Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

NGHĨ VỀ SỰ VẮNG BÓNG HÌNH ẢNH CON TRÂU TRÊN TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.22 KB, 8 trang )

NGHĨ VỀ SỰ VẮNG BÓNG HÌNH
ẢNH CON TRÂU TRÊN TRỐNG
ĐỒNG ĐÔNG SƠN

Cho đến nay, những phát hiện khảo cổ qui mô về Trống Đồng với một
phạm vi rất rộng lớn từ Nam Trung Hoa qua Việt Nam đến lndonexia,
Malayxia, tức là trên địa bàn Đông Nam á cổ vẫn không tìm thấy hình
ảnh con trâu, một con vật rất thân thuộc ở miền đất này.
Cho đến nay, những phát hiện khảo cổ qui mô về Trống Đồng với một
phạm vi rất rộng lớn từ Nam Trung Hoa qua Việt Nam đến lndonexia,
Malayxia, tức là trên địa bàn Đông Nam á cổ vẫn không tìm thấy hình
ảnh con trâu, một con vật rất thân thuộc ở miền đất này.
Vậy thì tại sao trên trống đồng Đông Sơn không tìm thấy hình ảnh con
Trâu?!! Trên trống đồng tìm thấy ở Nam Trung Hoa và Việt Nam bò là
một trong số con vật được miêu tả. Phần đông các học giả cho rằng
những con bò này được dùng trong hoạt động tế lễ của người x
ưa. Trên
một số trống đồng ở Vân Nam đã miêu tả chi tiết này khá rõ (Trống
đồng đào được ở trại A-chương Vân Nam). Bài viết tập trung vào vấn
đề tại sao lại chỉ xuất hiện bò chứ không phải là trâu trên các trống
đồng.
Khả năng thứ nhất: vào thời kỳ văn hoá Đông Sơn, con trâu vẫn là con
vật xa lạ với các cư dân Đông Sơn.
Khả năng thứ hai: vào thời kỳ văn hoá Đông Sơn, con trâu là con vật
kiêng kỵ, không cát tường nên người ta tránh khắc vẽ chúng.
Khả năng thứ ba: trống đồng được tìm thấy ở Việt Nam là sản phẩm
của một nền văn hoá khác, không có liên quan gì tới văn hoá bản địa.
Khả năng thứ tư: Trống đồng tuy là văn hoá bản địa nhưng có chịu tác
động từ văn hoá lân bang. Và tác động này đã dẫn đến sự thiếu vắng
hình ảnh con trâu.
Khả năng thứ năm: so với trâu, bò mang giá trị tâm linh cao hơn, cho


nên người thượng cổ dùng bò làm vật hiến tế nhiều hơn.
Giả thuyết thứ nhất, con trâu là vật xa lạ với cư dân Đông Sơn.
Việc không khắc lên Trống Đồng những hình con chuột túi hay những
con đà điểu là việc có thể hiểu được. Nhưng, sự thiếu vắng hình con
trâu là một bí ẩn.
Biểu tượng con trâu vàng là biểu tượng đẹp của Seagame 22 (đại hội
thể thao Đông Nam á) tổ chức tại Việt Nam. Con trâu là một phần của
tâm hồn người Việt. Trâu ơi ta bảo trâu này khoẻ như trâu con trâu
là đầu cơ nghiệp rồi đến câu chuyện ngụ ngôn về trí khôn của người
hay là sự giải thích vì sao trâu không có hàm trên Bức tranh Chăn
trâu thổi sáo là một trong những bức tranh dân gian Đông Hồ đặc sắc
nhất. ở Đình Hạ Hiệp có bức chạm đôi trâu đang ngoắc sừng vào nhau
làm ta nhớ đến hội chọi trâu rất náo nhiệt ở Đồ Sơn (Hải Ph
òng). Trong
canh tác nông nghiệp lúa nước, trâu là một trụ cột của nhà nông.
Cho nên trong bộ tranh khắc được coi là bách khoa thư về đời sống vật
chất, tinh thần của người Việt Nam đầu thế kỷ 20 - tiểu luận về đời
sống vật chất công nghệ và thực nghiệp của nhân dân An Nam (do
Henry Ogie cùng với mấy người thợ Việt), trâu là con vật được mô tả
có tần xuất lớn nhất, những bức tranh Thiến trâu, Lái trâu, Tra cày, B
ừa
ruộng nói lên phần nào sự gắn bó của con trâu với con ngư
ời Việt Nam.
Henri Oger viết " con trâu là vật có ích nhất đối với người nông dân,
cho nên, người ta chỉ giết nó khi nó ốm hoặc sắp già. Không có trâu,
việc cày ở ruộng ắt không thể làm được”.
Trong ba việc lớn ở đời của đấng nam nhi đất Việt (tậu trâu, lấy vợ l
àm
nhà) thì tậu trâu là việc đầu tiên phải làm. Đ
ối với một nền nông nghiệp

lúa nước như Việt Nam thì trâu là chủ lực của nhà nông. Con trâu
không thể là vật xa lạ.
Giả thiết thứ hai: Trâu là con vật kiêng kị
Trong tâm trí người Việt, trâu là con vật hiền lành, tượng trưng cho đ
ức
tính cần cù, chăm chỉ, nhẫn nại. Con trâu hôm nay không khác con trâu
ngày trước. Liệu lòng người có thay đổi không?
Trong các truyền thuyết cổ, các tích truyện xưa, không bao giờ Trâu
hiện lên như một quái vật. ở Việt Nam, có một số nơi có phong tục
dùng trâu trắng tế thần.
Giả thiết thứ ba: Trống đồng là sản phẩm của một nền văn hoá khác.
Nếu trống đồng là sản phẩm của văn hoá Hoa Hạ thì hình ảnh ngựa
phải xuất hiện trong hệ thống hoa văn của trống đồng.
Trong văn hoá Trung nguyên, ngựa được ngưỡng mộ thực sự.
Trong Thoán từ của Kinh Dịch, tần suất xuất hiện các con vật như sau:
Ngựa 12 lần, chim 8 lần, rồng 6 lần, cọp 4 lần, bò 4 lần, cừu 3 lần, rùa
2 lần, cáo 2 lần, chuột 1 lần. Trong nghệ thuật tạo hình Trung Hoa,
ngựa được vẽ và nặn nhiều nhất, khó có dân tộc nào say mê ngựa như
người Trung Hoa. Lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng hay tranh khắc Mộ Hán
xuất hiện rất nhiều ngựa và xe ngựa.
Con ngựa là một phương tiện giao thông tốt nhất phù h
ợp nhất, gắn liền
với các cuộc chiến tranh liên miên thời phong kiến. Con ngựa, xe ngựa
xuất hiện trên các bức tường trong lăng mộ, từ đường đời Hán, theo
giáo sư Wu Hung (Ngô Hồng) thì đấy là biểu tượng kép về sự phô diễn
quyền lực và ngụ ý như phương tiện luân chuyển từ cõi dương sang cõi
âm của thân chủ. Nhưng cho đến nay, những trống đồng Đông Sơn tìm
thấy ở Việt Nam không có hình ảnh ngựa. Mà ngược lại, thuyền, chim
nước, cá tiêu biểu cho một vùng khí hậu sông nước). Có thể ước đoán
rằng ở Vân Nam do có sự giao lưu nhất định với văn hoá Trung

Nguyên, hoặc do điều kiện địa lý nên đã có xuất hiện những tượng
người cưỡi ngựa đi trên mặt trống. Đây là nét độc đáo của Trống đồng
Vân Nam. Nhưng trên mặt trống đồng từng phát hiện ở Vân Nam, ta
cũng chưa thấy sự hiện diện những hình ngựa hay xe ngựa.
Nếu chỉ căn cứ vào hiện tượng không có hình ảnh con trâu để đi đến
giả thiết là trống đồng là thuộc một vùng văn hoá khác, thì không phải
không có lý. Nhưng chỉ riêng cái chứng lý đó là chưa đủ. Giống như
giáo sư Nghi Cát Nam (Yin jinan - giáo sư Học viện Mỹ thuật Trung
ương Bắc Kinh) có nói vui rằng Maco Polo chưa từng đến Trung Quốc
vì: chưa bao giờ thấy ông ta nhắc đến Trà và Vạn lý trường thành.
Giả thiết thứ tư: do ảnh hưởng từ những nguồn văn hoá khác đã dẫn
đến sự vắng bóng hình ảnh con trâu.
Giao lưu văn hoá là bản chất muôn đời của văn hoá. Tục dùng bò làm
vật hiến tế rất có thể là một tập tục phổ biến ở Đông á. Trong tiếng
Hán, chữ Hi trong hi sinh có hình một con vật họ bò cột vào m
ột cái cột
được dùng làm vật tế thần được.
Sự xuất hiện của hình ảnh bò ở trong lịch sử mỹ thuật của Vân Nam
vừa sớm, vừa có nhiều thành tựu xuất sắc hơn ở Việt Nam. Chẳng hạn
như những hình khắc trên vách đá ở Cang Yuan (Thương Tuyển) hay
nổi tiếng như chiếc án đồng Ngưu Hổ đào được ở Giang Xuyên (Jiang
chuan). Sự xuất hiện hàng loạt hình ảnh bò trên các đồ binh khí, công
cụ lao động, dụng cụ sinh hoạt, các đồ nghi tế cũng còn là sự hàm ý
biểu tượng giàu có.
Giả thuyết thứ năm: So với trâu, bò mang những biểu tượng tâm linh
nhất định, nên nó được vẽ lên trống đồng nhiều hơn.
Giả thiết này nh
ấn mạnh đến giá trị tự thân, độc lập của các nhân tố văn
hoá phát triển không phải do vay mượn hoặc ảnh hưởng.
Sự hiện diện của hình tượng bò trong các vật nghi tế tuỳ táng cũng là

hiện tượng phổ biến trong nhiều nền văn hoá.
Hình vẽ bò xuất hiện trong hang động nổi tiếng ở Pháp v
à Tây Ban Nha
như Lascaux, Altamira, trên các bích hoạ trong kim tự tháp Ai Cập
Trong hệ thống thần thoại Hy La và ấn Độ, bò từng là hoá thân của
nhiều vị thần. Trong nghệ thuật tôn giáo, ý nghĩa tâm linh quan trọng
hơn hiện thực.
Ví dụ: sư tử là loài thú không có
ở Trung Quốc, nó chủ yếu sinh sống ở
Tây và Tây Nam á. Kể từ thời Đường trở đi, sư tử trở thành một con
vật xuất hiện thường xuyên trong lịch sử tạo hình Trung Quốc và trở
thành một biểu tượng của quyền uy. Hình ảnh sư tử du nhập vào Trung
Quốc có một sức sống lâu bền, rộng khắp từ Bắc chí Nam, từ Tây sang
Đông. Một con vật hoàn toàn hư cấu như con Rồng lại là con vật phổ
biến nhất trong các đồ án trang trí cung đình Trung Hoa. Trong nghệ
thuật tôn giáo, nghệ thuật là ảo vọng cuộc sống, đặc biệt là nghệ thuật
tôn giáo phương Đông.
Trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu các biểu tượng, việc tìm kiếm
những bối cảnh văn hoá nguyên gốc là điều vô cùng quan trọng. Theo
quan điểm cả người viết, sự xuất hiện hình ảnh con bò mà không phải
là con trâu trên trống đồng, chủ yếu là do kết quả của ảnh hưởng văn
hoá khu vực hơn là sự phát triển tự thân. Tác giả nghiêng về giả thiết
thứ tư.
Vân Nam và Việt Nam đã có sự tương đồng văn hóa, có một cội nguồn
văn hoá chung, hy vọng trong thời gian tới sự hợp tác và trao đổi học
thuật giữa Vân Nam và Việt Nam ngày càng phát triển về cả bề rộng
lẫn chiều sâu.
TRẦN HẬU YÊN THẾ


×