Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

DẤU ẤN MỸ THUẬT LÀNG TRONG DI TÍCH ĐỀN VUA ĐINH VUA LÊ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.8 KB, 8 trang )

DẤU ẤN MỸ THUẬT LÀNG TRONG DI TÍCH
ĐỀN VUA ĐINH VUA LÊ

Người làng Trường Yên lập đền thờ vua Đinh vua Lê cũng như làng Đông
Hồ có vẽ tranh thờ Đinh Tiên Hoàng theo cách riêng của mình. Trên chiếc
sập đá bệ rồng ( đền vua Đinh) có những con tôm con cá, con chim con
chuột đặt cạnh con rồng năm móng cũng như hình ảnh người anh hùng cởi
trần đóng khố trong diện mạo trẻ con ( tranh Đông Hồ) không một tấc sắt
trên người có vẻ như thật khó hình dung trong một xã hội phong kiến
phương Đông.
Điều thú vị và cũng hết sức phức tạp đối với việc tìm hiểu và nghiên c
ứu mỹ
thuật Việt Nam là mối quan hệ giữa dân gian và bác học được dung hợp và
nhuần nhuyễn trong văn hóa làng. Nhân kỷ niệm 1000 năm nhà Lý lên ngôi
ở Hoa Lư, bài viết xin trở lại nơi chôn rau cắt rốn một trong những vương
triều vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc.
1. Một cái nhìn cận cảnh về văn hóa làng qua bia ký
ở hai ngôi đền vua Đinh
vua Lê là việc khảo sát các dữ liệu lịch sử, văn hóa, xã hộ và tín ngưỡng
được ghi lại trên 7 chiếc bia đá hiện tồn. Trong cuốn Địa chí văn hóa dân
gian Ninh Bình ( Trương Đình Tưởng chủ biên) hay cuốn Ninh Bình một
vùng sơn thủy hữu tình (Lã Đăng Bật) có nêu lên một vài chiếc bia đá ở hai
ngôi đền này. Tiếc là phần dịch và chú thích văn bia chỉ tập trung vào nội
dung ca ngợi công đức của các bậc tiên đế, những chi tiết về năm tháng
dựng bia, người soạn bia, người viết chữ, người đục bia, người công đức đôi
khi lại bị bỏ qua.
Đền vua Đinh và vua Lê là thuộc về hai xã Trường Yên thượng và Trường
Yên hạ. Đây là một trong vài ngôi đền to nhất Việt Nam còn sót lại tới hôm
nay. Trên văn bia, người xưa chỉ gọi là miếu, như “ Tiền triều Đinh Tiên
Hoàng đế miếu bia ký công đức tịnh minh”. Quy mô kiến trúc mà ta thấy
hiện nay to lớn hơn nhiều thời kỳ sơ khai ban đầu. Qua các các triều đại, hai


ông vua được phong tặng nhiều mỹ hiệu. Vốn ngôi đền có từ thời Lý, sau
khi Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long. Dân chúng xưa sống bên ngoài
thành Hoa Lư nhân cơ đó vào sinh sống trong thành. Rồi trên nền cung điện
cũ xây cất lên ngôi đền thờ chung cho cả vua Đinh và vua Lê. Tương truyền
có thờ tượng Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành và thái hậu Dương Văn Nga.
Chiếc bia Trùng tu tạo tác thánh tượng Lê Đại Hành hoàng đế bi ký tịnh
minh, làm cho ta lưu ý tới chữ “trùng tu”.
Trong chiếc bia “Tiền triều Lê Đại Hành hoàng đế miếu công đức bi ký tịnh
minh” có ghi năm Bính Ngọ Hoằng Đinh năm thứ 7 (1606) giao cho bản
huyện xã Trường Yên hạ chăm lo việc hương hỏa đền vua Lê ( các vị vua
giờ đây đã trở thành các vị thần phù hộ cho dân làng). Cũng tượng tự như
vậy trong chiếc bia ở đền vua Đinh làm năm Chính Hòa thứ 17 nhắc đến
việc thờ tự hương hỏa của xã Trường Yên thượng.
Đền thờ một ông vua nhưng là sở hữu của một làng một xã cụ thể. Đúng nh
ư
dân gian có câu: Chuông làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ.
Nên khi nhìn vào danh sách công đức chúng ta hình dung được các vị chức
sắc, các gia tộc trong làng xã thời đó. Chiếc bia cuối cùng khắc năm Thiệu
trị thứ 3 ( 1843) cũng thấy rất nhiều tên tuổi các cựu lý trưởng, ông cai nọ,
ông xã trưởng kia và các họ tộc trong làng. Trong danh sách công đức đắp
tượng thần bắt đầu bằng đương lý trưởng Nguyễn Thời Lập, tiền xã trưởng
Dương Trung Thỏa. Cho nên nhìn vào danh sách các tên tuổi công đức ta
không thấy cá nhân hay gia tộc họ Đinh nào, trong khi đó lại thấy những họ
Dương, họ Bùi, họ Phạm, họ Nguyễn, họ Ngô Như th
ế miếu thờ vua Đinh,
vua Lê chưa bao giờ là của riêng một dòng họ Đinh, họ Lê nào cả.
Vua Đinh - vua Lê giờ đây trở thành một thượng đẳng thần không của riêng
một dòng họ nào.
1.2 Chiếu làng đủ mặt công hầu khanh tướng
Ba chiếc bia thời Hoằng Định là ba chiếc bia đầu tiên ở di tích này đều do vị

tiến sỹ đỗ khoa thi Tân Mùi (1571) Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, đương
chức Hình bộ thượng thư kiêm Đông các Học sỹ Quốc tử giám Tế tử Nghĩa
khê hầu trụ quốc Nguyễn Lễ soạn.
Với vị thế của Thượng phụ Bình An vương Trịnh Tùng và Đô đốc Bùi Thời
Trung thì việc có một ông tiến sỹ đức cao vọng trọng đứng ra lo việc soạn
văn bia mới thật xứng tầm. Nhưng ngay ở trên những tấm bia này chúng ta
vẫn thấy sự hiện diện của những tên đất tên người của hai làng Trường Yên
thượng hạ và các làng xã ở miền quê khác sẽ thấy ở phần sau.
Chiếc bia thứ tư là bia ở đền vua Đinh khắc năm Chính Hòa thứ 17 ( 1696)
cũng là một tiến sỹ họ Nguyễn, từng giữ chức Hàn lâm đã về hưu. Người
viết chữ Hán là Trần Đạo tự Truy Lưu hiệu Từ Tế Chân Nhân, trụ trì chùa
Kim Cương ( Kim Cương là ngôi chùa cổ đã mất chỉ còn dấu tích trên núi
Thiên Long). Một ông quan đã về hưu, một vị nhân sĩ đã xuất gia soạn và
viết ra cho thấy việc trùng tu thời Chính Hòa này là tâm nguyện của dân xã
Trường Yên hơn là do sự thôi thúc của vương triều.
Chiếc bia cuối cùng thời Thiệu Trị thứ ba thì người soạn là một vi
ên quan có
tên Trần Chương soạn, được một ông đồ trong xã có tên là Nguyễn Thì Huệ
viết.
1.3 Tên tuổi quê quán những người thợ qua bia ký
Trên 82 chiếc bia ở Văn Miếu, chúng ta đã đôi lần nhìn thấy dòng chữ ghi
tên họ những người thợ đá. Ví dụ trên tấm bia Đề danh tiến sỹ năm Giáp
Thìn niên hiệu Bảo Thái thứ năm (1724) có lưu hàng chữ “ thạch công Gia
Lâm huyện Kiêu Kỵ xã Phạm Thụ ích”. Bia ở Văn Miếu là h
ạng bia đá cung
đình nên sự xuất hiện hàng chữ này cũng là chuyện lạ. Còn bia đá ở đền hai
vua Đinh Lê ở đây, dẫu sao nó cũng là những chiếc bia đá đặt ở l
àng. Chúng
ta sớm thấy sự xuất hiện tên tuổi, quê quán những người thợ. Bia Trùng tu
tạo tác thánh tượng Lê Đại Hành hoàng đế bi ký tịnh minh có ghi tượng làm

tại Thạch Thành, Thanh Hóa. Bia Tiền Đinh Tiên Hoàng đế tăng tu điện
miếu công đức bi ký”đời Chính Hòa cho biết người thợ đá tài hoa tên là Lê
Nhân Phú quê ở xã An Hoạch, huyện Đông Sơn Thanh Hóa. Bia Tiền triều
Đinh Tiên Hoàng đế miếu công đức bi ký có ghi lưu lại tên người thợ đá
Nguyễn Như Lâm, một người thợ mộc họ Hoàng ( chữ mờ không rõ tên).
Việc lưu lại danh tính của những người thợ đá có lẽ chỉ phụ thuộc vào ngư
ời
viết chứ không phụ thuộc vào người soạn. Cho nên, nhờ ngòi bút của nguời
xuất gia tu hành hay một nhân sỹ của làng mà chúng ta được biết họ tên của
những người thợ tài hoa. Những người thợ từ một làng quê này tới làm
tượng, đúc chuông xây đền cho một làng khác, có lẽ vì vậy cái “làng” trong
mỹ thuật ở đền vua Đinh - vua Lê là rất rõ.
2. Độ khúc xạ của địa văn hóa làng
Những dấu ấn văn hóa Hán - Mãn (Trung Hoa) đến từ một địa khí hậu Lạnh-
Khô. Văn hóa này bị khúc xạ trong một môi trường nóng - ẩm sau lũy tre
làng ở Hoa Lư (Bắc Bộ -Việt Nam). Nếu như rồng hay kỳ lân ở Trung Hoa
thường xuất hiện cùng mây, gió thì sang đến Việt Nam, nó đã bị gắn vào
môi trường sông nước. Làng nước như ở đồng bằng Bắc Bộ, trước hết là
những ngôi làng ven sông, nhìn đâu cũng thấy ao hồ, đầm phá. Địa văn hóa
của mảnh đất Hoa Lư vốn càng như vậy. Con rồng phun nước chứa đựng
những ước mong “lạy trời mưa xuống” của các cư dân lúa nước. Mây nước
là cụm từ chỉ có trong tiếng Việt, không có trong tiếng Hán. Người Trung
Hoa nói mây là liên tưởng tới gió, nói mây là ngh
ĩ ngay đến khói, đến những
đám mây ngũ sắc, còn người Việt nhìn mây là nghĩ ngay tới nước. Thế nên
cạnh bên những con rồng rất Trung Hoa là những con cá con tôm tung tăng
trong các đám mây. Dễ nhận thấy những nét tương đồng, ảnh hưởng của
cách tạo hình ở những bức long bệ thạch (bức bệ rồng) ở các cung điện đền
đài Trung Hoa với các sập rồng ở đền vua Đinh. Nhưng cũng chính ở đây
chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy những dấu ấn mỹ thuật của văn hóa Làng -

Nước của người Việt.
Bức phù điêu Long Vân (rồng vờn mây) ở Cố Cung Bắc Kinh hay Khổng
Miếu ở Khúc Phụ là một trong những bức bệ rồng (long bệ thạch) nổi tiếng
nhất ở Trung Quốc. Việc các cung điện khắc những đồ án như lưỡng long
tranh châu hay long vân là có liên hệ với cách xưng hô của các hoàng đế
Thiên triều là “ bệ hạ”. Ngày xưa các chư hầu bá quan văn võ khi phải tấu
bẩm Hoàng thượng thì phài đứng quỳ phía dưới mà bẩm vọng lên, nên có từ
bệ kiến. Bệ đá trên lối lên vào cung điện? ngự đạo? nơi Hoàng thượng thiết
triều được khắc rồng là tượng trưng cho sự hiện diện của nhà vua. ở đây đồ
án rồng thể hiện đầy đủ nhất uy thế oai phong dữ tợn của hoàng đế. Cùng
với ngai vàng, ngọc tỷ, bệ rồng là biểu tượng cho Hoàng gia nói chung và
cho Hoàng đế nói riêng. Nhưng so với ngai vàng và ngọc tỷ, bệ rồng là một
biểu tượng hoành tráng nhất. Bệ rồng ở Cố cung Bắc Kinh có chín con rồng
được chạm khắc với khí thế phi phàm, được đục nguyên từ một phiến đá dài
hơn 17m rộng hơn 3m nặng hơn 200 tấn.
Nhận xét về tính độc đáo của sập rồng ở đền vua Đinh Hoa Lư, nhà nghiên
cứu Nguyễn Văn Trò có một nhận xét chí lý rằng sập rồng đặc biệt đẹp sau
những cơn giông mùa Hạ. Mặt sập loang loáng nước, tưởng như con rồng
đang vẫy đạp để bay lên chí tầng mây. Nhưng tại sao ở sập rồng ở ta thì có
mà các bệ rồng đá ở Trung Hoa không có cảnh tưởng này? Không phải ở
Bắc Kinh, Nam Kinh hay Khúc Phủ không có những cơn giông mùa Hạ, mà
cốt yếu ở đây là cảm thức địa văn hóa khác nhau. Các bệ rồng Trung Hoa
được đặt ở vị trí nghiêng, dốc theo lối đi nên không đọng được nước mưa.
Hai sập đá có chạm hình rồng trên mặt sập tạo hình tuy có khác nhau về
phong cách tạo hình và niên đại nhưng đều giống nhau trong cách tạo đư
ờng
diềm bao bốn bên để không cho nước mưa thoát ra nên hễ có mưa là rồng
gặp nước thỏa ước mong vùng vẫy.
Trường An Thượng và Trường An Hạ là hai xã thờ có đền thờ hai ông vua
đầu tiên của nền tự chủ Đại Việt. Người làng nói riêng và nhân dân quanh

vùng tự hào về nó, chắt chiu công sức để xây đắp nên những công trình này.
Người ta sau những cơn binh lửa tìm về đây tìm lại cho mình sự bình yên và
nguồn sinh lực mới. Nối tiếp danh tướng Bùi Văn Khuê gần hai thế kỷ, ông
cựu chánh tổng Dương Đức Vĩnh bằng cuộc trùng tu năm Thành Thái th
ứ 10
(1898) lại tiếp tục vun đắp cái gốc rễ lâu bền cho muôn đời con cháu mai
sau. Ngôi đền tuy nhỏ nhưng nghĩa cử và tấm lòng thật lớn. Ngôi đền được
khởi công trùng tu vào thế kỷ 17, vào giai đoạn phát triển đỉnh cao của văn
hóa làng xã, tác giả của cuốn Mỹ thuật ở làng đã lưu ý các nhà nghiên cứu
khi nhìn nhận đánh giá mỹ thuật ở hai ngôi đền này.
Trần Hậu Yên Thế
(11) Nguyễn Quân. Mỹ thuật ở làng. NXB Mỹ thuật.1991

×