Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

tác động của chiến tranh việt nam với quan hệ xô-mỹ(1954-1991) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216 KB, 32 trang )

BÀI TẬP LỚN
===================
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong thời kỳ từ năm 1954 dến năm 1991, quan hệ quốc tế có nhiều sự biến
chuyển trong bối cảnh chiến tranh lạnh. Năm 1954,với chiến thắng Điện Biên Phủ,
nhân dân Việt Nam đã buộc Pháp ngồi vào bàn đàm phán, ký Hiệp định Giơnevơ
chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Nhưng ngay sau đơ, đế quốc
Mỹ đã thay thế thực dân Pháp nhảy vào miền Nam Việt Nam, lập nên chính quyền
bù nhìn tay sai nhằm biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Trước sự xâm lược trắng trợn của đế quốc Mỹ, nhân dân Việt Nam anh hùng
đã đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi bè lũ cướp nước và tay sai. Trong
quá trình đấu tranh này, nhân dân Việt Nam đã được tiếp sức, ủng hộ rất mạnh từ
phía các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Trung Quốc và Liên Xô.
Chiến tranh Việt Nam thật sự là sự đối đầu giữa hai cực của thế giới do hai
siêu cướng đứng đằng sau, giữa Liên Xô và Việt Nan Dân Chủ Cộng Hòa với Mỹ
và chính quyền Sài Gòn.
Cuộc chiến tranh Việt Nam đã có tác động rất lớn đến quan hệ Xô – Mỹ trong
một thời gian dài và tác động không nhỏ đến quan hệ quốc tế.
Tìm hiểu được ảnh hưởng của chiến tranh Việt Nam đối với quan hệ Xô- Mỹ
về mát lý thuyết có thể làm sáng tỏ hơn một phần nào đó quan hệ quốc tế trong bối
cảnh chiến tranh lạnh. Về thực tiễn, tìm hiểu quan hệ Xô- Mỹ dưới tác động của
chiến tranh Việt Nam sẽ góp thêm mọt yuw liệu trong học tập và nghiên cứu lịch
sử quan hệ quốc tế.
Với nhứng lí do trên cùng với sự giúp đỡ của cô giáo hướng dẫn Bùi Thị Thảo,
tôi dã chọn đề tài: “ Tác động của uộc chiến tranh Việt Nam với quan hệ Xô- Mỹ
( 1954- 1991).
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

1
BÀI TẬP LỚN


===================
2. Lịch sử vấn đề:
Đề tài “ Tác động cuộc chiến tranh Việt Nam đối với quan hệ Xô- Mỹ” không
phải hoàn toàn mới bởi vì đã có nhiều tác phẩm công bồ có liên quan đến đề tài.
Trên thực tế, đã có nhiều sách đề cập đến những vấn đề liên quan đến đề tài
như tác phẩm “ Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam” của ILIAV. GAIDUK
hay tác phẩm “ Đặc biệt tin cậy, vị đại sứ ở Washingtơn qua sáu đời tổng thống
Mỹ” của ĐÔBRYNIN…, tuy nhiên các tác phẩm này chỉ đề cập một phần nhỏ chứ
không giải quyết hoàn toàn vấn đề tác động của chiến tranh Việt Nam đén quan hệ
Xô- Mỹ như thế nào, vì vậy đây là một đề tài hoàn toàn mới mà nhiệm vụ đề tài
cần giải quyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ những sự kiện, những mối quan
hệ tác động trong chính sách mỗi nước trong chiến tranh Việt Nam từ đó cung cấp
cái nhìn khách quan hơn về chính sách của Xô- Mỹ trng cuộc chiến này.
Xác định mục đích như trên, đề tài có nhiệm vụ:
Tìm hiểu, nghiên cứu các sự kiện xảy ra trong giai đoạn này đồng thời đưa ra
những đánh giá khách quan, khoa học về tác động của cuộc chiến tranh Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiêm cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tác động của cuộc chiến tranh Việt
Nam đối với quan hệ Xô- Mỹ trng giai đoạn 1954 đến 1991.
5. Cơ sở phương pháp luận:
Phương pháp luận của đề tài này là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về lý luận nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu tài liệu.
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

2
BÀI TẬP LỚN
===================

6. Giả thuyết khoa học của đề tài:
Nếu hiểu biết các tác động của chiến tranh Việt Nam trong quan hệ Xô- Mỹ
giai đoạn 1954- 1991 sẽ hiểu rõ hơn về tình hình quan hệ quốc tế trong giai đoạn
thế giới đầy biến động này
7. Đóng góp của đề tài:
Tìm hiều đề tài này sẽ có nhứng đóng góp nhất định về mặt lý thyueets và thực
tế trong ccong tác nghiên cứu, học tập cũng như có thể là tài liệu tham khảo cho
các học sinh, sinh viên trong vấn đề quan hệ quốc tế.
8. Bố cục của đề tài:
Đề tài này bao gồm phần mở đầu, phần kết luận và hai chương.
Chương 1: Quan hệ Xô- Mỹ trước năm 1954
Chương 2: Tác động của chiến tranh Việt Nam đối với quan hệ Xô- Mỹ
( 1954- 1991)
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

3
BÀI TẬP LỚN
===================
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN HỆ XÔ- MỸ TRƯỚC NĂM 1954.
1.1: Quan hệ Xô- Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ hai
(1939- 1945)
Ngày 1/ 9/ 1939, không tuyên chiến, quân Đức tiến công vào Ba Lan, mở đầu
cho chiến tranh thế giới thư hai. Trước hành động của quân Đức, Anh và Pháp buộc
phải đứng về phía Ba Lan tuyên chiến với Đức ( 3/9). Thế là ba cướng quốc châu
Âu cùng vời Ba Lan đã bước vào cuộc chiến tranh thế giới.
Tuy đã tuyên chiến vối Đức nhưng liên quân Anh, Pháp không có một hành
động nào đở đòn cho Ba Lan mà vẫn “ án binh bất động”. Việc thực hiện “chiến
tranh kỳ quặc” này đã dung túng cho quân Đức mở rộng chiến tranh thế giới.
Trong khi chủ nghĩa phát xít đang bành trướng thì chính quyền Mĩ cũng thi

hành một số chính sách trung lập nhằm dung túng cho chủ nghĩa phát xít hoành
hành trên thế giới.
Sở dĩ các nước Anh, Pháp, Mỹ thi hành những chính sách dung tung cho chủ
nghĩa phát xít vì các nước này muốn giữ nguyên trật tự thế giới. Họ lo ngại phát xít
nhưng vẫn thù ghét cộng sản. Vì thế hộ thi hành những chính sách hai mặt nhằm
tăng cường sức mạnh cho mình và dẩy chiến tranh về phía Liên Xô.
Tuy nhiên trước sự hình thành trục tam giác Béclin – Rôma – Tôkiô, các nước
Anh, Pháp, Mỹ cũng buộc lòng hải có những cam kết với nhau sẽ ủng hộ nhau khi
bị tấn công.
Riêng Liên Xô, Liên Xô coi chủ nghĩa phát xít là kẻ thù nguy hiểm nhất nên
đã chủ trương liên kết với các nước tư bản dân chủ để chống phát xít và nguy cơ
chiến tranh. Sau khi Nhật và Đức rút khỏi Hội Quốc Liên, Liên ô đã gia nhập vào
tổ chức này vào thắng 9/1934. Mặc dù biết tổ chức quốc tế này bị Anh, Pháp…
thao túng nhưng Liên Xô muốn biến diễn đàn Hội Quốc Liên để đấu tranh cho hòa
bình.
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

4
BÀI TẬP LỚN
===================
Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh(1/9/1939 đến 22/6/1940) Mỹ vẫn
chưa xem Liên Xô là đồng minh mà vẫn xem Liên Xô là kẻ thù nên đã thực hiện
dung túng cho chủ nghĩa phát xít, thi hành chính sách trung lập nhăm buôn bán vũ
khí cho cả hi phe để kiếm lợi. Trong lúc đó, sau hiệp ước không xâm phạm lẫn
nhau kí với Đức, Liên Xô đẫ tích cực chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu sắp xảy ra
đã đi đầu trong ngọn cờ đấu tranh chống phát xít.
Ngày 22/6/1941, vào 3 giờ 30 sáng, không tuyên chiến và không dưa ra một
yêu sách gì, phát xít Đức đã bất ngờ tấn công lên khắp biên giới phía Tây của Liên
Xô từ Biển Đen đến Ban tích với mục tiêu độc chiếm kho tàng tài nguyên vô tận
của Liên Xô và tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa, kẻ thù số một của chủ nghĩa phát

xít.
Lợi dụng khi phát xít Đức tấn công Liên Xô và các nước tu bản Châu Âu bị
bại trận, Nhật Bản đã quyết định “Nam tiến” đánh vào khu ảnh hưởng của các nước
Mỹ, Anh, Pháp… Ngày 7/12/1941, vào 7 giờ 55 phút sáng giờ địa phương, các
máy bay trên tàu sân bay của Nhật đã oanh tạc cảng Trân châu buộc Mỹ phải tham
chiến vào chiến tranh thế giới.
Việc Mỹ và Liên Xô tham chiến trong chiến tranh thế giới có ý nghĩa rất lớn
cho cục diện chiến tranh, lúc này, kẻ thù nguy hiểm trước mắt của cả Liên Xô và
Mỹ đều là chủ nghĩa phát xít, vì vậy hai bên đều hợp tác trong chiến đấu.
Ngày 15/8/1941, Tổng thống Mỹ và Thủ tướng Anh đã gửi một thông điệp
chung cho chủ tịch hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, trong đó đề nghị tổ chức ại
Matxcơva một họi nghị để bàn về việc ung cấp cho nhau những nguyên liệu và vật
tư chiến tranh Chính phủ Liên Xô đã chấp nhận yêu cầu đó. Hội nghị đã được tiến
hành ở Matxcơva từ ngày 29/9 đến ngày 1/10/1941. Văn kiện hội nghị được kí kết
ngày 1/10/1941 quy định sự giúp đỡ lẫn nhau về kinh tế trong những năm sắp tới
giữa Liên Xô và Anh, Mỹ.
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

5
BÀI TẬP LỚN
===================
Cuối năm 1941, sự cần thiết hình thành chính thức một mặt trận đồng minh
chống phát xít trên phạm vi cả thế giới càng trở nên bức thiết và điều kiện để thành
lập mặt trận đó dã đầy đủ. Thắng lợi của Liên Xô trong trận Matxcơva đã nâng cao
vị thế của Liên Xô trên trường quốc tế và nhân dân thế giới đòi hỏi phải liên minh
với Liên Xô. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, nước Mỹ đã bị lôi cuốn vào
chiến tranh, trận tuyến chống phát xít trên thế giới đã rõ ràng.
Ngày 1/1/1942, 26 nước trên thế giới trong đó có Liên Xô, Mỹ đã ra tuyên bố
Liên Hợp Quốc.
Ngày 11/7/1942, tại Oasinhtơn đã kí kết hiệp ước Liên Xô – Mỹ vì những

nguyên tắc tương trợ trong quá trình chiến tranh chống xâm lược. Như vậy có thể
thấy rõ các nước Liên Xô – Mỹ đã đứng cùng một trận tuyến đồng minh chống phát
xít.
Đến năm 1943, với việc ngày 20/3/1943 quân Liên Xô chiến thắng oanh liệt
tại Xtalingrát đã giúp cho Anh, Mỹ mở cuộc tấn công ở Bắc Phi. Quân Đức đại bại
ở Liên Xô không đủ sức chống đỡ ở Bắc Phi nữa đã bị quân Mỹ - Anh dồn đến khu
vực Đông Bắc Tuynidi và phải hạ khí giới.
Tháng 10/1943, hội nghị các ngoại trưởng Liên Xô, Mỹ, Anh họp tại
Matxcơva đã thông qua nhiều quyết định quan trọng về việc tổ chức lại thế giới sau
chiến tranh…
Ngày 23/11/943, hội nghị Têhêran đẫ được khai mạc đã thỏa thuận các vấn đề
về thời gian, phạm vi các chiến dịch…
Sau khi mặt trận Xô – Đức và mặt trận thứ hai được mở phát xít Đức nhanh
chóng bị đánh bại…
Qua những sự kiện trên, có thể thấy rằng quan hệ Xô – Mỹ trong chiến tranh
thế giới thứ hai là quan hệ đồng minh chống phát xít vì mục tiêu chung của nhân
loại yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

6
BÀI TẬP LỚN
===================
1.2: Quan hệ Xô – Mỹ từ năm 1945 đến 1954:
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc ngày 14/8/1945, quan hệ đồng
minh giữa Liên Xô và Mỹ không còn là quan hệ gắn bó chống phát xít nữa mà
chuyển sang một giai đoạn đối đầu gay gắt.
Ngày 5/3/1946, sau một bức điện dài 8000 chữ đề nghị ngăn chặn Liên Xô mở
rộng ảnh hưởng từ đại diện Mỹ tại Mos – cow, Gioocgiơ Kennan, gửi quốc vụ viện
Mỹ, cựu thủ tướng Anh Churchill trong bài phát biểu có tên “Bức màn sắt” tại
Phuntơn (Bang Mítsuri – Mỹ) đã kêu gọi các nước đế quốc tiến hành cuộc chiến

tranh trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự chống Liên Xô và các nước dân chủ
Đông Âu.
Bài phát biểu nhanh chóng được chính phủ Mỹ tán thành.
Sự kiện này đã mở đầu thời kì chiến tranh lạnh diễn ra trên thế giới hơn 4 thập
niên (1946 – 1989), gây nên tình trạnh đối đầu căng thẳng trong quan hệ giữa Mỹ
và các nước phương Tây với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Dựa vào ưu thế quân sự, nắm độc quyền về vũ khí nguyên tử và sự giàu mạnh
bậc nhất về kinh tế, Mỹ đã đề ra chiến lược toàn cầu hóa mang tên: “ngăn chặn
Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản” với tham vọng nắm quyền lãnh đạo thế giới.
Chiến lược này nhằm một mục tiêu cơ bản:
+ Phát triển nước Mỹ hùng mạnh một cách toàn diện;
+ Chống Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa, chống
phong trào cộng sản quốc tế;
+ Tăng cường vai trò thống trị hệ thống tư bản thế giới và khống chế các nước
đồng minh phương Tây của Mỹ;
+ Ngăn chặn, đẩy lùi, chống phá phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới,
mở rộng hệ thống thuộc địa thực dân kiểu mới.
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

7
BÀI TẬP LỚN
===================
Tháng 3/1947, Tổng thống Truman đã đọc diễn văn trước Quốc hội Mỹ, chính
thức đưa ra “học thuyết Truman”. Theo Truman thì các nước Đông Âu “vừa mới bị
cộng sản thôn tính” và những đe dọa tương tự
đang diễn ra ở nhiều nơi khác ở Châu Âu, ở
Italia, Pháp và cả nước Đức nữa. Vì vậy, Mỹ
phải đứng ra “đảm nhiệm sứ mạng lãnh đạo
thế giới tự do”, phải giúp đỡ cho các dân tộc
trên thế giới chống lại “sự đe dọa” của chủ

nghĩa cộng sản, chống lại “sự bành trướng”
của nước Nga. Nhà cầm quyền ở Washingtơn
ngông cuồng, tự tin vào sức mạnh vô địch
toàn diện của mình, say sưa (Tổng
thống Trruman) với
tham vọng làm chủ thế giới như họ đã huyênh hoang tuyên bố lúc bấy giờ: “hiện
nay chúng ta và chỉ có chúng ta có bom nguyên tử, chúng ta có thể áp đặt chính
sách của chúng ta trên toàn thế giới”.
Để thực hiện chiến lược toàn cầu hóa của mình, Mỹ đã tạo nên một bầu không
khí về một cuộc chiến tranh lạnh trên thế giới.
Thuật ngữ “chiến tranh lạnh” xuất hiện lần đầu tiên trên báo chí Mỹ ngày
26/7/1947, có nghĩa là chiến tranh không nổ súng song luôn luôn gây ra tình trạng
căng thẳng, đặt nhân loại “bên miệng hố chiến tranh”.
Với sự ra đời của “chủ nghĩa Truman”, mối quan hệ đồng minh giữa Liên Xô
với Mỹ và các nước phương Tây trong thời kì chiến tranh chống phát xít đã tan vỡ
và thay vào đó là chiến tranh lạnh. Để thực hiện chiến tranh lạnh, Mỹ đã tìm cách
lôi kéo các nước đồng minh vào những tổ chức kinh tế, chính trị, quân sự để qua đó
khống chế, thao túng các nước này…
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

8
BÀI TẬP LỚN
===================
Ngày 5/6/1947, ngoại trưởng Mỹ Macsan đọc diễn văn đưa ra “phương án
phục hưng Châu Âu”, trong đó nhấn mạnh chỉ cần một bộ phận hoặc toàn bộ các
nước châu Âu cùng nhau xây dựng mộ kế hoạch “phục hưng” thì Mỹ sẽ vui lòng
mở rộng viện trợ đến châu Âu
Ngày 12/7/1947, các nước Anh, Pháp triệu tập ở Pải hội nghị gồm 16 nước
chấp nhận viện trợ của Mỹ. Tháng 4/1948, Quộc hội Mỹ thông qua “ đạo luật viện
trợ nước ngoài” với những quy định có lợi cho Mỹ và buộc các nước nhận “ viện

trợ “ phải thủ tiêu việc buôn bán với các nước xã hội chũ nghĩa, hủy bỏ kế hoạch
quôc hữu hóa và các lực lượng tiến bộ ra ngoài chính phủ của các nước nhận ‘ viện
trợ”.
Để đối phó với “chủ nghĩa Truman” và “kế hoạch Macsan”, tháng 9/1947,
theo sáng kiến của Đảng cộng sản Liên Xô, tại Vacsava đẫ tiến hành hội nghị đại
biểu các Đảng cộng sản Liên Xô, Bungari, Hunggari, Ba Lan, Rumani, Tiệp Khắc,
Nam Tư, Pháp, Italia. Hội nghị đã thông qua bản tuyên bố trong đó phân tích tình
hình thế giới lúc này đã chia thành hai phe: “ đế quốc” và “tư bản” ( do Mỹ đứng
đầu) và phe “chống đế quốc” , chống tư bản ( do Liên Xô đứng đầu). Hội nghị
quyết định thành lập cơ quan thông tin của một số Đảng cộng sản và công nhân gọi
là cục thông tin quốc tế ( KOMINFORM) với nhiệm vụ tổ chức việc thông tin, trao
đổi kinh nghiệm và phối hợp hành động đấu tranh cách mạng giữa các Đảng một
cách tự nguyện.
Sau khi các nước Đông Âu hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và
tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, ngày 8/1/1949, Liên Xô và các nước Anbani,
Ba Lan, Bungari, Hungari, Rumani, Tiệp Khắc đã quyết định thành lập tổ chức
kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa: Hội đồng tưng trợ kinh tế ( SEV). Như vậy,
trên thế giới đã xuất hiện hai khối kinh tế đối lập nhau: Khối kinh tế của các nước
xã hội chủ nghĩa (SEV) với thị trường riêng của nó và khối kinh tế tư bản chủ
nghĩa.
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

9
BÀI TẬP LỚN
===================
Sau khi đã thực hiện “chủ nghĩa Truman” và “kế hoạch Macsan”, Mỹ ra sức
tiến hành chia cắt nước Đức, phục hồi chủ nghĩa quân phiệt ở Tây Đức thành một
tiền đồn ngăn chặn nguy cơ thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đang đe dọa ở nhiều
nước châu Âu. Tại châu Á, Mỹ cũng gấp rút thực hiện cuộc chia cắt Triều Tiên và
coi đó là một bộ phận quan trọng trong chính sách “ ngăn chặn” nguy cơ thắng lợi

của chủ nghĩa xã hội ở châu Á và thiết lập nện thống trị của Mỹ ở khu vực này. Với
chính sách “ngăn chặn” Mỹ định bao vây quân sự, kinh tế Liên Xô và các nước
Đông Âu, hy vọng rằng Liên Xô sẽ suy yếu, kiệt quệ rồi đi đến chổ tự tiêu diệt, và
ở các nước Đông Âu giai cấp tư sản có điều kiện lên nắm chính quyền, thiết lập nền
thống trị tư bản chủ nghĩa. Ở Đức và Triều Tiên, Mỹ không chỉ muốn “ ngăn chặn”
sự “bành trướng của chủ nghĩa cộng sản” mà còn muốn cấu kết với các thế lực
phản động ở hai nước này để tiến tới tiêu diệt lực lượng cách mạng và xâm lược,
thống trị toàn đất nước Đức, Triều Tiên. Nhưng âm mưu và hy vọng của Mỹ đã
hoàn toàn bị phá sản, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới không những không bị
ngăn chặn mà còn được hình thành tư châu Âu sang châu Á và ngày càng phát triển
mạnh mẽ.
Để tiến lên thêm một bước nữ trong việc thực hiện âm mưu thống trị thế giới
và các nước XHCN, chống lại phong trào giải phóng dân tộc mà Liên Xô đang nắm
ngọn cờ lãnh đạo, Mỹ đã tiến hành thành lập các khối quân sự xâm lược nhằm tập
hợp lực lượng phản cách mạng đặt dưới sự chỉ huy của Mỹ để bao vây Liên Xô,
các nước dân chủ nhân dân Đông Âuvà các nước có cao trào giải phóng dân tộc.
Bước đầu tiên trên con đường xây dựng các khối quân sự xâm lược là “Hiệp
định phòng thủ tây bán cầu” ký giữa Mỹ và các nước chư hầu của Mỹ o hội nghị
Riode faneiro tháng 9/1947.
Tiếp đó, ngày 4/4/1949, tại Washintơn , Mỹ cùng 11 nước đã ký hiệp định
chung thành lập khối hiệp ước quân sự BắC Đại Tây Dương (NATO). Trước tình
hình của mỹ cùng với các nước chư hầu liên tiếp thành lập các khối quân sự, đưa
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

10
BÀI TẬP LỚN
===================
tây Đức và NATO….,đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền hòa bình ở Tây Âu
cũng như thế giới. Trước tình hình đó,các nức Liên Xô, Tiệp khắc , Anbani,
Rumani… đã họp dựa trên nguyên tắc của hội nghị Matxc ơva (1954) để tuyên bố

ký kết hiệp ước hữu nghị ,hợp tác và trương trợ Vacxava (14/5/1955). Sau khi
thành lập, cá khối quân sự đều ra sức chạy đua vũ trang, tang bị những vũ khí hiêt
sức hiện đại để tăng cường sức mạnh cho khối mình.
Như vậy , có thể thấy rằng với sự ra đời cả hai khối quân sự NATO và
Vacsava, quan hệ giưa cá nước đã trở nên rất căng thẳng. đặc biệt là trong quan hệ
giữa Xô- Mỹ. Chính chính sách” ngăn chặn” của Mỹ đã dẩy quan hệ quốc tế nói
chung và quan hệ hai nước nói riêng từ chỗ đồng minh đến chỗ căng thẳng và đối
đầu một cách gay gắt trên toàn thế giới.
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

11
BÀI TẬP LỚN
===================
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA CHIẾN TRANH VIỆT NAM ĐỐI VỚI
QUAN HỆ XÔ – MỸ (1954 – 1991)
2.1: Chính sách của Liên Xô đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam
Đầu năm 1964, không ai có thể dự đoán được rằng thế giới sẽ phải chứng kiến
một cuộc xung đột ở Đông Dương có tác động đến nhiều quốc gia và hệ thống lớn
các mối quan hệ quốc tế.
Mặc dù nhiều nhà quan sát rất lo ngại về tình hình Đông Nam Á và báo động
về những phát triển nguy hiểm ở khu vực, nhưng đa số các chính trị gia và các nhà
phân tích chính trị hi vọng là có thể tránh được bước ngoặt chết người của các sự
kiện trên. Trong số đó có các nhà lãnh đạo Xô Viết, những người có lý do riêng của
họ để đặt hi vọng về vấn đề này.
Năm 1964, ở Matxcơva người ta bắt đầu xuất bản một lá thư của Nikita
S.Khrushcher, chủ tịch hội đồng Bộ trưởng Liên Xô giữa nguyên thủ các quốc gia
trên toàn thế giới. Vị chủ tịch hội đồng Bộ trưởng này dự định “thu hút tới một vấn
đề rất quan trọng cho sự nghiệp củng cố hòa bình” đó là vấn đề những cuộc tranh
chấp lãnh thổ giữa các quốc gia và các biện pháp của họ.
Khrushcher viết: “xét theo một vài khía cạnh thì một vấn đề nữa liên quan đến

lãnh thổ. Đây là vấn đề sự thống nhất ở Đức, Triều Tiên và Việt Nam. Sau chiến
tranh thế giới thứ hai, mỗi nước này đã bị chia làm hai nước với những hệ thống xã
hội khác nhau. Mong muốn thống nhất đất nước của nhân dân các nước đó đáng
thông cảm và tôn trọng. Tất nhiên nguyện vọng thống nhất đất nước phải được giải
quyết bởi chính người dân và bằng chính quyền của họ, chứ không phải bằng sự
can thiệp quân sự từ bên ngoài hoặc xâm lược, ví dụ như đã xảy ra ở Nam Triều
Tiên và Việt Nam” .
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

12
BÀI TẬP LỚN
===================
Trong bức thư của mình, ông cũng đã khẳng định quan điểm sau: “để giải
quyết vấn đề này thì việc tránh sử dụng vũ lực, cho phép người dân ở các nước đó
giải quyết những yêu cầu về thống nhất đất nước một cách hòa bình là cần thiết.
Tất nhiên các quốc gia khác phải khuyến khích cách làm này”.
Rõ ràng tình hình bất ổn ở Việt Nam đã làm các nhà chính trị Xô Viết lưu tâm
khi họ đề cập đến vấn đề Việt Nam ở hai đoạn trên trong bức thư của Khrushcher.
Những nhà lãnh đạo Xô Viết dường như cũng đã quan tâm đến các sự kiện ở
Việt Nam từ năm 1964.
Kể từ năm 1959, các nhà lãnh đạo của Việt Nam dân chủ cộng hòa đã tập
trung vào việc thống nhất đất nước bằng quân sự. Những tài liệu chính thức của
Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 3 (9/1960) đã được in tạo Liên Xô năm
1961 đã chứng tỏ xác định nhiệm vụ của Đảng tăng gấp đôi nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam, đó là sự công nhận công cuộc xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc và công cuộc giải phóng miền Nam khỏi sự thống trị của Đế quốc Mỹ cùng bè
lũ tay sai và công cuộc thống nhất đất nước.
Theo nghị quyết của hội nghị lần thứ 15 của Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam năm 1959 và cuộc họp đặc biệt của Bộ chính trị vài tháng sau đó thì nhiệm vụ
này bao gồm định hướng cho các đảng viên về một cuộc đấu tranh quân sự để

thống nhất đất nước. Ủy ban Trung ương Đảng đã đưa ra một kế hoạch cụ thể để
hoàn thành nhiệm vụ này.
Tất cả những biện pháp này cùng với sự ra đời của mặt trận Dân tộc giải
phông miền Nam Việt Nam (11/1960) đã giúp cho những người Xô Viết thấy rằng
có một số phát triển mới đang được hình thành trong khu vực. Đầu tiên những sự
kiện ở Đông Nam Á dường như rất có ý nghĩa đối với Matxcơva. Khu vực này
chưa bao giờ là mối quan tâm chính của giới lãnh đạo Xô Viết bởi sự xa xôi và sự
yếu kém của phong trào cách mạng trong khu vực. Sự giúp đỡ của Liên Xô cho
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

13
BÀI TẬP LỚN
===================
Việt minh đối với cuộc chiến Đông Dương đầu tiên và đối với nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa sau năm 1954 là một ngoại lệ.
Nhưng trong cả hai trường hợp này, viện trợ của Liên Xô vẫn ít hơn so với
Trung Quốc, là nước mà các nhà lãnh đạo Việt Nam có những quan hệ chặt chẽ
hơn.
Điều này cũng đúng khi xem xét đến sự hợp tác quân sự giữa Liên Xô và Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 –
1954), Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam vô số vũ khí, đạn dược. Sau năm
1954, Liên Xô tham gia vào việc tổ chức lại lại các lực lượng vũ trang của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa và đã gửi tới Việt Nam các cố vấn quân sự và vũ khí
nhưng sự giúp đỡ này là không đáng kể.
Vì vậy, trước năm 1964, Liên Xô chủ yếu vẫn là một quan sát viên trước
những diến biến ở Việt Nam.Với vai trò này đã phục vụ cho chiến lược cùng tồn tại
hòa bình của Khrushcher với phương Tây và tránh được những cuộc xung đột
giống như cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962.
Như vậy có thể thấy rằng, từ năm 1954 đến trước năm 1964 Liên Xô vẫn chỉ
đóng vai trò là quan sát viên, tiếp tục đưa ra những bài phát biểu, những tuyên bố

kêu gọi giải pháp hòa bình đối với vấn đề thống nhất Việt Nam. Liên Xô chỉ mới
thuần túy ủng hộ về mặt tinh thần. Điều này đã giúp Liên Xô cải thiện quan hệ
ngoại giao với phương Tây và đặc biệt là với Mỹ.
Quan điểm của Liên Xô đối với chiến tranh Việt Nam đã bắt đầu có sự thay
đổi từ năm 1964, khi trong khu vực có nhiều chuyển biến, đặc biệt là chuyến viếng
thăm của đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam vào tháng 1, 2 năm 1964 và sau
đó là “sự kiện Vịnh Bắc bộ” ngày 5/8/1964. Đoàn đại biểu Việt Nam tới Matxcơva
vào ngày 31/1/1946 do Lê Duẩn dẫn đầu cùng với các đại diện lỗi lạc của giới lãnh
đạo Hà Nội như Lê Đức Thọ và Hoàng Văn Hoan. Trong cuộc gặp gỡ với Bí thư
thứ nhất của đảng cộng sản Liên Xô – Khrushcher. “Cả hai bên đã thể hiện sự đoàn
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

14
BÀI TẬP LỚN
===================
kết của phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản thế giới, tăng cường tình đoàn
kết hữu nghị giữa Đảng cộng sản Liên Xô và Đảng Lao động Việt Nam của Liên
Xô và Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin
và những nguyên tắc cơ bản của phong trào vô sản quốc tế. Cả hai Đảng đã đặt
chính sách của họ dựa trên những nguyên tắc của cương lĩnh và tuyên bố của Đảng
cộng sản vì công nhân”.
Vài ngày sau chuyến thăm, một chương trình tuyên truyền mạnh mẽ đã được
thiết kế để bù lại sự thiếu thiện chí của Mattxcơva trong việc giúp đỡ vật chất nhiều
hơn đối với Việt Nam.
Ngày 12/2/1964, chỉ 2 ngày sau khi đoàn đại biểu Việt Nam rời Matxxcơva,
báo Pravda đã đăng một bài báo với tựa đề: “không ai có thể chiến thắng những
người yêu nước Việt Nam”. Tác giả bài báo đã đảm bảo với “những người yêu
nước” rằng Liên Xô ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam và
rằng Liên Xô vẫn là “một người bạn đáng tin cậy của tất cả những ai đấu tranh cho
hòa bình, tự do và giải phóng dân tộc”.

Hai tuần sau, tờ Pravda lại đăng một bài viết chính thức do TASS đưa ra,
tuyên bố rằng “nhân dân Liên Xô không thể thờ ơ với những chuyển biến ở Đông
Nam Á”. Bài báo một lần nữa nhấn mạnh rằng nhân dân Liên Xô là “những người
ủng hộ trung thành chính sách đoàn kết với những ai đấu tranh tự do và độc lập và
rằng Liên Xô sẽ tiếp tục cảm thông sâu sắc với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
chính nghĩa của những người yêu nước Nam Việt Nam và có thể giúp đỡ cần thiết
cho cuộc đấu tranh này”.
Liên Xô ra sức tuyên truyền về sự yêu nước của nhân dân Việt Nam nhưng
trong lúc này, Liên Xô vẫn chỉ giới hạn là sự tuyên truyền. Liên Xô hy vọng tháo
bỏ giải pháp quân sự ở Việt Nam bằng cách từ chối không cung cấp tất cả sự giúp
đỡ bên ngoài và họ đã thất bại. Vào mùa hè năm 1964, chỉ có Trung Quốc sẵn sàng
cung cấp những viện trợ như vũ khí, đạn dược, lương thực, phương tiện chiến tranh
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

15
BÀI TẬP LỚN
===================
cho Việt Nam và kết quả là vị thế của Liên Xô với Việt Nam dân chủ cộng hòa và
mặt trận dân tộc giải phóng dân tộc miền Nam nhanh chóng bị phai mờ trong khi
ảnh hưởng của Trung Quốc phát triển nhanh chóng.
Nhưng sau “sự kiện Vịnh Bắc bộ” ngày 5/8/1964, Matxcơva nhận thấy rằng cả
Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mỹ đều kiên quyết giải quyết vấn đề Việt Nam
bằng các biện pháp quân sự. Những sự kiện xảy ra tiếp đó khẳng định những mối lo
ngại của Liên Xô và Matxxcơva thấy rằng bây giờ phải đối mặt với một vấn đề là
phải điều hòa giữa uy thế cộng sản và lợi ích địa – chính trị của mình.
Liên xô không thể không tham gia vào cuộc chiến tranh Việt Nam được nữa,
các nhà lãnh đạo Liên Xô không muốn đánh mất triển vọng củng cố vị thế của
mình ở Đông Nam Á. Họ hi vọng sử dụng Việt Nam dân chủ cộng hòa như một
kênh thâm nhập chính trị của Liên Xô vào khu vực chiến lược quan trọng này nhằm
mục đích gây ảnh hưởng đến các nước như Thái Lan, Malaysia va Philippin chuyển

từ vị trí ủng hộ Mỹ ngả sang chiều hướng trung lập hơn nếu như họ không ủng hộ
Liên Xô. Nếu như ý đồ này thất bại thì Matxcơva cũng hoàn toàn hài lòng với việc
thỏa thuận với Mỹ phân chia khu vực theo phạm vi ảnh hưởng.
Các nhà lãnh đạo Liên Xô cũng lưu tâm quan hệ của họ với các nước xã hội
chủ nghĩa ở Châu Âu. Sự thất bại của Liên Xô trong việc bảo vệ Việt Nam dân chủ
cộng hòa có thể gây nên sự nghi ngờ về khả năng của Liên Xô đối với việc bảo hộ
như Tiệp Khắc, Đông Đức và Ba Lan trong cuộc chạm trán tương tự với phương
Tây.
Báo cáo tháng 1/1965 của CIA cho rằng: “sự đáp lại của Liên Xô đối với các
kế hoạch ném bom của Mỹ sẽ bao gồm các nỗ lực ngoại giao và tuyên truyền mạnh
mẽ, kết hợp chặt chẽ với sự giúp đỡ bằng quân sự cho Bắc Việt Nam, trong đó hầu
như chắc chắn sẽ gồm có cả pháo phòng không và Rađa”. Vào thời điểm này, Liên
Xô đã thực sự bắt đầu những chuyến tàu vận chuyển vũ khí cho hệ thống phòng
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

16
BÀI TẬP LỚN
===================
không của Việt Nam dân chủ cộng hòa. Liên tiếp sau đó, hàng loạt chuyến hàng
viện trợ của Liên Xô đã được gửi sang Việt Nam.
Liên Xô đứng đầu danh sách các nước cung cấp viện trợ cho Việt Nam. Khối
lượng viện trợ của Liên Xô tăng đều đặn từ năm 1965 đến năm 1968. Matxcơva đã
gửi đến miền Bắc Việt Nam các trang thiết bị công nghiệp, viến thông, xe tải. trang
thiết bị y tế… Hợp tác quân sự giữa hai nước cũng được tăng cường, Liên Xô bắt
đầu viện trợ cho đồng minh Hà Nội vũ khí vũ khí và các trang thiết bị quân sự năm
1953 (năm mà nó xuất hiện trong các báo cáo của quan chức Liên Xô). Số lượng
viện trợ trước năm 1965 là không lớn, phần lớn được Trung Quốc cung cấp. Tình
hình thay đổi sau năm 1965, viện trợ của Liên Xô tăng cường và dần dần trở thành
nguồn cung cấp chính các vũ khí, trang thiết bị hiện đại. Trong năm 1966 – 1967,
Liên Xô đã cung cấp 500 triệu Rúp trang bị cho lực lượng quân sự Việt Nam. Các

cố vấn Liên Xô được gửi sang Việt Nam và nhiều học sinh Việt Nam được gửi
sang Liên Xô để đào tạo. Tất cả những sự giúp đỡ của Liên Xô đã giúp nhân dân
Việt Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống lại bè lũ xâm lược nhanh chóng đi đến
thắng lợi hơn.
Bước sang năm 1968, mặt trận ngoại giao đã được mở để tiến hành đàm phán,
chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trong giai đoạn đàm phán này,
Liên Xô “không chỉ hành động như một người hòa giải chính thức mà còn tạo ra
nhiều quan trọng cho hai bên cùng ngồi vào bàn đàm phán và bắt đầu các cuộc đàm
phán chính thức. Liên Xô không ngừng nỗ lực thuyết phục dư luận thế giới và
chính phủ các nước tán thành việc chấm dứt oanh tạc miền Bắc và gây sức ép đối
với Mỹ. Đồng thời, Liên Xô đã làm cho các đồng chí ở Việt Nam thấy rõ năm 1968
là năm thuận lợi nhất và nhiều lý do để thúc đẩy tiến trình đi tìm một giải pháp
chính trị cho vấn đề Việt Nam”.
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

17
BÀI TẬP LỚN
===================
Sau hàng loạt hội nghị công khai, bí mật giữa các bên, ngày 27/1/1973 Hiệp
định Pari đã được kí, đánh dấu sự chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, ít nhất là đối
với Mỹ.
Trong một buổi tiếp Lê Đức Thọ và Nguyễn Duy Trinh, sau khi ca ngợi sự
anh hùng và lòng dũng cảm của nhân dân Việt Nam, Brezhnev đã nhấn mạnh tới
những gì cần phải đẩy lùi vào dĩ vãng. Ông ta nói: “nhiều năm qua, cuộc chiến
tranh này đã bị các thế lực xâm lược lợi dụng hòng làm tình hình thế giới thêm
căng thẳng và để tăng cường chạy đua vũ trang. Cuộc chiến này đã gây những cản
trở nghiêm trọng cho việc duy trì hợp tác quốc tế. Hiện tại các cơ hội hòa giải, tăng
cường anh ninh và hòa bình thế giới đã được mở rộng. Chúng ta có thể hi vọng
thỏa hiệp chính trị ở Việt Nam sẽ có một tác dụng tích cực đối với quan hệ các
nước ở mộ chừng mực nào đó sẽ có liên quan tới các sự kiện xảy ra ở Đông

Dương:.
Đối với Matxcơva, sự chấm dứt chiến tranh Việt Nam đã đánh dấu một giai
đoạn mới trong chính sách đối ngoại của họ. Điều đó có nghĩa là chướng ngại vật
trên lộ trình hòa giải với phương Tây đã bị loại bỏ; điều đó cũng có nghĩa là Liên
Xô sẽ theo đuổi một chính sách mạnh dạn hơn với Đông Nam Á, thế giới thứ ba
cũng như với Trung Quốc. Xét về khía cạnh này, chiến tranh Việt Nam là một bước
ngoặt trong quan hệ quốc tế sau 1945 và là phần mở đầu cho hai thập kỉ cuối cùng
của “chiến tranh lạnh”.
2.2: Chính sách của Mỹ đối với chiến tranh Việt Nam
Đặc điểm nổi bật trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong thời kì chiến tranh
lạnh là quyết tâm phát động và theo đuổi chính sách chống cộng một cách toàn
diện, rộng khắp. Thế giới trong 4 thập niên đã chứng kiến 5 lần điều chỉnh chiến
lược của Mỹ. Điều đó cho thấy bản chất hiếu chiến và quyết tâm chống cộng của
giới cầm quyền Mỹ.
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

18
BÀI TẬP LỚN
===================
Nằm trong khu vực châu Á, nơi mà Mỹ có đến hai đối thủ đáng gờm là Liên
Xô và Trung Quốc, lại có vị trí chiến lược quan trọng, Đông Dương nhanh chóng
lọt vào tầm ngắm của Mỹ ngay từ cuối thập niên 30 của thế kỉ XX.
Từ cuối năm 1949, sau khi cách mạng Trung Quốc thành công và sau khi Mỹ
thất bại trong chiến tranh Triều Tiên vào năm 1953, nỗi lo sợ cử Mỹ về chủ nghĩa
cộng sản sẽ lan rộng và thắng lợi ở châu Á càng tăng lên. Vì vậy, Mỹ càng phải can
thiệp mạnh vào Việt Nam.
Việc tăng cường can thiệp của Mỹ vào Việt Nam không phải chỉ vì Mỹ muốn
cứu thực dân Pháp đang bị sa lầy ở đây mà còn vì vị trí chiến lược của Đông
Dương đối với lợi ích của Mỹ khi thực hiện chiến lược toàn cầu hóa. Vì điều này
báo chí Mỹ lúc bấy giờ đã nêu rõ: “Đông Dương là một miếng mồi đáng cho chúng

ta đánh một ván bài lớn. Nó có thể xuất khẩu thiếc, mangan, than đá, gỗ, gạo, cao
su, dừa, hạt tiêu và thuộc da. Cho đến trước chiến tranh thế giới thứ hai, lợi tức thu
được ở Đông Dương tới khoảng 300 triệu đôla hằng năm…; Đông Dương, Miến
Điện là vựa lúa của Đông Nam Á. Về phương diện quân sự cũng quan trọng vì nó
hình thành một cái cầu trên đất liền dài 800 dặm giữa Trung Cận Đông và Mã Lai
của Anh, có đường biển chung với Miến Điện và Thái Lan, cả hai cảng Hải Phòng
và Sài Gòn đều là những căn cứ rất tốt”.
Trong chiến lược toàn cầu của Mỹ ở Đông Nam Á, Pháp được Mỹ xem là
người canh giữ phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản tràn xuống Đông Nam
Á. Theo đó, vai trò của Pháp ở Đông Dương là “một bộ phận của thế giới tự do
chống lại những âm mưu xâm chiếm và lật đổ của cộng sản”. Vì vậy, Mỹ có nghĩa
vụ giúp Pháp đánh chiếm Việt Nam và các nước khác ở Đông Dương.
Biện hộ cho chính sách can thiệp trắng trợn và để che giấu âm mưu của mình,
Mỹ đã đưa ra cái bóng ma về sự xâm chiếm của Trung Quốc đối với Đông Dương.
Tháng 9/1953, Bộ trưởng ngoại giao Mỹ J.F.Dulles nói: “có một mối nguy là cũng
như ở Triều Tiên, Trung Quốc có thể đưa quân đội của họ vào Đông Dương. Chế
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

19
BÀI TẬP LỚN
===================
độ cộng sản Trung Quốc sẽ thể nghiệm một cuộc xâm lược thứ hai như vậy sẽ
không thể xảy ra mà không có những hậu quả nghiêm trọng, những hậu quả này
không chỉ thu hẹp trong phạm vi Đông Dương”. Nhưng thực chất, điều lo lắng nhất
của Mỹ là triển vọng sự thắng lợi của Việt Nam dân chủ cộng hòa trong cuộc chiến
đấu chống Pháp xâm lược và chính quyền tay sai Bảo Đại.
Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là D.D.Eisenhower đã giải thích trong một cuộc
họp báo đầu năm 1954 rằng: “các ông có một dãy các quân cờ Đôminô, các ông
chem. Quân thứ nhất và điều đó sẽ dẫn đến với quân cuối cùng là nó sẽ bị chem rất
nhanh và rồi nó sẽ đe dọa cả… chuôi đảo phòng thủ gồm cả Nhật Bản, Đài Loan,

Philippin và hướng về phía Nam, nó chuyển sang đe dọa cả nước Úc và Tân Tây
Lan”.
Lý thuyết Đôminô được xây dựng trên quan điểm về “sứ mệnh” của Mỹ đối
với thế giới “tự do” và chống độc tài cộng sản. Chính phủ Mỹ cho rằng trong ván
cờ Đôminô, sự sụp đổ của quân cờ Đông Dương có thể gây nên hậu quả rất xấu đối
với các nước Đông Nam Á. Khi quân đội Pháp bị giam chân ở Điện Biên Phủ,
chính phủ Pháp cầu viện sự giúp đỡ của Mỹ thì các nhà cầm quyền ở Washintơn
đã tỏ ra hết sức lo lắng. Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ Ratpho
đã đề nghị mỏe một chiến dịch bằng không quân xuất phát từ Philippin. Mấy ngày
sau, phó tổng thống Mỹ Nixon còn gợi ý đến khả năng “đưa quân chúng ta vào đó”.
Cuối những năm 50, người ta đã nhận ra rằng, việc đế quốc Mỹ đổ tiền của ra giúp
không chỉ đơn thuần là cứu kẻ “đồng hội đồng thuyền” mà qua đó “sáng tạo điều
kiện và thời cơ đưa chính sách thực dân kiểu mới” vào Việt Nam, chuẩn bị cho sự
can thiệp sâu hơn khi cần thiết.
Sau khi Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương có hiệu lực, Mỹ đã công
khai, trắng trợn phá hoại việc thi hành các điều khoản của hiệp định mà Mỹ không
kí, có nghĩa là Mỹ không bị ràng buộc phải thực hiện. Bất chấp đường lối ngoại
giao “bảo vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới” của chính phủ Việt Nam dân
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

20
BÀI TẬP LỚN
===================
chủ cộng hòa, Mỹ tiếp tục kí kết với chính phủ Bảo Đại “Hiệp ước kinh tế Việt –
Mỹ” (9/1951), đưa cố vấn quân sự và trang bị vũ khí huấn luyện cho quân ngụy.
Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa (12/1959), chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “…
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai phá hoại hiệp định Giơnevơ, từ chối hiệp thương tổng
tuyển cử để thống nhất nước ta. Chúng thi hành một chính sách vô cùng tàn bạo, vơ
vét tài sản của nhân dân, đàn áp và khủng bố nhân dân ta một cách dã man. Chúng

âm mưu chia cắt đất nước ta một cách lâu dài, biến miền Nam nước ta thành một
căn cáu quân sự của đế quốc Mỹ, hòng gây chiến tranh mới ở Đông Dương”. Trong
suốt những năm 60 – 70 của thế kỉ XX, Mỹ đã đề ra mục tiêu phải tấn công Việt
Nam bằng mọi giá. Điều đó không chỉ thể hiện qua lực lượng quân sự khổng lồ mà
Mỹ điều đến Việt Nam – hơn nử triệu quân, 80 vạn lính ngụy với những đơn vị tinh
nhuệ nhất, hệ thống vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, tinh vi nhất – mà
còn thể hiện qua thái độ leo thang chiến tranh từ tháng 2/1962 đến 8/1966 trong kế
hoạch và trên chiến trường của chính quyền Mỹ ở Việt Nam, đặc biệt là dưới thời
R.Nixon:
- Tháng 2/1962, Kennedi nhanh chóng tăng viện trợ cho quân Mỹ ở
Việt Nam
- Tháng 4/1964, Nixon đề nghị dung quân sự đánh phá các căn cự cộng
sản ở Bắc Việt Nam và Lào.
- Tháng 8/1964, Mỹ dựng lên “sự kiện Vịnh Bắc bộ” lấy cớ để bắt đầu
chiến tranh phá hoại chống phá miền Bắc Việt Nam.
- Tháng 1/1965, Nixon đề nghị dung hải quân và không quân “cắt
đường tiếp tế của cộng sản cho Nam Việt Nam”.
- Tháng 11/1965, đòi tăng cường ném bom và thả mìn ở Hải Phòng.
- Tháng 8/1966, Nixon gợi ý tăng cường bộ binh và ném bom ở miền
Bắc.
Kết quả của những hành động leo thang trên đã đi ngược lại những gì Mỹ
mông đợi. Tháng 5/1968, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, bắt đầu cuộc đối
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

21
BÀI TẬP LỚN
===================
thoại chính thức đầu tiên giữa đại diện chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa với
Mỹ.Trong suốt quá trình đàm phán, Mỹ tỏ ra ngoan cố tìm kiếm cơ hội. Tuy nhiên
với chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972, Việt Nam đã không cho

Mỹ khả năng đó.
Ngày 27/11/1973, hiệp định Pari được kí, đánh dấu sự thất bại của Mỹ ở Việt
Nam. Tuy thất bại nhưng bản chất của đế quốc xâm lược vẫn không hề thay đổi,
Mỹ lại triển khai một kế hoạch hậu chiến không kém phần thâm độc đối với nhân
dân Việt Nam.
- Thực hiện chính sách xâm lược Việt Nam, mở rộng chiến tranh Việt
Nam thành chiến tranh Đông Dương nhằm mục tiêu làm bá quyền ở khu vực
Đông Nam Á.
- Quyết tâm tiêu diệt nước Việt Nam mặc cho những thiện chí của toàn
Đảng, toàn dân ta và bất chấp dư luận tiến bộ thế giới.
- Tiến hành chiến tranh thông qua lính đánh thuê và quân đội lệ thuộc.
- Bằng viện trợ, Mỹ đã cô lập Việt Nam khỏi khu vực và lôi kéo đồng
minh ở Đông Nam Á tham gia trực tiếp vào chiến tranh Việt Nam.
2.3: Tác động của chiến tranh Việt Nam đối với quan hệ Xô – Mỹ (1954 – 1991)
2.3.1: Tác động của chiến tranh Việt Nam đối với quan hệ Xô – Mỹ từ 1954 – 1975
Cuộc chiến tranh Việt Nam đã có tác động rất lớn đến quan hệ quốc tế trong
bối cảnh chiến tranh lạnh. Thực chất đây là sự đối đầu Đông – Tây giữa 2 phe tư
bản chue nghĩa đứng đầu là Mỹ và phe xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô.
Việc từ năm 1954, Mỹ nhảy vào xâm lược Việt Nam khiến Liên Xô phải đứng
về phía Việt Nam chống Mỹ trong mối quan hệ đồng minh xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn từ năm 1954 đến trước sự kiện Vịnh Bắc Bộ ngày 5/8/1964
Liên Xô chỉ ủng hộ chủ yếu về mặt tinh thần vì Liên Xô chỉ muốn cải thiện quan hệ
Liên Xô với các nước phương tây, đặt biệt là với Mỹ.
Sau “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, ban lãnh đạo tập thể mới của Liên Xô đã có
những chuyển hướng đối với cuộc chiến ở Việt Nam. Tuy nhiên, đês giai đoạn này,
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

22
BÀI TẬP LỚN
===================

ban lãnh đạo mới ở điện Kremin thông báo rằng chính sách đối ngoại của Liên Xô
cũng sẽ không thay đổi. Họ đã tuyên bố công khai về điều này tại nhiều diễn đàn
khác nhau, cũng như trong các cuộc trao đổi lớn với các chính trị gia phương Tây.
Ví dụ như: Đại sứ Liên Xô ở Washintơn, A.DDobrynin đã gặp tổng thống Johnson
và đảm bảo với ông ta rằng Matxcơva vẫn cam kết thực hiện nhyuwngx nghĩa vụ
quốc tế của mình. Phớt lờ chuyện đó, vào tháng 11, Matxcơva đã sẵn sàng chuyển
hướng từ giúp đỡ mang tính tuyên truyền thuần túy cho Hà Nội và mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam sang viện trợ vật chất nhiều hơn. Các nhà lãnh đạo
Xô viết không từ bỏ quan hệ của họ với Mỹ, nhưng sau tháng 11, các mối quan hệ
này lại bị ràng buộc bởi các chính sách của Mỹ ở Việt Nam.
Một yếu tố mới và quan trongj trong giai đoạn này là những nỗ lực của các
nhà lãnh đạo Xô Viết nhằm tìm kiếm những biện pháp hòa bình để giải quyết cuộc
chiến ở Đông Nam Á. Douglas Bile nhận xét: “Liên Xô không thể hi sinh chiến
lược hòa hoãn của họ với phương Tây trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng thay vào
đó Liên Xô có thể điều chỉnh chính sách Việt Nam theo hướng “nếu và khi cần
thiết”…”.
Vào tháng 1/1965, sự thành công của mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam đã củng cố quyết tâm leo thang chiến tranh của Mỹ và trả đũa Việt Nam
dân chủ cộng hòa. Washintơn hiểu rằng, hướng tới một giải pháp quân sự ở Đông
Dương sẽ bao hàm những hiểm họa chắc chắn trong đó có thể có phản ứng của
Liên Xô khi Mỹ tấn công vào Việt Nam dân chủ cộng hòa. Có 3 vấn đề nảy sinh
trong đầu các nhà lãnh đạo Mỹ đó là cách thức Liên Xô tham chiến, tác động sự leo
thang của Mỹ trong quan hệ Xô – Mỹ và triển vọng cho mối quan hệ Trung – Mỹ
đang được cân nhắc ở Washintơn. Sự leo thang của Mỹ trong ciến tranh Việt Nam
đã thực sự làm quan hệ Xô – Mỹ xấu đi. Từ rất nhiều cuộc thảo luận ở Washintơn
đầu năm 1965 mà chúng có thể ảnh hưởng đến quan hệ Xô – Mỹ trong cuộc chiến
tranh Việt Nam và cũng có thể rút ra 2 kết luận:
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG

23

BÀI TẬP LỚN
===================
- Một là, Liên Xô không hài lòng với cuộc xung đột quân sự ở Đông Dương
và mông muốn một sự dàn xếp hòa bình, càng sớm càng tốt.
- Hai là, trong cuộc chạy đua lâu dài này, Liên Xô không mong muốn làm
nguy hại đến mối quan hệ với các nước phương Tây nói chung, đặc biệt là với Mỹ
bởi vì cuộc xung đột này nằm ở một góc xa xôi của thế giới.
Rõ ràng là cho đến năm 1965, chiến tranh Việt Nam đã tác động lớn đến quan
hệ Xô – Mỹ và quan hệ này được cải thiện hay không đều dựa vào chính sách của
Mỹ ở Việt Nam.
Năm 1968, khi mặt trận ngoại giao được mở, chính quyền Johnson đã tranh
thủ mục tiêu dàn xếp hòa bình của Liên Xô để tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô
trong các cuộc hội đàm với Hà Nội.
Dưới thời của Nixson, nửa đầu năm 1969, phần lớn các cuộc trao đổi của
Dobrynin và Kisssinger đều xung quanh vấn đề Việt Nam. Cuộc gặp ngày
12/6/1969 tại phòng làm việc của Kisssinger, Kisssinger đã nêu lên quan điểm của
tổng thống về một số vấn đề quốc tế và đặc biệt là quan hệ Xô – Mỹ. Kisssinger
đảm bảo rằng trong quan hệ Xô – Mỹ không kém phần quan trọng như vấn đề Việt
Nam.
Ngày 27/9/1969, trong cuộc tiếp chuyện với Dobrynin, Kisssinger đã khuyến
cáo rằng, tất cả các đòi hỏi về phía Mỹ về sự giúp đỡ của Liên Xô kết thúc chiến
tranh Việt Nam không đạt được kết quả sẽ khó làm cho phía Mỹ xúc tiến mạnh mẽ
quan hệ giữa hai nước. Để tăng thêm ấn tượng và sự quyết tâm của Mỹ, Nixon đã
gọi điện cho Kisssinger khi ông ta đang nói chuyện với Dobrynin rằng Việt Nam là
vấn đề quan trọng nhất trong quan hệ Xô – Mỹ.
Ngày 20/10/1969, đích thân Nixon gặp Dobrynin trong một cuộc nói chuyện
nghiêm túc về lập trường của Liên Xô đối với Việt Nam và các triển vọng vê mối
quan hệ Xô – Mỹ. Ông ta nói với viên đại sứ Liên Xô, người vừa thông báo cho
Nhà Trắng về việc Liên Xô sắn sàng bắt đầu các cuộc đàm phán về vũ khí chiến
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG


24
BÀI TẬP LỚN
===================
lược, rằng một sự cải thiện mối quan hệ tay đôi tùy thuộc vào mong muốn của Liên
Xô “làm một số việc với Việt Nam”.
Như vậy có thể thấy rằng, tác động của chiến tranh Việt Nam với quan hệ Xô
– Mỹ và rất lớn và quan hệ Xô – Mỹ giai đoạn này tốt hay không tùy thuộc vào
chính sách của họ với Việt Nam. Các nhà lãnh đạo thừa nhận rằng các mối quan hệ
Xô – Mỹ có thể “tác dụng thuận lợi” cho việc giải quyết chiến tranh cũng như dàn
xếp một cách xây dựng các vấn đề của Trung Đông và châu Âu. Song đó chỉ là một
sự trả lời thông thường của chính phủ Liên Xô, phía Liên Xô cho rằng, việc Mỹ rút
lui khỏi cuộc xung đột Đông Dương có thể có một tác dụng tích cực đối với quan
hệ Xô – Mỹ.
Hiệp định Pari được kí kết, Mỹ rút khỏi Việt Nam , hòn đá tảng lớn cản trở sự
phát triển quan hệ Xô – Mỹ trong giai đoạn này và quan hệ Xô – Mỹ có thể có
những bước tiến hơn sau chiến tranh Việt Nam.
2.3.2:Tác động của chiến tranh Việt Nam đối với quan hệ Xô – Mỹ từ
1976 đến 1991
Trong thập kỷ 1970, sự hòa dịu trong quan hệ Xô - Mỹ không có gì vững
chắc. Vào cuối thập kỷ đó, sự căng thẳng và “chiến tranh lạnh” đã thay thế cho sự
hòa dịu.
Nguyên nhân chủ yếu làm cho sự hòa dịu thời kỳ đó không thành là do những
mâu thuẫn đối kháng của các hệ tư tưởng chính thống ngự trị ở Liên Xô và Mỹ ,và
gắn liền với nó là quan điểm ,cách nhìn khác nhau của mỗi nước đối với vấn đề hòa
dịu và rốt cuộc nó đã làm cho quá trình đó bị phá vỡ. Ban lãnh đạo Liên Xô cũng
như các chính quyền Nixon- Pho- Cato chưa bao giờ đặt ngược lại vấn đề , xem lại
những lập luận của mình , những lý lẽ của mình đúng hay sai.
Về mặt thời gian, quá trình hòa dịu đã được bắt đầu cùng với việc Nixon
DƯƠNG TRƯỜNG PHONG


25

×