáo hữu hiệu và ít tốn kém
nhất . Người bán có thể gửi những thông tin mới nhất về sản phẩm tới khách
hàng như giá cả, chương trình khuyến mãi. Họ có thể dùng thư điện tử để trả lời
những thắc mấưc của khách hàng về tất cả những vấn đề liên quan tới sản phẩm
mà họ đã bán . Bên cạnh đó, họ còn tham gia giới thiệu sản phẩm mới và cảm ơn
để tạo ấn tượng tốt đẹp trong lòng khách hàng.Hiện nay thư điện tử dùng để
quảng cáo rất phổ biến nhưng có tình trạng đi kèm vi rút do các hacker máy tính
tạo ra đã làm mất thiện cảm của khách hàng đối với các thư quảng cáo. Vì vậy
doanh nghiệp cần tạo dựng niềm tin với khách hàng bằng cách dùng địa chỉ cụ
thể và xây dựng hệ thống chống vi rút .
Như vậy, thư điện tử là một hình thức hoạt động khá phổ biến của thương
mại điện tử cho nên doanh nghiệp cần có một hòm thư có tính bảo mật cao,
dung lượng lớn để lưu giữ những thông tin về khách hàng, đối tác . Liên lạc qua
thư điện tử nhanh chóng và thuận tiện nhưng cần kiểm tra tính xác thực của
thông tin chuyển đến
1.2.2. Thanh toán điện tử
Đi cùng với giao dịch điện tử thì thanh toán điện tử là một phần không thể

thiếu trong thương mại điện tử . Thanh toán điện tử được hiểu nom na là khách
hàng thanh toán bằng điện tử chứ không cần sự có mặt của con người. Khi
khách hàng mua hàng và thanh toán tiền qua thẻ tín dụng được coi là thanh toán
điện tử. Với cách thanh toán này việc mua bán sẽ diễn ra rất nhanh chóng.
Người mua dễ dàng có được món hàng mình muốn còn người bán nhanh chóng
có được tiền trong tài khoản của mình. Điều đó có nghĩa là khi khách hàng lựa


7
chọn hàng với giá đã ấn định , họ cung cấp số thẻ cho nhà cung ứng thì số tiền
tương ứng với giá sản phẩm sẽ tự động giảm đi trong thẻ thanh toán của khách
hàng và tăng lên trong tài khoản của người bán . Việc này không đòi hỏi người
mua và người bán gặp nhau để trao tiền mà họ chỉ cần chuyển tiền qua mạng
liên kết với các ngân hàng . Thanh toán điện tử là rất quan trọng đối với thương
mại điện tử vì nó đem lại sự tiện ích và ít khi phải dùng đến tiền mại trong giao
dịch. Nhưng thanh toán điện tử chỉ có thể diễn ra trong một điều kiện nhất định
tức là phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt, sự liên kết chặt chẽ giữa các ngân
hàng, hệ thống mạng được đảm bảo an toàn. Ở Việt Nam hiện nay thanh toán
điện tử vẫn chưa được phổ biến vì các nhà cung cấp mới chỉ chấp nhận các loại
thẻ quốc tế chứ không chấp nhận các thẻ như ATM . Điều đó dẫn đến khi thanh
toán ngân hàng thì cá nhân hay doanh nghiệp phải đến bưu điện hoặc ngân hàng
để chuyển tiền mà hai loại giao dịch này thì chi phí rất cao . Việc này cũng gây
rắc rối và bất tiện đối với những người mua lượng hàng ít và giá trị thấp . Thanh
toán điện tử là điều kiện cần để cho TMĐT có thể thông suốt và ngày càng phát
triển . Chỉ khi thanh toán điện tử được hoàn thiện thì TMĐT mới thực sự là cách
được người ta lựa chọn để trao đổi và mua bán. Mua bán rắc rối hơn thương mại
truyền thống thì không ai cần đến thương mại điện tử nữa vì vậy cần có những
biện pháp thích hợp để giúp cho thanh toán điện tử hoàn thiện .
1.2.3. Trao đổi dữ liệu điện tử (Electrolic data interchange – EDI )
Là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng “ có cấu trúc” từ máy tính điện tử

này sang máy tính điện tử khác, giữa các công ty hay tổ chức đã thỏa thuận buôn
bán với nhau một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người.
EDI sử dụng rộng rãi trên thế giới, chủ yếu phục vụ cho mua và phân phối hàng
( gửi đơn hàng, các xác nhận, các tài liệu gửi hàng, hóa đơn, ).EDI chủ yếu
được thực hiện qua mạng ngoại bộ ( EXTRANET )
1.2.4. Giao gửi số hóa các dung liệu ( digital delivery of content )
Dung liệu ( content ) là phần của hàng hóa với tính cách là nội dung của nó.
Nói cách khác, dung liệu chính là nội dung của hàng hóa chứ không phải là bản


8
thân nội dung. Ví dụ : tin tức, sách báo, phim, các chương trình phát thanh,
truyền hình, các chương trình phần mềm , ý kiến tư vấn , hợp đồng bảo
hiểm, Ngày nay dung liệu được số hóa và truyền gửi qua mạng gọi là “ giao
gửi số hóa” ( Digital delivery ). Việc truyền gửi các thông tin dưới dạng số hóa
đang rất phổ biến và phát triển . Việc giao gửi số hóa đảm bảo tính chính xác
của thông tin khi người cung cấp đưa lên nhưng những thông tin thường chưa
được kiểm nghiệm.
1.2.5. Bán lẻ hàng hóa hữu hình ( Retail of tangible goods )
Đối với hình thức bán lẻ hàng hóa hữu hình thì ngay ở Mỹ đến năm 1994-
1995 cũng chưa phát triển, chỉ có vài cửa hàng có mặt trên internet, trong đó chủ
yếu là các cửa hàng bán đồ chơi, thiết bị tin học, sách, rượu, Hiện nay, danh
mục các hàng hóa bán lẻ qua mạng đã mở rộng hơn rất nhiều từ cái ghim bé xíu
đến quần áo, ô tô và xuất hiện một hoath động gọi là mua hàng qua mạng. Xu
hướng trong những năm tới, thương mại điện tử chủ yếu được ứng dụng trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng, tiếp đến là du lịch, kinh doanh bán lẻ và quảng
cáo, trong lĩnh vực buôn bán hàng hóa hữu hình khác còn rất hạn chế
1.3. LỢI ÍCH CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.3.1. Đơn giản hóa truyền thông và thay đổi các mối quan hệ
B2B (Business to business) , B2C (Business to Custormer) là hai hình thức

hoạt động chủ yếu của thương mại điện tử.Thương mại điện tử xảy ra giữa
người mua và người bán , có thể giữa người bán với người mua để bán hoặc có
thể giữa người sản xuất với người tiêu dùng cuối cùng. Thương mại điện tử giúp
rút ngắn khoảng cach giữa nhà sản xuất với người tiêu dùng cuối cùng , các mối
quan hệ trong thương mại do đó cũng thay đổi theo. Đa số các giao dịch được
thực hiện theo ình thức trực tiếp từ người bán tới người mua thông qua phương
tiện điện tử. Giúp cho nhà sản xuất có thể hiểu người tiêu dùng hơn vì các thông
tin truyền đi rất nhanh chóng.Việc trao đổi , mua bán và cung cấp thông tinb
không chỉ dừng lại ở biên giới quôc gia nữa. Với thương mại điện tử thì không
còn biên giới trong việc trao đổi và mua bán hàng hóa. Nhờ thế người tiêu dùng


9
có thể nêu ra ý kiến của mình, phản hồi thông tin tới nhà sản xuất một cách
nhanh nhất để nhà sản xuất có thể điều chỉnh cho phù hợp. Nhờ đặc tính về khả
năng lan truyền thông qua mạng truyền thông của mình mà thương mại điện tử
đã làm thay đổi các mối quan hệ thương mại. Đưa đến sự đơn giản, tiện lợi cho
người mua va giúp ích rất nhiều cho người bán.
1.3.2. Nắm được thông tin phong phú
Việc nắm được thông tin phong phú là lợi ích của thương mại điện tử
mang đến cho cả người mua và người bán
-Đối với người mua thì họ không chỉ được tiếp xúc với một người bán duy
nhất mà với rất nhiều người bán. Họ có thể sử dụng những thông tin về giá cả,
chất lượng , mẫu mã , dịch vụ của doanh nghiệp này so sánh với doanh nghiệp
khác cùng cung ứng sản phẩm tương tự. Hoặc có thể so sánh sản phẩm giữa các
quốc gia với nhau. Ví dụ có thể so sánh gỗ của VIỆT NAM với đồ gỗ của THÁI
LAN Mạng truyền thông toàn cầu đã giúp người tiêu dung có thêm nhiều thông
tin vượt ra ngoài biên giới của quốc gia và có thêm sự lựa chọn. Mặt khác, người
tiêu dùng còn có thể biết thêm nhiều thông tin của nhà sản xuất về chất lượng,
uy tín, khả năng tài chính Những điều đó chỉ có thương mại điện tử mới đem

lại một cách nhanh chóng được. Thông tin phong phú về thị trường giúp ích cho
người mua nhưng bên cạnh đó còn có những thông tin không chính xác cho nên
khi đọc thông tin cần tìm đến các nguồn đáng tin cậy
-Với nhà sản xuất thì qua thương mại điện tử họ có thể nhận biết được nhu
cầu của người tiêu dùng. Người tiêu dùng, khách hàng là những người quyết
định sự sống còn của doanh nghiệp. Họ là người trả lương và nuôi sống doanh
nghiệp. Chỉn khi đáp ứng được nhu cầu của họ nhà sản xuất mới có thể đứng
vững và tiếp tục cạnh tranh trên thị trường. Có thể sử dụng các phương tiện
mareting qua mạng với việc giới thiệu hình ảnh độc đáo, cuốn hút người mua.
Với hệ thống website của mình họ có thể thu thập thông tin một cách nhanh nhất
với các bảng thăm dò ý kiến khách hàng
1.3.3. Giảm chi phí sản xuất

10

Là mục tiêu của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm. Giảm chi phí sản
xuất sẽ giảm được giá bán hàng hóa và thu hút được nhiều khách hàng hơn. Nhờ
thương mại điện tử mà các doanh nghiệp có thể tối thiểu hóa các chi phí đầu vào
của mình. Thông qua thương mại điện tử doanh nghiệp tìm ra được các nguồn y
thế phù hợp. Sẽ không phải chi quá nhiều tiền cho việc dữ trữ và lưu kho.
Thương mại điện tử giúp doanh nghiệp giảm chi phí văn phòng. Các văn
phòng không giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm ,
chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần . Trong đó khâu in ấn gần như được bỏ hẳn.
Điều quan trọng hơn là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều
công đoạn sự vụ. Giúp họ có thể tâp trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đưa đến
lợi ích lâu dài cho kinh doanh nếu nhìn từ góc độ chiến lược.
1.3.4. Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị
Với các doanh nghiệp sản xuất họ phải tối ưu hóa các yếu tố đầu vào giảm
thiểu các chi phí để cạnh tranh. Bán hàng và tiếp thị là khâu quan trọng quyết
định sự sống còn của doanh nghiệp trên thương trường. Với việc hình thành cửa

hàng ảo trên mạng thìn doang nghiệp không cần xây dựng thêm mạng lưới bán
hàng và giảm được chi phí bán hàng. Bên cạnh đó trước đây tiếp thị là phải lên
mặt báo, ti vi, mở những chương trình lớn thì nay với thưong mại điện tử với
cách sử dụng tốt điện tử vào thương mại sẽ giảm được chi phí tiếp thị. Với tiếp
thị thì làm sao cho nhiều người biết đến hàng của mình càng nhiều càng tốt, một
số lượng người dùng mạng đông đảo như hiện nay sẽ giup nhiều cho tiêp thị.
- Số tiền lập website và duy trì hoạt động của nó là không đáng kể so với
lợi ích mà nó mang lại. Nhưng cần phải có những ý tưởng hay để làm mới và
thu hút khách hàng. Lượng nhân công tham gia vào các quá trình bán hàng và
tiếp thị sẽ được giảm một cách đáng kể. Như thế sẽ giúp doanh nghiệp giam
được chi pphí bán hàng và tiếp thị bên cạnh đó sẽ có thêm tiền để đầu tư vào đổi
mới công nghệ làm mới sản phẩm.
1.3.5 Giảm chi phí giao dịch
Lợi ích này TMĐT đem lại cho cả người bán và người mua

11

- Đối với người mua : thay vì đến các cửa hàng để mua bán thì giờ đây họ
có thể ngồi nhà và giao dịch qua điện thoại, fax, email. Không tốn thời gian giao
dịch ,mặc cả , đi lại và các vấn đề liên quan. Không phải giao dịch qua người
thứ ba nên mọi thắc mắc được giải đáp một cách nhanh chóng và thỏa đáng
hơn.Trong thời gian diễn ra giao dịch họ có thể kiếm ra được nhiều tiền và thời
gian không bị lãng phí. Một mặt hàng mà thương mại điện tử là nhân tố quan
trọng không thể thiếu đó chính là chưng khoán.Nhờ hệ thống điện tử mà các sàn
có thể hoat động tốt.
- Đối với người bán : cũng không phải tốn đến các chi phí liên quan đến
giao dịch, không cần tiền thuê nhân viên bán hàng và nhân viên phục vụ khách
hàng trực tiếp. Một người có thể làm cùng một lúc được nhiều công việc như
chuyển hàng trong nội vi thành phố và nghe điện thoại của khách hàng gọi đến.
Với những giao dịch lớn sẽ đỡ tốn chi phín đi lại, chi phí ăn ở để tìm hiểu thị sát

tình hình. Hiện nay trên thế giới đã có những cuộc giao dịch và đàm phán dẫn
tới viếc kí kết những hợp đồng lớn mà các đối tác không trực tiếp gặp măt nhau.
Họ dùng các phương tiện điện tử hiện đại để giao dịch làm ăn với nhau. CÓ
nhiều hợp đồng lớn cũng đã được kí thông qua nhưng x cuộc giao dịch như vậy.
Với thưong mại thông thường rất khó để giảm chi phí giao dịch còn với thương
mại điện tử thì đã khác. Chính việc rút ngắn khoảng cách giữa biên giới quốc gia
đã giáp cho thương mại điện tử giảm được chi phí giao dịch. Mặc dù vậy, truyền
thống của VIỆT NAM vẫn chưa quen giao dịch qua mạng
1.3.6. Tạo điều kiện sớm tiếp cận hinh tế số
TMĐT theo nghĩa hẹp là việc sử dụng các phương tiện điện tử để mua, bán,
trao đổi hàng hóa. Như vậy, muốn có TMĐT phải có các phương tiện điện tử, cơ
sở hạ tầng công nghệ. Với sự phát triển của công nghệ thông tin như hiện nay thì
thời kỳ số hóa đang đến gần. Nền kinh tế số là nền kinh tế đang phát triển và sẽ
phát triển tới đỉnh cao. Với xu hướng chung của thế giới như thế thì Việt Nam
cũng đang dần tiến bộ. Và TMĐT đã và đang tạo điều kiện cho chúng ta sớm
tiếp cận nền kinh tế số. Nền kinh tế của một tương lai không xa.

12

1.4. CÁC BƯỚC TRONG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.4.1. Chia sẻ thông tin:
- Dùng internet để cung cấp thông tin đồng thời tìm hiểu thông tin về thị
trường: đây là bước đầu tiên trong việc chia sẻ thông tin. Dùng internet- một
công cụ , mạng lưới được sử dụng nhiều nhất và nhanh nhất trên thế giới hiện
nay để cung cấp thông tin mới nhất về sản phẩm. Có thể từ các website quảng
các, giới thiệu hoặc dùng email. Những thông tin truyền đi cần có độ chính xác
cao để tạo lòng tin của khách hàng đối với doanh nghiệp. Thông qua internet thì
doanh nghiệp , nhà sản xuất có thể cung cấp thông tin nhưng đồng thời sẽ tìm
hiểu về thị trường. Tìm hiểu về thị trường cũng có thể thông qua các trang web
của doanh nghiệp khác, qua email gửi tới khách hàng đây chính là việc tìm hiểu

về xu hướng tiêu dùng. Ví dụ: màu sắc của mùa hè năm nay là màu gì? kiểu dáng
như thế nào? Do internet có tính toàn cầu nên những thông tin không chỉ xuất
hiện ở một nơi mà ở trên toàn thế giới. Độ lan truyền của thông tin thì cực nhanh.
Với sự ra đời của youtobe và my space đã làm cho việc tự thể hiện mình và
những cách quảng cáo mới độc đáo ra đời. Doanh nghiệp nên sử dụng các phương
tiện để có thể tìm hiểu về thị trường vì chỉ khi hiểu được thị trường doanh nghiệp
mới có thể đứng vững và phát triển. Nhất là các thị trường nước ngoài nhờ
internet mà các doanh nghiệp có thể tìm hiểu dễ dàng và ít tốn kém hơn.
- Thông qua cộng đồng mạng để tuyên truyền thông tin về sản phẩm : cộng
đồng mạng là một cộng đồng ảo nhưng ảnh hưởng của nó là có thật và khá
mạnh. Doanh nghiệp có thể tạo các diễn đàn để quảng bá thông tin về sản phẩm.
Giới trẻ rất thích đồ độc nhưng cũng rất nhiều người thích theo mốt, theo xu
hướng. Cần có những hoạt động để kích thích tính ảnh hưởng của cộng đồng
mạng. Qua cộng đồng này thông tin lan truyền rất nhanh. Muốn thông qua cộng
đồng mạng thì thông tin và cách truyền đạt phải hơi dí dỏm, hài hước, vui nhộn
để thu hút giới trẻ. Ngoài thông tin từ các diễn đàn của doanh nghiệp thì giờ đây
lại có một kênh quảng cáo mới rất hiệu quả - đó chính là blog . Ví dụ: một thanh
niên ở Trung Quốc đã dùng blog để giới thiệu về thành phố Thượng Hải và

13

lượng khách du lịch đổ về đây tăng đáng kể. Nhưng để có được một blog hay
cũng rất khó. Phải đầu tư một cách kỹ càng chứ không thể làm rồi để đó. Một
bạn trẻ giờ đây có thể sở hữu một lúc nhiều blog. Ngay cả những tờ báo lớn uy
tín cũng dùng blog để thu hút sự quan tâm của độc giả. Tuyên truyền thông tin
qua kênh này giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu được chi phí quảng cáo và tiếp
cận thị trường nhanh chóng, thuận tiện.
- Thu thập dữ liệu từ các khách hàng duyệt web: khi các khách hàng tìm
hiểu thông tin về sản phẩm họ vào web của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải có
một hệ thống các câu hỏi để thu thập dữ liệu từ khách hàng. Như thế sẽ giúp

doanh nghiệp lấy được ý kiến của khách hàng về mẫu mã, chủng loại, dịch vụ
hậu mãi, tiện ích của sản phẩm một cách nhanh chóng và dễ dàng. Họ không
phải đi đến từng hộ gia đình để thu thập thông tin, không cần tốn chi phí đi lại
mà còn có thể củng cố được khả năng đáp ứng khách hàng một cách nhanh nhất.
Đây là một cách tìm hiểu thị trường vừa nhanh vừa tiện lợi. Doanh nghiệp có thể
cho ra đời những sản phẩm phù hợp với yêu cầu của khách hàng, ngược lại
khách hàng cũng có thể truyền tải ý kiến của mình tới nhà cung cấp. Trong việc
này cả hai bên đều có lợi, khách hàng sẽ được tiêu dùng sản phẩm phù hợp với
chất lượng và dịch vụ tốt hơn, bên cạnh đó nhà cung cấp cũng biết được những
sản phẩm mình tung ra là phù hợp chưa? Họ hiểu khách hàng muốn gì, cần gì ở
mình để có thể đáp ứng một cách đầy đủ và hiệu quả.
1.4.2. Đặt hàng
Đặt hàng là bước quan trọng nhất trong thương mại điện tử. Khi có đơn đặt
hàng và nhu cầu đặt hàng thì khi đó doanh nghiệp mới có thể bán được hàng và
bán được hàng là điều kiện cho doanh nghiệp có thể tồn tại được trên thương
trường. Các doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu đặt hàng có thể vào website của
doanh nghiệp để đặt hàng trực tiếp. Hoặc có thể dùng email, điện thoại để đặt
hàng. Qua thương mại điện tử việc đặt hàng cực kỳ dễ dàng và thuận tiện cho
người mua và người bán. Các trang web cần có hướng dẫn cụ thể để cho khách
hàng chọn được hàng dễ dàng, nhanh chómh và tiện lợi. Khi khách hàng đã thấy

14

được sản phẩm phù hợp với họ hoặc nhu cầu của một số người thì họ sẽ tiến
hành đặt hàng. Việc đặt hàng qua mạng bây giờ tương đối dễ dàng và thuận tiện
cho mọi người.
1.4.3. Thanh toán
Cá nhân , doanh nghiệp muốn mua được hàng thì cần phải trả tiền cho
người cung cấp. Việc thanh toán thuận tiện hay không tùy thuộc trình độ phát
triển cơ sở hạ tầng và pháp lý của đất nước đó. Thanh toán thường có nhiều

phương thức nhưng đi cùng với thương mại điện tử thì phải có thanh toán điện
tử. Thanh toán điện tử là cách thanh toán nhanh chóng và hiệu quả. Cách thanh
toán thông thường là thanh toán qua các thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng và
thực hiện qua chuyển khoản. Việc thanh toán tùy thuộc rất nhiều vào khách
hàng. Nếu mua dễ mà thanh toán khó sẽ gây cho khách hàng cảm giác khó chịu
và dễ bỏ qua sản phẩm của doanh nghiệp.
Một cách thanh toán nữa là thanh toán theo kiểu truyền thống. Tức là mua
hàng qua thương mại điện tử nhưng phải đến bưu điện để chuyển tiền cho người
bán . Việc này chỉ được người mua cân nhắc khi loại sản phẩm hiếm, độc đáo và
ở nơi đó không có.Việc chuyển tiền qua bưu điện gây mất thời gian và không
đúng với tốc độ và tiện ích của thương mại điện tử.
Thanh toán là bước rất quan trọng với doanh nghiệp, khi được thanh toán
doanh nghiệp mới có thể quay vòng được vốn. Như vậy, chúng ta cần hoàn thiện
phương thức thanh toán để giúp cho thương mại điện tử hoàn thiện hơn và được
nhiều người sử dụng hơn.
1.4.4. Đáp ứng khách hàng
Việc đáp ứng khách hàng là việc của doanh nghiệp. Thông qua các đơn đặt
hàng qua website, email, điện thoại doanh nghiệp tiến hành quá trình đáp ứng
khách hàng. Dù là thương mại điện tử nhưng cách đáp ứng thì vẫn là cách đáp
ứng thông thường. Khi nhận được yêu cầu người bán sẽ cử người đi giao hàng
tận nhà cho khách hàng. Với việc giao hàng ra nước ngoài, theo thỏa thuận giữa
người mua và người bán giá cả sẽ được thống nhất và vận chuyển đến nơi được

15

yêu cầu. Khi đáp ứng được khách hàng về mặt sản phẩm doanh nghiệp phải tiếp
tục giải đáp thắc mắc cho khách hàng. Các kế hoạch về cung ứng, giao nhận
phải được hoàn tất và đáp ứng cho khách hàng một cách hoàn hảo. Các dịch vụ
sau bán và bảo hành để khách hàng tiếp tục tìm đến doanh nghiệp. Với việc đáp
ứng khách hàng ở ta là chưa thực sự tốt. Vận chuyển hàng hóa chậm và phí vận

chuyển đắt đỏ là một trở ngại lớn cho thương mại điện tử phát triển.
Đáp ứng khách hàng là bước cuối cùng trong thương mại điện tử nhưng nó
lại quyết định khách hàng có sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp nữa hay
không. Việc đáp ứng bao gồm tất cả các chi tiết liên quan đến sản phẩm. Việc
mua bán, trao đổi, giao chuyển diễn ra nhanh chóng hay không là nhờ việc đáp
ứng khách hàng tốt hay không. Lôi kéo được khách hàng, làm cho khách hàng
biết được doanh nghiệp mình đã khó, việc giữ khách hàng còn khó hơn. Đáp
ứng không chỉ có nhận yêu cầu rồi làm theo yêu cầu đó mà phải làm cho việc
thực hiện yêu cầu thuận tiện hơn.
1.5. KHÁI QUÁT VỀ SỰ PHÁT TRIÊN TMĐT Ở VIỆT NAM
Vào năm 1997 Internet bắt đầu có mặt tại Việt Nam trong khi đó trên thế
giới TMĐT đã phát triển tới đỉnh điểm. Mặc dù vậy, TMĐT chỉ mới thực sự
xuất hiện và đi vào cuộc sống từ năm 2000.
Với sự xuất hiện của vài trang web ban đầu thì giờ đã có đến hơn 90%
doanh nghiệp có website.Tháng 11 năm 1997 Việt Nam chính thức nối mạng
Internet. Tới đầu năm 1999 mới có khoảng 17000 thuê bao, tuy nhiên lĩnh vực
này đang phát triển nhanh dần, số thuê bao Internet tăng với tốc độ là 600-700
thuê bao/tháng. Hiện nay đã có hàng triệu thuê bao trên khắp cả nước.
Khoảng cuối năm 2006 , nhiều cơ hội mở ra cho đất nước ta với nhiều khả
năng lớn, thu hút được nhiều vốn đầu tư hơn. Năm 2006 Intel đã đầu tư 1 tỷ usd
để xây dựng dây chuyền sản xuất máy tính tại thành phố Hồ chí minh cho thấy
tiêm năng về công nghệ thông tin của Việt Nam là không nhỏ. Ebay- mạng bán
lẻ nhiều nhất và rộng nhất thế giới hiện nay cũng đã mở một web tiếng việt.
Trong khi doanh nghiệp nước ngoài đổ xô vào Việt nam ,chiếm lĩnh gần hết các

16

phân đoạn thị trường thì các doanh nghiệp chúng ta vẫn đang đứng yên, chưa có
các động thái tích cực để khai thác tiềm năng sẵn có của mình. Nhìn chung thì
TMĐT vẫn còn khá mới mẻ đối với thị trường việt nam. Với sự phát triển của

công nghệ thông tin như hiện nay thì TMĐT cũng phải theo kịp để không bỏ phí
tiềm năng. Cơ hội của thời kì hội nhập là rất nhiều nhưng nếu chúng ta phải đối
mặt với nhiều thách thức.

17

CHƯƠNG II
ỨNG DỤNG TMĐT TRONG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ

2.1. THỰC TRẠNG
2.1.1. Thị trường hàng thủ công mỹ nghệ
 Thành tựu:
Những năm trở lại đây, hàng thủ công mỹ nghệ đựơc liệt vào danh sách 10
mặt hàng có mức tăng trưởng cao nhất. Năm 1998 hàng TCMN Việt Nam mới
chỉ có mặt ở 50 nước thì nay đã có mặt ở hơn 100 nước và vùng lãnh thổ. Kim
ngạch xuất khẩu năm 1991 là 6,8 triêu USD, năm 2000 là 235 triệu USD, năm
2004 là 450 triệu USD. Những tháng đầu năm 2007 là:
Giá trị trực thu từ mặt hàng này rất cao vì đa số hàng TCMN của nước ta
không phải nhập khẩu các nguyên liệu từ nước ngoài, sản xuất bởi chính các
nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước. Nguyên phụ liệu nhập ước tính chỉ khấu
hao từ 3-5% giá trị xuất khẩu. Vì vậy giá trị thường đạt từ 95-97%. Tại hầu hết
các thị trường lớn trên thế giới hàng TCMN của Việt Nam đã có chỗ đứng khá
vững.
Các sản phẩm truyền thống đang ngày càng mở rộng , một số lượng lớn
người tiêu dùng , khách hàng ở Bắc Mỹ , Châu Âu , Nhật Bản và một số nước
châu Phi đang hướng đến những sản phẩm mang tính dan tộc, tính nghệ thuật cổ
truyền dân gian, những sản phẩm thủ công truyền thống mang bản sắc quốc gia.
- Các thị trường xuất khẩu hàng TCMN chính của Việt Nam
+ Pháp là thị trường truyền thống và lớn nhất của Việt Nam, các hàng

TCMN mà Pháp quan tâm và thường nhập khẩu là hàng gốm sứ và đồ trang sức.
Là nước quan tâm rất nhiều đến thời trang , ngành thời trang ở đây rất phát triển
và họ có những cảm nhận rất tinh tế về thời trang. Đồ trang sức và gốm sứ của
Việt Nam là hai mặt hàng được ưa thích vì hàng Việt Nam khá đơn giản nhưng
lại tạo được cảm giác thích thú và hấp dẫn. Gốm Việt Nam không chỉ có gốm

18

Bát Tràng mà cả gốm Phù Lãng và Hương Canh là những làng gốm lâu
đời.Gốm có nước gốm màu đẹp, sáng bóng và có tiếng. Họa tiết đơn giãn nhưng
gần gũi với cuộc sống đời thường, chất lượng lại rất đảm bảo. Pháp vẫn là thi
trường trọng điểm để phát triển thị trường của hàng TCMN Việt Nam.
+ Nhật là một thị trường ổn định đối với các mặt hàng TCMN của Việt
Nam như: đồ gỗ mỹ nghệ, mây tre đan, gốm sứ, thảm các loại. Xuất khẩu sang
thị trường Nhật Bản năm 2006 là 5,1 tỷ USD. Hàng năm Việt Nam xuất sang
Nhật Bản khoảng 7 triệu USD thảm các loại, 16 triệu USD từ lụa tơ tằm và
khoảng 9 triệu USD đồ gốm sứ.
+ Hoa Kỳ là một thị trường có nhu cầu lớn về hàng TCMN Việt Nam,
chiếm khoảng 20-25% kim ngạch xuất khẩu hang TCMN của nước ta. Là thị
trường trọng điểm và luôn luôn biến chuyển, các mặt hàng được yêu thích là
mây tre đan, lụa tơ tằm, đồ gốm mang tính chất thời trang.
+ Thị trường EU có nhu cầu lớn về các sản phẩm gỗ ( gồm cả gỗ dân dụng
và gỗ mỹ nghệ), mây tre đan, gốm sứ mỹ nghệ. Là thị trường có đòi hỏi cao về
tính thời trang của sản phẩm nên những sản phẩm làm bằng tay như mây tre đan,
gốm sứ, hàng thêu tay rất được ưa chuộng vì chi tiết rất đẹp và độc đáo.
+ Các thị trường châu Phi như Nam Phi là những thi trường tiềm năng vì
hiện nay nước ta đang tăng cường hợp tác về kinh tế, thương mại với những
nước này. Đồ gỗ nội thất là những mặt hàng được nước này quan tâm nhiều
nhất.
Những ưu thế của hàng thủ công mỹ nghệ Viêt Nam

- Số lượng những làng nghề khổng lồ ở nước ta.
Hầu như vùng nào cũng có vài ba vùng sản xuất đồ thủ công với truyền
thống từ lâu đời. Từ làng gốm Bát Tràng, Hương Canh, Phù Lãng đến làng tranh
Đông Hồ, làng lụa Hà Đông, nón làng Chuông, làng dệt chiếu ở Thanh Hóa. Các
mặt hàng từ dùng trong một gia đình thuần nông bình dân đến sử dụng trong
cung vua phủ chúa đều do các làng thủ công sản xuất lớn. Khối lượng làng nghề
lớn và mỗi nơi lại có một món hàng riêng biệt nên chúng ta không chỉ có thể

19

phát triển một loại hàng hóa mà là rất nhiều loại hàng hóa từ đồ gỗ mỹ nghệ,
mây tre đan, gốm sứ, lụa tơ tằm, hàng trang sức, đồ lưu niệm, đồ gốm. Kinh
nghiệm sản xuất đã cho ra những sản phẩm độc đáo, bắt mắt và cuốn hút. Từ
những chiếc rổ, rá bình thường được sử dụng hàng ngày trong sinh hoạt đời
thường đã được biến tấu, sáng tạo trở thành những vật sinh động làm vật trang
trí. Sự chạm trổ tỉ mỉ đã biến những khúc gỗ vô tri thành những con vật hay đơn
giãn chỉ là một bông hồng.
- Lượng nhân công dồi dào, những con người Việt Nam cần cù, chăm chỉ
và đầy tính sáng tạo
Trong một làng nghề truyền thống thì hầu như gia đình nào cũng tham gia
sản xuất, họ sản xuất vào những ngày nông nhàn. Yếu tố con người là yếu tố
then chốt quyết định thành công của mọi việc. Người Việt ta mang trong mình
truyền thống cần cù, chăm chỉ. Họ đã cho ra không biết bao nhiêu sản phẩm từ
bàn tay khéo léo. Đầu óc tinh tế, hài hước đã để lại dấu ấn trong những bức
tranh Đông Hồ như đám cưới chuột, cảnh Việt Nam hiện lên đầy lãng mạn và
đầy chất thơ trong trong những bức tranh thêu tay. Hay ai đến Huế mà không
mua một chiếc nón bài thơ để làm quà, người ta mua không phải để đội mà để kỉ
niệm, để nhớ về một cố đô như thế. Không phải là nhân tố gì khác ngoài con
người đã thổi hồn vào những vật vô tri biến thành những biểu tượng của từng
vùng, từng nơi du khách đặt chân đến. Tính sáng tạo trong lao động của những

người gắn bó với nghề là không thể phủ nhận được. 80% dân số nước ta tập
trung ở nông thôn nên nguồn lao động cho các ngành thủ công là rất dồi dào.
Chỉ có điều chúng ta phải nâng cao chất lượng trình độ người lao động để tạo ra
được đội ngũ lành nghề, yêu nghề và tích cực sáng tạo. Vì chỉ có sáng tạo mới
làm cho hàng TCMN Việt Nam vươn cao hơn , vươn xa hơn trên trường quốc tế.
- Sự quan tâm và hỗ trợ của nhà nước ta
Hàng năm nhà nước đã bỏ ra hàng trăm tỉ đồng để trợ cấp cho nông nghiệp,
bên cạnh đó hỗ trợ cho thủ công mỹ nghệ là một mặt rất quan trọng. Nước ta đã
tham gia vào rất nhiều triển lãm, hội chợ lớn trên thế giới nhằm quảng bá hàng

20

TCMN Việt Nam. Tìm kiếm thị trường xuất khẩu cho hàng thủ công mỹ nghệ
Việt Nam là một nỗ lực không nhỏ của chính phủ. Định hướng và hoạch định
chiến lược cho ngành hàng TCMN, để hàng TCMN có được hướng phát triển
đúng đắn và phù hợp với tổng thể nền kinh tế, đưa đến cân bằng cơ cấu ngành
và lĩnh vực. Với sự hỗ trợ về mặt kỹ thuật và cơ sở hạ tầng đã giúp cho các
doanh nghiệp không bị yếu thế khi cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong thời
buổi hội nhập, các trợ cấp trực tiếp từ chính phủ bị cắt giảm rất nhiều gây ra mất
cạnh tranh về giá của hàng TCMN trên thị trường nhưng lại có những hỗ trợ về
kỹ thuật, định hướng chiến lượcgiúp doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất đứng
vững . Nhờ sự quan tâm chu đáo của nhà nước mà các cơ sở sản xuất có thể yên
tâm và chú trọng vào sáng tạo và sản xuất hơn.
Mặc dù tiềm năng và lợi thế xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam là rất
lớn nhưng tính bền vững của các thị trường lại chưa cao do những nguyên nhân
sau:
Hạn chế trong phát triển thị trường hàng TCMN của Việt Nam
- Sự nhỏ lẻ, manh mún, thiếu tập trung giữa các cơ sở sản xuất của những
ngành hàng. Do quy mô sản xuất nhỏ nên các doanh nghiệp sản xuất hàng
TCMN của Việt Nam khó đáp ứng được những đơn đặt hàng lớn từ nước ngoài.

Mỗi làng quê là một làng nghề, không có sự tập trung trong cùng một xã hay
cùng một huyện. Về cơ bản, hàng TCMN của ta đẹp nhưng đáng tiếc khi được
đặt hàng với một số lượng lớn và yêu cầu về mẫu mã thì chúng ta không thể đáp
ứng được. Như thế làm cho bạn hàng tìm đén các đối tác khác mạnh hơn về quy
mô, vốn, công nghệ. Đồng thời chúng ta cũng chưa tạo được sự tin cậy của bạn
hàng trong những đơn đặt hàng như về thời gian giao hàng, chất lượng sản phẩm
không đồng bộ. Điều đó đã đưa chúng ta vào thế bất lợi trong cạnh tranh nhất là
cạnh tranh với hàng của Trung Quốc.Vì vậy chúng ta cần phải có quy hoạch cụ
thể phát triển hàng TCMN cho từng ngành, từng vùng. Tập trung vào chuyên
môn hóa sản xuất để tạo ra lợi thế về quy mô. Bên cạnh đó phải đầu tư về công
nghệ, cải tiến kỹ thuật để giảm bớt hàm lượng lao động trong sản phẩm. Sự nhỏ

21

lẻ, manh mún và thiếu tập trung là vấn đề chung của tất cả các loại hàng TCMN
ví dụ như gốm, không chỉ gốm Bát Tràng mà còn có gốm Phù Lãng, Hương
Canh.
- Giá cả khá cao so với khu vực. Xét về các lợi thế thì các nước như :
Malaisya, Philippin có khả năng rấy cao trong cạnh tranh về mẫu mã , chất
lượng và dịch vụ. Về giá thì Trung Quốc đưa ra mức giá cạnh tranh nhất, theo
sau là Việt Nam nhưng chúng ta khó cạnh tranh về giá được với trung Quốc.
Chúng ta có nguồn nhân công rẻ nhưng giá sản phẩm vẫn cao hơn đối thủ cạnh
tranh của mình. Đó là do các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN hầu hết là
nghề truyền thống, quy mô nhỏ nên ít quan tâm tới công tác tổ chức lao động từ
đó không tiết kiệm được chi phí.Việc phân công lao động hợp lý sẽ đỡ tốn thời
gian cho lao động hơn, một công việc, một sản phẩm có thể được hoàn thành
trong một thời gian ít hơn rất nhiều vì thế sẽ tăng năng suất lao động và giảm
thiểu được nhiều chi phí. Hàng TCMN được sản xuất chủ yếu là từ làng nghề
truyền thống nên không thể sản xuất đại trà một khối lượng lớn vì không đủ khả
năng, họ chỉ quen sản xuất ít một phục vụ tiêu dùng của nhân dân quanh

vùng.Lượng sản phẩm sản xuấanra ít ỏi nên tất cả các khoản chi phí tính trên sản
phẩm sẽ cao và các chi phí vận chuyển, chi phí thủ tục nên các sản phẩm phải
chia nhau gánh vác giá thành.
- Mẫu mã đơn giãn, thiếu sự tinh tế và không có sự thay đổi. Cái yếu của
chúng ta là chỉ chú tâm xuất khẩu , xuất khẩu được càng nhiều càng tốt, từng lô
hàng liên tiếp giống nhau được xuất đi gây ra sự nhàm chán cho người tiêu
dùng. Thị hiếu của người tiêu dùng thường xuyên thay đổi mà chúng ta cứ khư
khư theo một kiểu dáng cũ . Mẫu mã đơn giãn và ít thay đổi bên cạnh đó các
doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN không đầu tư cho thiết kế kiểu dáng. Hình
ảnh qua hàng chục năm mà vẫn không có sự thay đổi gì cả. Hơn thế nữa chúng
ta cứ sao chép rập khuôn kiểu dáng giữa các doanh nghiệp với nhau hoặc với
hàng Trung Quốc như thế sẽ gặp rất nhiều rắc rối về mặt pháp lý và sở hữu trí
tuệ. Nếu mà sản xuất theo mẫu mã của đối tác thì ta sẽ thụ động, ỷ lại và trông

22

chờ các mẫu mã từ đối tác . Điều này chỉ mang lại những bất lợi cho các doanh
nghiệp sản xuất của Việt Nam, mang lại giá trị gia tăng rất nhỏ nhoi. Đồng thời
chúng ta mất dần khả năng sáng tạo trong sáng tác và dễ bị phụ thuộc vào đối
tác.
Đầu tư vào thiết kế sẽ thu hút được khách hàng hơn, phải quan tâm đến
những giá trị lâu dài chứ không nên làm theo những cái lợi trước mắt . Khách
hàng sẽ sẵn sàng trả giá cao nếu hàng hóa thỏa mãn được nhu cầu của họ và
miễn là họ cảm thấy thích. Khi nghiên cứu nắm bắt được nhu cầu của khách
hàng và xu hướng tiêu dùng để tập trung vào thiết kế tạo ra được sản phẩm độc
đáo, tính thẩm mỹ cao. Nhờ thế sản phẩm của chúng ta mới có hy vọng có chỗ
đứng lâu dài trên các thị trường trong cũng như ngoài nước, thêm nữa giá cả sẽ
được đẩy lên cao hơn, giúp cho người sản xuất sẽ bớt khổ hơn.
- Một trong những nhân tố quan trọng nhất làm giảm khả năng cạnh tranh
của TCMN là các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư quá ít cho nghiên cứu thị

trường nhất là thị trường giành riêng cho cho tạo mẫu và thiết kế. Sự chưa hiểu
biết về các thị trường cũng như cách thức để giới thiệu sản phẩm ở mỗi thị
trường chưa có sự tương thích. Mỗi con người là một cá thể tồn tại độc lập, có
cá tính và sở thích khác nhau trong khi chúng ta lại quy vào một, chúng ta có
thói quen sản xuất và xuất khẩu một mặt hàng cho tất cả các thị trường hiện có.
Trong khi người phương tây rất chuộng nhưngc sản phẩm mới mang tính thời
trang, tính xu hướng trong khi chúng ta lại sản xuất và xuất đi những thứ mình
sẵn có chứ không phải thứ thị trường cần. Làm như thế, dần dần chúng ta sẽ mất
đi cả những thị trường trọng điểm và khó có khả năng mở rộng thị trường hơn
nữa. Nhật Bản thích phong cách chế tác gỗ của Việt Nam với những đường nét
đơn giãn pha giữa cổ điển và hiện đại, bên cạnh đó mây tre đan và gốm sứ cũng
rất được ưa thích nhưng do ít thay đổi về mẫu mã nên sức hấp dẫn của hàng
TCMN Việt Nam vào Nhật bị giảm đi nhiều.Thị trường Mỹ có một số đặc điểm
nổi bật là yếu tố thời trang thay đổi rất nhanh. Để có thể thích ứng được chúng ta
phải liên tục đổi mẫu mã mới hàng TCMN. Các thị trường châu Phi và Tây Nam

×