Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Luận văn: Một số giải pháp trong việc đầy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.05 KB, 46 trang )





Luận văn
Một số giải pháp trong việc đầy mạnh
xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI
tại Việt Nam


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Chiến lược mở cửa để đưa dần nền kinh tế nước ta hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới đã được Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực
hiện cách đây hơn 13 năm. Một trong nhiều nội dung quan trọng của chính
sách mở cửa là (chủ trương) những giải pháp thu hút FDI, đặc biệt quan trọng
là chính sách, các giải pháp nhằm thu hút FDI vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất
khẩu có vai trò then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam.
Thu hút FDI vào lĩnh vực phát triển hàng xuất khẩu không chỉ nhằm
tăng thêm vốn đầu tư phát triển sản xuất mà còn tạo thêm nhiều công ăn việc
làm cho người lao động, cung cấp cho nước nhà những máy móc kỹ thuật và
quy trình công nghệ tiên tiến, sản xuất ra nhiều mặt hàng có chất lượng cao,
góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ góp
phần ổn định nền tài chính tiền tệ quốc gia, thúc đẩy kinh tế phát triển…
Chính vì vậy, việc xây dựng môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút FDI
vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
phát triển nền kinh tế Việt Nam trước thềm thế kỳ 21. Đồng thời cũng là nhân
tố quan trọng để đưa đất nước ta từ một quốc gia nghèo nàn lạc hậu trở thành
một nước công nghiệp, để đưa chủ trương của Đảng ta xây dựng một nước
Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh sớm trở thành hiện thực.
2. Mục đích của đề tài.


Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá khái quát và phân tích tổng thể về
đặc điểm, xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất hàng
xuất khẩu của Việt Nam.
Nghiên cứu thực trạng, xác định tiềm năng xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam nói chung và của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam nói riêng. Từ
nội dung nghiên cứu về những thuận lợi và khó khăn trong quá trình xuất
khẩu hàng hoá để rút ra những bài học thực tiễn góp phần nhỏ bé vào công
cuộc phát triển hàng xuất khẩu của nước nhà. Qua đây làm sáng tỏ quá trình
thu hút có kết quả FDI tại Việt Nam.
Đề án phân tích cụ thể những giải pháp đầy mạnh hoạt động xuất khẩu
của các doanh nghiệp FDI. Qua đó nhằm đưa ra những đề xuất phát triển cho
các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam trong thời gian tới.


3. Kết cấu của đề án.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo … đề án
gồm 3 phần.
Phần I: Lý luận chung về xuất khẩu và vai trò của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá.
Phần II: Thực trạng thực hiện xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI tại
Việt Nam thời gian vừa qua.
Phần III: Một số giải pháp trong việc đầy mạnh xuất khẩu của các
doanh nghiệp FDI tại Việt Nam trong thời gian tới.
NỘI DUNG
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU VÀ VAI TRÒ CỦA
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU HÀNG HOÁ.
I. VAI TRÒ XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ.
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc mua bán hàng hoá và dịch vụ của

nước này đối với nước khác và ngoại tệ được lấy làm phương tiện thanh toán.
Sự mua bán trao đổi này là hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự
phụ thuộc lấn nhau về kinh tế giữa người sản xuất hàng hoá riêng biệt của các
quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu đối với một quốc gia là cần thiết vì lý do cơ bản là
khai thác được lợi thế so sánh của các nước xuất khẩu và mở ra tiêu dùng
trong nước xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán
ở phạm vi quốc tế có điều kiện không gian và thời gian . Nó không phải là
hành vi mua bán riêng lẻ mà nó có một hệ thống các quan hệ mua bán trong
một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài. Song hoạt động
mua bán ở đây có những sự khác biệt phức tạp hơn mua bán trong nước, các
chủ thể thực hiện hành vi mua bán có các quốc tịch khác nhau và hàng hoá để
mua bán được tới một quốc gia khác.
Một thực tế cho thấy một quốc gia cũng như một cá nhân không thể
sống riêng lẻ tự cung tự cấp mà có thể đầy đủ. Nền thương mại quốc tế có
tính chất sống còn cho phép đa dạng hoá các mặt hàng tiêu dùng để có số


lượng nhiều hơn, chất lượng cao hơn, có thể tiêu thụ cùng với ranh giới của
khả năng sản xuất trong nước cao hơn khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp
không buôn bán.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì phạm vi chuyên môn hoá
ngày càng tăng, số sản phẩm dịch vụ phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của con
người ngày một nhiều hơn, đồng thời sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước
cũng tăng lên. Nói cách khác, chuyên môn hoá thúc đầy nhu cầu mậu dịch và
ngược lại, một quốc gia không thể chuyên môn hoá sản xuất nếu không có
hoạt động trao đổi mua bán với quốc gia khác. chuyên môn hoá là biểu hiện
sinh động của quy luật lợi thế so sánh. Quy luật này nhấn mạnh sự khác nhau
về chi phí sản xuất, coi đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Quy
luật này cũng khẳng định nếu mỗi nước chuyên môn hơn vào các sản phẩm

mà nước đó có lợi thế tương đối hay hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất thì
thương mại có lợi cho cả hai bên.
Sự khác biệt nhau về sản xuất cũng giải thích phần nào việc buôn bán
giữa các nước, nên sẽ có lợi thế khi mỗi nước chuyên môn hoá để sản xuất
các mặt hàng thích hợp cho xuất khẩu và nhập các mặt hàng cần thiết từ các
nước khác nhau. Chuyên môn hoá quy mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm.
Hoạt động xuất khẩu có thị trường khá rộng, khó kiểm soát, thành phần
trung gian trong hoạt động xuất khẩu chiếm tỷ trọng khá lớn, hàng hoá phải
vận chuyển qua biên giới, cửa khẩu. Các quốc gia khi tham gia vào hoạt động
xuất khẩu đều phải tuân theo các tập quán thông lệ quốc tế cũng như các quy
định ở địa phương nơi họ đưa hàng hoá đến. Đồng tiền thanh toán thường là
ngoại tệ mạnh hoặc đổi lại hàng hoá.
Hoạt động xuất khẩu ở nước ta là một trong những vấn đề được coi
trọng hàng đầu trong quá trình đổi mới nền kinh tế. Do vậy Đảng và Nhà
nước đã có chủ trương mở rộng, phát triển kinh tế đối ngoại trong đó chú
trọng đến lĩnh vực thương mại hàng hoá dịch vụ.
2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động
kinh tế đối ngoại là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng
xuất khẩu dể tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu
cũng như tạo cơ sở cho phát triển các hạ tầng là một mục tiêu quan trọng nhất
của chính sách thương mại Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp thúc
đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu, khuyến khích khu vực tư nhân


mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất
nước. Hiện nay Việt Nam đã ký thiết lập quan hệ ngoại giao với 165 quốc gia
và có quan hệ buôn bán với trên 100 nước, hợp tác đầu tư với hơn 50 nước.
Trong quá trình phát triển kinh tế đối ngoại Việt Nam rất coi trọng quan hệ
xuất khẩu, bởi.

Thứ nhất, xuất khẩu tạo Việt Nam chủ yếu khó xuất khẩu va tích luỹ
phát triển sản xuất phục vụ công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất
nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình
trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất nước
trong thời gian ngắn, đói hỏi phải có số vốn rất lớn để xuất khẩu máy móc,
thiết bị, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Việt Nam để nhập khẩu có thể được
hình thành từ các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, vay viện trợ, thu từ
hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu sức lao động… các nghiệp
vụ như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ… tuy quan trọng, nhưng rồi
cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Nguồn vốn
quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu. Xuất
khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Trong tương lai,
nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay nợ của
nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người
cho vay thấy được khả năng nhập khẩu nguồn vốn duy nhất để trả nợ – trở
thành hiện thực.
Thứ hai, đầy mạnh xuất khẩu được xem như là một yếu tố quan trọng
kích thích sự tăng trưởng kinh tế, việc đầy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng
quy mô sản xuất, nhiều ngành nghề kinh tế khác phát triển theo kết quả tăng
tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh. Chẳng hạn như gia
công hàng may mặc xuất khẩu phát triển, kéo theo sự phát triển của ngành
dệt, ngành trồng bông, các ngành sản xuất phụ kiện phục vụ cho gia công…
hoặc phát triển xuất khẩu gạo, chẳng hạn những ngành trồng lúa thựchiện mở
rộng diện tích, tăng vụ để tăng sản lượng gạo xuất khẩu, mà các ngành khác
như dệt bao đay để đựng gạo, ngành trồng đay, ngành xay xát, ngành chăn
nuôi đều phát triển theo.
Thứ ba, xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiệt bị và công
nghệ sản xuất: Bởi vậy để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường thế giới về quy
cách chất lượng sản phẩm thì một mặt sản xuất phải đổi mới trang thiết bị
công nghệ, mặt khác người lao động phải nanag cao tay nghề, học hỏi những

kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Thực tiễn ở ngành may mặc hoặc may da xuất


khẩu sau những năm mất đi thị trường Đông ÂU và Liên Xô cho thấy, muốn
tìm thị trường mới ở các nước tư bản đòi hỏi hàng loạt những xí nghiệp gia
công phải thay đổi máy móc xay xát của ta rất thô sơ, gạo không cần đánh
bóng, sàng lọc tấm… thì nay chuyển sang xuất khẩu gạo để đủ tiêu chuẩn
xuất khẩu thì hệ thống máy xay xát phải thay đổi.
Thứ tư, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc
đẩy sản xuất phát triển, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang
thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công
nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối
với nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một là, xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những
sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền
kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta, sản xuất về cơ bản còn
chưa đủ tiêu dùng nên chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất
khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng chậm chạp. sản xuất và sự thay đổi cơ
cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp. Hai là coi thị trường và đặc biệt thị trường thế
giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực
đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này
đến sản xuất thể hiện ở:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận
lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho
việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuộc nhuộm. Sự
phát triển của ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu có thể sẽ kéo
theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho
sản xuất phát triển và ổn định

- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế – kỹ thuật nhằm cải tạo và
nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là
phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ thế giới bên ngoài
vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra một năng
lực sản xuất mới.
- Thông qua xuất khẩu hhcủa ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên
thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đỏi hỏi chúng ta


phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với
thị trường.
- Xuất khẩu còn đỏi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn
thiện công việc quản trị sản xuất kinh doanh.
Năm là, xuất khẩu là cơ sở mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại của nước ta. Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc
tế giữa các nước, chẳng hạn, xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng hoá xuất
khẩu thúc đẩy qua hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế. Mặt khác nó
còn góp phần nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên trường quốc tế. Nhờ
khả năng xuất khẩu dầu thô và gạo của chúng ta lớn mà nhiều nước muốn
thiết lập quan hệ buôn bán và đầu tư với ta.
Sáu là, xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc
làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu đến đời sống bao
gồm nhiều mặt. Trước hết sản xuất hàng hoá xuất khẩu là nơi thu hút hàng
triệu lao động vào làm việc và có thu nhập không thấp. Xuất khẩu còn tạo ra
nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và
đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
để phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước.

II. XUẤT KHẨU TRONG CÁC DOANH NGHIỆP FDI.
1. Doanh nghiệp FDI.
1.1. Khái niệm:
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, thực
hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm mục đích làm tăng giá trị
ts của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp sử dụng vốn dưới dạng tiền hoặc
hiện vật của các tổ chức cá nhân nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh
doanh nhằm thu lợi nhuận.
1.2.Phân loại
Đầu tư nước ngoài được thông qua nhiều hình thức như: hợp đồng hợp
tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài, hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), hợp đồng
phân chia sản phẩm (PSC), cho thuê thiết bị.


Ngoài ra các nhà đầu tư nước ngoài còn được đầu tư vào các khu công
nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao dưới các hình thức hợp đồng hợp tác
kinh doanh, liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Dưới hình thức sẽ là 2 loại hình doanh nghiệp FDI phổ biến nhất.
* Liên doanh: Là hình thức đầu tư do hai bên cùng nhau góp vốn theo
một tỷ lệ nhất định để thành lập một doanh nghiệp mới có hội đồng quản trị
và ban giám đốc điều hành riêng và chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, ăn chia lợi nhuận và gánh chịu rủi ro theo tỷ lệ vốn
góp.
Về thực chất đấy là sự chung vốn giữa nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
với nhà đầu tư nước sở tại để hình thành nên một doanh nghiệp thống nhất về
cơ cấu tổ chức, kinh tế kỹ thuật. Nói cụ thể hơn, đó là sự góp riêng thành một
vốn chung, tạo nên một cơ sở vật chất chung để thực hiện một nhiệm vụ
chung, cùng hưởng lãi và chịu sẻ rủi ro theo phần vốn góp.

Hình thức này thường được tiến hàh khi cả hai bên cùng có lợi. Đó là
lúc mà nhà đầu tư nước ngoài cần dựa vào đối tác nước sở tại để có thể tiếp
xúc với môi trường đầu tư mới khi mà họ chưa thật sự hiểu biết nhiều về nó,
một nơi mà tuy hứa hẹn nhiềm tiềm năng nhưng rất có thể cũng ẩn chưa nhiều
rủi ro và nguy cơ.
Hình thức liên doanh cũng giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài có thể
nhanh chóng giải quyết các thủ tục cần thiết cho việc đầu tư. Có thể nói bằng
hình thức này họ đã tạo ra được một “Tay trong”, người am hiểu về luật pháp,
thông lệ và tập quán của nước sở tại, và là một yếu tố quan trọng giúp họ
nhanh chóng thực hiện được nguyện vọng đầu tư của mình, điều mà một
mình họ khó có thể thực hiện được. Còn nhà đầu tư trong nước cần đủ vốn để
họ được phép kinh doanh trong những ngành nghề có mức vốn tối thiểu theo
quy định, cần khoa học công nghệ và cả kinh nghiẹm quản lý, thông tin về thị
trường, về bạn hàng… do đó hình thức hùn vốn kinh doanh là hình thức được
cả hai bên lựa chọn, đặc biệt là khi bắt đầu đầu tư vào thị trường mới. Chính
phủ các quốc gia chậm phát triển rất cọi trọng hình thức này vì nó giúp nước
sở tại tiến bộ nhanh về nhiều mặt như tạo thêm công ăn việc làm, giúp tiếp
thu công nghệ mới, phương pháp quản lý hiện đại, ý thức tổ chức kỷ luật và
tác phong làm việc công nghiệp. Hơn nữa, sự có mặt trực tiếp của thành viên
nước sở tại có thể nắm bắt được ý đồ đầu tư của các chủ tư bản nước ngoài và
kịp thời điều hành nếu hoạt động của doanh nghiệp này làm phương hại đến
lợi ích quốc gia, đến lợi ích của người lao động nước mình… đồng thời cũng


thông qua hoạt động điều hành quản lý doanh nghiệp mà có thể nhanh chóng
nắm bắt được thị trường, được bạn hàng quen của các chủ đầu tư nước ngoài
để có thể vươn lên làm chủ tương lai.
* Đầu tư độc lập, tạo ra các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đây
là hình thức độc lập đầu tư của các chủ đầu tư nước ngoài, là việc các chủ đầu
tư nước ngoài bỏ 100% vốn, xây dựng doanh nghiệp của mình trên lãnh thổ

của nước sở tại và chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh
doanh cũng như tự mình gánh chịu mọi rủi ro nếu có. Nước sở tại không góp
phần vốn nhưng cung cấp cho bên nước ngoài các dịch vụ cần thiết và cho
thuê đất đai, sức lao động… Tuy nhiên doanh nghiệp loại này cũng có nhiều
loại có loại hoạt động như một doanh nghiệp nội địa có loại hoạt động trong
khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu mậu dịch tự do.
Mỗi loại hình đầu tư nói trên có những mặt ưu điểm và nhược điểm
nhất định đối với nhà đầu tư cũng như đối với nước chủ nhà. Các nhà đầu tư
thường thích hình thức độc lập, tức là bỏ 100% vốn để hình thành doanh
nghiệp. Nhưng đôi khi độc lập cũng sẽ gây khó khăn và có hi phải gánh giụ
nhiều rủi ro đặc biệt khi đầu tư vào một môi trường mới, mà ở đó mọi luật lệ
chưa rõ ràng hoặc hay thay đổi. Trong trường hợp này nhà đầu tư thường
chọn biện pháp mềm dẻo hơn đó là liên doanh.
Tuy nhiên khi những tính toán này không được các nhà đầu tư nước
ngoài chấp nhận sẽ dẫn đến tình trạng bên đối tác nước ngoài rút lui, đi tìm thị
trường đầu tư khác thông thoáng hơn, có lợi cho họ hơn và như vậy mục tiêu
đề ra là thu hút FDI sẽ không thực hiện được. Vì thế phải tính toán sao cho cả
hai bên cùng có lợi.
2. Mục đích thu hút FDI.
Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến hoạt động xuất khẩu, ngay từ
thời gian đầu thực hiện đường lối “đổi mới” nền kinh tế với 3 chủ trương kinh
tế lớn trong đó có chủ trương sản xuất hàng xuất khẩu. Tại văn kiện hội nghị
lần thứ 7 ban chấp hành Trung ương khoá VII đã khẳng định “Thực hiện
chiến lược về xuất khẩu là chính, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản
phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả …” hay “… xuất khẩu càng phát triển
khả năng thu hút đầu tư nước ngoài càng lớn ….” đã cho ta thấy một chủ
trương nhất quán, một quyết tâm mạnh mẽ mong muốn đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu hàng hoá để phát triển kinh tế đất nước.



* Thu hút FDI nhằm tăng cường thêm nguồn vốn cho đầu tư sản xuất
hàng xuất khẩu với bất cứ một chương trình kinh tế nào được đề ra, muốn đạt
được hiệu quả thì việc đòi hỏi đầu tiền là một hệ thống chủ trương chính sách
và pháp luật được đề ra một cách đồng bộ và hoàn chỉnh phù hợp với điều
kiện kinh tế trong nước và xu hướng phát triển của thế giới, mặt khác phải có
tài chính để triển khai thực hiện chương trình kinh tế đó. Cũng như các chủ
trương kinh tế khác, chính sách sản xuất hàng hoá xuất khẩu cũng cần rất
nhiều vốn, vốn cho xúc tiến thương mại.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nhiều khó khăn, nhất là thiếu vốn
cho nhiều nhu cầu của nền kinh tế thì việc dành vốn cho chủ trương sản xuất
hàng hoá xuất khẩu là một việc không đơn giản. Do đó Nhà nước ta đã có chủ
trương kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành sản xuất hàng
xuất khẩu. Chính vì ưu tiên cho chủ trương sản xuất hàng xuất khẩu cho nên
trong các điều khoản của đường lối chính sách đã quy định các mức độ khác
nhau về tỷ lệ xuất khẩu sản phẩm đối với các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam.
Các nhà đầu tư nước ngoài nhận thấy ở thị trường Việt Nam có một đội
ngũ lao động hùng hậu, có trình độ văn hoá, có tay nghề ở mức chấp nhận
được và có mức lượng khá thấp so với các nước trong khu vực. Mặt khác Việt
Nam có ưu thế là một nước giầu tài nguyên, thiên nhiên ưu đãi, có vị trí địa lý
thuận tiện cho việc giao lưu buôn bán và có chế độ chính trị ổn định. Đây là
yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của thị trường tư Việt Nam so với các nước trong
khu vự và trên thế giới.
Để đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu, Nhà nước Việt Nam đã giành
nhiều ưu tiên cho các nhà đầu tư nước ngoài như ưu đãi về thuế xuất nhập
khẩu, ưu đãi về các khoản trích nộp lợi nhuận … Nhà nước đã thành lập ra
các khu công nghiệp, các khu chế xuất với một cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh như:
đường giao thông, hệ thống điện nước, thông tin liên lạc… và các biện pháp
quản lý thông thoáng để các nhà đầu tư triển khai sản xuất, gia công, lắp ráp
các sản phẩm để giành cho sản xuất. Kết quả của các biên pháp khuyến khích
trên đã tạo ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào sản xuất

hàng xuất khẩu ở Việt Nam và doanh số xuất nhập khẩu không ngừng gia
tăng trong khu vực các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, trong đó kim ngạch
xuất nhập khẩu đã có tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập
khaảu nước nhà.


* Thu hút FDI nhằm gia tăng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nước nhà
đặc biệt là đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu, làm lành mạnh cán cân thanh
toán thương mại.
Khi các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đi vào thực hiện thì cũng là lúc
các nhà đầu tư triển khai các lĩnh vực hoạt động đặt nền móng cho việc làm
ăn lầu dài tại Việt Nam, các lĩnh vực đó bao gồm: Triển khai xây dựng cơ sở
hạ tầng như nhà xưởng, điện nước… bỏ vốn ra nhập khẩu máy móc kỹ thuật
và quy trình công nghệ, nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu mà tại nước ta chưa
có điều kiện để đáp ứng… Như vậy ngay từ đầu khi bắt tay vào việc triển khai
dự án đầu tư, các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam đã tham gia vào hoạt động
nhập khẩu, số kim ngạch nhập khẩu này được tính chung cho tổng số kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam mà Nhà nước ta không phải bỏ ra hết tổng số
ngoại tệ nhập khẩu, đây là một ưu điểm mà đầu tư trực tiếp Nhà nước mang
lại cho nước được nhận đầu tư. Nhập khẩu của doanh nghiệp FDI không để
nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước mà nhằm để sản xuất ra hàng
hoá phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Khi Nhà nước ta có chủ trương khuyến
khích các doanh nghiệp hướng mạnh về xuất khẩu như giảm thuế và một số
khoản đóng góp, có quỹ hỗ trợ xuất khẩu… các nhà đầu tư Nhà nước đã tranh
thủ các ưu đãi của Nhà nước ta để đẩy mạnh xuất khẩu. Do có ưu thế hơn các
doanh nghiệp trong nước, nên kết quả xuất nhập khẩu đã nhanh chóng đạt
được những kết quả đáng khích lệ, nhất là kim ngạch xuất khẩu bởi sản phẩm
có sức cạnh tranh cao trên thương trường quốc tế.
Chỉ sau một thời gian ngắn triển khai các dự án đầu tư, các doanh
nghiệp FDI tại Việt Nam đã từng bước tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng

hoá ra thị trường bên ngoài và đã góp phần đóng góp ngày càng tăng đáng kể
vào tổng số kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy kim ngạch xuất khẩu chưa tương xứng với kim ngạch xuất khẩu
nhập khẩu, thời gian đầu kim ngạch xuất khẩu tại các doanh nghiệp FDI tại
Việt Nam chưa có và kim ngạch nhập khẩu lại gia tăng nhanh chóng, đến
những năm gần đây kim ngạch nhập khẩu vẫn tăng và đồng thời kim ngạch
xuất khẩu hình thành và gia tăng với tốc độ nhanh hơn sơ với tốc độ của kim
ngạch nhập khẩu, đây là một tín hiệu đáng mừng, nó chứng minh cho một
điều là tăng nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng nhập khẩu thiết bị má
móc để phát triển sản xuất, tăng nhập khẩu nguyên nhiên liệu trong nước chưa
có điều kiện đáp ứng để sản xuất ra hàng hoá phục vụ tiêu dungf xã hội và thế
giới xuất khẩu khi kim ngạch xuất khẩu được giá tăng tương xứng sẽ là bằng


chứng cụ thể để đánh giá hiệu quả của nhập khẩu. Bước tiếp theo của tăng
xuất khẩu nhằm tăng sản xuất trong nước và tăng sản xuất để đẩy mạnh xuất
khẩu, đây là một chu trình có quan hệ hữu cơ và quan hệ nhân quả với nhau.
Thực tiễn hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam
đã góp phần làm sáng tỏ luận cứ này.
Tăng cán cân xuk là góp phần giảm thâm hụt thương mại, tiến tới cân
bằng và thặng dư trao đổi mậu dịch quốc tế của nước nhà, đây là một định
hướng đúng đắn mà nền kinh tế Việt Nam cần hướng tới, khi có sự trợ giúp
của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam thì định hướng này ngày càng có cơ
sở để thực hiện.
Tăng kim ngạch xuất khẩu nói chung và của doanh nghiệp FDI nói
riêng sẽ tạo điều kiện để tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia, góp phần ổn định
tài chính tiền tệ, tạo môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế đất nước.
* Ngoài ra, thu hút FDI còn nhằm cung cấp những dịch vụ có chất
lượng cao góp phần đáng kể vào thúc đẩy công tác xuất khẩu của Nhà nước,
những dịch vụ đó bao gồm:

- Dịch vụ tài chính Ngân hàng, giúp cho việc thanh toán quốc tế được
dễ dàng thuận tiện, tạo lòng tin cho khách hàng có quan hệ buôn bán với Việt
Nam.
- Dịch vụ vận tải chuyên chở, đây cũng là một lĩnh vực các doanh
nghiệp FDI tại Việt Nam đóng góp bổ xung cho công tác dịch vụ vận tải
chuyên chỏ của nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xuất khẩu hàng
hoá.
- Dịch vụ bảo hiểm: Đây là một yêu cầu quan trọng của công tác xuất
khẩu bởi thực hiện bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu tốt, sẽ góp phần tránh
những rủi ro tổn thất cho các nhà xuất khẩu và góp phần phát triển kinh tế đất
nước.
- Ngoài ra còn có các dịch vụ tư vấn về pháp luật, cung cấp thông tin,
marketing thị trường … hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu Nhà nước.
3. Vị trí xuất khẩu đối với doanh nghiệp FDI:
Trước hết xuất khẩu được coi là phương tiện thúc đẩy sự phát triển của
các doanh nghiệp FDI, nó có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao cũng như gây ra
sự tổn thất lớn cho doanh nghiệp.
Thứ hai, xuất khẩu cho phép phát huy nội lực của nền kinh tế, sự sáng
tạo của mọi người, tổ chức, địa phương trong xã hội bởi vì xuất khẩu dễ thu


được hiệu quả cao do được nhiều cá nhân và tổ chức thực hiênj, các luồng
thông tin được khai thông, các mỗi quan hệ được sử dụng có hiệu quả.
Thứ ba, việc xuất khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi, kiểm soát lẫn nhau rất chặt
chẽ giữa các chủ thể tham gia xuất khẩu. Chính nhờ sự cạnh tranh này làm
cho chất lượng hàng hoá được nâng cao, áp dụng được tiến bộ khoa học kỹ
thuật.
Cuối cùng xuất khẩu dẫn đến sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất
và các nhà khoa học một cách thiết thực từ phía các nhà sản xuất, nó khơi

thông nhiều nguồn chất xám cả trong và ngoài nước.
4. Nhân tố đẩy mạnh xuất khẩu.
* Yếu tố pháp luật: Hoạt động xuất khẩu diễn ra với sự tham gia của
các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. Ở mỗi quốc gia đều có những bộ luật
riêng, tốc độ luật pháp, hành pháp, tư pháp phụ thuộc vào trình độ phát triển
kinh tế ở các quốc gia đó. Các yếu tố luật pháp không chỉ chi phối hoạt động
kinh doanh ở trên chính các quốc gia đó mà nó còn ảnh hưởng tới các hoạt
động kinh doanh quốc tế.
Để có thể tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế thì trước hết
doanh nghiệp phải hiểu rõ môi trường pháp luật ở chính quốc gia mình và
quốc gia của đối tác cùng các thông lệ quốc tế hiện hành, vì chính các cơ hội
mới cho doanh nghiệp để tăng doanh số bán hàng, tăng lợi nhuận kinh doanh,
khai thác được các cơ hội trong kinh doanh, mở rộng hoạt động trên thị
trường thế giới.
* Yếu tố kinh tế: Yếu tố kinh tế bao gồm các yếu tố sau; chính sách
tiền tệ, chính sách tài chính, vấn đề lạm phat, thuế quan. Yếu tố kinh tế ảnh
hưởng tới cơ cấu tổ chức và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Còn ở tầm
vĩ mô, yếu tố kinh tế tác đọng đến đặc điểm và sự phân bố của các cơ hội kinh
doanh quốc tế và quy mô thị trường quốc tế.
* Yếu tố khoa học công nghệ: Một doanh nghiệp muốn có những sản
phẩm đạt chất lượng cao để tự khẳng định mình khi tham gia vào quá trình
thương mại quốc tế thì không áp dụng những thành tựu của hoa học vào quá
trình sản xuất.
Các yếu tố khoa học công nghệ có mối quan hệ khá chặt chẽ với các
yếu tố kinh tế nói chung và với hoạt động xuất khẩu nói riêng. Khi khoa học
công nghệ phát triển sẽ cho phép doanh nghiệp thực hiện công việc chuyên


môn hoá ở mức cao hơn, tay nghề của người lao động ngày càng được củng
cố và nâng cao.

Khoa học công nghệ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có được sự nhạy
bén trong việc nhận biết các thông tin, sự việc đang xảy ra xung quanh. Khoa
học công nghệ phần nào giúp các doanh nghiệp hiểu được thị hiếu, nhu cầu,
sở thích của khách hàng để từ đó đưa ra phương án thích hợp kịp thời với sự
biến đổi của thị trường.
Khoa học công nghệ đặc biệt là trong lĩnh vực máy tính, điện gia dụng,
các sản phẩm giải trí và hệ thống thông tin liên lạc toàn cầu đã làm tăng khả
năng truyền đạt và nhận biết các thông tin về ý tưởng cải tiến hoặc đổi mới
sản phẩm, giúp cho doanh nghiệp có khả năng bắt kịp với sự phát triển chung,
đẩy lùi lạc hậu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Khoa học công nghệ giúp cho doanh nghiệp tìm hiểu và nắm bắt chính
xác về bạn hàng, khách hàng đối tác làm ăn về các phương diện để từ đó có
thể hạn chế được rủi ro trong kinh doanh.
Hơn nữa, doanh nghiệp có thể áp dụng thành tựu của khoa học vào việc
thiết kế, thử nghiệm, cải tiến sản phẩm, phân tích và dự báo xu hướng biến
động của thị trường và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
* Yếu tố chính trị: Yếu tố chính trị có thể là yếu tố khuyến khích hoặc
yếu tố hạn chế quá trình xuất khẩu.
Việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phí thuế quan, thiết lập các quan
hệ là sự tác động mang tính tích cực, làm tăng cướng sự liên kết các thị
trường và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu.
Chính sách của Chính phủ đặt ra để bảo vệ các doanh nghiệp trong
nước và thị trường nội địa bởi sự cạnh tranh cua Nhà nước với chính sách
kinh tế có lợi cho doanh nghiệp trong nước bằng các hình thức như hàng rào
thuế quan. Nhưng ngược lại, sự không ổn định về chính trị sẽ làm chậm tốc
độ tăng trưởng kinh tế và kim ngạch hãn các mỗi quan hệ quốc tế.
Nhiều nơi trên thế giới hiện nay, sự bất ổn định về chính trị và các cuộc
chiến tranh sắc tộc diễn ra liên tục. Tại đây sự an toàn trong kinh doanh là
không cao hoặc không có. Điều này đã làm cho các doanh nghiệp đang hoạt
động tại đó phải tạm ngừng hoạt động kinh doanh của mình. Họ phải đánh giá

lại các cơ hội kinh doanh trên thị trường và phân bổ lại nguồn lực sang các thị
trường khác nơi có độ an toàn cao hơn.
Một xã hội phát triển khi mà Chính phủ thể hiện sự quan tâm của mình
tới đời sống của nhân dân. Cũng như vậy, các doanh nghiệp muốn đạt được


mục tiêu kinh tế thì phải thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng. Do đó
sự quan tâm của xã hội được thể hiện qua mục tiêu về xã hội như Nhà nước
tăng cường các quy định về cạnh tranh, các quy định về tiêu chuẩn sản phẩm,
nhãn hiệu, an toàn vệ sinh.
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển dần sang nền kinh tế thị
trường, Việt Nam cũng như các nước tiến hành “mở cửa” nền kinh tế với sự
hỗ trợ về giá của Nhà nước, tạo ra một cơ chế định giá theo thị trường. Sự
chuyển đổi này ảnh hưởng tới cường độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
đang hoạt động và mở ra các cơ hội kinh doanh mới trong các thị trường bị
hạn chế trước đây. Các doanh nghiệp không có phản ứng linh hoạt sẽ chịu
quy luật đào thải của sự cạnh tranh.
Vậy các yếu tố chính trị có ảnh hưởng tới việc mở rộng phạm vi tiêu
thụ sản phẩm và mở ra các cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp. Song
chính các yếu tố chính trị cũng có thể là chiếc rào chắn giới hạ sự tự do hoạt
động của các doanh nghiệp trên thị trường thế giới.
*Yếu tố văn hoá xã hội: Các yếu tố văn hoá xã hội có thể là lối sống,
phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, thị hiếu… của người tiêu dùng.
Các yếu tố văn hoá xã hội tác động mạnh mẽ tới nhu cầu thị trường làm
nền tảng cho sự xuất hiện thị hiếu tiêu dùng, nó có tính chất quyết định đến
hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp.
Hoạt động xuất khẩu được coi là hoạt động hết sức phức tạp vì hoạt
động xuất khẩu chịu sự tác động của nền văn hoá xã hội của nhiều quốc gia
có quan hệ ngoại giao.
* Yếu tố thuộc về doanh nghiệp: Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới

hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.
Ban lãnh đạo doanh nghiệp: Đây là bộ phận đầu não của doanh nghiệp,
là nơi xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp để đề ra các mục
tiêu, chiến lược phát triển Công ty, đồng thời gián sát, kiểm tra và đánh giá
việc thực hiện kế hoạch đề ra. Ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động xuất khẩu khi đưa ra chiến lược kinh doanh.
Cơ cấu tổ chức bộ máy: Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ loại trừ sự bất
hợp lý cùng các nhiễm trong sự truyền tải thông tin từ ban lãnh đạo đến các
thành viên trong doanh nghiệp. Cơ cấu tổ chức này cũng có thể sửa đổi bổ
xung lượng thông tin kịp thời, chính xác đúng vị trí một cách nhanh chóng.
Đồng thời cơ cấu tổ chức cũng ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong kinh
doanh bởi cách tổ chức theo từng loại cơ cấu như: Trực tuyến, chức năng,


trực tuyến tham mưu … cơ cấu tổ chức phải tìm được cách tổ chức hợp lý sao
cho phát huy được hết sức mạnh của từng ban ngành, bộ phận, tạo hiệu quả
kinh doanh cao nhất.
Nguồn lực của đầu tư: hoạt động xuất khẩu chỉ có thể tiến hành tốt khi
đã có sự nghiên cứu thị trường. Do đó vấn đề ở đây là phải có được đội ngũ
cán bộ kinh doanh có chuyên môn trong lĩnh vực này, có kiến thức về thị
trường quốc tế cũng như cách giải quyết các thủ tục hành chính trong hoạt
động xuất khẩu.
Ngoài ra, một doanh nghiệp hoạt động được tốt thì cũng cần có hệ
thống cơ sở vật chất hoàn chỉnh như văn phòng, nhà xưởng, trang thiết bị…
phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
* Yếu tố về sản phẩm: Trong nền kinh tế thị trường, mỗi sản phẩm
được sản xuất ra để xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Nhà sản xuất cần
phải biết thị trường cần gì, trên cơ sở đó sản xuất kịp thời để phục vụ. Doanh
nghiệp phải thực hiện theo phương châm sản xuất cái gì mà thị trường cần
chứ không phải sản xuất cái gì mà nhà sản xuất có. Có như vậy thì hàng hoá

của doanh nghiệp mới có thể thu hút được khách hàng.
* Yếu tố đồng tiền thanh toán: Phương tiện thanh toán luôn gắn liền với
hoạt động xuất khẩu. Ngoại tệ mạnh là phương tiện thanh toán chủ yếu trong
quan hệ thương mại quốc tế. Nếu dồng ngoại tệ biến động thì cũng sẽ ảnh
hưởng đến các bên tham gia. Một hoặc một số các bên tham gia sẽ bị thiệt
cũng như lợi tuỳ theo đồng tiền giao dịch mất giá hay được gia so với đồng
tiền của mình. Đồng tiền giao dịch cần được ổn định để cho các bên tham gia
cùng có lợi.
5. Khả năng xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI.
Luật đầu tư nước ngoài đã được thực thi 13 năm đến nay đã có trên 70
nước và vùng lãnh thổ, với nhiều tập đoàn kinh tế – tài chính lớn đầu tư vào
nước ta. Có thể khẳng định rằng chủ trương thu hút đầu tư trực tiếp của nước
ngoài là đúng đắn, góp phần phát triển kinh tế quốc gia, từng bước hội nhập
kinh tế quốc tế.
Về phương diện xuất khẩu, các doanh nghiệp FDI chủ động đầu ra,
trường vốn, công nghệ cao, mô hình quản lý tiên tiến, gọn nhẹ, có hiệu quả đã
đóng góp ngày càng nhiều vào xuất khẩu toàn quốc cả về trị số tuyệt đối và tỷ
trọng. Năm 1995 là 440 triệu USD bằng 8% kim ngạch cả nước, đến năm
2000 hai chỉ số tương ứng là 3,3 tỷ USD và 22% 6 tháng đầu năm 2001 kim


ngạch vượt xuất khẩu của FDI cả năm 1997 (các số liệu trên không kể phần
xuất khẩu dầu thô của liên doanh Dầu Khí Việt – Xô).
Do cơ chế chính sách đã luôn được cải tiến luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam ban hành năm 1987 cùng với các văn bản kèm theo liên tục được
sửa đổi, bổ xung theo hướng thông thoáng hơn qua các năm 1990, 92,96 và
gần đây, trên nền tảng luật đầu tư nước ngoài (sửa đổi) tháng 6/2001. Nghị
định 24 của Chính phủ và thông tư 22 của bộ thương mại đã mở rộng khung
hoạt động xuất khẩu củacc doanh nghiệp FDI như: bãi bỏ việc duy kế hoạch
xuất khẩu, được mua hàng hoá để xuất khẩu, các doanh nghiệp chế xuất được

tiêu thụ nội địa, xuất khẩu tại chỗ… và các doanh nghiệp FDI từng bước được
hưởng các lợi ích tương ứng các doanh nghiệp Việt Nam như được xét
thưởng về thành tích xuất khẩu. Do đó tỉ lệ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
ngày càng nhiều, xuất khẩu ngày một gia tăng.
Việc cải cách các thủ tục hành chỉnh đã được bước tiến quan trọng
bằng việc Bộ thương mại uỷ quyền các sở thương mại và các ban quản lý các
khu công nghiệp địa phương, giải quyết một số chức trách về quản lý Nhà
nước đối với các doanh nghiệp FDI. Và các cơ quan đó tiếp nhận suôn sẻ, gần
như không xảy ra ách tắc trong thời điểm chuyển giao trách nhiệm đã kích
thích các nhà đầu tư nước ngoài, đầu tư vào các doanh nghiệp, thúc đẩy cán
cân xuất nhập khẩu.
Với nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngành công nghiệp nói
cung và đặc biệt là dệt may, da giày, điện tử tăng nhanh về sản xuất và xuất
khẩu. Kim ngạch xuất khẩu 3 năm mặt hàng này thường chiếm từ 1 đến 2/3
tổng kim ngạch của các doanh nghiệp FDI và góp phần đưa ba mặt hàng đó
thành những mủi nhọn trên mặt trận xuất khẩu nói chung. Bên cạnh đó cũng
đã xuất hiện nhiều dự án đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu những
mặt hàng sử dụng nhiều lao động trong nước, tận dụng nhiều nguyên liệu tại
chỗ.
Như vậy, khả năng xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI là rất lớn.
Trong những năm qua xuất khẩu ở các doanh nghiệp này đã đạt được những
thành tựu đáng kể và tiếp tục nâng cao khả năng xuất khẩu trong những năm
tiếp theo.


PHẦN II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN XUẤT KHẨU TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP FDI TẠI VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN VỪA QUA.
1. Xuất khẩu thời kỳ 1991-2000.

Trong những năm qua, nhìn chung kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
thường đạt tốc độ tăng cao (trừ hai năm 1991và 1998 )
Bảng 2.1: Tình hình xuất khẩu thời kỳ 1991-2000

Năm Kim ngạch (triệu USD) Tốc độ tăng (%)
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2.087
2.580
2.985
4.054
5.448
7.255
9.185
9.361
11.523
15.308
-13,2
23,7
15,7
35,8
34,4

33,2
26,6
1,9
23,1
23,9

Nguồn: Niên giám thống kê 1998 và Báo cáo của bộ thương mại.
Tính chung thời kỳ 1991-1999, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân
20,4%, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế (đạt khoảng 7,5%). Kim ngạch
xuất khẩu tính trên đầu người tăng nhanh, năm 1991 mới đạt 30 USD, năm
1995 đạt 73USD, năm 1997 là 119 USD, năm 1999 là 150 USD và đến năm
2000 con số này đã tăng lên 148 USD, vượt qua ngưỡng một nước có nền
ngoại thương kém phát triển (170 USD). Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam đã có sự chuyển biến tích cực phù hợp theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá. Tỷ trọng của nhóm các mặt hàng đã qua chế
biến tăng tỷ trọng của các mặt hàng thô và sơ chế giảm dần.



Bảng 2.2. Cơ cấu hàng xuất khẩu thời kỳ 1991-1991(%)
Mặt hàng 1991 1992 1993 1994 1995 1996

1997

1998

1999

Công nghiệp nặng
và khoáng sản

33,4 37 34 28,8 25,3 28,7 28 23,8 25
Công nghiệp nhẹ và
tiểu thủ công nghiệp

14,4 13,8 17,6 23,1 28,4 29 36,7 35,8 36,8
Nông, lâm, thuỷ sản 52,2 49,5 48,4 48,1 46,3 42,3 35,3 40,4 38,2

Nguồn: Niên giám thống kê 1998 và báo cáo Bộ thương mại
Số liệu bảng 2.2 cho thấy, tỷ trọng nhóm hàng nông lâm – thuỷ sản,
khoáng sản và hàng công nghiệp nặng bình quân từ 79% thời kỳ 1991-1995
xuuống còn 64,6% thời kỳ 1996-1999, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nhẹ
và tiểu thủ công nghiệp từ 21% lên 35,4%. Điều đó phản ánh cơ cấu xuất
khẩu Việt Nam đã được cải thiện theo hướng tăng dần từ chiều sâu và chuyên
môn hoá theo phân công lao động xã hội, phát huy lợi thế so sánh giữa các
vùng kinh tế, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, phù hợp với tiến trình hội
nhập và tăng trưởng ổn định, làm trụ cột cho chiến lược xuất khẩu của Việt
Nam trong hiện tại cũng như trong tương lai, đó là Dầu thô, gạo, cà phê, cao
su, hải sản, dệt may, giầy dép và than đá. (bảng 2).
Thị trường xuất khẩu của nước ta đã chuyển biến kịp thời và không
ngừng được mở rộng. Từ năm 1991, sau khi thị trường truyền thống là Liên
Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu tan rã, Chấu Á là thị trường xuất khẩu
chính của nước ta, chiếm trên 60% tổng kim ngạch. Tỷ trọng xuất khẩu sang
các khu vực Âu – Mỹ đều tăng khá nhanh, nhất là thị trường các nước EU và
Mỹ.trọng thị trường Tây Âu tăng từ 6% năm 1991 lên 24% năm 1999, còn tỷ
trọng thị trường Châu Mỹ tăng 0,3% năm 1991 lên 5,3% năm 1999. Sự
chuyển dịch cơ cấu thị trường này mang tính tích cực và phù hợp với chất
lượng đa phương hoá thị trường đa dạng hoá các mặt hàng của ta. Điều này
cũng cho thấy khả năng tham gia thị trường thế giới của ta đang tăng lên.
Trong thời gian qua, sự đổi mới về chính sách, cơ chế xuất khẩu theo
hướng tháo gỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh đã

thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc mọi thành phàan kinh tế khác nhau tham gia
hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tăng trưởng nhanh
hơn các doanh nghiệp trong nước với kim ngạch từ 161 triệu USD năm 1994
lên 2,577 triệu USD năm 1999. Tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI


cũng tăng dẫn, 4% năm 1994 lên 19% năm 1997 và 22,4% năm 1999 cũng
tăng dần, 4% năm 1994 lên 19% năm 1997 và 22,4% năm 1999.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam thời gian qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế, tỷ trọng chiếm tới 60% tổng
kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, hàng hoá Việt Nam đã có mặt tại nhiều thị
trường lớn, một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao như dệt may, dầu thô,
da dày, cao sư… Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng không ổn định do phụ thuộc
quá nhiều vào “thời tiết” của từng thị trường và do khả năng cạnh tranh của
hàng xuất khẩu Việt Nam vẫn còn yếu kém.
2. Những biện pháp được Nhà nước thực hiện nhằm thúc đẩy
mạnh xuất khẩu.
2.1. Những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đã mở
đường cho hoạt động xuất khẩu phát triển:
Từ chủ trương đổi mới của Đảng vào năm 1996, một loạt các biện pháp
và chính sách kinh tế đã được Nhà nước triển khai thực hiện theo thông qua
các văn bản pháp luật và tiến hành tổ chức loại nền sản xuất trong nước, xây
dựng các mối quan hệ quốc tế theo hướng nền kinh tế mở. Trong thời kỳ mở
cửa, nhiều chủ trương của Đảng đã được Nhà nước ta thể chế bằng pháp luật,
tạo ra hành lang pháp lý cho các thành phần kinh tế trong nước và quốc tế
tham gia vào phát triển kinh tế nước nhà. Văn bản pháp luật này vừa mang
tính thông thoáng, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế nên tích cực hỗ trợ hoạt
động xuất khẩu phát triển. Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay,nnmootj mặt
tổ chức lại các đơn vị kinh tế trong nước, theo hướng kinh tế thị trường và
cho phép mọi thành phần của xí nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh, kêu gọi

và khuyến khích FDI tại Việt Nam, từng bước nới lỏng quản lý xuất khẩu,
cho đến nay đã cho phép các doanh nghiệp trong nước tham gia hoạt động
xuất khẩu theo đăng ký kinh doanh của mình.
Mặt khác, Nhà nước ta đã lần lượt tham gia vào các tổ chức kinh tế khu
vực và thế giới tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại phát
triển, tạo ra thị trường rộng lớn để đẩy mạnh xuất khẩu.
2.2, Nhà nước ta tăng cường đầu tư, phát triển sản xuất và nhân lực
trong nước để làm cơ sở đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu:
Thông qua các công trình kinh tế lớn như: Sản xuất lương thực và thực
phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và công trình sản xuất hàng xuất khẩu, nhằm


thực hiện một chiến lược dài hạn của Đảng và Nhà nước ta là công nghiệp
hoá hiện đại hoá đất nước.
- Về chương trình lương thực và thực phẩm, do được Đảng và Chính
phủ quan tam đầu tư phát triển từ hệ thống thuỷ lợi, đến cơ sở hạ tầng như
đường giao thông, đường điện, khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng… từ
việc đầu tư để sử dụng các loại giống cho năng suất cao đến đầu tư cho gia
công chế biến … những cố găng to lớn đó đã được đền đáp xứng đáng, kết
quả chỉ sau 3 năm đổi mới, cả nước ta không những có đủ lương thực cho tiêu
dùng trong nước mà còn có dư để xuất khẩu.
- Về chủ trương sản xuất hàng tiêu dùng: Khi thực hiện đường lối đổi
mới, đây là lĩnh vực được Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển trong một thời
gian ngắn, do có nhiều doanh nghiệp triển khai thực hiện. Trong đó có cả các
doanh nghiệp FDI cũng hưởng ứng nênhh cho nhu cầu tiêu dùng của xã hội
ngày càng đa dạng và phong phú, giá cả hàng hoá ổn định thoả mãn nhu cầu
tiêu dùng của xã hội giúp cho đất nước tiết kiệm được nhiều ngoại tệ, giành
ngoại tệ nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật và quy trình công nghệ tiên tiến
để đầu tư cho sản xuất.
- Chủ trương hàng xuất khẩu: Chủ trương đầy mạnh sản xuất hàng sản

xuất để Việt Nam có điều kiện thuận lợi tham gia vào thương mại quốc tế
ngày càng có hiệu quả hơn. Trải qua hơn 10 năm đầu tư và phát triển, chủ
trương kinh tế này đã thu được những kết quả rất đáng phấn khởi, kim ngạch
xuất khẩu ngày một gia tăng, giúp cho nước nhà thu về những khoản ngoại tệ
lớn để phát triển đất nước.
Trong bất kỳ lĩnh vực nào kinh tế nào, yếu tố con người vẫn giữ vai trò
quan trọng trong quyết định đến thắng lợi của các chơng trình kinh tế được
đặt ra, Việt Nam với dân số gần 80 triệu người, đây vừa là thị trường tiêu thụ,
vừa là thị trường nhân lực quan trọng của khu vực và thế giới. Khi bước vào
xây dựng một nền kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta gấp rút đầu tư cho
việc đào tạo nhân lực, đào tạo nhân tài để đáp ứng được nhu cầu của nền kinh
tế trong thời kỳ mở cửa và hội nhập. Cán bộ của chúng ta đã từng bước nắm
vững được kiến thức, tôi luyện trên thương trường đã góp phần đắc lực vào
việc phát triển kinh tế đất nước, phát triển hoạt động xuất khẩu của nước nhà.


II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG DOANH NGHIỆP
FDI TẠI VIỆT NAM.
1. Những thành công đã đạt được.
1.1. Tổng quan về kết quả hoạt động xuất khẩu trong các doanh nghiệp
FDI.
Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đến nay đã
được hơn 13 năm và trong khoảng thế giới này đã có hàng nghìn nhà đầu tư
nước ngoài vào làm ăn ở nước ta, họ xây dựng cơ sở sản xuất tại nước ta và
làm ra những sản phẩm để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và cho
xuất khẩu.
Bảng 2.3: Số dự án đầu tư vào Việt Nam 1997-2000
1997 1998 1999 2000
Tổng số dự án cả nước (dự án) 345 275 278 321
Trong đó vốn đăng ký (triệu USD)


4.649,1 3.897,4 1.696 1.907
Và vốn pháp định (triệu USD) 2.334,1 1.795,2 820 953
Nguồn: Niên giám thống kê 1999
- Báo cáo tình hình thực hiện năm 2000- vụ đầu tư - Bộ thương mại.
* Năm 1997, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt được những kết quả sau:
Tổng dự án cả nước: 345 dự án
Tổng số vốn đăng ký đạt: 4.649,1 triệu USD
Trong đó vốn pháp định: 2.334,1 triệu USD
Hoạt động xuất khẩu đạt: 2.700,0 triệu USD
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực có FDI năm 1997 so với
năm 1996 tăng 42,4%, trong đó xuất khẩu tăng 103,56%. Tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu của khu vực có FDI chiếm 20,69% tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu cả nước, trong đó xuất khẩu chiếm 17,41% xuất khẩu cả nước.
Các chỉ số về hoạt động xuất nhập khẩu năm 1997 đều tăng so với năm
1997 và chủ trương kiểm soát nhập khẩu đã làm lành mạnh hoạt động xuất
nhập khẩu của nước nhà và góp phần ổn định nền kinh tế đất nước. Năm 1997
đánh dấu lần đầu tiên khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra tại khu vực Đông
Nam Á, nhưng tác động đáng kể tới nước ta. Xuất khẩu của khu vực FDI tiếp
tục tăng trưởng mạnh đã góp phần quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu
của nước nhà.
* Năm 1998 đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt những kết quả sau:
Tổng dự án cả nước: 275 dự án


Tổng số vốn đăng ký đạt: 3.897,4 triệu USD
Trong đó vốn pháp định: 1.795,2 triệu USD
Theo báo cáo của Bộ thương mại ngày 20/3/1999 hoạt động xuất khẩu
đạt 1.983,0 triệu USD.
Chỉ số tăng trưởng của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực đầu

tư nước ngoài tăng 15,5%, trong đó xuất khẩu tăng gần 24% so với năm 1997.
Qua số liệu nói trên cho thấy ảnh hưởng rất đáng kể của cơn bão tài
chính tiền tệ trong khu vực đã tác đoọng đến nền kinh tế nước ta nói chung va
hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta nói riêng, làm cho chỉ số tăng trưởng
chỉ tăng ở mức thấp so với những năm vừa qua.
Bên cạnh việc giảm sút trên thì khu vực FDI hoạt động xuất nhập khẩu
tiếp tục tăng trưởng khá, trong đó nhập khẩu được kiểm soát và xuất khẩu
tăng trưởng mạnh (gần 24%) . Đây là sự đóng góp đáng kể của đầu tư nước
ngoài voà phát triển xuất khẩu nước nhà.
* Năm 1999 là năm Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản khuyến khích
mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, từ việc
đơn gainr các thủ tục hành chính đến việc cho phép các doanh nghiệp này có
một điều kiện hoạt động rộng hơn như được phép mua hàng trong nước để
chế biến hàng xuất khẩu, các điều kiện về lao động cũng không thoáng
hơn,điều kiện về thuế cũng khuyến khích hơn đối với việc sản xuất hàng xuất
khẩu.
Năm 1999, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt được những kết quả sau:
Tổng số dự án cả nước: 278 dự án
Tổng số vốn đăng ký đạt: 1.696 triệu USD
Trong đó vốn pháp định: 820 triệu USD
Hoạt động xuất khẩu đạt: 2.590 triệu USD
Sang năm 1999, số dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tuy có nhỉnh
hơn đôi chút nhưng tổng số vốn đăng ký lại giảm đi rất nhiều, chưa được một
nửa so với số vốn của năm 1998. Điều này chứng tỏ quy mô của dự án là nhỏ.
Nhưng nếu nhìn vào kết quả của hoạt động xuất khẩu thì ta lại thấy một điều
rằng kim ngạch xuất khẩu tăng lên tương đối nhiều. Điều này cho thấy sự ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á đã bắt đầu giảm bớt sự
ảnh hưởng đến nền kinh tế của nước ta đặc biệt là khu vực FDI.
* Năm 2000, đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt được kết quả sau:
Tổng dự án cả nước: 321 dự án

Tổng số vốn đăng ký đạt: 1.907 triệu USD


Trong đó vốn pháp định: 935 triệu USD
Năm 2000, tổng số vốn dự án cả nước lại tiếp tục tăng so với năm
1999, kim ngạch xuất khẩu cũng tăng theo. Đây có thể là kết quả của việc ban
hành một loạtcc văn bản khuyến khích mạnh mẽhd xuất khẩu củacc doanh
nghiệp FDI được đưa ra vào năm 1999. Đồng thời năm 2000 cũng là năm sửa
đổi luật đầu tư nước ngoài, có nhiều thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư nên kết
quả có phần khả quan hơn.



Biểu đồ: Kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam
năm 1997-2000

















1.2. Cơ cấu hàng xuất khẩu
Theo thống kê của bộ kế hoạch và đầu tư, nếu xem xét về cơ bản nhóm
hàng xuất khẩu trong khối FDI thì:
+ Hàng xuất khẩu chủ yếu là hàn công nghiệp nhẹ: 2.656,9 triệu USD
chiếm 52,9% trị giá hàng công nghiệp xuất khẩu và chiếm khoảng 23,6% trị
giá xuất khẩu chung của khối.
+ Hàng nông lầm, hải sản chế biến mà ta đang khuyến khích đầu tư sản
xuất để xuất khẩu mới chỉ đạt 371,5 triệu USD chiếm tỷ lệ thấp, chỉ bằng
3,3% giá trị xuất khẩu của khối và bằng 7,4% trị giá xuất khẩu hàng công
nghiệp. Trong khi đó hàng công nghiệp nhẹ xuất khẩu chiếm tới 52,9% và
công nghiệp nặng xuất khẩu chiếm 17,7% trị giá xuất khẩu của khối.
Theo số liệu ban đầu “Báo cáo tình hình thực hiện năm 2000 các doanh
nghiệp FDI ”của vụ đầu tư - bộ thương mại về một số mặt hàng xuất khẩu chủ
yếu của khu vực có FDI năm 1999 và năm 2000 như sau: (cả khu chế xuất).

8000
7000
6000
5000
4000
3000
2000
1000
0 1997 1998 1999 2000

×