Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: “Phân tích Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí - Mecanimex” pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.94 KB, 68 trang )









Báo cáo tốt nghiệp

“Phân tích Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại
Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí - Mecanimex”
Mục lục
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty xuất
nhập khẩu các sản phẩm cơ khí
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại
Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí
Lời nói đầu
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại,
đứng vững và ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có một tiềm lực tài chính
mạnh mẽ để tiến hành sản xuất kinh doanh và cạnh tranh có hiệu quả. Mặt
khác, theo đà phát triển của nền kinh tế, các mối quan hệ kinh tế tài chính
ngày càng trở nên mới mẻ, phong phú và đa dạng.
Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải thường xuyên tiến
hành công tác phân tích tài chính và không ngừng hoàn thiện công tác này,
trên cơ sở đó, định hướng cho các quyết định nhằm nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thực tiễn đã
cho thấy, nếu các nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm đúng mức tới công tác
phân tích tài chính thì họ sẽ có những quyết định đúng đắn và thành đạt trong
kinh doanh, ngược lại họ sẽ khó tránh khỏi những sai lầm và thất bại.


Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực không ngừng
trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả quản lý tài chính doanh
nghiệp. Hiện nay, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp đã bước đầu
được các doanh nghiệp quan tâm, thực hiện song những vướng mắc gặp phải
là không nhỏ và đã làm hạn chế nhiều đến hiệu quả của công tác này.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác trên, qua một thời gian
nghiên cứu, thực tập tại: Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí -
Mecanimex, với sự giúp đỡ của Ban giám đốc, các bác, các cô chú, anh chị
trong Công ty em đã lựa chọn đề tài: “Phân tích Giải pháp hoàn thiện công
tác phân tích tài chính tại Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí -
Mecanimex” làm đề tài cho luận văn.
1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu vai trò của công tác phân tích tài chính đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nghiêu cứu các phương pháp và nội dung phân tích tài chính doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
- Phân tích thực trạng tình hình tài chính, từ đó chỉ ra những hạn chế,
tồn tại công tác phân tích tài chính tại Công ty MECANIMEX.
- Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác phân tích
tài chính doanh nghiệp tại Công ty MECANIMEX.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm: Phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp thống kê.
3. Kết cấu luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty xuất
nhập khẩu các sản phẩm cơ khí
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại
Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí

















Chương 1: những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Hoạt động tài chính doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân hoạt
động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, tối
đa hoá giá trị chủ sở hữu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp được phân chia
theo nhiều hình thức khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu về tài chính và
các quan hệ tài chính, doanh nghiệp được phân chia theo hình thức sở hữu
thành nhiều các loại hình như: doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công
ty liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài Mỗi loại hình
doanh nghiệp trên đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng do đặc thù của
hoạt động sản xuất kinh doanh quyết định, song về bản chất nội dung của hoạt
động tài chính và quản lý tài chính là cơ bản giống nhau.
Mỗi doanh nghiệp từ khi thành lập và đăng ký kinh doanh đã phải xác

định cho mình những vấn đề sau:
 Xác định ngành nghề và mặt hàng kinh doanh.
 Xác định quy mô và phạm vi hoạt động.
 Xác định nguồn vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh,
 Lên các phương án, kế hoạch chiến lược kinh doanh trong ngắn hạn và
dài hạn.
Các vấn đề trên chỉ được thực hiện khi doanh nghiệp tiến hành các hoạt
động tài chính.
Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một nội dung quan trọng trong
quản trị doanh nghiệp. Hoạt động này nhằm thực hiện các mục tiêu của doanh
nghiệp đó là: tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp, hay mục
tiêu tăng trưởng, phát triển Hoạt động tài chính doanh nghiệp trả lời cho các
câu hỏi sau:
1. Nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại hình sản
xuất kinh doanh đã lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn
của doanh nghiệp và là cơ sở dự toán vốn đầu tư?
2. Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào với một cơ
cấu vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất?
3. Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh được sử dụng
như thế nào?
4. Phân tích, đánh giá, kiểm tra hoạt động tài chính như thế nào, để
thường xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính?
5. Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn như thế nào để đưa ra những
quyết định thu, chi phù hợp?
Hoạt động tài chính doanh nghiệp được khái quát qua sơ đồ sau:














Hoạt động tài chính là quá trình tìm tòi, nghiên cứu các nguồn lực
nhằm biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực cho một khoảng thời gian đủ
dài trong tương lai. Đó là quá trình dự toán vốn đầu tư và quyết định đầu tư
dài hạn. Phân tích rủi ro, lạm phát ảnh hưởng tới quy mô, thời hạn của các
dòng tiền trong tương lai là vấn đề cốt lõi nhất của dự toán vốn đầu tư.
Bảng cân
đối kế
toán đầu
kỳ
Kết quả kinh
doanh

Kết quả bằng
ti

n

Doanh
thu
Chi phí
Thuế
Thu

Chi
Cân đối
Báo cáo
kết quả
kinh
doanh
Báo cáo
lưu
chuyển
tiền tệ
Bảng
cân đố
i
kế
toán
cuối kỳ

1.1.2 Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp
và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và những thông tin khác
về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá
rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng
rãi trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh
nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và
các cơ quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt với sự phát triển của các doanh
nghiệp, ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để công tác phân
tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích lợi và vô cùng cần thiết.
Thông qua việc tính toán các chỉ tiêu tài chính đặc trưng và các mối

quan hệ chiến lược, phân tích tài chính giúp những người sử dụng thông tin
đánh giá chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng phát
triển của doanh nghiệp. Do vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp mà trọng
tâm là phân tích các Báo cáo tài chính là mối quan tâm của rất nhiền nhóm
người khác nhau. Tuỳ thuộc vào nhu cầu thông tin khác nhau mà mỗi nhóm
người quan tâm lại tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài
chính của doanh nghiệp.
 Đối với nhà quản trị doanh nghiệp
Đối với nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là
tìm kiếm lợi nhuận và khả năng thanh toán các khoản nợ. Bên cạnh đó, nhà
quản trị doanh nghiệp cũng quan tâm đến các mục tiêu khác như: tạo công ăn
việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp nhiều
sản phẩm hàng hoá, dịch vụ với chi phí thấp, đóng góp phúc lợi xã hội
Như vậy, hơn ai hết các nhà quản trị doanh nghiệp cần có đủ thông tin
nhằm đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh, hiểu rõ thực trạng tài chính,
xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó chính là cơ sở để định
hướng các quyết định của Ban giám đốc, Giám đốc tài chính, dự báo tài
chính: kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các hoạt động quản lý,
 Đối với nhà đầu tư
Đây là những doanh nghiệp, cá nhân quan tâm trực tiếp đến tính toán
giá trị của doanh nghiệp, họ giao vốn cho doanh nghiệp sử dụng và sẽ chịu
chung mọi rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải. Thu nhập của nhà đầu tư
bao gồm: tiền chia lợi tức và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư (giá trị cổ
phiếu). Hai yếu tố này chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng của doanh
nghiệp. Các nhà đầu tư lớn thường dựa vào các nhà chuyên môn - những
chuyên gia phân tích tài chính, nghiên cứu kinh tế về tài chính để phân tích và
làm dự báo triển vọng của doanh nghiệp, đánh giá cổ phiếu của doanh nghiệp.
Đối với các nhà đầu tư hiện tại và các nhà đầu tư tiềm năng, thì mối quan tâm
trước hết của họ là việc đánh giá những đặc điểm đầu tư của doanh nghiệp.
Họ quan tâm tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lời của doanh

nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp họ ra quyết định bỏ vốn vào
doanh nghiệp hay không?
 Đối với người cho vay
Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ
của khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề
mà người cho vay cần xem xét là doanh nghiệp có thực sự có nhu cầu vay hay
không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào? Vì vậy, họ đặc biệt
quan tâm tới số tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh
chóng. Từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán
nhanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, người cho vay cũng chú ý tới giá trị vốn
chủ sở hữu bởi vì nguồn vốn này chính là khoản bảo hiểm cho họ trong
trường hợp doanh nghiệp gặp phải rủi ro. Những người cho vay cũng quan
tâm tới khả năng sinh lãi của doanh nghiệp vì đó là cơ sở của việc hoàn trả
vốn gốc và lãi vay dài hạn.


 Các đối tượng khác
Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với một số đối tượng
khác như:
Đối với người lao động: Bên cạnh các nhà quản trị doanh nghiệp, nhà
đầu tư, các chủ nợ của doanh nghiệp, người lao động được hưởng lương trong
doanh nghiệp cũng rất quan tâm đến thông tin tài chính của doanh nghiệp.
Điều này dễ hiểu bởi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
sẽ có tác động trực tiếp tới tiền lương và các khoản thu nhập khác của người
lao động. Ngoài ra, trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia
góp vốn mua một lượng cổ phần nhất định. Như vậy họ cũng là chủ doanh
nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế (cục thuế, các bộ chủ
quản, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư ). Dù họ công tác ở các lĩnh vực
khác nhau, nhưng họ đều muốn hiểu biết về hoạt động của doanh nghiệp để

thực hiện tốt hơn công việc của họ.
1.2. Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.1. Tổ chức công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
Như đã trình bày ở trên, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp thực
sự đóng vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để có được những thông tin đầy đủ, chính
xác cho việc ra quyết định đối với người sử dụng thông tin thì công tác phân
tích tài chính cần phải được tổ chức, thực hiện theo một quy trình hoàn thiện
với nguồn thông tin chất lượng, với phương pháp và nội dung phân tích phù
hợp, khoa học. Cụ thể, có thể tiến hành công tác phân tích tài chính doanh
nghiệp theo các bước sau:
 Bước 1: Chuẩn bị cho công tác phân tích
- Xác định mục tiêu, kế hoạch phân tích, từ đó lập ra các kế hoạch chi
tiết về: nguồn thông tin sử dụng, thời gian tiến hành phân tích, số
lượng nhân sự phục vụ cho công tác phân tích, tổ chức phân công
công việc khoa học
- Lập kế hoạch phối hợp giữa các bộ phận trong quá trình phân tích.
- Lựa chọn các phương pháp và nội dung phân tích nhằm đảm bảo
hoàn thành mục tiêu đề ra.
- Thu thập và xử lý sơ bộ các nguồn thông tin bên trong và bên ngoài
doanh nghiệp.
 Bước 2: Tiến hành phân tích
- Tính toán các chỉ tiêu, nhóm chỉ tiêu tài chính cần thiết. Trên cơ sở
đó, tuỳ theo góc độ nghiên cứu khác nhau sẽ đi sâu vào phân tích
các nội dung có liên quan.
- Lập bảng biểu để so sánh, phân tích các chỉ tiêu đã tính toán, nhằm
tìm ra nguyên nhân gây ra thực trạng của tình hình tài chính.
 Bước 3: Báo cáo kết quả phân tích
- Đưa ra nhận xét, đánh giá về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Dựa vào đó, đề xuất những giải pháp nhằm phát

huy những thành công và khắc phục những hạn chế.
- Lập kế hoạch, dự báo tài chính cho năm tới.
1.2.2.Trình tự các bước tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.2.1. Thu thập thông tin
Đây là bước đầu tiên và có ý nghĩa xuyên suốt quá trình phân tích tài
chính doanh nghiệp. Trong bước này, căn cứ mục đích của công tác phân tích
tài chính, nhà phân tích sẽ lựa chọn những nguồn thông tin phù hợp.
Có rất nhiều nguồn khác nhau để thực hiện "thu thập thông tin" từ
thông tin nội bộ đến thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin kế toán
đến các thông tin quản lý khác, những thông tin về số lượng và giá trị
Những thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra được những
nhận xét, kết luận tinh tế và chính xác.
Tuy nhiên, để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh
nghiệp, thì thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp là một nguồn thông
tin quan trọng nhất. Do vậy, có thể hiểu một cách đơn giản, thực chất của
công tác phân tích tài chính doanh nghiệp là tiến hành phân tích các Báo cáo
tài chính của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Xử lý thông tin
Đây là bước thứ hai tiếp sau quá trình thu thập thông tin. Trong bước
này, nhà phân tích sẽ tiến hành nghiên cứu và xử lý nguồn thông tin đã thu
thập được bằng những công cụ và phương pháp nhất định nhằm tính toán, so
sánh, giải thích, đánh giá, xác định các nguyên nhân của các kết quả đạt được
và xu hướng vận động của các đối tượng phục vụ cho quá trình tiếp theo.
Nhưng phân tích tài chính sẽ không có ý nghĩa khi chỉ đơn thuần là
công việc tổng hợp và sắp xếp số liệu trong khi các đối tượng tài chính cần
nghiên cứu lại luôn luôn biến động về số lượng và trạng thái tồn tại. Cho nên
ở bước này, các nhà phân tích tài chính phải biết đặt một đối tượng tài chính
này trong mối quan hệ biện chứng với các đối tượng khác và trong mối liên
hệ với các tiêu chuẩn, các định mức tài chính và kinh tế. Ví dụ, để hợp đồng
tín dụng của doanh nghiệp được chấp nhận thì chủ Ngân hàng phải xem xét,

thẩm định về khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại,
cũng như về khả năng sinh lời cần thiết trong tương lai từ hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Do đó, các tiêu chuẩn mà doanh nghiệp cần phải đáp
ứng chính là: duy trì một lượng ngân quỹ hợp lý, lên kế hoạch sử dụng nguồn
vốn, quản lý tài sản, kế hoạch về thu nhập, chi phí
1.2.2.3. Đánh giá và dự báo
Đây là bước cuối cùng, là mục tiêu của công tác phân tích tài chính
doanh nghiệp. Nếu như hai bước trên được thực hiện theo đúng thứ tự và
đúng nguyên tắc thì kết quả của bước này chỉ còn phụ thuộc vào trình độ
chuyên môn của nhà phân tích.
Tóm lại, công tác phân tích tài chính được thực hiện sẽ xây dựng lên
bức tranh toàn cảnh về hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động
tài chính nói riêng của doanh nghiệp. Qua đó, mỗi đối tượng khác nhau khi sử
dụng các kết quả phân tích để đưa ra các quyết định riêng của mình trong
tương lai đáp ứng các mục tiêu đã lựa chọn.
1.2.3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.3.1. Thông tin từ hệ thống kế toán
Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng chủ yếu các số liệu
kế toán được phản ánh trong các Báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính là
những báo cáo được lập dựa vào phương pháp kế toán tổng hợp các số liệu từ
các sổ kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh tại những thời điểm hoặc
thời kỳ nhất định.
 Bảng cân đối kế toán: là bảng tổng hợp - cân đối tổng thể phản ánh
tình hình vốn kinh doanh của đơn vị cả về tài sản và nguồn vốn ở một thời
điểm nhất định, thường là ngày cuối cùng của năm tài chính. Đây là tài liệu có
ý nghĩa quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh
doanh và quan hệ quản lý, đánh giá một cách tổng quát tình hình và kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và triển vọng của doanh
nghiệp. Thông thường, Bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng
cân đối số dư trên các tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản và một bên

phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp.
 Báo cáo kết quả kinh doanh: Một thông tin không kém phần quan
trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong Báo
cáo kết quả kinh doanh. Khác với Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh
doanh cho biết tổng quát nhất về thu nhập, chi phí và lợi nhuận trong quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, qua Báo cáo kết quả
kinh doanh cũng giúp cho người quan tâm thấy được các chỉ tiêu tài chính
trung gian như: giá vốn hàng bán, lãi gộp v.v
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm
bảo được chi trả hay không, cần tìm hiểu tình hình Ngân quỹ của doanh
nghiệp. Ngân quỹ thường được xác định cho thời hạn ngắn (thường là từng
tháng). Tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp được phản ánh trên Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc
hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh
nghiệp.
 Bản thuyết minh các báo cáo tài chính: đây là một báo cáo quan
trọng của bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế, có tính chất bổ
sung, hoàn thiện thông tin cho ba Báo cáo tài chính trên. Đó là những thông
tin về đặc điểm hoạt động kinh doanh (hình thức sở hữu vốn, hình thức hoạt
động, lĩnh vực kinh doanh ), chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp, chi
tiết một số chỉ tiêu trong các Báo cáo tài chính (chi phí sản xuất kinh doanh,
tình hình tăng giảm tài sản cố định, tình hình thu nhập của công nhân viên,
tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản phải thu và nợ phải
trả ).
1.2.3.2. Các nguồn thông tin khác
Ngoài nguồn thông tin từ các Báo cáo tài chính, công tác phân tích tài
chính còn cần phải sử dụng nhiều nguồn thông tin khác từ bên ngoài doanh
nghiệp để các kết luận phân tích tài chính có tính thuyết phục cao. Các nguồn
thông tin khác được chia thành các nhóm sau:

 Thông tin liên quan đến tình hình kinh tế:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động của
nhiều yếu tố thuộc môi trường vĩ mô nên khi tiền hành phân tích tài chính cần
phải đặt trong bối cảnh chung của nền kinh tế trong nước và khu vực. Kết hợp
những thông tin này giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp có những đánh
giá đầy đủ hơn tình hình tài chính và dự báo chính xác hơn những nguy cơ, cơ
hội đối với hoạt động của doanh nghiệp. Những thông tin cần quan tâm là:
 Thông tin về tăng trưởng, suy thoái kinh tế.
 Thông tin về lãi xuất ngân hàng, tỷ giá ngoại tệ.
 Thông tin về tỷ lệ lạm phát.
 Các chính sách kinh tế, chính trị, ngoại giao lớn của Nhà nước.
 Thông tin theo ngành
Ngoài những thông tin về môi trường vĩ mô, những thông tin liên quan
đến ngành, lĩnh vực kinh doanh cũng cần được chú trọng.
 Mức độ và yêu cầu công nghệ của ngành.
 Mức độ cạnh tranh và quy mô của thị trường.
 Nhịp độ và xu hướng vận động của ngành.
 Nguy cơ xuất hiện những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng.
Những thông tin trên sẽ làm rõ hơn nội dung của các chỉ tiêu tài chính
trong từng ngành, lĩnh vực kinh doanh, đánh giá rủi ro kinh doanh của doanh
nghiệp.
 Thông tin về đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Do mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm riêng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh và trong định hướng phát triển nên để đánh giá hợp lý tình
hình tài chính, các nhà phân tích cần nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp mình. Cụ thể là:
 Mục tiêu và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp gồm cả chiến lược
tài chính và chiến lược kinh doanh.
 Đặc điểm quá trình luân chuyển vốn của doanh nghiệp.
 Tính chu kỳ trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

 Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, khách hàng, Ngân
hàng v.v
 Các chính sách hoạt động khác.



1.2.4. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.4.1. Phương pháp so sánh:
Phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến trong phân tích hoạt động
kinh doanh cũng như trong phân tích tài chính của doanh nghiệp. Phương
pháp này dùng để xác định xu hướng phát triển và mức độ biến động của các
chỉ tiêu phân tích. Khi sử dụng phương pháp này cần phải nắm chắc các
nguyên tắc sau:
 Lựa chọn tiêu chuẩn để so sánh:
Tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu của một kỳ được lựa chọn làm căn cứ để
so sánh được gọi là gốc so sánh. Tuỳ theo mục đích của nghiên cứu mà lựa
chọn gốc so sánh thích hợp. Các gốc so sánh có thể là:
 Tài liệu ở nhiều năm trước đây (kỳ trước), thông thường tài liệu phân
tích được tổ chức từ 3 đến 5 năm liền kề:
 Các mục tiêu đã dự kiến (kế hoạch, dự toán, định mức).
 Các chỉ tiêu trung bình của ngành, các chỉ tiêu của các doanh nghiệp
khác cùng ngành.
Các chỉ tiêu của kỳ được so sánh với kỳ gốc được gọi là chỉ tiêu kỳ
thực hiện và là kết quả mà doanh nghiệp đã đạt được.
 Điều kiện so sánh
Để phép so sánh có ý nghĩa thì điều kiện tiên quyết là các chỉ tiêu được
sử dụng phải đồng nhất về cả thời gian và không gian.
Về mặt thời gian: Các chỉ tiêu phải được tính trên cùng một khoảng
thời gian hạch toán và phải thống nhất trên 3 mặt sau:
- Phải cùng phản ánh một nội dung kinh tế.

- Phải cùng một phương pháp tính toán.
- Phải cùng một đơn vị đo lường.
Về mặt không gian: Các chỉ tiêu cần phải quy đổi về cùng một quy mô
và điều kiện kinh doanh tương tự nhau.
1.2.4.2. Phương pháp tỷ số:
Phương pháp truyền thống được sử dụng phổ biến trong phân tích tài
chính là phương pháp phân tích tỷ số. Phương pháp này dựa trên ý nghĩa
chuẩn mực của các đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Mỗi sự
biến đổi của các tỷ số cố nhiên sẽ là sự biến động của các đại lượng tài chính.
Về nguyên tắc, phương pháp tỷ số yêu cầu phải xác định được các định mức,
các ngưỡng để nhận xét đánh giá tình hình hoạt động tài chính của doanh
nghiệp trên cơ sở các tỷ lệ nhất định. Các ngưỡng này còn gọi là các tỷ lệ
tham chiếu.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ số tài chính được phân chia
thành các nhóm chỉ tiêu đặc trưng phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu
hoạt động của doanh nghiệp. Tuỳ theo mục tiêu phân tích mà các nhà phân tích
tài chính lựa chọn những chỉ tiêu và nhóm chỉ tiêu phù hợp.
1.2.4.3. Phương pháp phân tích Dupont
Phương pháp phân tích Dupont được Công ty Dupont của Mỹ đưa vào
sử dụng trong phân tích tài chính lần đầu tiên vào khoảng Chiến tranh Thế
giới lần thứ nhất. Ngay sau đó, phương pháp này đã nhanh chóng thu hút
được sự chú ý của giới chuyên môn vì tính hữu dụng của nó và dưới nhiều
hình thức, được áp dụng rộng rãi tại các công ty lớn của Mỹ. Mục đích của
phương pháp là cung cấp cho các nhà quản trị doanh nghiệp một thước đo kết
quả hoạt động tổng hợp dưới dạng một tỷ lệ thu nhập trên khoản đầu tư ROI
(return on investment)- phản ánh khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Hai
dạng phổ biến của ROI là ROA và ROE.
Ưu điểm lớn nhất của phương pháp Dupont so với phương pháp phân
tích tỷ số và phương pháp so sánh là ở chỗ phương pháp Dupont không chỉ
đừng lại ở phản ánh các hiện tượng tài chính mà cố gắng tìm hiểu và tiếp cận

các nguyên nhân gây ra hiện tượng đó thông qua phân tích một tỷ lệ sơ cấp
(phản ánh hiện tượng) thành tích của các tỷ lệ thứ cấp (phản ánh nguyên
nhân), sau đó tỷ lệ thứ cấp đó lại trở thành tỷ lệ sơ cấp cho một sự phân tích
tiếp theo. Cứ như vậy ta sẽ có một chuỗi các tỷ lệ quan hệ nhân quả với nhau
mà sự thay đổi của tỷ lệ sau là nguyên nhân gây ra sự thay đổi của tỷ lệ trước.
Thông qua đó xác định nhân tố nào là nguyên nhân chính gây ra biến động
của chỉ tiêu được phản ánh ở tỷ lệ sơ cấp. Quá trình phân tích có thể được lặp
lại tuỳ theo nhu cầu và khả năng của người phân tích và thường được biểu thị
bằng một biểu đồ phân nhánh. Sau đây là một biểu đồ đơn giản nhất được
công ty Dupont đưa ra lần đầu tiên, do vậy có tên là biểu đồ Dupont:
Biểu đồ Dupont





















ROI

Lãi ròng trên
doanh thu
Doanh thu trên
tổng tài sản
Nhân
v

i

Lãi
ròng

Doanh
thu

Doanh thu

Tổ
ng tài
s

n

Lãi g

p


TSC
Đ

TSL
Đ

Các chi phí:
- Bán hàng
- Quản lý
- Khác
Thuế thu
nh

p

Vốn chủ sở

h

u

Nợ dài
h

n

Nợ ngắn
h

n


Chia cho

Chia
cho

C

ng

Trừ
đ
i

Tương đương

C

ng

Trừ
đ
i

Cộng

1.2.5. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp bao gồm các nội dung sau:
 Phân tích cơ cấu tài chính.
 Phân tích các chỉ tiêu tài chính.

 Phân tích diễn biến nguồn vốn và tình hình sử dụng nguồn vốn.
 Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn kinh doanh.
1.2.5.1. Phân tích cơ cấu tài chính
Báo cáo tài chính là những báo cáo được lập dựa vào phương pháp kế
toán tổng hợp các số liệu từ các sổ kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phát
sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định.
Tiến hành phân tích cơ cấu tài chính, người sử dụng thông tin sẽ có
được cái nhìn tổng quát nhất về thực trạng tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Thông qua việc so sánh các khoản mục trong Báo cáo tài chính sẽ
thấy được mức độ biến động về khối lượng, quy mô của các khoản mục, xu
hướng phát triển từ đó đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp là tăng
trưởng hay suy thoái.
1.2.5.2. Phân tích các chỉ tiêu tài chính
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các chỉ tiêu tài chính chủ yếu
thường được phân thành 4 nhóm:
1.2.5.2.1. Tỷ số về khả năng thanh toán.
 Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành:
Khả năng thanh
toán hiện hành
=

Tổng TSLĐ
Nợ ngắn hạn
Đây là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, phản
ánh mức độ các khoản nợ ngắn hạn của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải
bằng bao nhiêu lần các loại tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong một thời
gian tương đương với thời hạn của khoản nợ đó.
 Tỷ số khả năng thanh toán nhanh:
Khả năng thanh toán nhanh


=

TSLĐ - Dự trữ
Nợ ngắn hạn
Đây là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với Nợ ngắn hạn. Đó là
các tài sản như: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự
trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn cả trong tổng tài sản lưu
động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh
cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc
bán tài sản dự trữ.
 Tỷ số khả năng thanh toán tức thời:
Khả năng thanh toán tức thời
=
Tiền
Nợ đến hạn
Nợ đến hạn ở đây là các khoản nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đến
hạn trả nợ. Tuỳ thuộc vào ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau mà các
doanh nghiệp có tỷ số khả năng thanh toán tức thời khác nhau. Tuy nhiên, nếu
tỷ số này quá thấp thì các doanh nghiệp có thể gặp phải khó khăn trong thanh
toán, còn nếu tỷ số này quá cao thì cũng không tốt vì lúc đó tiền của doanh
nghiệp bị ứ đọng quá nhiều, vòng quay tiền chậm làm giảm hiệu quả sử dụng
vốn.
1.2.5.2.2. Tỷ số về khả năng hoạt động
Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để xem xét hiệu quả sử dụng tài sản
của doanh nghiệp và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn của doanh
nghiệp được sử dụng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như: Tài sản lưu
động, Tài sản cố định. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc
đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sủ dụng
của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu
thuần được sử dụng chủ yếu trong tỷ lệ này nhằm tính tốc độ quay vòng của

một số đại lượng rất cần cho quản lý tài chính ngắn hạn. Các tỷ lệ này cho ta
những thông tin hữu ích để đánh giá mức độ cân bằng tài chính và khả năng
thanh khoản của doanh nghiệp.
 Vòng quay tiền:
Vòng quay tiền

=

Doanh thu thuần
Tiền + Tài sản tương đương tiền bình quân

Tiền là khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh
nghiệp. Việc giữ tiền và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh
nghiệp nhiều lợi thế như chủ động trong kinh doanh, mua hàng trả tiền ngay
được hưởng chiết khấu, ngoài ra khi vật tư hàng hoá rẻ doanh nghiệp có thể
dự trữ với lượng lớn tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên, nếu tiền
được lưu trữ ở mức không hợp lý có thể gây ra nhiều bất lợi.
Tỷ số này phản ánh số vòng quay của tiền trong năm, cụ thể hơn nó chỉ
ra rằng với một lượng tiền nhất định dùng vào sản xuất kinh doanh đã mang
lại tổng doanh thu là bao nhiêu trong một năm.
 Vòng quay dự trữ (tồn kho):
Vòng quay dự trữ (tồn kho)

=

Doanh thu thu

n

Giá trị dự trữ bình

quân
Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng đánh giá hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ này cao thì doanh nghiệp sẽ tạo ra khả
năng tiêu thụ hàng hoá khả quan. Song nếu tỷ lệ này quá thấp thì tốc độ tiêu
thụ hàng hoá bị trì trệ, giảm khả năng chi trả và lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh. Khi đó, doanh nghiệp sẽ phải nghiên cứu để đưa ra chiến lược sản
phẩm và chiến lược khách hàng thích ứng hơn.
 Kỳ thu tiền bình quân:
Kỳ thu tiền bình quân
=
Các khoản phải thu x 360

Doanh thu thuần
Kỳ thu tiền bình quân cho biết thông tin về khả năng thu hồi vốn trong
thanh toán, đặc biệt là thu hồi khoản từ bán chịu hàng hoá. Nó chịu tác động
bởi nhiều yếu tố: Chính sách bán hàng, chu kỳ sản xuất kinh doanh, chính
sách tín dụng, nhu cầu xâm nhập hay mở rộng thị trường, tình trạng của nền
kinh tế
 Hiệu suất sử dụng TSLĐ (TSCĐ):
Hiệu suất sử dụng
TSLĐ (TSCĐ)
=

Doanh thu thuần
TSLĐ (TSCĐ)
Chỉ tiêu này cho ta biết một đồng TSLĐ (TSCĐ) của doanh nghiệp tạo
ra được bao nhiêu đồng doanh thu. TSLĐ (TSCĐ) ở đây được xác định theo
giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo.
 Hiệu suất sử dụng tài sản:
Hiệu suất sử dụng

tài sản
=

Doanh thu thuần
Tài sản
Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó cho biết một
đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu.
1.2.5.2.3. Tỷ số về khả năng cân đối vốn (cơ cấu tài chính)
Cơ cấu tài chính là một trong những chính sách quan trọng của doanh
nghiệp, là công cụ hữu hiệu giúp nhà phân tích đánh giá mức độ an toàn hay
rủi ro có thể chấp nhận được và mức độ khuếch đại lợi nhuận của các khoản
nợ. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn của chủ sở hữu doanh nghiệp để thể
hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho món vay. Nếu chủ sở hữu
chỉ đóng góp một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn thì rủi ro trong sản xuất
kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Bằng cách tăng vốn thông qua
vay nợ, các chủ sở hữu vẫn nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp và điều hành
doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay thì
lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ tăng đáng kể. Công tác phân tích
thường thông qua một số chỉ tiêu cơ bản sau:
 Tỷ số nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ):
Tỷ số nợ trên tổng
tài sản
=

Tổng nợ phải trả
Tổng tài sản
Tỷ lệ này cho biết cơ cấu nợ phải trả trên tổng tài sản, qua đó, xác định
nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các khoản nợ. Đối với chủ nợ, với
mục tiêu là an toàn cho các khoản vay, tức là phải đảm bảo thu hồi đầu tư cả
gốc là lãi đúng thời han, thì họ mong muốn tỷ số này vừa phải, bởi vì ngay cả

trong trường hợp xấu nhất là doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản thì các
khoản nợ của họ vẫn sẽ được đảm bảo và được giải quyết theo đúng trình tự
pháp lý hiện hành.
Còn đối với chủ doanh nghiệp, họ lại thích và mong muốn một tỷ số nợ
trên tổng tài sản cao. Trong các khoản nợ của doanh nghiệp, sử dụng vốn của
người khác bằng cách đi vay (sử dụng nợ vay) càng cao thì tác động đòn bẩy
tài chính càng lớn mà quyền sử hữu của các cổ đông của doanh nghiệp vẫn
đảm bảo không bị pha loãng. Song, nếu tỷ số nợ quá cao sẽ dẫn tới rủi ro về
mất khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Do đó, xác định một tỷ lệ nợ hợp
lý sẽ là cơ sở để tạo ra cơ cấu vốn tối ưu, nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
Để đánh giá được việc sử dụng nợ cũng như mức độ sử dụng nợ của
doanh nghiệp người ta tính mức độ đòn bẩy tài chính (Degree of Financial
Leverage - DFL) của doanh nghiệp.
Mức độ ảnh hưởng của DFL được xác định như là tỷ lệ thay đổi về
doanh lợi vốn chủ sở hữu phát sinh do sự thay đổi về lợi nhuận trước thuế và
lãi vay phải trả.
DLF

=

Q(P-V) - F
Q(P-V) - F - I
Trong đó: Q : là sản lượng.
P : là giá bán đơn vị sản phẩm.
V : là chi phí biến đổi mỗi đơn vị sản phẩm.
F : là chi phí cố định .
I : là chi phí lãi vay phải trả.
Từ công thức trên ta thấy khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay không đủ
lớn để trang trải lãi vay thì doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bị giảm sút. Nhưng

khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay đã đủ lớn để trang trải lãi vay phải trả thì
chỉ cần một sự gia tăng nhỏ về sản lượng cũng mang lại một biến động lớn về
doanh lợi vốn chủ sở hữu.
 Khả năng thanh toán lãi vay hay số lần có thể trả lãi:
Khả năng thanh
toán lãi vay
=

L

i nhu

n tr
ư

c thu
ế

và lã
i vay

Chi phí trả lãi vay
Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán lãi vay bằng lợi nhuận trước
thuế và lãi vay (EBIT); đây cũng chính là khả năng sinh lợi trên các khoản nợ.
Chỉ tiêu này càng cao (càng lớn hơn 1) bao nhiêu càng chứng tỏ tình trạng tài
chính của doanh nghiệp càng lành mạnh bấy nhiêu. Nếu chỉ tiêu này càng gần
1, thì nó chỉ ra là chi phí vốn vay của doanh nghiệp đang quả lớn mà doanh
nghiệp không thể gánh nổi bằng EBIT, theo đó lợi nhuận sau thuế sẽ giảm sút,
buộc doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn tài trợ khác để giảm chi phí vốn, tăng
lợi nhuận và tăng giá trị doanh nghiệp.

 Tỷ số cơ cấu tài sản:
Tỷ số cơ cấu tài sản
=

TSL
Đ

(TSC
Đ
)

Tổng tài sản
Tỷ số này phản ánh cơ cấu đầu tư vào các loại tài sản của doanh
nghiệp. Nó cao hay thấp chưa phản ánh được hiệu quả đầu tư vào tài sản nếu
không căn cứ vào loại hình, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc điểm kinh
doanh. Phân tích chỉ tiêu này cho phép xây dựng và điều chỉnh cơ cấu tài sản
phù hợp với môi trường kinh doanh của từng doanh nghiệp.
 Tỷ số cơ cấu nguồn vốn:
Tỷ số cơ cấu nguồn vố
n
=

Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này cho biết khả năng tự tài trợ cho vốn kinh doanh của doanh
nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn chứng minh cho khả năng độc lập về tài chính
của doanh nghiệp càng cao. Song song với nó là dấu hiệu an toàn để doanh
nghiệp kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài doanh nghiệp. Bởi tất nhiên, không
một ai lại thừa tiền đầu tư vào một doanh nghiệp mà vốn chủ sở hữu chiếm tỷ
lệ quá nhỏ bé trong tổng nguồn vốn, nó chỉ ra khả năng chi trả kém trong

tương lai.
Tuy nhiên, đối với chủ doanh nghiệp, họ luôn có tâm lý chiếm dụng
vốn kinh doanh của người khác . Vì lẽ đó, họ lại mong đợi một tỷ lệ thấp để
đạt lợi nhuận tối đa trên đồng vốn mình bỏ ra. Nhưng nhiệm vụ của các nhà
phân tích tài chính là phải dung hoà cả hai lợi ích trên. Tức là phải xác định
một cơ cấu vốn hợp lý hay tố ưu với chi phí thấp nhất, đảm bảo lợi ích giữa
các bên tham gia góp vốn hình thành nguồn kinh doanh của doanh nghiệp.
Muốn vậy, doanh nghiệp phải tìm kiếm vốn từ các nguồn khác nhau, tức là đa
dạng hoá các nguồn tài trợ có lựa chọn.
1.2.5.2.4. Tỷ số khả năng sinh lời
Lợi nhuận được thực hiện sau một quá trình sản xuất kinh doanh là một
trong những kết quả cuối cùng đáng quan tâm bởi nó phản ánh hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, ngoài việc xem xét từng kết quả riêng của
doanh nghiệp thì nhất thiết phải quan tâm tới khả năng sinh lời bởi nó phản
ánh tổng hợp nhất hiệu quả kinh doanh và hiệu quả quản lý của doanh nghiệp.
 Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm:
Doanh lợi tiêu thụ
sản phẩm
=

Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho ta biết 1 đồng doanh thu có thể tạo ra bao nhiêu đồng
lợi nhuận sau thuế. Nó thường được sử dụng để xem xét khả năng tạo ra lợi
nhuận từ các hoạt động của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp riêng lẻ
khác.
 Doanh lợi tài sản (ROA):
Doanh lợi tài sản (ROA)

=


Lợi nhuận sau thuế

Tổng tài sản
Tỷ lệ tài chính trên cho ta biết 1 đồng vốn đầu tư của doanh nghiệp sẽ
tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận; được sử dụng như là một chỉ tiêu tổng hợp
đánh giá khả năng sinh lời vốn đầu tư, hiệu quả và cách thức sử dụng vốn
cũng như mức độ mạo hiểm của hoạt động kinh doanh; bên cạnh đó, lại tạo ra
một thông tin phản hồi nâng cao năng lực thu hút vốn đầu tư.
 Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE):
Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE)
=

Lợi nhuận sau thuế

Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu trên theo dõi số lợi nhuận sau thuế được tạo ra trên 1 đồng vốn
chủ sở hữu. Nếu tỷ lệ này cao thì chứng tỏ rằng doanh nghiệp đang ở đà tăng
trưởng bền vững, đầu tư vào doanh nghiệp là một quyết định đúng đắn. Nhờ
vậy, doanh nghiệp có thể thêm nguồn vốn kinh doanh qua thị trường tài chính
(đặc biệt là từ thị trường chứng khoán).
1.2.5.3. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn
Đây là công việc xem xét và đánh giá sự thay đổi các chỉ tiêu tài chính
trong Bảng cân đối kế toán cuối kỳ so với đầu kỳ. Một công cụ hữu hiệu để
thực hiện nội dung phân tích này là Bảng kê chi tiết nguồn vốn và sử dụng
nguồn vốn (bảng tài trợ). Mỗi sự thay đổi ở nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn
(tài sản) nhất thiết phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
- Sử dụng vốn: tăng tài sản và giảm nguồn vốn.
- Nguồn vốn : tăng nguồn vốn và giảm tài sản.
- Nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn phải cân đối với nhau.

×