Mỹ thuật Việt Nam thời hiện đại (từ cách
mạng 1945 đến nay)
Nói tới Việt Nam là chúng ta nói tới một dân tộc so bốn ngàn năm lịch
sử dựng nước và giữ nước. Có biết bao nhiêu là sử sách đã ghi lại
những chiến công hào hùng, vẻ vang của quân và dân ta qua các cuộc
đấu tranh bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh truyền thống đấu tranh chống giặc giữ nước thì dân tộc ta còn
có một nền nghệ thuật phát triển khá sớm, ngay từ thời tiền sử. Chúng
ta đã tìm thấy những dấu vết đầu tiên của nghệ thuật tạo hình đó là
những hình chạm khắc trên đá ở các hang; các đồ dùng sinh hoạt, cảnh
săn bắn trải qua những bước ngoặt thăng trầm của đất nước nền nghệ
thuật nước nhà cũng chịu ảnh hưởng không ngừng cho tới nay. Biến
đổi nổi bật nhất là mỹ thuật Việt Nam thời hiện đại (từ cách mạng 1945
đến nay).
+ Những ngày đầu cách mạng và kháng chiến chống Pháp (1945 -
1954).
Cách mạng tháng 8/1945 thành công đưa đất nước vào kỷ nguyên Độc
lập - Tự do - Hạnh phúc. Đồng thời cũng mở ra một trang sử mới cho
mỹ thuật Việt Nam.
Từ những hạt nhân là một số hoạ sỹ hoạt động bí mật trong những " tổ
chức văn hoá cứu quốc thời tiền khởi nghĩa ". Giờ đây cả giới mỹ thuật
bị cuốn hút vào thể loại vẽ tranh cổ động biểu thị ý chí toàn dân quyết
tâm bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc với nhiều chất liệu khác nhau
những tác phẩm này đã hướng mỹ thuật Việt Nam vào con đường mới,
với nhân sinh quan cách mạng. Một số hoạ sỹ còn phân vân với những
níu kéo của thẩm mỹ cũ, thì Hồ Chí Minh sau khi xem triển lãm đã góp
ý chân tình " các chú vẽ nhiều thiếu nữ khoả thân, vẽ nhiều hoa, cái ấy
cũng đẹp, nhưng đẹp trên cao, sao các chú không vẽ cái đẹp dưới đất
chung quanh chúng ta ".
Đồng thời tháng 10/1945 trường Cao đẳng mỹ thuật được mở ra nhưng
do chiến tranh không học được. Song được cách mạng cổ vũ và lãnh tụ
quan tâm, các hoạ sỹ và các nhà điêu khắc đã tự tin, tích cực chuẩn bị
cho cuộc triển lãm mỹ thuật toàn quốc đầu tiên trong chế độ mới và các
hoạ sỹ đã giành cả tâm huyết của mình trong việc sử dụng ngòi bút làm
vũ khí tố cáo tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật, ca ngợi lãnh tụ và
các anh hùng thời đại: Tranh tượng về Bác Hồ (Tô Ngọc Vân, Nguyễn
Đỗ Cung, Phan Kế An ) tự vệ chiến đấu (Văn Bình) đã báo hiệu sự ra
đời của nền nghệ thuạt cách mạng.
Và rồi chiến tranh lan dần từ miền Nam ra cả nước, cho đến cuối 1940
cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ đi liền với sự nghiệp kháng chiến
toàn dân, toàn diện là sự chuyển mình của các hoạ sỹ. Họ nghe theo
tiếng gọi của nước của dân tộc cho nên đa số các hoạ sỹ đều cầm súng,
vừa cầm bút vẽ tranh để tuyên truyền cho kháng chiến thể loại ký hoạ,
tranh khắc gỗ, bột màu, thuốc nước, chì, tranh sơn mài được dùng
nhiều với những tác phẩm đạt giá trị cao cả ở nội dung và nghệ thuật,
được giới thiệu ở các triển lãm mỹ thuật chào mừng sự kiện lớn trong
cả nước.
Năm 1948 nhân dịp đại hội văn hoá toàn quốc ở miền Bắc, một cuộc
triển lãm hội hoạ lớn gồm các tác phẩm kháng chiến đã được tổ chức,
điển hình là tác phẩm: Dân quân phù lưu (Nguyễn Tự Nghiêm), Gặt lúa
(Mai Văn Hiển), Người du kích già (Phạm Văn Đôn) đã phản ánh
cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh với niềm lạc quan tất thắng.
Năm 1951 sau chiến thắng thế giới ở miền Bắc lại tổ chức một cuộc
triển lãm mỹ thuật với quy mô lớn; nhân dịp này Bác đã gửi thư tới các
hoạ sỹ và nghệ sỹ " Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị
em là chiến sỹ trên mặt trận ấy " và nêu rõ nhiệm vụ của chiến sỹ nghệ
thuật là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự quân dân
trước hết là công nông binh lời của Bác thật sâu sắc, ấm tình người,
Bác là nhà cách mạng vĩ đại và cũng là một người rất am hiểu nghệ
thuật. Năm 1952 tại Việt Bắc trường Trung cấp mỹ thuật được thành
lập do hoạ sỹ Tô Ngọc Vân làm Hiệu trưởng, đã đào tạo ra một thế hệ
hoạ sỹ đầu tiên cho kháng chiến, những cuộc triển lãm lớn với nhiều
tác phẩm nghệ thuật giá trị của họ như tác phẩm " Bác Hồ với các cháu
thiếu nhi Trung - Nam - Bắc của hoạ sỹ Diệp Minh Châu " là bức tranh
nổi tiếng mà ông vẽ bằng máu của chính mình trên lụa, là một hoạ sỹ -
một nhà điêu khắc tài ba, ông sinh năm 1919 tại Nhơn Hạnh - Bến Tre.
Tốt nghiệp trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương 1945. Tiêu biểu
cho thế hệ các hoạ sỹ miền Nam đi theo kháng chiến. Ngoài ra còn có
tác phẩm " Du kích tập bắn " (Nguyễn Đỗ Cung) cũng là tác phẩm nổi
tiếng ở thời kỳ này, " Hành quân qua đèo " (Nguyễn Như Hậu) những
tác phẩm này đã cổ vũ lớn lao, động viên kịp thời quân dân xông lên
diệt giặc (mang giá trị nghệ thuật và giá trị lịch sử).
Vào giai đoạn cuối của kháng chiến chống Pháp, các hoạ sỹ tích cực
thâm nhập vào cả hai trận địa phản phong và phản đế, có người đã đổi
cả chính cuộc đời nghệ thuật như hoạ sỹ - liệt sỹ (Tô Ngọc Vân) sinh
1906 - 1954 tại Hà Nội. Tốt nghiệp trường Cao đẳng mỹ thuật Đông
Dương 1931, là Hiệu trưởng đầu tiên của trường mỹ thuật kháng chiến
mở ở chiến khu Việt Bắc. Là một hoạ sỹ nổi tiếng của mỹ thuật Việt
Nam hiện đại, trước cách mạng vẽ tranh các thiếu nữ thị thành đài các
(thiếu nữ bên hoa huệ, 2 thiếu nữ ) sau cách mạng tháng 8 và kháng
chiến ông chuyển sang vẽ tranh về chiến sỹ vệ quốc đoàn, những ông
già nghệ thuật chất phác, những cô thôn nữ người dân tộc thuỳ mị ký
hoạ là một thể loại nổi tiếng của ông với tác phẩm: Đốt đuốc đi học, chị
cốt cán, con nghé quả thực ngoài ra còn có một số tác phẩm nổi tiếng
của một số tác giả cùng thời: cái bát (Sỹ Ngọc), vệ quốc quân canh đêm
(Nguyễn Tự Nghiêm)
+ Nền mỹ thuật Việt Nam trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và kháng
chiến chống Mỹ (1954 - 1975).
Giữa năm 1954 cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hoà bình lập
lại trong cả nước giới mỹ thuật có điều kiện tập trung về thủ đô Hà Nội,
họ tổ chức một cuộc triển lãm thực sự mang tính toàn quốc, là sự tổng
kết của mỹ thuật kháng chiến. Từ đây có nhiều công trình mỹ thuật
được xây dựng như: 1957 hội mỹ thuật Việt Nam được thành lập,
trường Trung câp mỹ thuật được nâng cấp thành trường Cao đẳng.
1962 viện mỹ thuật - mỹ nghệ được thành lập, 1966 bảo tàng mỹ thuật
nhánh thành tất cả nói lên tiềm năng của mỹ thuật cách mạng thật dồi
dào, và được giới thiệu ra thế giới tiêu biểu với những tác phẩm: " Nhớ
một chiều Tây Bắc " (Phan Kế An) là hồi ức về một dĩ vãng đầy hào
hùng, đầy oanh liệt, đầy tình yêu người, yêu thiên nhiên, một dĩ vãng
đầy hào húng đã đi vào lòng người bao thế hệ con cháu đất Việt, hình
dáng đoàn quân chiến sỹ nhỏ bé so với núi rừng nhấp nhô, hùng vĩ,
càng tăng thêm lòng quyết tâm rất cao của các chiến sỹ này.
Tác phẩm " Bình minh trên nông trang " (Nguyễn Đức Nùng) được vẽ
bằng màu bột với mảng màu nóng rực, rắn chăc, đã diễn tả hình dáng
của một anh bộ đội với cánh tay rắn chắc, hoành tráng trước một thiên
nhiên rộng lớn, lấp lánh ban mai.
Tác phẩm này diễn tả cảnh tát nước rất sôi động của nhóm người nông
dân, họ vui vẻ, cười đùa, cùng nhau tát những gàu nước vào đồng, " Tát
nước đồng chiêm " là một bài thơ ca ngợi cuộc sống lao động của
người nông dân tạo niềm tin cho tiền phương về một hậu phương vững
chắc
Với ta tác phẩm trên chứng tỏ trong thời kỳ chống Mỹ này tranh sơn
mài rất phát triển, được nhiều hoạ sỹ rất thành công, sự thắng lợi của họ
cũng phần nào đóng góp cho nền mỹ thuật thời kỳ này càng thêm
phong phú hơn và nhiều cuộc triển lãm đã được mở ra trên toàn quốc:
1960 - chào mừng đại hội lần thứ III của Đảng và 1963 triển lãm mỹ
thuật toàn quốc, mà người ta nhớ mãi: " Hành quân trong rừng "
(Nguyễn Khang), " Nam kỳ khởi nghĩa " (Huỳnh Văn Gấm), " Giờ học
tập " (Nguyễn Sáng)
Dân tộc ta thoát khỏi gánh nặng áp bức của thực dân Pháp chẳng được
bao thì đế quốc Mỹ lại nhảy vào phá hoại miền Bắc (1964), nhân dân
miền Bắc lại bắt đầu một cuộc kháng chiến gian khổ để đấu tranh bảo
vệ nền độc lập - tự do của mình. Tuy nhiên, các hoạ sỹ, và nhà điêu
khắc lại thích ứng hoàn cảnh mới này rất nhanh, một mặt lên đường
đến những nơi nóng bỏng nhất để ghi chép, sáng tác, không ít trong số
đó đã đi mà không bao giờ trở lại.
Hiện thực chiến đấu sản xuất của quân dân đã đi vào tranh tượng, vừa
động viên mọi người vượt lên mọi thử thách của chiến tranh, vừa tranh
thủ sự đồng tình của thế giới. Bên cạnh các thể loại: sơn mài, sơn dầu,
lụa thì đồ hoạ đặc biệt phát triển, các tranh khắc gỗ " Cồn cỏ anh hùng
" (Quang Thụ), " Thanh niên xung phong ", " Chuyển tải đêm " (Giáng
Hương) và một số tranh cổ động gây xúc động lòng người: " Có gì
quý hơn độc lập tự do " (Phan Thông), " Giữ lấy quê hương ", " Giữ lấy
tuổi trẻ " (Đường Ngọc Cảnh)
Ngoài ra nghệ thuật điêu khắc cũng được khởi sắc, thành tựu được thừa
nhận ở triển lãm 10 năm điêu khắc hiện đại Việt Nam (1963 - 1973):
tượng tròn, chạm nổi, đắp nổi. Điều lý thú là chính trong chiến tranh
tượng đài lại phát triển ngay ở nơi rực lửa như: nam ngạn chiến thắng
(Thanh Hoá 1967), tượng các anh hùng liệt sỹ " Lý Tự Trọng, Kim
Đồng " dựng ở thủ đô khích lệ tuổi trẻ cùng nhân dân cả nước kiên
cường, quyết chiến, quyết thắng, có nhiều cuộc triển lãm đã diễn ra đặc
biệt là cuộc triển lãm toàn quân 1974 thật sôi động.
Nền mỹ thuật Việt Nam đã phát triển rất mạnh, dẫn chứng đó là những
thành tựu của mỹ thuật cách mạng Việt Nam được dự triển lãm ở nước
ngoài như: 1956 tại 3 nước XHCN Châu á (Trung Quốc, Triều Tiên,
Ma Cao), 1959 tại 8 nước XHCN Châu Âu. Triển lãm mỹ thuật Việt
Nam luôn giành được cảm tình của nhân dân thế giới.
Trong sự phát triển của mỹ thuật trên đây có cả chiều rộng và chiều
sâu, chưa bao giờ có một đội ngũ tạo hình đông đảo đi vào mọi mặt của
cuộc sống sôi động. Từ đó lại dẩy lên phong trào mỹ thuật không
chuyên ở khắp các mặt trận sản xuất và chiến đấu, các hình tượng nghệ
thuật đã được khẳng định và đi vào lịch sử. Các hoạ sỹ đã vẽ rất nhiều
chủ đề, đề tài trong cuộc sống, chiến đấu khác nhau.
Trước hết là hình ảnh người chiến sỹ. Hoạ sỹ (Nguyễn Sáng) rất thành
công ở đề tài này với " Giặc đốt làng tôi " diễn tả cảnh người phụ nữ và
em be dân tộc phải đưa nhau đi di cư vì làng bị giặc đốt phá cùng với
những hình ảnh đó hình ảnh một chiến sỹ bộ đội.
Tác phẩm " Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ " là tác phẩm diễn ra sự
căm thù đã thành sức mạnh quyết chiến, quyết thắng càng hy sinh, càng
kiên định lập trường, cả một tập thể gắn bó theo Đảng, dựng hình đơn
giản về nét và màu, bố cục thoáng và rất khoẻ.
Tác phẩm " Tiếng đàn bầu " (Sỹ Tốt) và một hình ảnh cũng rất gần
gũi, họ là lực lượng nòng cốt, chính trong cuộc đấu tranh này đó là hình
ảnh người nông dân, họ vào tranh cũng thật xôn xao.
Trong số họ, có những người không trực tiếp tham gia chiến đấu trên
trận tuyến mà họ chiến đấu ngay tại quê (hậu phương) sản xuất lương
thực phục vụ tuyền tuyến như tác phẩm " Con nghé " (Nguyễn Tự
Nghiêm), " Tổ đội công miền núi " (Huỳnh Tích Chù), " Con nghé của
thực " (Tô Ngọc Vân), " Về nông thôn sản xuất " (Ngô Minh Cầu), "
Một buổi cày " (Lưu Công Nhân) Bên cạnh nền nông nghiệp xã hội
mới còn gắn dần với công nghiệp và hình ảnh người công nhân cũng
chiếm chỗ trong tranh một cách đĩnh đạc như các tác phẩm: " Mỏ đèo
nai " (Nguyễn Tiến Chung), Một loạt tranh (Nguyễn Đỗ Cung) như:
Công nhân cơ khí, học hỏi lẫn nhau, tam ca, mời chị em ra họp để thi
thợ giỏi đã nêu bật những gương sáng lao động, gian khổ nhưng chủ
động, chững chạc. Tác phẩm " Công nhân cơ khí " diễn tả giờ làm việc
trong nhà máy chỉ với ngòi bút và tầm quan sát tinh tế của mình, hoạ sỹ
Nguyễn Đỗ Cung đã cho người xem một không khí làm việc hăng say,
khoẻ khoắn, rắn chắc của những người công nhân này. Họ hầu như
quên hết mệt nhọc chỉ dồn sức vào lúa và rồi tạo ra những công cụ lao
động và cũng có thể là vũ khí chiến đấu
Và hình tượng người phụ nữ chiếm tỷ lệ khá lên trong các tác phẩm
thời kỳ này, họ vừa đảm việc nhà, lại vừa đảm việc nước, ở thời kỳ này
họ không còn là những tiểu thư đài các, cũng không phải là những lao
động vặt vãnh nữa mà thực sự làm chủ gia đình, xã hội, tham gia sản
xuất cả nông và công nghiệp như ở các tác phẩm " Nữ dân quân vùng
biển " (Trần Văn Cẩn), " Sau giờ trực chiến " (Nguyễn Phạm Chánh).
Họ cũng thường được dựng tượng để ca ngợi như tượng " Võ Thị Sáu,
Tác phẩm nắm đất miền Nam " là một tác phẩm tượng thạch cao:
Người mẹ trao cho anh bộ đội, Người con trước lúc lên đường, Một
nắm đất quê hương, dáng người mẹ đầy tình thương trìu mến nhìn con,
dáng người gầy gò, chắc phải chịu nhiều đau khổ, mất mát
Nhưng có lẽ tập trung hơn cả vẫn là hình tượng vị lãnh tụ vĩ đại của
dân tộc đó là hình tượng " Bác Hồ " hầu như cuốn hút tất cả các nghệ
sỹ tạo hình, vào tranh tượng với rất nhiều chất liệu khác nhau, dưới mỗi
một con mắt của mỗi hoạ sỹ, vẻ đẹp của Bác lại càng đẹp hơn ở một
khía cạnh nào đó. Hình tượng Bác là hình tượng của dân tộc Việt Nam
kiên cường, bất khuất, không đếm hết được hết số tác phẩm vẽ tượng
về Bác.
+ Bên cạnh sự đổi thay, phát triển nhìn chung của mỹ thuật Việt Nam
thời kỳ kháng chiến chống Pháp - Mỹ thì ở miền Nam (1954 - 1975)
nền mỹ thuật lại bị rơi vào sự phức tạp:
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ - ne - vơ được ký kết.
Đất nước ta tạm chia làm hai miền: miền Bắc bắt đầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính
quyền tay sai để hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước. Năm 1954 trong làn sóng di cư, miền Nam có thêm
những hoạ sỹ " có tay nghề từ Bắc vào " họ ý định xây dựng một nền
mỹ thuật trên " một quốc gia tự do " và xây dựng một nền nghệ thuật
đối lập với miền Bắc của chính quyền Sài Gòn.
Trong thời điểm này, trường Cao đẳng mỹ thuật Gia Định và Huế được
thành lập, giảng viên là các hoạ sỹ trường Cao đẳng mỹ thuật Đông
Dương. Học sinh là người di cư từ Bắc vào, không khí mỹ thuật ở miền
Nam đã được đổi mới, những sự phức tạp về tư tưởng đã dẫn đến sự
phức tạp về nghệ thuật cụ thể: trong khi trường Cao đẳng Gia Định tập
trung đào tạo theo trường quy, hăng hái hoạt động văn hoá nghệ thuật,
một nhóm văn nghệ sỹ ra đời với những màu sắc chính trị khác nhau,
trong đó tiêu biểu có nhóm sáng tạo gồm: hoạ sỹ Thái Tuấn, Duy
Thanh, Ngọc Dũng chủ trương phá bỏ những kinh nghiệm trường quy
cũ cố gắng tiếp cận với nghệ thuật phương Tây, đề cao các chủ quan
của người sáng tác, không cần biết đến tính dân tộc, vồ vập màu sắc, và
chất liệu để phô diễn hình thể hơn là đi tìm hình tượng của tác phẩm:
chú trọng triển lãm cá nhân.
Từ năm 1960 với sự can thiệp sâu hơn của Mỹ, một lối sống thực dụng
lan tràn, nghệ thuật như trò chơi xã hội thương mại, các hoạ sỹ không
chú trọng vẽ, thích vẽ sao thì vẽ. Cho đến giữa thập nguyên 60 nền
nghệ thuật đã có phần ổn định, tỉnh nghộ hơn, thúc đẩy một ý thức tìm
về nguồn. 1966 các hoạ sỹ trẻ có năng lực thành lập " Hội hoạ sỹ trẻ
Việt Nam " đã khơi dậy ý thức trách nhiệm của người làm nghệ thuật.
Một số ít phóng khoáng thực tại bằng cách lánh vào những cơn mơ với
những tâm trạng day dứt: Nguyễn Trung, Nguyễn Phước, Đinh Cường
Trong sự ngột ngạt ấy cũng có một số hoạ sỹ tiến bộ tích cực, có trách
nhiệm hơn phản ánh nghệ thuật với một tình cảm của riêng mình: nếu "
Nguyễn Trung mới miêu tả những gương mặt đau thương của những
người mẹ, người vợ để tố cáo chiến tranh thì Văn Đen đã dùng bút
pháp tả thực vẽ cảnh khốn khổ của những người lầm than để tố cáo xã
hội phồn hoa bề ngoài ". Huỳnh Bá Thành đã có tranh vạch mặt kẻ thù
trên báo chí chính họ đã làm cho chính quyền Sài Gòn phải run sợ và
đã khủng bố điên cuồng cả bằng toà án và nhà tù. Tuy nhiên phong trào
mỹ thuật vẫn đi lên, chính điều này đã thúc đẩy động lực cho những
hoạ sỹ tiến bộ với sự giác ngộ cao đã đứng hẳn về phía cách mạng. lên
chiến khu vừa cầm bút sáng tác, vừa cầm súng chiến đấu như anh Cổ
Tấn Long Châu, Nguyễn Văn Kinh, Trọng Phương và cũng theo tiếng
gọi cách mạng không ít những hoạ sỹ dám quên mình, không sợ nguy
hiểm cho tính mạng đã hăng hái vào những nơi ác liệt nhất để ghi
nhanh những cảnh hiếm thấy trong lịch sử, để kịp thời động viên khích
lệ ý chí, lòng quyết tâm cao để dành thắng lợi, ghi lại những giây phút
huy hoàng, căng thẳng
Đáng tiếc thay đã có 50 hoạ sỹ đã hy sinh trong khi đang sáng tác trên
trận địa những tác phảm được các hoạ sỹ ghi lại sau này đã trở thành
những tư liệu rất quý giá để vừa động viên quân dân ta, bên cạnh vạch
trần rõ bộ mặt độc ác của bọn cướp nước. Mặc dù trong hoàn cảnh
thiếu thốn, khó khăn, ác liệt ấy, các hoạ sỹ vẫn đam mê với sự nghiệp
sáng tác của mình và đã có hàng vạn tác phẩm có giá trị rất cao đã ra
đời không chỉ phổ biến trong nước mà cả nước ngoài như tác phẩm "
Nhớ một chiều Tây Bắc, Bác Hồ với thiếu nhi ba miền Trung - Nam -
Bộ, chị Võ Thị Sáu, Chú bé liên lạc " và cũng vì điều kiện trên trận
tuyến thiếu thốn chất liệu, hầu như hoạ sỹ đều ký hoạ cho nên ký hoạ
được đưa lên thành một thể loại tác phẩm nghệ thuật đặc biệt của Việt
Nam, là bản trường ca hùng tráng của giai cấp lịch sử hào hùng, của
một số tác giả: Huỳnh Phương Đông, Thái Hà, Cổ Tấn Long những
tác phẩm của họ đã kịp thời cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân
ta trong chống kẻ thù góp phần giải phóng miền Nam. Từ sau chiến
thắng 1972 đã tổ chức được các triển lãm mỹ thuât ở Lộc Ninh. 1973
đến 1975 càng ngày càng nhiều với quy mô lớn hơn, để rồi đến ngày
toàn thắng ở câu lạc bộ lao động vào tháng 5/1975 một cuộc triển lãm
mừng chiến công đại thắng của dân tộc diễn ra trong không khí tưng
bừng, phấn khởi đã lan khắp cả nước, gây xao động của toàn dân, toàn
quân ta.
Các hoạ sỹ vùng giải phóng cũng gia nhập vào, họ đã hưởng ứng bằng
800 tranh cổ động. Từ đây nền mỹ thuật Việt Nam đã có được sự hài
hoà, hoà nhập giữa các hoạ sỹ vùng chiến khu với các hoạ sỹ vùng mới
giải phóng, nền mỹ thuật cả nước trở về một khối.
Nhìn chung, nền mỹ thuật Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ. Tuy gặp nhiều khó khăn, sự cản trở của đế quốc, áp
đặt lên nền kinh tế xã hội, ngay cả nền mỹ thuật, thiếu thốn về chất liệu,
nguyên liệu sáng tác nhưng các hoạ sỹ thời kỳ này vẫn không ngừng
sáng tác, tạo ra được nhiều tác phẩm với giá trị lịch sử khá cao, có
nhiều tác phẩm ngày nay được dùng làm tài liệu vô giá của lịch sử
nước nhà một thời máu lửa và hào hùng, nhiều tên tuổi tác giả thành
danh không chỉ trong nước mà cả trên thế giới, mỗi hoạ sỹ một phong
cách riêng, nhưng tất cả cũng vì mỹ thuật, vì cái đẹp, vì nền độc lập của
nước nhà như: Hoạ sỹ Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sáng, Diệp Minh Châu
phần lớn các tác phẩm này ra đời với mục đích cổ vũ, động viên khích
lệ, ca ngợi công cuộc chiến đấu cho nền độc lập nước nhà của quân dân
Việt Nam, đồng thời vạch trần bộ mặt xấu xa, bẩn thỉu của bọn đế
quốc
+ Nó là nền tảng đầu tiên, góp phần thúc đẩy, làm cầu nối cho một nền
mỹ thuật mới ra đời đó là nền mỹ thuật Việt Nam sau ngày thống nhất
đất nước.
Từ năm 1975 đã hội tụ thành một dòng chảy lớn mà thành tựu đã được
ghi nhận bằng vô số những cuộc triển lãm lớn của cá nhân, của nhóm,
và nhất là triển lãm mỹ thuật toàn quốc mở đều đặn năm năm một lần,
điều này chứng tỏ rằng khuynh hướng con đường phát triển của nền mỹ
thuật Việt Nam khi đất nước thống nhất đã được quan tâm hơn, chú
trọng hơn rất nhiều, mở ra một hướng đi lên mạnh mẽ của nền mỹ
thuật. Đến đây mỹ thuật đã có dấu hiệu của sự chuyển mình từ một nền
mỹ thuật gắn bó với chiến tranh đang bước sang phản ánh cuộc sống
hoà bình xây dựng xã hội chủ nghĩa như tác phẩm: " Phố cổ " (Bùi
Xuân Phái) đây là tác phẩm được vẽ bằng sơn dầu, diễn tả một góc nhỏ
phố cổ của Hà Nội, là đề tài luôn được Bùi Xuân Phái say mê khám
phá, sáng tác. Những cảnh phố vắng với những đường nét xô lệch, mái
tường rêu phong, những đầu hồi và mái ngói đen sạm màu thời gian
luôn xuất hiện trong tranh của ông.
Tranh của hoạ sỹ gợi cho mỗi người đi xa luôn khát khao, cảm nhận
được nỗi thiếu vắng Hà Nội một cách sâu sắc. Đằng sau những hình
ảnh ngõ Phất Lộc, cây đa cổ thụ ở ngõ Gạch hay ngõ Hàng Mắm
người xem tìm thấy vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội qua những thăng trầm
của lịch sử. Vì thế, người yêu nghệ thuật đã đặt tên gọi cho những tác
phẩm về phố cổ Hà Nội của ông là " Phố phái ". Ngoài Bùi Xuân Phái
còn rất nhiều hoạ sỹ khác nữa, với các tác phẩm mang nội dung cuộc
sống hàng ngày bình dị: Điện về bản (Hà Cắm), Bộ đội về bản Mèo
(Trần Lưu Hậu), Ngày vui có Bác (Xuman)
Sau 5 năm đất nước bước vào kỷ nguyên mới, triển lãm mỹ thuật toàn
quốc năm 1980 thực sự là một cuộc hội tụ lớn của nghệ thuật tạo hình
cả nước, là một bước tiến nhảy vọt, bộc lộ tiềm năng sáng tác mới hứa
hẹn bước phát triển mạnh mẽ trong những năm tới - nhất là về mặt
ngôn ngữ nghệ thuật. Tiêu biểu một số tác phẩm như: Tượng Bác Hồ
bên suối Lênin (Diệp Minh Châu), Mẹ chiến sỹ (Hoàng Trầm), Đảo tiền
tiêu (Tạ Quang Bạo)
Ngày nay vẫn không ít nhiều tác giả vẫn đang rất say sưa với đề tài
cách mạng, tình cảm, tình quân dân, tuy cuộc kháng chiến đã qua
những ký ức trong một số người hoạ sỹ lão thành vẫn còn như ngày
nào. Họ một phần phục hồi lại ảnh cũ, một phần họ vẽ theo sự hồi
tưởng, ký ức của chính mình như tác phẩm: Bà má Mậu Thân là tác
phẩm với chất liệu phấn màu, bố cục chỉ có bà mẹ với người lính trẻ.
Nhưng gây cho người độc một cảm giác ấm áp, chứa chan tình cảm, và
trên khuôn mặt của bà má Mậu Thân này có vẻ gì đó trầm tư, chịu
nhiều đau khổ, có thể người phụ nữ này đã khóc rất nhiều, nhưng
khuôn mặt này thật hiền hậu, tiêu biểu của các bà mẹ miền Nam anh
hùng, còn anh lính trẻ trong vòng tay của " m á" mắt nhìn xuống, hình
như anh đang suy nghĩ, đang cảm nhận tình cảm thiêng liêng ấy. Đây
quả là một tác phẩm đẹp cả về nội dung lẫn bố cục, là móc xích giữa
nghệ thuật thời thống nhất với kháng chiến.
Không riêng nội dung thay đổi mà chất liệu mỹ thuật thời nay cũng đa
dạng, phong phú hơn rất nhiều, các hoạ sỹ hầu như không bị gò bó vào
một khuôn khổ nào, họ thoả thích sáng tác, chất liệu mỗi người một
khác nhau: mau dầu, sơn dầu, phấn màu, mực nho, mực bột, sơn mài
sự đa dạng của chấ liệu, đã nâng cao phong phú cho các tác phẩm.
Với sự hoà nhập thực sự của nghệ sỹ hai miền Nam - Bắc và sự có mặt
của các hoạ sỹ lão thành: Nguyễn Văn Tỵ, Lương Xuân Nhị, Nguyễn
Tự Nghiêm đã góp phần làm cho mỹ thuật Việt Nam có sự phát triển
hẳn lên, có sự tìm tòi là dấu hiệu của việc đổi mới nghệ thuật, báo hiệu
trước cho sự đổi mới của xã hội một xã hội văn minh - giàu mạnh.
Sau đại hội Đảng thứ 6 (1986) khẳng định đổi mới chiến lược cách
mạng mở cửa đất nước, làm bạn với các nước, chuyển dần sang kinh tế
thị trường, mọi người, mọi ngành phải " tự cởi trói " thì mỹ thuật cũng
cuốn vào dòng chảy ấy với sự nỗ lực của cả thế giới, của từng người.
Đại hội lần thứ 3 của Hội nghệ sỹ tạo hình Việt Nam (1989) khẳng
định: Đã có một thời kỳ rất sôi nổi nhờ sự tham gia tự nguyện sáng tác
của hội viên, đã chủ động tạo ra một không khí dôi nổi trong cả nước
và xác định mạnh mẽ vai trò văn hoá xã hội của nghệ thuật tạo hình có
thể coi đây là giai đoạn tổng kiểm kê các tiềm năng mỹ thuật. Chỉ trong
vòng có 5 năm (1984 - 1989) mà đã có 118 triển lãm của 3778 lượt tác
giả trưng bày 8879 tác phẩm là cả một sự " bung ra " với nhiều đề tài
"đ ời thường ", thể loại tranh hoành tráng, phong cảnh, tượng đài, tranh
tĩnh vật (tĩnh vật hoa) sơn dầu của hoạ sỹ Lưu Yên khối mảng rất rõ rệt,
màu sắc hài hoà, mạnh mẽ nhưng không cứng nhắc, là một bức hoạ
đẹp, cân đối. Thể hiện thật tinh tế, giản dị nhưng rất nghệ thuật
Giờ đây các hoạ sỹ đều xâm nhập, sâu sát với xã hội, làng xóm để lấy
tình cảm hứng sáng tác tranh, có những tác phẩm rất mộc mạc chân quê
như tác phẩm: Vợ chồng người hàng nước cũng với bố cục gồm hai
người, xung quanh họ là những đồ dùng thô sơ, giản dị, cốc nước, ấm
không khí thật ấm cúng khối mảng rõ ràng, được sáng tác 1996
Tác phẩm " Ngày mùa ở Đông Anh Hà Nội " là tác phẩm ca ngợi về
nông nghiệp, chất liệu bằng màu dầu, tác giả dựng lên một bố cục hài
hoà cân đối, những đống rơm cao ngất, một người phụ nữ đang làm
việc một con trâu và một người con trai đang gánh cũng chỉ hai người
nhưng nhìn vào có cái gì đó rất đậm không khí miền quê: yên tĩnh,
thanh bình đây cũng là một đề tài được rất nhiều hoạ sỹ thành thị ưa
thích, họ đã có những chuyến đi xâm nhập ở nông thôn hàng tháng có
khi cả đời để tìm động lực sáng tác. Ngoài ra còn có tác phẩm bằng lụa
của Ngô Minh Cầu cũng đề tài những con người nơi thôn quê cùng con
trâu.
Nhìn chung các hoạ sỹ thời nay đã tìm cho mình một con đường riêng,
thể hiện với một thái độ tình cảm trong toàn tác phẩm, chính vì vậy mỗi
tác phẩm ra đời là một niềm vui lớn với họ, họ coi tác phẩm như "đ ứa
con " của họ, họ nâng niu trân trọng. Bước sang thập kỷ 90, công cuộc
đổi mới đã có kết quả rõ rệt, đất nước khởi sắc hẳn lên, mỹ thuật cũng
đạt được những thành tựu rự rỡ. Các ngành đều có hoạt động sôi nổi
nền hội hoạ có những ưu thế thuận lợi về cách hoạt động và thu hút
được nhiều hướng đi vào đời sống: tượng đài, đài tưởng niệm ở các
trung tâm của các thành phố lớn, xuất hiện nhiều công trình kiến trúc
có quy mô lớn bằng chất liệu vững, nhiều cuộc triễn lãm đã cùng diễn
ra trong một lúc, triển lãm hội hoạ ngày nay đã trở thành sinh hoạt cập
nhật của xã hội, hàng loạt các phòng tranh cứ mọc lên khắp nơi, nhưng
tất cả không phải đều là tác phẩm kiệt tác, có thể có nhiều tác phẩm
không mang một nội dung cụ thể nào, cứ lan man một phần cũng do cơ
chế thị trường chạy theo lợi nhuận đồng tiền, họ đã đánh mất đi vẻ đẹp
của " mỹ thụât ". Nhưng nhìn chung số lượng đó rất ít ỏi, bên cạnh có
nhiều hoạ sỹ đã tổ chức cuộc triển lãm của mình ở nước ngoài, họ được
hoạ sỹ nước bạn đánh giá rất cao đưa nền mỹ thuật nước nhà lên tầm
cao mới.
Ngày nay mỹ thuật được dựa vào cuộc sống rất nhiều, nó phổ biến,
đem lại sự vui vẻ hay sự suy tư cho cuộc sống con người: tranh ảnh,
tranh tết, tranh cổ động, quảng cáo đều mang chất nghệ thuật, nhu cầu
cuộc sống đòi hỏi cái đẹp ngày một cao hơn, nhiều hơn gấp bội.
Mỹ thuật Việt Nam đã có vạn năm phát triển kể từ văn hoá hoà bình
trên lịch trình ấy có lúc chậm, lúc nhanh, thậm chí có giai đoạn mà tư
liệu hiện nay còn thiếu vắng nhưng sự phát triển là rõ ràng, với đỉnh
cao là trống đồng Đông Sơn, chùa tháp trong thời quân chủ Phật giáo,
là đình làng trong thời quân Nho giáo.
Từ đầu thế kỷ XX đến nay đã có sự chuyển hướng hoà nhập với nhiều
giá trị tạo hình của nhân loại nhưng mang diện mao riêng. Mỹ thuật
thời hiện đại là giai đoạn phát triển nhất, mỹ thuật đã làm đẹp cho xã
hội, là biểu hiện cho trình độ văn hoá - văn minh Việt Nam, là vũ khí
đấu tranh cho tiến bộ xã hội và ngày nay đang gắn chặt với sự nghiệp
phát triển của đất nước theo hướng giàu sang.
Cuộc sống con người cơ bản về vật chất đã đầy đủ, thì nhu cầu về mặt
tinh thần của họ cũng càng cao hơn, họ đi tìm cái đẹp trong hội hoạ,
chính thế mỹ thuật càng ngày càng phát triển nhằm phục vụ cuộc sống.