Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: “Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán – AASC” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.8 KB, 103 trang )









Báo cáo tốt nghiệp



“Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần
hoá tại công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán – AASC”


Mục lục
Lời mở đầu………………………………………………………………… 1
Chương 1: Cơ sở lý luận của xác định giá trị doanh
nghiệp………………………………………………………………… 6
I. Cơ sở lý luận về xác định giá trị doanh nghiệp 6
1.1. Giá trị, giá trị hàng hoá và giá trị doanh nghiệp 6
1.1.1. Quan điểm của Các-Mác về giá trị, giá trị hàng hoá 6
1.1.2. Giá trị thời gian của tiền, chi phí cơ hội, chi phí sử dụng vốn vay 8
1.1.3. Doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, giá trị thực tế của doanh nghiệp 8
1.2. Tính cần thiết phải xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá. 11
1.2.1. Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước là xu hướng tất yếu
khách quan khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường. 12
1.2.2. Cổ phần hoá là giải pháp cơ bản để tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước
trong giai đoạn hiện nay ở nước ta 14


II. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp 15
2.1. Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh 15
2.1.1. Môi trường kinh doanh tổng quát 15
2.1.2. Môi trường đặc thù 18
2.2. Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp 20
2.2.1. Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp………………………… 20
2.2.2. Vị trí kinh doanh 21
2.2.3. Uy tín kinh doanh………………………………………………… 21
2.2.4. Trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động 22
2.2.5. Năng lực quản trị kinh doanh 23
III. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp 24
3.1. Xác định giá trị doanh nghiệp là gì? 24
3.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp 24

3.2.1. Phương pháp giá trị tài sản thuần 24
3.2.2. Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính trong tương lai 27
3.2.3. Phương pháp định lượng Goodwill (lợi thế thương mại) 28
3.2.4. Phương pháp định giá dựa vào PER (Price Earning Ratio) 29
IV. Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp trong công tác kiểm toán 30
4.1. Vai trò của kiểm toán trong xác định giá trị doanh nghiệp 30
4.2. Các phương pháp kiểm toán được sử dụng trong xác định giá trị doanh nghiệp
31
4.2.1. Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ 32
4.2.2. Phương pháp kiểm toán chứng từ 35
4.3. Hệ thống mục tiêu của kiểm toán BCTC để cổ phần hoá và mục tiêu xác định
giá trị doanh nghiệp 38
4.4. Lập kế hoạch tổng quát 39
4.4.1. Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán. 39
4.4.2. Thu thập thông tin cơ sở. 40
4.4.3. Thu thập thông tin nghĩa vụ pháp lý của khách hàng. 41

4.4.4. Thực hiện các thủ tục phân tích 42
4.4.5. Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát 42
4.5. Thiết kế chương trình kiểm toán 42
4.6. Thực hiện kiểm toán, xác định giá trị DN và báo cáo xác định giá trị DN. 43
V. Tóm tắt quá trình phát triển của công tác xác định giá trị doanh
nghiệp ở Việt Nam 44
5.1.Từ năm 1992 đến năm 6/5/1996 44
5.2.Từ 7/5/1996 đến 28/06/1998 45
5.3.Từ 29/06/1998 đến 08/09/2002 48
5.4.Từ 09/09/2002 đến nay 49
5.4.1. Các căn cứ thực tế để xác định giá trị doanh nghiệp 49
5.4.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp ở Việt nam 50
5.4.3. Thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp 51

5.4.4. Các tài sản không nằm trong giá trị thực tế của doanh nghiệp 51
5.4.5. Đối tượng áp dụng để xác định giá trị doanh nghiệp 51
5.4.6. Căn cứ xác định chất lượng tài sản 52
Chương II: Thực trạng xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để Cổ phần hoá ở
AASC……………………………… 52
I. Đặc điểm của công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán với công tác
xác định GTDN. 52
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của AASC…………………………… 52
1.2. Cơ cấu tổ chức của công ty. 55
1.3. Quy trình kiểm toán để xác định giá trị doanh nghiệp do AASC thực hiện. 58
II. Thực tế xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại
AASC……………………………………………………… …… ………… 60
2.1. Phương pháp định giá 61
2.1.1. Nguyên tắc định giá 61
2.1.2. Phương pháp tính 61
2.2. Thực hiện kiểm toán xác định gía trị doanh nghiệp 62

2.3. Báo cáo xác định giá trị doanh nghiệp 81
Chương III: Phương hướng giải quyết và giải pháp hoàn thiện đổi mới công tác
xác định giá trị DNNN để Cổ phần hoá tại
AASC………………………………………………………………84
3.1. Tính tất yếu phải hoàn thiện công tác xác định giá trị doanh nghiệp ở AASC 84
3.2. Định hướng hoàn thiện 86
3.3. Thực trạng công tác xác định giá trị doanh nghiệp 87
3.3.1. Đối với AASC 87
3.3.2. Đối với các chế độ hiện hành 90
3.4. Những kiến nghị để thực hiện 92
Danh mục các tài liệu tham khảo………………………………96
Lời mở đầu


ở nước ta, ngay từ những năm 1986, khi Nhà nước thực hiên chuyển cơ chế
quản lý Nhà nước, nền kinh tế thị trường bắt đầu bung ra phát triển dần dần và mạnh
mẽ. Là một trong các yếu tố quan trong của thị trường, cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp ngày càng trở nên mạnh mẽ. Lúc này, doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ rõ
những điểm yếu của mình là bị động, không tự chủ về tài chính và hoạt động kinh
doanh, hoạt động không hiệu quả do được Nhà nước tài trợ và được bù lỗ khi bị lỗ, bộ
máy thì cồng kềnh trong khi việc làm không có… Nhận ra những điểm yếu trên và các
ưu điểm khác, Nhà nước đã đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nứơc nhằm
nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp
nhiều chủ sở hữu, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, huy
động vốn của toàn xã hội và phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động.
Nghị Quyết Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp Hành TW Đảng khoá IX đã chỉ rõ:
‘…cần thiết phải bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách về cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, trong đó cần sửa đổi phương pháp xác địnhgiá trị doanh nghiệp
theo hướng gắn với thị trường, nghiên cứu đưa ra giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị
doanh nghiệp ”.

Nhà nước ta đã không ngừng cải thiện, đổi mới công tác xác định GTDN. Điều
đó đựơc thể hiện qua các văn bản Thông tư số 36/TC-CN, Quyết định 202/CT ngày
8/5/1992, Thông tư 50/TC/TCDN ngày 30/8/1996, Nghị định 28/CP ngày 7/5/1996,
Thông tư số 104/1998/TT-BTC ngày 29/6/1998, Nghị định số 44/1998/NĐ-CP, Nghị
định 64/2002/NĐ-CP, Thông tư số 76/2002/TT-BTC, 79/2002/TT-BTC về việc chuyển
doanh nghiệp nhà nứơc thành công ty cổ phần.
Và do đó, chừng nào còn doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá thì công tác xác
định GTDN luôn là một vấn đề nóng hổi và quan trọng. Do đó, em quyết định chọn đề
tài: “Kiểm toán xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá tại công ty
Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán – AASC”.
Xác định GTDN là một vấn đề phức tạp từ khi Nhà nước ta thực hiện CFH đến
nay. Từ lý luận đến thực tiễn là một vấn đề lớn. Các văn bản hướng dẫn của Nhà nước

không lường hết được các vấn đề nảy sinh, dẫn đến GTDN được xác định có sự chênh
lệch khá lớn giữa các phương pháp khác nhau và các tổ chức định giá khác nhau.
ở đây, cũng như tên đề tài đã nêu, tác giả đề cập đến vấn đề xác định GTDN có
liên quan đến công tác kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập. Như vậy, kiểm
toán xác định GTDN nhà nước để cổ phần hoá bao gồm hai phần là:
- Kiểm toán từng khoản mục trên BCTC.
- Định giá tài sản.














Chương 1: Cơ sở lý luận của xác định giá trị
Doanh nghiệp


I. Cơ sở lý luận về xác định giá trị doanh nghiệp
1.1. Giá trị, giá trị hàng hoá và giá trị doanh nghiệp
1.1.1. Quan điểm của Các-Mác về giá trị, giá trị hàng hoá
Theo Các - Mác, hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng, giá trị
được xác định ở mặt chất và mặt lượng:

- Mặt chất của giá trị là hao phí lao động của con người
- Mặt lượng của giá trị được đo bằng thời gian hao phí lao động. Khi trao đổi trên
thị trường, lượng của giá trị được đo bằng thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết
để sản xuất ra hàng hoá. Sự cạnh tranh trong nội bộ ngành hình thành nên giá trị thị
trường, cạnh tranh giữa các ngành sẽ hình thành nên giá cả sản xuất. Khi tiền tệ ra đời
thì giá trị của hàng hoá được phản ánh thông qua giá cả. Do sự tác động của cung cầu
mà giá cả tách rời giá trị nhưng yếu tố quyết định giá cả vẫn là giá trị.
- Giá trị sử dụng là khái niệm dùng để chỉ những công dụng, lợi ích mà hàng hoá
có thể mang lại cho con người khi tiêu dùng nó. Mỗi loại hàng hoá đều có những công
dụng riêng biệt, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào giá cả.
Trên thực tế, do quy luật cung cầu của nền kinh tế thị trường, giá trị của hàng hoá
được đánh giá không chỉ bằng các chi phí thời gian lao động xã hội cần thiết mà còn
bởi giá trị sử dụng dưới quy luật cạnh tranh. Có các khái niệm giá trị hàng hoá sau:
- Giá trị nhượng bán: là giá cả của hàng hoá được hình thành trong điều kiện bình
thường chịu tác động của quy luật cung cầu. Nó tương ứng với khái niệm giá cả của
Mác. Giá trị nhượng bán còn được gọi là giá thị trường.
- Giá trị đổi mới: là khái niệm dùng để chỉ các khoản chi tiêu cần thiết để thay thế

mới một tài sản.
- Giá trị mua vào: giá ghi trên sổ kế toán, đây chính là giá gốc, thường không tính
đến yếu tố thị trường làm thay đổi giá cả
- Giá trị thanh lý: là mức giá chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tài chính. Đây thường là
hậu quả đối với các DN bắt buộc phải thanh lý. Tài sản của DN trong những trường hợp như
vậy có nguy cơ bị bán phá giá, tức không theo giá thị trường.
- Giá trị hoạt động: khi bán một DN đang hoạt động, mức giá thu được thường có
mức chênh lệch so với giá trị thanh lý. Khoản chênh lệch giữa hai giá trị đó gọi là giá
trị hoạt động, nó tượng trưng cho giá trị về mặt tổ chức.
- Giá trị theo công dụng: là mức giá chỉ ra các khoản chi tiêu cần thiết để có được
một tài sản tương đương tức có cùng chất lượng, quy cách.

Tóm lại mặc dù có nhiều khái niệm giá trị được đưa ra, nhưng tiêu chuẩn để nhận
biết giá trị hàng hoá trong hoạt động kinh doanh có thể được chia là ba loại:
- Loại 1: Giá trị theo sổ kế toán còn gọi là giá lịch sử (historical cost) hay giá gốc
- Loại 2: Giá trị ước tính theo giá hiện hành – giá thị trường
- Loại 3: Giá trị ước tính theo công dụng của tài sản

1.1.2. Giá trị thời gian của tiền, chi phí cơ hội, chi phí sử dụng vốn vay
Trong nền kinh tế thị trường, luôn có sự biến động trong việc sản xuất hàng hoá,
có khi tại thời điểm này, khi mà nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm xuống thì số
lượng hàng hoá tiêu thụ sẽ bị giảm, các nhà sản xuất sẽ giảm quy mô sản xuất xuống,
và ngược lại, khi nhu cầu tiêu dùng tăng thì các DN lại mở rộng quy mô sản xuất. Cùng
với sự lớn lên của giá trị hàng hoá, nhà nước sẽ phải in thêm số lượng tiền để phù hợp
với sức mua hàng hoá của người tiêu dùng. Do đó, luôn luôn có sự khác biệt về giá trị
của đồng tiền giữa các giai đoạn khác nhau của nền kinh tế.
Nếu ta có một số lượng tiền trong tay, nếu ta dùng để đầu tư và giả sử không gặp
rủi ro về đầu tư, trong tương lai ta sẽ thu được một khoản thu nhập từ số tiền đầu tư đó
với lãi suất lớn hơn lãi suất trái phiếu Chính phủ ở thời điểm hiện hành vì hoạt động
đầu tư vào trái phiếu Chính phủ là hoạt động đầu tư ít rủi ro nhất. Nếu ta không dùng

để đầu tư, thì sau đó, trong tay ta vẫn có từng ấy giá trị tiền. Như vậy, khoản chênh
lệch giữa việc đầu tư và không đầu tư chứng tỏ tiền có khả năng sinh lời, và người ta
gọi đó là giá trị thời gian của tiền.
Cũng từ lý luận trên, nếu ta dùng số tiền đó cho đối tượng khác vay để hoạt động
kinh doanh thì sau một khoảng thời gian ta sẽ thu được một số tiền lãi từ việc cho vay.
Khoản tiền mà người đi vay phải trả cho người cho vay gọi là chi phí sử dụng vốn vay.
Chi phí cơ hội là chi phí lớn nhất trong các cơ hội có thể được lựa chọn đã bị bỏ qua.

1.1.3. Doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước, giá trị thực tế của doanh nghiệp
a) Doanh nghiệp

DN là một thuật ngữ trong kinh doanh dùng để chỉ các tổ chức kinh tế, cá nhân
nhằm phân biệt nó với các hình thức kinh doanh có quy mô quá nhỏ. Một tổ chức kinh
tế chỉ được coi là DN nếu nó được sự thừa nhận về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn
nào đó.
Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục tiêu hoạt
động, ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ
Xét theo mục tiêu hoạt động, người ta có thể chia DN thành 2 loại: DN công ích
và DN kinh doanh.
- DN công ích: là DN được thành lập ra nhằm mục tiêu chính trị, xã hội. Lợi
nhuận chỉ là mục tiêu thứ yếu, mục đích của nó là mục tiêu xã hội: không chỉ là đóng
góp được bao nhiêu thuế cho nhà nước mà còn được thể hiện ở chỗ giải quyết được
bao nhiêu công ăn việc làm, mang lại bao nhiêu thu nhập cho các nhà cấp vốn, tổng
giá trị mà nó đóng góp vào GDP của nền kinh tế
- DN kinh doanh: là một tổ chức kinh tế được thành lập nhằm mục tiêu tối đa hoá
lợi nhuận. Lợi nhuận của DN kinh doanh là lợi ích mà DN có thể mang lại cho nhà đầu
tư. Lợi ích kinh doanh là ở các khoản thu nhập dưới hình thức như lợi nhuận sau thuế,
lợi tức cổ phần
Theo quan điểm của Nhà nước Việt nam, công ty Cổ phần là doanh nghiệp
trong đó các cổ đông cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chia lợi nhuận, cùng

chịu rủi ro tương ứng với phần vốn góp.Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý,
hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã
hội do nhà nước giao.
DNNN là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự,
tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do DN quản
lý, có tên gọi, có con dấu riêng (theo Điều 1, luật Doanh nghiệp nhà nước,
20/04/1995).

Như vậy, ngoài những đặc điểm chung của DN, DNNN còn có những đặc điểm sau:
- DNNN là tổ chức kinh tế được thành lập để thực hiện những mục tiêu do Nhà
nước giao
- DNNN do nhà nước đầu tư vốn nên tài sản trong DN là thuộc sở hữu của nhà
nước, DN quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của chủ sở hữu là nhà nước.
- DNNN có tư cách pháp nhân vì có đủ các điều kiện của pháp nhân theo quy
định của pháp luật.
- DNNN là DN chịu trách nhiệm hữu hạn
Có 2 loại DNNN là DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích.
- DNNN hoạt động kinh doanh là DNNN hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi
nhuận.
- DNNN hoạt động công ích là DNNN hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ
công cộng, theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng an ninh…
Như vậy, DNNN là DN nắm giữ những ngành kinh tế chủ đạo có tác dụng điều hoà
nền kinh tế quốc dân.

b) Giá trị doanh nghiệp
Trước khi xem xét GTDN, ta thấy cần làm rõ một số đặc điểm của doanh nghiệp

như sau:
- DN là một đơn vị, một tổ chức kinh tế hoạt động. Thông qua sự hoạt động mà
người ta nhận ra DN. DN không phải là một tập hợp các loại tài sản. Khi mà nó chỉ
đơn giản là một sự hỗn loạn các tài sản đơn lẻ, rời rạc mà người ta có thể thanh lý, phát
mãi từng thứ riêng biệt như những hàng hoá thông thường thì nó không còn đầy đủ ý
nghĩa của một DN. Và do vậy, khái niệm GTDN là một khái niệm chỉ được dùng cho
những DN đang còn hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
- DN là một tổ chức vừa phi vật thể, vừa là vật thể. Tuy nhiên, trong nền kinh tế
thị trường, DN cũng được coi là một loại hàng hoá, nó là một loại hàng hoá đặc biệt.

Nó có thể được đem rao bán trên thị trường và bị ảnh hưởng bởi quy luật giá trị và các
quy luật khác trên thị trường.
- DN là một tổ chức, một đơn vị, một hệ thống và đồng thời cũng là một phần tử
trong hệ thống lớn – nền kinh tế. Do đó, sự tồn tại của DN ở mối quan hệ của nó với
các phần tử khác của hệ thống tức mối quan hệ với các đơn vị, thể nhân và pháp nhân
kinh tế khác. Sự tồn tại của DN không chỉ được quyết định bởi các yếu tố bên trong
DN mà còn bởi các yếu tố bên ngoài như khách hàng, người cung cấp, người cho vay,
các luật, chính sách
Doanh nghiệp có tồn tại được hay không là nhờ vào các mối quan hệ trên thị
trường. Các mối quan hệ này mang tính quyết định đến sự phát triển, tồn tại và thành
công của doanh nghiệp. Do đó, khi đánh giá về doanh nghiệp, người ta phải quan tâm
đến cả các mối quan hệ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp trên thị trường.
- Nếu nhìn nhận doanh nghiệp bằng con mắt của các nhà đầu tư thì việc mua sắm
TSCĐ và lưu động không ngoài mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tiêu chuẩn để đánh giá
hiệu quả hoạt động, lợi ích của DN đối với các nhà đầu tư là ở các khoản thu nhập từ
hoạt động SXKD. Vì mục đích của các nhà đầu tư là liệu đặt vốn kinh doanh của mình
và thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trên một đồng vốn. Vì vậy, theo các nhà
đầu tư thì giá trị của doanh nghiệp là giá trị của các khoản thu nhập mà doanh nghiệp
có thể đem lại cho nhà đầu tư từ các hoạt động kinh doanh của mình.
Tóm lại, qua việc phân tích trên ta có thể thấy tồn tại hai cách tiếp cận trong việc

xác định GTDN là:
- Trực tiếp đánh giá giá trị của các tài sản trong DN
- Đánh giá giá trị của các yếu tố, tổ chức hoặc bằng một kỹ thuật nào đó để
lượng hoá các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư.

1.2. Tính cần thiết phải xác định giá trị Doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hoá.
Trong nền kinh tế thị trường, DN đựơc coi như một loại hàng hoá, chúng có thể
được mua bán, trao đổi. Vì vậy, nhu cầu đánh giá hay xác định giá trị đối với loại tài
sản này xuất hiện là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong việc điều hành kinh tế vĩ

mô của nhà nước cũng như trong hoạt động quản trị kinh doanh của các DN luôn cần
thiết các thông tin về GTDN. Giá trị của DN là bao nhiêu, cao hay thấp luôn là mối
quan tâm của các pháp nhân và thể nhân kinh tế có lợi ích liên quan, gắn bó trực tiếp
đến các DN.

1.2.1. Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước là xu hướng tất yếu khách
quan khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường thì xu hướng CPH một bộ phận các DNNN đã diễn
ra như là một quy luật, điều này có thể được giải thích bởi 2 lý do là:
1) Các DN nhỏ nếu muốn tồn tại trên thị trường cạnh tranh gay gắt với các
DN lớn thì phải góp vốn để tạo ra DN lớn có sức cạnh tranh lớn hơn. Vì ưu thế của DN
lớn là có số lượng vốn lớn, quy mô sản xuất lớn, và có lợi thế trong việc nâng cao
năng suất lao động, hạ giá thành, đổi mới quy trình công nghệ để có sản phẩm có
chất lượng tốt, giá thành rẻ và có thể tiêu thụ tốt hơn sản phẩm cùng loại.
2) Cũng do sự cạnh tranh và rủi ro trong kinh doanh, các DN lớn tồn tại một
khoản tiền vốn nhàn rỗi, không muốn gặp nhiều rủi ro nên phải phân tán số vốn của
mình vào các DN khác bằng cách góp vốn mua cổ phần ở nhiều DN khác.
Đây là xu hướng sát nhập các DN nhỏ thành DN lớn trên thế giới.
Điều này có nghĩa là sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các DN dẫn đến quy
luật đào thải, các DN nhỏ sẽ bị chèn ép dẫn đến phá sản. Các DN nhỏ không muốn phá

sản, thì phải thu hút vốn thêm nhằm mở rộng thị trường, phát triển sản xuất. Cũng do
tính cạnh tranh khốc liệt của thị trường mà trong các DN lớn tồn tại một lượng vốn
nhàn rỗi, để giảm rủi ro trong đầu tư, DN lớn này sẽ phân tán nguồn vốn đầu tư của
mình. DNNN với sự quản lý kém, hoạt động thiếu hiệu quả cũng nằm trong xu thế
khách quan đó.
Thực tiễn nhiều thập kỷ qua cho thấy, kinh tế quốc dân kém hiệu quả hơn kinh tế
tập thể và tư nhân. Các DNNN làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ. Nguyên nhân chính là do
không thực sự có động lực để thúc đẩy làm ra nhiều lợi nhuận. Sự thua lỗ này lại được
Nhà nước bao cấp, tài trợ nhằm đảm bảo cho DNNN hoạt động tốt theo chủ trương kế

hoạch KTXH của Nhà nước. Điều này làm mất tính tự chủ của DN và tạo sự ỷ lại vào
nguồn vốn Nhà nước.
Từ các thực tế trên cho thấy, xu hướng thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường, xu hướng đa dạng hoá các loại hình sở hữu. “Sở
hữu nhà nước không đồng nghĩa với hiệu quả và mục đích của sự phát triển mà chỉ là
một công cụ quan trọng và hữu hiệu cùng với công cụ tài chính và tiền tệ để nhà nước
thực hành việc điều tiết định hướng vào nền kinh tế, khu vực kinh tế nhà nước chỉ nên
thu hẹp ở những lĩnh vực có vai trò quyết định đến sự phát triển và ổn định của nền kinh
tế như giao thông vận tải, bưu điện,…”.
Các DNNN ở Việt nam hoạt động kém hiệu quả. Nguyên nhân là do:
- Hệ thống kế hoạch hoá và tài chính cồng kềnh và cứng nhắc vì được quản lý
theo hệ thống hành chính từ trên xuống theo nhiều cấp trung gian.
- Tính tự chủ trong quản lý và kinh doanh bị hạn chế vì nhiều quy chế liên quan
đến quyền sở hữu của DN.
- Sự độc quyền của các DNNN trên thị trường đựơc pháp luật Việt nam củng cố
đã làm mất đi những động lực nâng cao hiệu qủa SXKD
- Được tài trợ bởi nguồn ngân sách nhà nước, do đó không có động lực nâng cao
hiệu quả kinh doanh để tồn tại trong cạnh tranh với các DN tư nhân vì không thể “bị
chết”.
- Hoạt động của DNNN là nhằm đảm bảo cho xí nghiệp có hoạt động dễ chịu và

ổn định, tránh né sự thẩm xét của các cơ quan cấp trên, do đó dẫn đến quan niêu, mua
sắm thừa thiết bị, cơ chế phình to
- Do phải tài trợ cho các DNNN bị lỗ, nên nhà nước bị thâm hụt ngân sách và nợ
nước ngoài nhiều.
Vì vậy, nhà nước ta đã thay đổi quan điểm về vai trò điều tiết của Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường và đã thực hiện chủ trương CPH ngay sau khi chuyển sang nền
kinh tế thị trường.
Do đó, để cải thiện DNNN cho phù hợp với cơ chế thị trường, cần thiết phải cổ
phần hoá.

Tuy nhiên, CPH không phải là đơn giản, chúng ta phải giải quyết rất nhiều vấn đề
phức tạp:
- Xác định GTDN như thế nào là chính xác
- Đất có tính vào GTDN không và tính như thế nào
- Giải quyết vấn đề lao động như thế nào khi DNNN chuyển sang công ty
cổ phần.
Và một trong những vấn đề bức xúc nhất mà nước ta không ngừng nghiên cứu và
hoàn thiện từ sau đổi mới đến nay là vấn đề xác định GTDN. Việc đưa ra các phương
án, đề án thực hiện khác xa so với thực tế, GTDN qua kiểm kê cho thấy có nhiều chênh
lệch và thường không chính xác.

1.2.2. Cổ phần hoá là giải pháp cơ bản để tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước
trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
CPH là một trong nhiều cách để tư nhân hoá tài sản của DN. Tư nhân hoá là quá
trình chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân. CPH có tác dụng:
- Đa dạng hoá quyền sở hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu.
- Thương mại hoá mọi hoạt động của DN (chứ không phải theo mệnh lệnh hành
chính, cắt bỏ sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào hoạt động DN).
- Luật pháp hoá các tổ chức quản lý (theo luật Công ty và luật khác ).
- Nâng cao hiệu quả SXKD của DN.

Xét về mặt hình thức, CPH là việc nhà nước bán một phần hay toàn bộ giá trị cổ
phần của mình trong xí nghiệp cho các đối tượng, tổ chức hoặc tư nhân trong và ngoài
nước hoặc cho cán bộ quản lý, công nhân trong xí nghiệp bằng đấu giá công khai hay
thông qua thị trường chứng khoán để hình thành các công ty TNHH hoặc công ty cổ
phần.
Xét về mặt thực chất, CPH là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, chuyển
hình thái kinh doanh một chủ sở hữu (Nhà nước) thành nhiều chủ sở hữu để tạo ra một
mô hình DN phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu kinh doanh
hiện đại.


II. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp

Như vậy, qua trên ta đã có cái nhìn tổng quan về doanh nghiệp thông qua các đặc
điểm của nó. Tuy nhiên, để xác định được giá trị doanh nghiệp, người ta phải quan tâm
đến các yếu tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp.
GTDN được đo lường bằng khoản thu nhập mà DN mang lại cho nhà đầu tư
nhưng độ lớn của thu nhập đó là bao nhiêu thì nó lại phụ thuộc rất lớn vào sự tồn tại
của doanh nghiệp với các mối quan hệ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Đó là các
yếu tố vốn liếng, tài sản, kỹ thuật, khả năng thích ứng của nó với môi trường bên ngoài,
các quan hệ hợp tác và các yếu tố khách quan khác như các chính sách kinh tế, môi
trường kinh doanh,

2.1. Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh
Trước hết phải khẳng định GTDN chỉ được đánh giá trong một môi trường kinh
doanh nhất định. Môi trường kinh doanh được chia làm hai loại là môi trường kinh
doanh tổng quát và môi trường đặc thù.

2.1.1. Môi trường kinh doanh tổng quát
Môi trường kinh doanh tổng quát bao gồm: môi trường kinh tế, môi trường chính

trị, môi trường văn hoá - xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường kỹ thuật và môi
trường dân số

- Môi trường kinh tế:
Môi trường mà DN tồn tại là một môi trường kinh tế cụ thể. DN chịu ảnh hưởng
của tốc độ phát triển kinh tế, mức độ ổn định của nền kinh tế, tốc độ lạm phát, tỷ suất
đầu tư, mức độ ổn định của đồng tiền, tỷ giá trên thị trường chứng khoán,… Các yếu tố
trên đều là những yếu tố khách quan nhưng nó lại có tác động một cách không nhỏ đến

sự hoạt động của DN. Một DN không thể hoạt động tốt trong một môi trường mà lạm
phát cao, tỷ suất đầu tư cao,…
Mỗi sự thay đổi nhỏ trong các yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá
về DN. Nền kinh tế với tốc độ phát triển cao chứng tỏ nhu cầu đầu tư tiêu dùng cao,
ngược lại, nền kinh tế với mức lạm phát cao, chứng tỏ sự bất ổn định về tỷ giá đồng
tiền là dấu hiệu chứng tỏ sự bất ổn về môi trường hoạt động của DN. Do đó, mọi sự
đánh giá về DN, trong đó có GTDN sẽ bị đảo lộn hoàn toàn.

- Môi trường chính trị:
Hoạt động SXKD chỉ có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường có sự ổn
định về chính trị ở một mức độ nhất định. Những bất ổn trong xã hội (tệ nạn xã hội,
chiến tranh,…) là những yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động SXKD của DN.
Các yếu tố của môi trường chính trị liên quan đến SXKD bao gồm
+) Tính đầy đủ, rõ ràng, chi tiết, đồng bộ của hệ thống luật pháp
+) Quan điểm của nhà nước đối với SXKD thông qua các văn bản pháp quy như
bảo vệ SXKD, bảo vệ nhà đầu tư, bảo vệ người tiêu dùng, đầu tư nước ngoài, quan
điểm phân biệt đối xử thực hiện trong luật thuế, luật cạnh tranh, luật sở hữu trí tuệ
+) Năng lực hành pháp của chính phủ và ý thức chấp hành pháp luật của các công
dân và các tổ chức sản xuất. Pháp luật đã được ban hành nhưng không trở thành hiện
thực, tệ nạn buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng nhái là biểu hiện của một môi trường
chính trị gây bất lợi cho sản xuất.

+) Xu hướng, quan điểm trong quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của chính
phủ với các quốc gia khác trong tiến trình toàn cầu hoá và quan điểm cá nhân của
những người đứng đầu Chính phủ cũng tác động to lớn đến SXKD.
Nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế có sự tham gia quản lý của Nhà nước. Do đó,
các chính sách kinh tế, các luật, các quan điểm kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến
SXKD của DN. Môi trường kinh tế và môi trường chính trị đóng vai trò như những
điều kiện thiết yếu để DN có thể hoạt động. Vì vậy, khi đánh giá DN bao giờ cũng phải
xem xét các yếu tố này.


- Môi trường Văn hoá - Xã hội
Mỗi DN tồn tại trong một môi trường văn hoá nhất định. Môi trường văn hoá bao
gồm những hệ tư tưởng của số đông cộng đồng về lối sống, đạo đức, tác phong, quan
niệm về chân, thiện, mỹ, quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội, thực hiện trong tập
quán sản xuất và tiêu dùng.
Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ
sự gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các vấn đề mới nảy sinh
như ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt
Thói quen tiêu dùng, tâm lý tiêu dùng, cơ cấu dân cư, mật độ dân số, thu nhập
bình quân đầu người,… ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và cách thức SXKD. SXKD
chỉ có thể tồn tại khi mà nó đảm bảo các yêu cầu về Văn hoá - Xã hội như đảm bảo
không bị ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt,… DN ra đời là để đáp ứng những
đòi hỏi ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng nơi DN hoạt
động. Chính vì thế đánh giá về DN không thể bỏ qua những yếu tố, những đòi hỏi bức
xúc của môi trường Văn hoá - Xã hội trong hiện mà còn phải thực hiện dự báo được sự
ảnh hưởng yếu tố này đến SXKD của DN trong tương lai.

- Môi trường kỹ thuật, công nghệ
Thời đại ngày nay là thời đại của công nghệ thông tin. Một loạt những phát minh
được ứng dụng trong thực tế gây ảnh hưởng trực tiếp, rõ rệt đến đời sống hàng ngày

của con người như hàng loạt các phát minh mới về công nghệ sinh học: sinh sản vô
tính, công nghệ máy tính,… Những phát minh này không chỉ ảnh hưởng đễn các
phương thức sản xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến nhu
cầu sản phẩm và chất lượng sản phẩm trong DN. Các sản phẩm sản xuất ra ngày càng
đa dạng và phong phú, chứa đựng một hàm lượng lớn tri thức. Đây là xu hướng tiến tới
nền kinh tế tri thức trên toàn cầu.


Trên bình diện xã hội, đó là những bước tiến nhảy vọt của nền văn minh nhân
loại. Song trên giác độ DN, trong cơ chế thị trường, đó không chỉ là cơ hội mà còn là
thách thức đối với sự tồn tại của DN. Việc thiếu nhạy bén trong việc áp dụng những
thành tựu khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân đưa DN đến chỗ phá sản.

Chính vì thế, việc đánh giá DN phải xem xét chúng trong môi trường của kỹ thuật
công nghệ. Việc đánh giá phải chỉ ra mức độ tác động của môi trường này đến SXKD
và khả năng thích ứng của DN trước những bước phát triển mới của khoa học công
nghệ.

2.1.2. Môi trường đặc thù
Môi trường đặc thù là môi trường có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của DN. Các yếu tố thuộc môi trường này có thể kiểm soát được.
Thuộc môi trường đặc thù có các yếu tố về khách hàng, nhà cung cấp, các hãng cạnh
tranh và cơ quan Nhà nước.

 Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh
dẫn đễn nhu cầu đa dạng về các sản phẩm dịch vụ đầu vào. Do đó, mối quan hệ với
khách hàng của DN cũng đa dạng. Yếu tố khách hàng là yếu tố quyết định đến sự tồn
tại và phát triển của DN. Khách hàng của DN có thể là các cá nhân, các DN khác hoặc

Nhà nước, họ có thể là khách hàng hiện tại nhưng cũng có thể là khách hàng tương lai.
Để đánh giá về doanh nghiệp, người ta căn cứ vào mối quan hệ bền vững của DN
với khách hàng hay mức độ uy tín thể hiện ở thời gian hợp tác với khách hàng, chất
lượng khách hàng (thể hiện ở tiếng tăm của họ), số lượng của khách hàng và khả năng
phát triển mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất vẫn là
thị phần hiện tại của doanh nghiệp, thị phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ phát
triển của chỉ tiêu này qua các thời kỳ kinh doanh khác nhau của DN.


DN thường phải trông đợi sự cung cấp từ bên ngoài các hàng hoá, NVL, các dịch
vụ điện, nước, thông tin tư vấn Tính ổn định của nguồn cung cấp đó có ý nghĩa quan
trọng đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo yêu cầu mà DN đã định ra.
Do tính khan hiếm của NVL nhiều khi DN cũng gặp phải những khó khăn nếu như
không có sự cung cấp kịp thời và không có NVL thay thế. Vì vậy, để đánh giá sự ổn
định trong hoạt động kinh doanh của DN ta phải quan tâm đến khả năng đáp ứng nhu
cầu của DN, mối quan hệ của DN với các nhà cung cấp.

 Các hãng cạnh tranh.
Cạnh tranh là hoạt động tranh đua nhằm giành giật những điều kiện sản xuất và
kinh doanh có lợi nhất giữa các DN cùng sản xuất và kinh doanh cùng loại mặt hàng
hoặc những mặt hàng có thể thay thế được cho nhau.

Cạnh tranh được thể hiện dưới ba hình thức:
- Cạnh tranh về giá cả
- Cạnh tranh về chất lượng
- Cạnh tranh về dịch vụ bảo hành, sửa chữa (hậu thương mại)

Được sự ủng hộ từ phía nhà nước, hầu hết các lĩnh vực kinh tế, mức độ cạnh
tranh giữa các DN trên thị trường trong nước và quốc tế ngày càng trở nên quyết liệt
hơn. Sự quyết liệt trong cạnh tranh được coi là mối nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của

DN. Do đó, đánh gía năng lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét trên 3 tiêu chuẩn trên còn
phải xác định được số lượng DN tham gia cạnh tranh, năng lực thực sự và thế mạnh
của họ là gì. Đồng thời phải chỉ ra được những yếu tố và mầm mống có thể làm xuất
hiện các đối thủ mới. Có như thế mới kết luận được sự đúng đắn về vị thế và khả năng
cạnh tranh của DN trên thị trường.

 Các cơ quan nhà nước


Trong cơ chế thị trường, DN tuy được chủ động trong hoạt động SXKD, tuy
nhiên nhưng sự hoạt động của DN luôn phải được đặt dưới sự kiểm tra giám sát của cơ
quan nhà nước như cơ quan thuế, thanh tra, các tổ chức công đoàn… Các tổ chức này
có trách nhiệm kiểm tra giám sát đảm bảo cho hoạt động của DN không vượt ra khỏi
những quy ước của xã hội bằng các luật thuế, môi trường, luật cạnh tranh, luật công
đoàn,

DN có mối quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là DN thực hiện tốt nhiệm
vụ đối với xã hội như nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, chấp hành tốt luật lao động, quan tâm
giải quyết vấn đề môi trường sinh thái Đó cũng là biểu hiện của những DN có tiềm
lực tài chính vững mạnh, lợi nhuận thu được không phải bằng cách buôn lậu, trốn thuế,
làm hàng hoá giả Vì vậy, xác định sự tác động của yếu tố môi trường đặc thù đến
SXKD còn cần phải xem xét chất lượng và thực trạng của mối quan hệ giữa DN với
các tổ chức đó trong những khoản thời gian xác định.

2.2. Các yếu tố thuộc về nội tại doanh nghiệp
2.2.1. Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp
Tài sản trong DN là toàn bộ tài sản hữu hình và vô hình nằm trong danh mục
bảng cân đối kế toán tại thời điểm đánh giá. Đây là một quan niệm cần thiết để phân
biệt nó với lợi thế thương mại.
Số lượng và cơ cấu các loại tài sản thường có sự khác nhau giữa các DN ngay cả

khi chúng ở trong cùng ngành SXKD. Khi xác định GTDN, bao giờ người ta cũng
quan tâm đến hiện trạng tài sản vì:
- Tài sản DN là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình
SXKD. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loại tài sản là
yếu tố quyết định đến số lượng, chất lượng sản phẩm của DN. Tức là, khả năng cạnh
tranh của DN phụ thuộc trực tiếp vào yếu tố này.

- Giá trị tài sản của DN được coi là một căn cứ và là một sự bảo đảm rõ ràng nhất
về GTDN. Vì thay cho việc dự báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có
thể bán chúng bất cứ lúc nào để nhận được thu nhập từ tài sản đó.
Do đó, trong thực tế, người ta thường vận dụng phương pháp có liên quan trực
tiếp đến việc xác định giá trị tài sản của DN.

2.2.2. Vị trí kinh doanh
Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với SXKD. Vị trí kinh doanh bao
gồm các yếu tố như địa điểm, diện tích của DN và các chi nhánh của DN, yếu tố địa
hình, thời tiết, môi trường sinh thái, an ninh khu vực, thu nhập dân cư trong vùng, tốc
độ phát triển kinh tế và khả năng cung cấp các dịch vụ cho sản xuất của khu vực đó.
DN hoạt động thương mại có vị trí thuận lợi là DN hoạt động ở khu vực đông dân
cư, trung tâm buôn bán, các đầu mối giao thông quan trọng. Với vị trí thuận lợi, DN có
thể giảm được chi phí vận chuyển, bảo quản, lưu kho, giao dịch… đồng thời DN có
những thuận lợi lớn để tiếp cận với nhu cầu, thị hiếu của thị trường,… Bên cạnh đó,
DN phải chịu những chi phí cao về thuê văn phòng, thuê lao động, và có thể phải di
chuyển trụ sở đi nơi khác do sự quy hoạch của nhà nước.
Những thuận lợi và bất lợi cơ bản của yếu tố vị trí đối với SXKD là lý do chủ yếu
giải thích sự chênh lệch về giá cả đất đai, giá thuê nhà giữa các khu vực với nhau. Và
vì thế, khi nói về yếu tố lợi thế thương mại, người ta thường trước hết đề cập đến yếu
tố vị trí. Trong thực tế, do có sự khác nhau về vị trí kinh doanh mà có sự chênh lệch rất
lớn khi đánh giá về GTDN. Vì vậy, vị trí kinh doanh cần được coi là một trong các yếu
tố quan trọng hàng đầu khi đưa ra phân tích, đánh giá GTDN.


2.2.3. Uy tín kinh doanh
Uy tín kinh doanh của DN được thể hiện ở sự ổn định của khách hàng, ở sự gia
tăng nhanh chóng thị phần và doanh số bán.
Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của DN nhưng nó
lại được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau từ bên trong DN như: do chất lượng

sản phẩm cao, do trình độ và năng lực quản trị kinh doanh giỏi, do có nghệ thuật quảng
cáo, do thái độ phục vụ tận tình của nhân viên
Trong thực tế, có những DN trong nước có thể sản xuất những mặt hàng có chất
lượng không thua kém gì hàng nước ngoài nhưng không thể bán với giá cao vì chưa
gây được uy tín với khách hàng.
Như vậy, có thể thấy rằng, khi sản phẩm đã được đánh giá cao trong con mắt của
khách hàng thì uy tín đã trở thành một tài sản thực sự, chúng có giá, và người ta gọi
chúng là giá trị của nhãn mác hay thương hiệu. Trong nền kinh tế thị trường, người ta
có thể mua bán quyền dán nhãn mác các sản phẩm, quyền dán nhãn mác có khi được
đánh giá rất cao. Vì vậy, uy tín của DN được đông đảo các nhà kinh tế thừa nhận là
một yếu tố quan trọng hình thành nên GTDN.

2.2.4. Trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động
Một trong những yếu tố quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh là chất lượng
sản phẩm sản xuất ra phải được thị trường đánh giá cao. Chất lượng sản phẩm DN một
mặt phụ thuộc vào trình độ của máy móc thiết bị, một mặt phụ thuộc vào trình độ kỹ
thuật và tay nghề của nhân viên.
Trình độ kỹ thuật và sự lành nghề của người lao động không chỉ có ý nghĩa quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể làm giảm chi phí SXKD
do việc sử dụng hợp lý NVL, trong quá trình sản xuất, giảm được chi phí đào tạo, bồi
dưỡng từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho DN.
Để đánh giá về trình độ kỹ thuật tay nghề của người lao động ta không chỉ xem ở
bằng cấp, bậc thợ, số lượng lao động đạt được các chuẩn mực đó mà quan trọng hơn,

trong điều kiện hiện nay, còn phải xem xét hàm lượng tri thức có trong mỗi sản phẩm
mà DN sản xuất. Khi đánh giá khả năng tồn tại và phát triển, khả năng sáng tạo ra lợi
nhuận của DN, cần thiết phải xem xét đến trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao
động, coi chúng như một yếu tố nội tại quyết định đến GTDN.


2.2.5. Năng lực quản trị kinh doanh
Một trong những yếu tố quyết định đến hoạt động SXKD, chất lượng sản phẩm,
khả năng cạnh tranh… là khả năng quản lý. Cách tổ chức tốt trong việc sử dụng các
nguồn lực sản xuất, tận dụng, nắm bắt các cơ hội nảy sinh, ứng phó năng động với sự
biến động của môi trường,… là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng tồn
tại của DN trên thị trường. Do đó, năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố quan
trọng đặc biệt trong GTDN.
Năng lực quản trị kinh doanh của một DN cần được xem xét về khả năng hoạch
định chiến lược, chiến thuật, trình độ tổ chức bộ máy quản lý, năng lực quản trị các yếu
tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất, khả năng quản trị nguồn nhân lực.
Năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố định tính nhiều hơn là yếu tố định
lượng. Vì vậy, khi đánh giá cần phải xem xét chúng dưới sự tác động của môi trường.
Ngoài ra, năng lực quản trị kinh doanh còn được thể hiện thông qua các chỉ tiêu tài
chính của DN. Do đó, thực hiện phân tích một cách toàn diện tình hình tài chính trong
những năm gần đây với thời điểm đánh giá cũng có thể rút ra những kết luận quan
trọng về năng lực quản trị và sự tác động của nó đến GTDN.
Tóm lại,
- GTDN bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài.
- Các yếu tố đã phân tích trên có tác động lẫn nhau, chúng được xác định về mặt
định tính nhiều hơn định lượng. Thực hiện sự đánh giá về chúng, người ta xây dựng
các tiêu thức cơ bản rồi áp dụng phương pháp xếp hạng cho điểm. Tuy nhiên, phương
pháp này mang nặng tính chủ quan của người đánh giá, do đó để hạn chế yếu điểm này,
người ta đánh giá chúng bởi số đông, có thể là một hội đồng. Mặc dù vậy, quyết định
xếp hạng không phải lúc nào cũng đúng. Quyết định khách quan cuối cùng là thị

trường.
- GTDN là khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư, người mua
DN không phải là mua lấy những tài sản, uy tín kinh doanh và trình độ quản lý giỏi
mà là sự đánh đổi lấy các khoản thu nhập tiềm năng ở DN. Do đó, ta phải nghiên cứu

chúng để phân biệt các yếu tố tác động tới cấu thành DN và làm cơ sở để xác định
GTDN.

III. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
3.1. Xác định giá trị doanh nghiệp là gì?
Ta có các nhận xét sau:
- GTDN có thể khác xa so với giá bán DN trên thị trường. GTDN được đo bằng
độ lớn của các khoản thu nhập mà DN có thể đem lại cho các nhà đầu tư. Giá mua bán
của DN hình thành trên thị trường chịu ảnh hưởng bởi các quy luật trên thị trường như
quy luật cung-cầu DN, cung-cầu về chứng khoán và tiền tệ
- Khi nào còn tồn tại DN với tư cách là một tổ chức pháp nhân thì còn tồn tại khái
niệm GTDN ngay cả khi không còn tồn tại quan hệ mua bán DN. Do đó, GTDN cần
bên thứ ba xác định để đảm bảo yếu tố trung thực khách quan trong việc xác định
GTDN.
- Xác định GTDN không đơn giản chỉ để mua bán, sát nhập, hợp nhất, chia nhỏ
DN mà còn có tác dụng cổ phần hoá, xác định vị thế tín dụng, cung cấp cho hoạt động
quản lý vĩ mô,
Như vậy, xác định GTDN hay còn gọi là định giá DN thực chất là việc lượng hoá
các khoản thu nhập mà DN có thể tạo ra trong quá trình SXKD làm cơ sở cho các hoạt
động giao dịch thông thường thuộc thị trường.
3.2. Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
Cùng với sự đa dạng về cách nhìn nhận, đánh giá GTDN ở các góc độ khác nhau
dẫn đến tồn tại nhiều phương pháp xác định GTDN.

3.2.1. Phương pháp giá trị tài sản thuần

a)Cơ sở lý luận
Phương pháp này dựa trên quan điểm : “giá trị của một DN được tính bằng tổng
giá thị trường của số tài sản mà DN hiện đang sử dụng vào SXKD”.

DN có hoạt động được là nhờ vào số vốn và tài sản hiện có trong DN, trong quá
trình hoạt động DN có thể phát triển số tài sản hoặc thâm hụt số tài sản của mình
b) Phương pháp xác định
Trong số tài sản của DN trên Bảng cân đối kế toán, có những tài sản thuộc sở hữu
của DN nhưng có nhiều tài sản không thuộc quyền sở hữu của DN như các khoản phải
trả (công nhân viên, người bán, nhà nước ). Do vậy, khi xác định GTDN ta phải loại
bỏ các khoản này, có nghĩa là, ta phải xác định giá trị tài sản thuần.
V0=Vt-Vn

Vo: Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu DN
Vt: Tổng giá trị tài sản mà DN sử dụng vào SXKD
Vn: Giá trị các khoản nợ
Do đó, theo cách này, người ta có thể :
1) Xác định GTDN bằng cách dựa vào Bảng cân đối kế toán

Giá trị doanh
nghiệp thuần

=

Tổng tài sản



Tổng các khoản nợ
Ngắn hạn và Dài hạn




2) Xác định giá trị tài sản theo giá thị trường
Cách này có ưu điểm hơn vì:
- Giá trị tài sản phản ánh trên sổ kế toán là giá gốc, có tính lịch sử nên có thể đã bị
thay đổi tại thời điểm xác định GTDN
- Giá trị còn lại của TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp phụ thuộc vào
việc DN đang sử dụng phương pháp khấu hao nào, thời điểm mà DN xác định nguyên
giá và sự lựa chọn tuổi thọ kinh tế của TSCĐ. Vì vậy, giá trị TSCĐ phản ánh trên sổ kế
toán thường không phù hợp với giá thị trường tại thời điểm xác định gía trị DN.
- Đối với HTK (hàng hoá, vật tư, công cụ dụng cụ ) hoặc hàng đang dùng trong
sản xuất, một mặt phụ thuộc vào phương pháp tính giá hàng tồn kho, phụ thuộc vào

×