GIỚI THIỆU KIẾN THỨC MỸ THUẬT VIỆT NAM-
Mỹ thuật thời Lý
Tháng Tư 19, 2010 bởi khanhhoathuynga
PHẦN GIỚI THIỆU KIẾN THỨC MỸ THUẬT VIỆT NAM
KỶ NIỆM THĂNG LONG 1000 NĂM
Đón chào Thăng Long 1000 năm tuổi . Blog Khanhhoathuynga và Diễn Đàn Sưu Tầm
hân hạnh giới thiệu đến các bạn những tư liệu mỹ thuật qua các triều đại Lý , Trần ,
Lê , Tây Sơn , Nguyễn . Để các bạn tham khảo và nghiên cứu , hỗ trợ kiến thức sưu
tầm của các bạn .
Các tư liệu trên đều do bạn Đức Chính sưu tập và cung cấp cho diễn đàn . Thay mặt
Diễn Đàn xin chân thành cảm ơn Bạn Đức Chính .
Việc sử dụng lại các tư liệu trên , xin vui lòng liên hệ :
<>
MỸ THUẬT THỜI LÝ
MỸ THUẬT THỜI LÝ
Cuối thế kỷ thứ 10 , nước ta thoát ách đô hộ phương Bắc .trải qua hai triều Đinh , Lê
thống nhất nước nhà và chống tái ngoại xâm , đến thời lý , nghệ thuật phát triển
thăng hoa với bản sắc riêng nhằm hóa giải những ảnh hưởng cuả văn hóa Trung Hoa.
Hai triều Đinh , Lê đã tạo dựng một nhà nước có chủ quyền .Triều Lý nắm quyền có
ý thức phục hưng văn hóa dân tộc trên tinh thầncó sự giao thoa với văn hóa Chăm-
Ấn đã tạo cơ sở cho nghệ thuật tạo hình phát triển.Thêm vào đó , việc Phật Giáo trở
Quốc Giáo, tăng lữ có vị trí tinh thần trọng yếu đạo Phật được phổ cập đã là nhân tố
tác động vào hướng phát triển và phong cách nghệ thuật . Việc nước Đại Việt độc
lập , tự chủ, đủ sức mạnh chống ngoại xâm, trải qua nhiều năm thái bình thịnh
vượng cũng có tác động không nhỏ .
Nhà Lý ( Lý triều ) còn được gọi lànhà Hậu Lý( để phân biệt nhà Tiền Lý của Lý
Nam Đế )là một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam , bắt đầu khi vua Thái
Tổ lên ngôi tháng 10 âm lịch năm 1009 sau khi giành quyền lực từ tay nhà Tiền Lê và
chấm dứt khi vua Lý Chiêu Hoàng ,khi đó mới 8 tuổi bị ép thoái vị để nhường ngôi
cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm.Quốc hiệu Đại Việt
của Việt nam có từ tháng 10 âm lịch năm 1054 khi vua Lý thánh Tông lên ngôi . Ở
thời này có sự kiện đáng nhớ là việc dời đô Hoa Lư, một nơi xa đồng bằng Bắc Bộ ,
thưa dân , hiểm trở ra Đại La , rồi đổi tên là Thăng Long theo hình tượng con rồng ,
một hình tượng đặc thù của thời này. Quốc hiệu Đại Việt cũng được đặt ở thời kỳ
này.
Từ đời Lý,nho giáo bắt đầu có địa vị trong xã hội.Tuy thế ,chế độ giáo dục và thi cử
theo tinh thần nho giáo cũng chỉ mới bắt đầu . Số nho sĩ được tạo ra hãy còn quá ít ,
Phật giáo vẫn chiếm ưu thế và các nhà sư vẫn giữ vai trò quan trọng trong xã hội.
Phật Giáo : Phật Giáo được truyền bá rộng rãi trong quần chúng và có dấu ấn lên
mọi sinh hoạt văn hóa . Nhà vua và tầng lớp quý tộc rất tôn sùng đạo Phật .Tất cả
tám đời vua nhà Lý, vua nào cũng sùng tín đạo Phật .
Người khởi đầu nhà Lý là Lý Công Uẩn. Trong thời đại của vương triều này,lần đầu
tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyền một cách lâu dài đến hơn hai trăm năm ,
khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm, ngoài ra nhà Lý
còn bảo toàn và mở rộng lãnh thổ của mình . Trong nước , mặc dù các vua đều sung
đạo Phật , nhưng ảnh hưởng của Nho Giáo đã bắt đầu lớn dần ,với việc mở trường
đại học đầu tiên là Văn Miếu (1070) và Quốc Tử Giám (1076) và các khoa thi để chọn
người hiền tài không có nguồn gốc xuất thân là quý tộc ra giúp nước . Khoa thi đầu
tiên được mở vào năm 1075 .Về thể chế chính trị , đã có sự phân cấp quản lý rõ ràng
hơn và sự cai trị đã dựa nhiều vào pháp luật hơn là sự chuyên quyền độc đoán của cá
nhân . Sự kiện nhà Lý chọn thành Đại La làm thủ đô ( sau là Thăng Long tức là Hà
Nội ngày nay )đánh dấu sự cai trị dựa vào sức mạnh kinh tế và lòng dân hơn là sức
mạnh quân sự để phòng thủ như các triều đại trước.
NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC THỜI LÝ
Tháng Tư 21, 2010 bởi khanhhoathuynga
NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC
Kiến trúc phát triển mạnh dưới thời nhà Lý và chịu ảnh hưởng của Phật Giáo rất sâu
đậm .cung điện , lâu đài ,thành quách và chùa tháp được xây dựng với quy mô lớn .
Thành Thăng Long là một công trình xây dựng lớn trong các triều đại phong kiến
.Thành gồm hai vòng dài khoảng 25km .Trong hoàng thành có những cung điện cao
đến bốn tầng
Lý Công Uẩn lên ngôi vua , sáng lập vương triều Lý(1009-1225) tại kinh đô Hoa Lư
(Ninh Bình) ngày 2-11 Kỷ Dậu(21-11-1009) .Tháng 7 mùa thu năm 1010, nhà vua dời
đô từ Hoa Lư về thành Đại La đổi tên là Thăng Long. Ngay trong mùa thu năm đó ,
nhà Lý đã khẩn trương xây dựng một số cung điện làm nơi ở và làm việc của vua ,
triều đình và hoàng gia .Trung tâm là điện Càn nguyên , nơi thiết triều của nhà vua,
hai bên là điện Tập Hiền và Giảng Võ , phía sau là điện Long An , long Thụy làm nơi
vua nghỉ . Đến cuối năm 1010 , 8 điện 3 cung đã hoàn thành .Những năm sau , một số
cung điện và chùa tháp được xây dựng thêm . Một vòng thành được bao quanh các
cung điện cũng xây đắp trong năm đầu , gọi là Long Thành hay Phượng Thành .Đó
chính là Hoàng Thành theo cách gọi phổ biến về sau này . Thành đắp bằng đất , phía
ngoài có hào , mở 4 cửa : Tường Phù ở phía đông , Quảng Phúc ở phía tây , Đại hưng
ở phía nam , Diệu Đức ở phía bắc .Trong Long Thành có một khu vực được đặc biệt
bảo vệ gọi là Cấm Thành là nơi ở và nghỉ ngơi của vua và hoàng gia . Trong đời Lý ,
các kiến trúc trong Hoàng Thành còn qua nhiều lần tu sửa và xây dựng thêm .Long
Thành và Cấm Thành là trung tâm chính trị của kinh thành .Phía ngoài cùng với một
số cung điện và chùa tháp là khu vực cư trú , buôn bán , làm ăn của dân chúng gốm
các bến chợ , phố phường và thôn trại nông nghiệp . Một vòng thành bao bọc toàn bộ
khu vực này bắt đầu được xây đắp từ năm 1014, gọi là thành Đại la hay La Thành .
Trong những biến loan cuối thời Lý , Hoàng Thành bị tàn phá nặng nề . sau khi
thành lập , nhà Trần phải đắp lại thành , xây lại các cung điện , nhưng vị trí qui mô
của Hoàng Thành , thường gọi là Long Phượng Thành không thay đổi .
Thời Lê sơ,Hoàng Thành nhiều lần được tu bổ và mở rộng thêm mà trung tâm điểm
là điện Kính Thiên dựng năm 1428 xây dựng lại năm 1465 với lan can bằng đá chạm
rồng năm 1467 nay vẫn còn trong thành Hà Nội . Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) , vua
Lê Thánh Tông định bản đồ cả nước gồm 13 thừa tuyên Và phủ Trung Đô tức thành
Đông Kinh thời Lê sơ. Tập bản đồ thời Hồng Đức thứ 21 (1490), vua Lê Thánh Tông
định bản đồ Hống Đức còn lại đến nay đã qua nhiều lấn sao chép lại về sau ,nhưng
vẫn là tập bản đồ xưa nhất của nước Đại Việt sang thời Nguyễn , thành Hà Nội do
vua Gia Long xây năm 1805 theo kiểu Vauban không những hạ thấp độ cao mà còn
thu nhỏ qui mô so với Hoàng Thành của Thăng Long xưa . Tuy nhiên trục trung tâm
Đoan Môn Kính Thiên của Hoàng Thành Thăng Long thời Lê vẫn không thay đổi và
trên trục này thêm cột cờ, Cửa bắc thời Nguyễn
Kiến trúc thời Lý phục vụ Phật Giáo , rất nhiều Quốc Tự được xây dựng .Phong cách
thống soái là hoành tráng , đồ sộ.Chùa một cột ( Chùa Diên Hựu)được xây dựng ở
Thăng Long với quy mô lớn hơn ngôi chùa đã có trước đó ở Hoa Lư và với sự cách
điệu tuyệt diệu . Việc xây dựng các chùa tháp rất được coi trọng . Năm 1031 Lý Thái
Tông cho xây dựng 950 ngôi chùa .Năm 1056 Lý Thánh Tông lập chùa Sùng Khánh ở
phường Báo Thiên, phải dùng 11 ngàn cân đồng để đúc chuông chùa , năm sau lại
dựng Tư Thiên Bảo Tháp trước chùa Báo Thiên ,cao vài chục trượng (khoảng 50-60
m)và có 30 tầng . Ngoài ra còn có nhiều chùa tháp khác cũng đồ sộ và huy hoàng
không kém .
Chùa Báo Ân và tháp Báo Thiên cao khoảng 70m .Chùa Phật Tích- Bắc Ninh , chùa
Long Đọi –Hà nam , Chùa Bà Tấm – hà Nội ,chùa Quảng Giáo –Quảng Ninh đều là
những chùa lớn .
Kiến trúc chùa tháp thời Lý đều to lớn , cao . Các chùa thường nằm trên đỉnh núi cao
.cấu trúc và bố cục chùa tháp đơn giản , chỉ gồm một ngôi chùa chính và một ngọn
tháp lớn có đáy vuông .Điều này phản ánh tư tưởng giản dị , phóng khoáng của người
thời Lý .Trang trí tháp chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Chăm , với các hình chim
thần ( Garuda ), nữ thần đầu người mình chim , có lẽ do việc bắt những tù binh
Chăm sau cuộc nam chinh của Lý Thánh Tông. Vì thế ấn tượng của ngọi chùa Lý rất
độc đáo : Vùa tôn nghiêm , hùng vĩ , đường bệ bởi không gian và đường sống kiến
trúc , vùa phóng khoáng lãng mạn bởi gần thiên nhiên, vừa sinh động , lý thú với các
trng trí mang hơi hướng Chăm .
Chùa Một Cột hay chùa Mật ( gọi theo Hán Việt là Nhất Trụ Tháp ) còn có tên khác
là Diên Hựu hoặc Liên Hoa Đài ( Đài hoa sen ) , là môt ngôi chùa nằm giữa lòng thủ
đô Hà Nội .Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam .
Chùa được khởi công xây dựng vào mùa đông tháng mười âm lịch năm 1049 .Chùa
chỉ có một gian nằm trên một cột đá ở giữa Hồ Linh Chiểu nhỏ có trồng hoa sen .
Truyền thuyết kể lại rằng, chùa được xây dựng theo giấc mơ của vua Lý thái Tông
(1028-1054)và theo gợi ý của nhà sư Thiền Tuệ .vào năm 1049 vua đã mơ thấy được
Phật Bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên tòa . Khi tỉnh dậy,nhà vua kể chuyện
đó lại cho bày tôi và được nhà sư Thiền Tuệ khuyên dựng chùa , dựng cột đá như
trong chiêm bao , làm tòa sen của Phật Bà Quan Âm đặt trên cột như đã thấy trong
mộng và cho các nhà sư đi vòng xung quanh tụng kinh cầu kéo dài sự phù hộ , vì thế
chùa mang tên Diên Hựu .
Đến năm 1105 , vua Lý Nhân Tông cho sửa ngôi chùa và cho dựng trước sân hai tháp
lợp sứ trắng . Năm 1108 Nguyên Phi Ỷ lan sai bày tôi đúc một cái chuông rát to ,nặng
đến môt vạn hai nghìn cân , đặt tên là Giác Thế Chung ( quả chuông thức tỉnh người
đời ).Đây được xem là một trong tứ đại khí- bốn công trình lớn của Việt nam thời đól
là : Tháp Báo Thiên ,chuông Qui Điền , vạc Phổ Minh và tượng Quỳnh Lâm . Giác
Thế Chung đúc xong nặng quá không treo lên được , để dưới mặt đất thì đánh không
kêu .Người ta đành bỏ chuông xuống một thửa ruộng sâu bên chùa Nhất Trụ , ruộng
này có nhiều rùa , do đó có tên là La Quy Điền chuông (chuông ruộng rùa ).
Đến thế kỷ 15 , giặc Minh xâm lược , chiếm thành Đông Quan ( Hà Nội ).Năm 1426
Lê Lợi đem nghĩa quân lam Sơn ra đánh ,vây thành rất gấp .quân Minh thiếu thốn
vũ khí đạn dược, tướng Minh là Vương Thông bèn sai người đem phá chuông Quy
Điền lấy đồng .Quân Minh thua trận , nhưng chuông Quy Điền thì không còn nữa .
Đến thời nhà Trần , chùa đã không phải là ngôi chùa nhà Lý nữa vì sách cũ đã ghi :
Năm 1249 :”…mùa xuân , tháng giêng , sửa lại chùa Diên Hưu ,xuống chiếu vẫn làm
ở nền cũ…” chùa đã qua nhiều đợt tu sửa .Đợt tu sửa chữa lớn vào năm Thiên Ứng
Chính Bình 18 ( 1249 ) gần như phải làm lại toàn bộ. Thời Lê ,triều đình nhiều lần
cho tu sửa , thu nhỏ kích thước đài sen và cột đá . Năm 1838, tổng đốc Hà Ninh Đặng
Văn Hòa tổ chức quyên góp thập phương sửa chữa điện đường , hành lang tả hữu
,gác chuông và cửa tam quan . Năm 1852, bố chính Tôn Thất Giáo xin đúc chuông
mới . Năm 1864 , tổng đốc Tôn Thất Hàm hưng công trùng tu , làm sàn gỗ hình bát
giác để đỡ tòa sen , chạm trổ thêm công phu tráng lệ . năm 1954 ,trước khi rút khỏi
Hà Nội , quân Pháp đã đặt mìn phá đổ chùa . Sau ngày tiếp quản thủ đô , Bộ văn hóa
đã cho tu sửa chùa một cột theo đúng kiểu mẫu cũ để lại từ thời Nguyễn .
Cạnh chùa Một Cột ngày nay còn có một ngôi chùa có cổng tam quan , với ba chữ
“:Diên Hựu Tự “ , là một ngôi chùa mới được xây dựng phụ vào với chùa Một Cột ,
xây khoảng đầu thế kỷ 18 .
Chùa Phật Tích ( Phật Tích Tự ) còn gọi là chùa Vạn Phúc ( Vạn Phúc Tự ) là một
ngôi chùa nằm ở sườn phía nam núi Phật Tích ( còn gọi núi Lạn Kha , non tiên ), xã
Phật Tích , huyện Tiên Du , tỉnh Bắc Ninh . Trong chùa có tượng Đức Phật bằng đá
thời nhà Lý lớn nhất Việt Nam. Chùa Phật Tích được công nhận là di tích Lịch sử
văn hóa đặc biệt quan trọng của quốc gia .
Theo tài liệu cổ thì chùa Phật Tích được khởi dựng vào năm Thái Bình thứ tư ( 1057 )
với nhiều tòa ngang dãy dọc . Chùa được xây dựng vào thời nhà Lý . Ngôi chùa vào
thời nhà Lý hiện nay không còn nữa .
Năm 1066 , vua Lý Thánh Tông lại cho xây dựng một ngôi tháo cao . sau khi tháp đổ
mới lộ ra ở trong đó có bức tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh nguyên khối được dát
ngoài bằng vàng . để ghi nhận sự xuát hiện kỳ diệu của bức tượng này , xóm Hỏa Kê (
cạnh chùa ) đổi tên thành thôn Phật Tích .
Văn bia Vạn Phúc Đại Thiền Tự Bi năm Chính Hòa thứ bảy ( 1686 )ca ngợi vẻ đẹp
của cạnh chùa :” Đoái trông danh thắng đất Tiên Du , danh sơn Phật Tích , ứng thế ở
Càn Phương( hướng Nam ) có núi Phượng Lĩnh bao bọc , phía tả Thanh Long nước
chảy vòng quanh . Phía Hữu Bạch Hổ núi ôm , trên đỉnh nhà khai bàn đá …”
Năm 1071 , vua Lý Thánh Tông đi du ngoạn khắp vùng Phật Tích và viết chữ “Phật”
dài tới 5m , sai khắc vào đá đặt trên sườn núi . Bà Nguyên Phi Ỷ lan có đóng góp
quan trọng trong bưởi đầu xây dựng chùa Phật Tích .
Vào thời nhà Lê , năm Chính Hòa thứ bảy đời vua Lê Hy Tông , năm 1686 , chùa
được xây dựng lại với quy mô rất lớn , có giá trị nghệ thuật cao và đổi tên là Vạn
Phúc Tự .
Nhưng rồi vẻ huy hoàng và sự thịnh vượng của chùa Phật Tích cũng chỉ tồn tại su đó
được gần 300 năm .kháng chiến thực dân Pháp bùng nổ và Chùa bị tàn phá nhiều .
Chùa đã bị quân đội Pháp đốt cháy hoàn toàn vào năm 1947 .
Khi hòa bình lập lại (1954)đến nay , Chùa Phật Tích được khôi phục dần . năm 1959 ,
bộ văn hóa cho tái tạo lại 3 gian chùa nhỏ làm nơi đặt pho tượng A Di Đà bằng đá
quý giá .Tháng 4 năm 1962 , nhà nước công nhận chùa Phật tích là Di tích Lịch Sủ
văn hóa .
Chùa được kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc“ , sân chùa là cả một vườn hoa
mẫu Đơn rực rỡ . Bên phải Chùa là miếu thờ Đức Chúa tức bà Trần Thị Ngọc Am là
đệ nhất cung tần của chúa Trịnh Tráng tu ở chùa này .
Cho tới nay , Chùa Phật Tích có 7 gian tiền đường để dùng vào việc đón tiếp khách , 5
gian bảo thờ Phật , Đức A Di Đà cùng các vị Tam Thế Phật , 8 gian nhà tổ , và 7 gian
nhà thồ Thánh Mẫu .
Ngôi Chùa có kiến trúc của thời Lý , thể hiện qua ba bậc nền bạt vào sườn núi .các
nền hình chữ nhật dài khoảng 60m rộng khoảng 33m , mặt ngoài bố trí các tảng đá
hình khối hộp chữ nhật .
Chùa Dạm căn cứ vào các thư tịch cổ , Chùa Dạm được Vua Lý Nhân Tông (1072-
1127 ) cho xây dựng vào năm Quang Hựu thứ hai ( 1086 ).Để tiện vận chuyển nguyên
vật liệu phục vụ công trình , vua cho đào ngòi Con Tên từ chân núi Lãm Sơn chạy
thẳng ra sôngĐuống .Năm 1087 , “Vua ngự đến chùa Lãm Sơn , đến đêm ban yến cho
các quan .Vua làm 2 bài Lãm Sơn dạ yến” công trình làm trong 9 năm mới xong .Vua
ban tên Chùa là Cảnh Long Đồng Khánh, lại thân đề biển bằng chữ triện .
Năm long phù nguyên hóa thứ 5 (1105) , Vua Lý Nhân Tông cho xây thêm ba tháp đá
nữa .Chùa làm xong(1094), vua ban 300mẫu ruộng tự điền để nhà chùa có hoa lợi
hương khói và 7 gia đình ở mé dưới núi được giao việc chuyên đóng mở cửa chùa.
Chùa đặt ở sườn núi phía nam của dãy Lãm Sơn , chính giữa ngọn cao nhất .Núi Rùa
làm tiền án , ngòi Con Tên làm Minh Đường bên tả có thanh Long ,bên hữu có Bạch
Hổ chầu về .Chùa Dạm hội tụ đủ huyết mạch linh thông theo thuyết phong thủy .
Chùa dựa hẳn vào sườn núi và 4 lớp nền đá trườn theo sườn núi vừa tôn tầm cao
công trình vừa tạo dáng vẻ uy nghi êm hài hòa với cảnh quan thiên nhiên chung
quanh . hơn nữa tránh được nạn lụt lội ở vùng “rốn nước “ Quế Võ lắm đồng sâu
ruộng trũng . chiều dài của lớp nền 120m , chiều rộng 70m ( Chùa Phật Tích là 100m
và 60m ).Tổng cộng diện tích gần 8000m vuông ,Bốn lớp nền được bó ghép bằng đá
tảng (mỗi viên có kích thước 50×60 cm) các lớp đá được cấu tạo choãi chân đế ,chếch
khoảng 70 độ ,và có độ cao 5-6m .
Chùa Long Đọi Sơn còn có tên chữ là Diên Linh Tự do Vua lý Thánh Tông và Vương
Phi Ỷ Lan chủ trì xây dựng từ năm 1054 .Đến đời Lý Nhân Tông nhà vua này tiếp tục
xây dựng phát triển và xây tháp Sùng Thiện Diên Linh từ năm 1118 đến năm 1121.
Sau ba trăm đứng vững thì đến đầu thế kỷ XV , khi giặc Minh xâm lược nước ta ,
chùa và tháp bị phá hủy hoàn toàn .Riên bia thì không phá nổi , chúng đả lật đổ
xuống bên cạnh núi , ngôi chùa đã trở nên hoang phế hoàn toàn . Mãi đến năm Tự
Đức thứ 13 ( 1860 ) nghĩa là 170 năm sau khi giặc Minh tàn phá nhân dân trong vùng
mới cho sửa sang lại Thượng Điện , Tiền Điện , gác chuông , nhà tổ …đến năm 1864 ,
chùa lại tiếp tục sửa hành lang , đúc tượng Di Lặc , đúc khánh đồng và đúc khánh đá
do sư tổ đời thứ 5 là Thích Chiếu Trường chủ trì xây dựng hoàn chỉnh 125 gian , từ
đó trở thành trường Bắc Kỳ Phật Giáo .Ngôi chùa này được xây dựng theo kiểu nội
công ngoại quốc . Tại tiền đường, thượng điện tượng Phật rất nhiều .hai bên Chùa là
18 gian hành lang thờ Thập bát La Hán .