Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
Đề tài môn Tài chính quốc tế:
Nhìn nhận khủng hoảng kinh tế - tài
chính châu Á 1997 – 1998. Liên hệ
Việt Nam trong quá trình hội nhập
Giáo viên hướng dẫn: Ts.Lê Tuấn Lộc
Nhóm 5-Rủi Ro Group-K09402B:
1. Nguyễn Sử Phương Anh K094020264
2. Nguyễn Hoàng Lệ Nga K094020318
3. Lương Thị Bích Ngọc K094020325
4. Cao Phan Quí K094020343
5. Nguyễn Cao Thế K094020354
6. Phan Tuấn K094020380
ii
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1
1.1 Khủng hoảng tài chính 1
1.2 Một số loại khủng hoảng tài chính 1
1.3 Đầu cơ 2
1.4 Bất động sản 2
1.5 Tăng trưởng nóng 2
Tóm tắt chương 1. 3
CHƯƠNG 2. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ-TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997-1998 4
2.1 Tiếp cận dưới góc nhìn cổ điển 4
2.1.1 Nguyên nhân khủng hoảng. 4
2.1.2 Diễn biến: 6
2.1.2.1 Thái Lan 6
2.1.2.2 Philippines 8
2.1.2.3 Hong kong 9
2.1.2.4 Hàn Quốc 9
2.1.2.5 Malaysia 10
2.1.2.6 Indonesia 10
2.1.2.7 Nước Mỹ và Nhật Bản 11
2.2 Cách tiếp cận theo hướng hiện đại 11
2.2.1 Mô hình “Các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh
tế - tài chính” 11
2.2.2 Phát triển mô hình “các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng
hoảng kinh tế - tài chính” ở nước Thái Lan. 13
2.3 Hậu quả của khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998 14
Tóm tắt chương 2: 16
iii
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC RÚT RA VÀ TẦM NHÌN VIỆT NAM TRONG GIAI
GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP 17
3.1 Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng 17
3.1.1. Đối với thế giới 17
3.1.2. Đối với Việt Nam 18
3.2 Những nguy cơ có thể gây ra khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện tại 19
3.2.1 Nguy cơ từ bên trong 19
3.2.2 Nguy cơ từ bên ngoài: 22
Tóm tắt chương 3: 24
KẾT LUẬN 25
Phần mở đầu
iv
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trước năm 1997, kinh tế ở các nước Đông Á vẫn tiếp tục phát triển sau một thời
gian dài tăng trưởng ngoạn mục.Nhưng nền kinh tế đột nhiên có những biến đổi
nghiêm trọng dẫn tới khủng hoảng tiền tệ. Trước hết, đồng Baht mất giá thê thảm ở
Thái Lan, sau đó nhanh chóng lan tỏa sang Hàn Quốc, Indonesia, rồi tới Hồng Kông,
Malaysia, Philippines. Không dừng lại, chỉ mấy tháng sau, cuộc khủng hoảng đã mang
tính toàn cầu khi lôi kéo Nga, Brasil vào vòng xoáy. Rất may, cùng với Trung Quốc,
Đài Loan, Singapore, Việt Nam nằm trong nhóm các các nước ở Châu Á ít bị ảnh
hưởng nhất.
Dù đã hơn 10 năm trôi qua, đã có hàng nghìn trang sách về sự kiện này, tốn rất
nhiều giấy bút của các chuyên gia. Chính vì thế với vai trò là sinh viên năm 3 của khối
ngành kinh tế, chúng tôi muốn tìm hiểu một cách chi tiết hơn về nguyên nhân, diễn
biến và hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á 1997 -1998.
“Khủng hoảng như vậy do những nguy cơ nào? Việt Nam có hay không sự tồn
tại những nguy cơ ấy? Nếu có, thì nền kinh tế Việt Nam cũng sẽ rơi vào khủng hoảng
trong một tương lai gần hay chăng?”. Đó là những câu hỏi cứ xuất hiện mãi trong đầu
chúng tôi. Nhằm giải quyết những câu hỏi gây tò mò này, nhóm nghiên cứu sẽ đi tìm
bản chất của cuộc khủng hoảng qua nhiều khía cạnh khác nhau để liên hệ cụ thể với
Việt Nam, từ khi nước ta tham gia vào quá trình hôi nhập. Đó cũng chính là những lí
do đề tài mang tên: “Nhìn nhận khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á 1997 – 1998.
Liên hệ Việt Nam trong quá trình hội nhập”
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ bản chất của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á 1997 -1998
thông qua nhiều cách tiếp cận khác nhau. Trong đó bao gồm: nguyên nhân, diễn biến
và hậu quả của cuộc khủng hoảng.
- Từ cuộc khủng hoảng này, rút ra những bài học cho nền kinh tế trên thế giới và
những bài học cụ thể cho nền kinh tế Việt Nam.
- Phân tích nền kinh tế Việt Nam từ sau khi hội nhập WTO, để đánh giá nước ta
có tồn tại những nguy cơ gây ra khủng hoảng châu Á hay không. Nếu có sẽ dự đoán
khủng hoảng xảy ra như thế nào và tìm ra hướng giải quyết.
3. Câu hỏi nghiên cứu:
Để mục tiêu nghiên cứu được rõ ràng và cụ thể hơn. Nhóm thực hiện đề tài đặt ra
những để giải quyết:
- Tồn tại những nguy cơ nào để dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng
năm 1997?
- Cuộc khủng hoảng diễn ra như thế nào? Và hậu quả nó để lại là những gì?
- Bài học nào cho các nước trên Thế giới và Việt Nam sau cuộc khủng hoảng
châu Á 1997?
Phần mở đầu
v
- Nền kinh tế Việt Nam từ khi hội nhập có tồn tại những nguy cơ gây ra khủng
hoảng đó hay không? Nếu đúng là có sự tồn tại, thì dự đoán cuộc khủng hoảng tại Việt
nam sẽ hình thành như thế nào?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính Châu Á 1997 – 1998
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi lý thuyết: Đề tài tập trung vào các lý thuyết liên quan đến khủng hoảng
kinh tế. Những tài liệu về liên quan đến khủng hoảng dưới nhiều góc độ khác nhau.
+ Phạm vi thời gian: Tập trung vào thời trước 1997 – 1998 đối với các nước bị ảnh
hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng để phục vụ cho việc phân tích khủng hoảng.
Đồng thời, tập trung vào thời gian sau khi Việt Nam hội nhập để phân tích nền kinh tế
Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận: sử dụng phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp thu thập thông tin: tìm kiếm nguồn thông tin phục vụ đề tài thông
qua dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
- Là nguồn tài kiệu quan trọng trong việc cung cấp khá nhiều thông tin về cuộc
khủng hoảng châu Á 1997 – 1998 dưới nhiều cách nhìn nhận khác nhau.
- Cung cấp các bài học cho nền kinh tế Việt Nam và các nước trên thế giới theo
quan điểm của tác giả.
- Dựa trên phân tích kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập và so sánh đối
chiếu với những nguy cơ của khủng hoảng châu Á 1997, giúp có cái nhìn rõ hơn về
nền kinh tế Việt Nam và đặc biệt là góp phần nào để Việt Nam tránh được khủng
hoảng trong tương lai.
7. Tổng quan đề tài:
Về khủng hoảng kinh tế - tài chính 1997 – 1998, đây không là vấn đề khá xa lạ
nựa nên đã có rất nhiều tài liệu nói đến vấn đề này dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Do
đó, đề tài này cũng tham khảo nhiều thông tin từ nhiều nguồn khác nhau dưới nhiều
khía cạnh và góc độ khác nhau của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Chằng hạn như
có khía cạnh của GS.Nguyễn Thiện Nhân khi nói về khủng hoảng 1997.
Tuy nhiên, ngoài mục đích là tìm hiểu cuộc khủng hoảng cuộc khủng hoảng dưới
nhiều cách nhìn khác nhau, mà còn là liên hệ với Việt Nam từ khi tham gia quá trình
hội nhập. Để dự đoán trong tương lai dựa trên cơ sở khoa học và quan điểm của tác giả
nên đây vẫn là một vấn đề khá mới và mang tính thực tiễn hiện nay.
Để giải quyết tất cả những vấn đề nêu ra,đề tài gồm 3 chương:
+ Chương 1: Nêu ra một số cơ sở lí thuyết liên quan đến khủng hoảng châu Á
1997-1998.
+ Chương 2: Tìm hiểu rõ nguyên nhân, diễn biến và hậu quả của cuộc khủng
hoảng dưới góc nhìn cổ điển và hiện đại.
Phần mở đầu
vi
+ Chương 3: Những bài học rút ra được sau cuộc khủng hoảng cho các nước
trên thế giới và Việt Nam. Đồng thời, phân tích kinh tế Việt Nam sau khi hội nhập để
so sánh với những nguy cơ gây ra khủng hoảng và xem xét nền kinh tế Việt Nam có
thể bị lâm vào khủng hoảng như vậy hay không.
Chương 1. Cơ sở lý thuyết
1
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1 Khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính (Financial Crisis) là tình trạng tài chính mất cân đối
nghiêm trọng có thể dẫn đến sụp đổ quỹ. Đặc trưng của mỗi quỹ cấu thành nên hệ
thống tài chính là các dòng tiền vào/ra, nhận/ thanh toán, hình thành tài sản có /tài sản
nợ. Khi xảy ra hiện tượng mất cân đối nghiêm trọng giữa tài sản có và nghĩa vụ phải
thanh toán về số lượng, thời hạn, chủng loại tiền thì có thể xảy ra khủng hoảng tài
chính. Như vậy, khủng hoảng tài chính là khái niệm bao trùm được sử dụng chung cho
mọi loại khủng hoảng gắn với mất cân đối về tài chính và thường là gắn với nghĩa vụ
phải thanh toán lớn hơn nhiều phương tiện dùng để thanh toán tại một thời điểm nào đó.
Chính vì vậy, khủng hoảng tài chính có đặc điểm của khủng hoảng “thiếu” chứ không
giống khủng hoảng “thừa” diễn ra trong nền kinh tế thị trường từ nhiều năm nay.
1.2 Một số loại khủng hoảng tài chính
- Khủng hoảng ngân hàng:
Ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền gửi, huy động vốn để cho vay lại nên rủi ro
rất lớn cả về mặt số lượng, thời hạn và chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào
khủng hoảng do cho vay quá mức và không thu hồi lại được dẫn đến nợ quá hạn cao
làm cho ngân hàng không thể thanh toán các nghĩa vụ đến hạn.
- Khủng hoảng nợ quốc gia:
Trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài quá nhiều và sử dụng không hiệu quả nên
không trả được nợ đúng hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xóa nợ
hoặc xin tuyên bố vỡ nợ.
- Khủng hoảng tiền tệ:
Hiện tượng không đủ ngoại tệ để thanh toán các nghĩa vụ đến hạn hay đáp ứng nhu cầu
(cả thực tế và giả tạo do đầu cơ) buộc chính phủ phải dùng quỹ dự trữ ngoại tệ để duy
trì tỷ giá hối đoái hoặc phá giá nội tệ làm cho nội tệ mất uy tín nhanh chóng.
- Khủng hoảng thị trường tài chính:
Sự rối loạn nặng nề trên thị trường vốn. Ồ ạt rút tiền gửi từ các ngân hàng thương mại,
thu hẹp đáng kể quy mô tín dụng, tăng số vụ phá sản. Giá chứng khoán biến động
mạnh ngoài tầm kiểm soát hay do hiệu ứng “bầy đàn” làm cho chứng khoán bị bán đổ
bán tháo; thu hẹp phát hành. Xảy ra khi thị trường bị “đông cứng’ vì không có giao
dịch, tạo ra sự mất cân đối giữa tiền (chứng khoán) vào, ra thị trường chứng khoán.
- Khủng hoảng cán cân thanh toán quốc tế: (Cán cân thanh toán vãng lai, cán cân
vốn)
Khủng hoảng xảy ra khi các cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và
không có nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân thanh toán vãng lai thường xảy ra khi
cán cân thương mại bị thâm hụt. Khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng các luồng
ngoại tệ ra lớn hơn luồng ngoại tệ vào (tổng cán cân vãng lai và tài khoản vốn) gây nên
thâm hụt nặng nề.
- Khủng hoảng khả năng thanh khoản:
Chương 1. Cơ sở lý thuyết
2
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
Phản ánh sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới thời hạn và chủng loại của các giấy tờ có
giá và một số loại tài sản tài chính đặc thù.
- Khủng hoảng ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước thâm hụt kéo dài trong khi các nguồn bù đắp bị hạn chế hoặc
không thể lạm dụng hơn nữa nếu muốn tránh hậu quả vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát.
1.3 Đầu cơ
Trong lĩnh vực tài chính, đầu cơ là việc mua, bán, nắm giữ, bán khống các loại tài
sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu,hàng hoá, tiền tệ, bất động sản, chứng khoán phái
sinh nhằm thu lợi từ sự biến động giá mạnh của chúng. Vì hoạt động đầu cơ áp dụng
với các loại tài sản tài chính biến động như vậy cho nên đầu cơ là một kiểu kinh doanh
có rủi ro rất cao. Ngược lại với đầu cơ là việc mua và nắm giữ các tài sản tài chính để
tăng thu nhập thông qua cổ tức hoặc lãi suất, hay còn gọi là đầu tư.
Lợi ích của hoạt động đầu cơ là nó cung cấp cho thị trường một lượng vốn lớn,
làm tăng tính thanh khoản cho thị trường và làm cho cho các nhà đầu tư khác dễ dàng
sử dung các nghiệp vụ như phòng vệ hay kinh doanh chênh lệch giá để loại trừ rủi ro.
Tuy nhiên đầu cơ cũng gây ra những tác động tiêu cực. Khi có hoạt động đầu cơ giá lên
diễn ra, giá của một loại hàng hoá nhất định có thể tăng đột ngột vượt quá giá trị thực
của nó, đơn giản vì việc đầu cơ đã làm gia tăng cái gọi là "cầu ảo". Giá tăng lại tiếp tục
làm các nhà kinh doanh khác nhảy vào thị trường này với hi vọng giá sẽ còn lên nữa.
Hiệu ứng tâm lý này tiếp tục đẩy giá lên, làm cho thị trường này trở nên rất nóng và ẩn
chứa rủi ro cao. Toàn bộ quá trình này được gọi là "bong bóng kinh tế", một khi trái
bong bóng này bị chọc thủng thì các nhà đầu cơ trên thị trường này có thể gặp những
tổn thất vô cùng nặng nề.
1.4 Bất động sản
Bất động sản (BĐS) theo nghĩa thông thường nhất được hiểu là đất đai và các
công trình xây dựng cố định trên đất đai. Theo điều 181 bộ Luật dân sự Việt Nam thì
BĐS là các tài sản không di dời được, bao gồm: đất đai, nhà ở, công trình xây dựng
gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng đó, các tài
sản khác gắn liền với đất đai, các tài sản do luật định.
Thị trường bất động sản là địa điểm, là nơi mà tại đó người bán và người mua tài
sản BĐS tác động qua lại lẫn nhau để xây dựng giá cả và số lượng hàng hóa BĐS được
thực hiện.
Bất động sản có vai trò khá quan trọng đối với thị trường tài chính. Đó là nguồn
vốn để phát triển thông qua hoạt động thế chấp. Thị trường bất động sản phát triển thì
một nguồn vốn lớn tại chỗ được huy động. Theo thống kê, ở các nước phát triển lượng
tiền ngân hàng cho vay qua thế chấp BĐSchiếm đến 80% tổng lượng vốn cho vay.
1.5 Tăng trưởng nóng
Tăng trưởng nóng là hiện tượng nền kinh tế tăng trưởng vượt bậc, vượt mức sản
lượng tiềm năng. Tại mức sản lượng tiềm năng các tiềm lực kinh tế được sử dụng một
Chương 1. Cơ sở lý thuyết
3
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
cách hiệu quả nhất, tỷ lệ lạm phát vừa phải, thất nghiệp thấp nhất, tức là vẫn còn một tỷ
lệ thất nghiệp tự nhiên cho phép để ổn định nền kinh tế. Tăng trưởng nóng tạo nên một
số chỉ tiêu vượt bậc về kinh tế từ đó gây ra một số hệ quả không tốt cho nền kinh tế. Có
4 dấu hiệu chính để nhận biết một nền kinh tế tăng trưởng nóng là lạm phát và giá
chứng khoán tăng nhanh, đầu tư trong nước và nhập khẩu hàng tiêu dùng gia tăng
mạnh.
Tóm tắt chương 1.
Qua chương đầu tiên chúng ta đã biết được thế nào là khủng hoảng tài chính, các
loại khủng hoảng tài chính, bất động sản, đầu cơ và tăng trưởng nóng. Nguyên nhân,
diễn biến và hậu quả sẽ được trình bày trong chương 2.
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
4
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
CHƯƠNG 2. KHỦNG HOẢNG KINH TẾ-TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997-1998
2.1 Tiếp cận dưới góc nhìn cổ điển
Đây là cách tiếp cận một cuộc khủng hoảng theo kiểu logic “nếu A thì B” hay nói cách
khác đi từ nguyên nhân A, B, C để dẫn đến kết cục D (khủng hoảng)
2.1.1 Nguyên nhân khủng hoảng.
Theo các chuyên gia thì đây là một cuộc khủng hoảng kép: Khủng hoảng tài chính, tiền
tệ – ngân hàng. Cuộc khủng hoảng này có mức độ lan truyền sâu rộng (với mức thiệt hại gấp 4
lần so với cuộc khủng hoảng 94-95 ở Mexico)
a.Dòng vốn nước ngoài vào ồ ạt.
Những yếu tố dẫn đến khủng hoảng ở Đông Á không chỉ bó hẹp trong phạm vi nội địa mà
còn cả từ bên ngoài. Thế giới đánh giá quá cao tốc độ tăng trưởng của các nước Đông Á. Do
hiểu lầm về phép lạ kinh tế của Đông Á nên mới có phản ứng theo bầy là ồ ạt đầu tư vào khu
vực này, mà càng hồ hởi bao nhiêu thì càng hốt hoảng bấy nhiêu khi có biến động.
Từ năm 1991 đến 1996, lượng vốn tư nhân chảy vào các nước đang phát triển tăng nhanh từ
24,8 tỷ USD lên 65,8 tỷ USD.
Bảng: vốn tư nhân nước ngoài chảy vào 5 nước Đông Á 1991 – 1996
1991
1992
1993
1994
1995
1996
Vốn tư nhân ròng
24,8
29
31,8
36,1
74,2
65,8
Đầu tư trực tiếp ròng
6,2
7,3
7,6
8,8
7,5
8,4
Đầu tư chứng khoán ròng
3,2
6,4
17,2
9,9
17,4
20,3
Vay thương mại và đầu tư khác
15,4
15,3
7,0
17,4
49,2
37,1
Viện trợ chính thức ròng
4,4
2,0
0,6
0,3
0,7
-0,4
( Nguồn: NHTG, “World Economic Outlook”, 5/1998 và 3/2000)
Suất sinh lợi thấp ở các nền kinh tế phát triển, chênh lệch lãi suất giữa các nền kinh tế
Đông Á và các trung tâm tiền tệ quốc tế luôn ở mức dương, các chính sách mở rộng tiền tệ của
Hoa Kỳ, nới lỏng kiểm soát tài chính ở châu Âu…là những động lực thúc đẩy dòng vốn vận
chuyển từ Nhật Bản, Hoa Kì và EU tới các nền kinh tế Đông Á. Thêm vào đó lãi suất nước
ngoài thấp hơn lãi suất nội địa trong khi tỷ giá được cố định rõ ràng chính là nguyên nhân khiến
các tổ chức kinh doanh và nội địa đi vay nước ngoài.
Một điểm đáng lưu ý nữa là hàng loạt các khoản vay nước ngoài ngắn hạn được đầu tư dài
hạn. Thái Lan vay nước ngoài chủ yếu thông qua các ngân hàng và công ty tài chính. Ngân
hàng Hàn Quốc cũng vay nước ngoài. Chỉ có hai nước Malaysia và Philippines trong số năm
nước chịu khủng hoảng là có dự trữ ngoại tệ cao hơn nợ ngắn hạn. Nợ ngắn hạn nước ngoài cao
hơn dự trữ ngoại tệ có nghĩa là trong thời gian ngắn nền kinh tế sẽ không có khả năng chi trả.
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
5
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
Bảng: Nợ ngắn hạn vào quý II năm 1997
Nợ ngắn hạn nước
ngoài ( tỷ USD)
Dự trữ ngoại tệ
( tỷ USD)
Tỷ lệ nợ ngắn hạn
so với dự trữ
Hàn Quốc
Thái Lan
Indonesia
Malaysia
Philippines
70,18
45,57
34,66
16,27
8,29
34,07
31,36
20,34
26,59
9,8
2,06
1,45
1,70
0,61
0,85
( Nguồn: ADB, “Asian Development Outlook”, 1999)
b. Tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp, ngân hàng… và cả bộ máy công quyền tin rằng nhà
nước sẽ giăng lưới đỡ cho các công ty lỗ.
Từ đầu thập niên 1990, tự do hóa tài chính được tiến hành với nhịp độ từ từ ở hầu hết các
nền kinh tế Đông và Đông Nam Á. Khi các ngân hàng cho vay theo chỉ đạo của chính phủ thì
luôn tồn tại một giả định ngầm rằng chính phủ sẽ bảo lãnh và cứu giúp nếu khoản vay đó không
đòi được. Chính vì vậy, mặc dù không hề có sự bảo lãnh chính thức của chính phủ, nhưng các
tổ chức tài chính ở Đông Á, đặc biệt là các ngân hàng nhà nước hay ngân hàng lớn, luôn coi
mình là “quá lớn nên không thể thất bại.
Tâm lý ỷ lại cũng xuất hiện đối với dòng vốn nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài khi
cho các tổ chức tài chính trong nước vay cũng ngầm giả định rằng khoản cho vay của mình sẽ
được chính phủ nước sở tại bảo lãnh khi nhìn thấy quan hệ gần gũi giữa chính phủ với các ngân
hàng nội địa. Khi kinh tế tăng trưởng khá, lượng vốn nước ngoài chảy vào nhiều thì không ai
nghĩ rằng lại có thể không đảo được nợ hay vay mới khi các khoản vay trước đây đến kỳ đáo
hạn.Vì tin như vậy, các thành phần đã nói trên đã lấy quá nhiều rủi ro về tài chính, ngoại hối và
tín dụng cho tới khi sụp đổ thì kéo xập luôn các ngân hàng và doanh nghiệp. Do đó, khủng
hoảng ngoại hối mới thành tài chính và kinh tế.
c. Sự quản lý của chính phủ và chính sách kinh tế vĩ mô
Chính phủ cứng nhắc trong việc thực hiện chiến lược phát triển hướng về xuất khẩu và sự
kém linh hoạt trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thích ứng với những chuyển biến nhanh
chóng cuả thương trường.
Chính phủ mắc sai lầm trong việc quản lý chính sách tỉ giá hối đoái, cố định tỉ giá đồng
baht một cách cứng nhắc vào đồng đô la Mỹ rất lâu và nền kinh tế chịu ảnh hưởng của nạn đô
la hóa một cách trầm trọng. Cố định giá đồng bạc vào một vài ngoại tệ mạnh và tin rằng sức
xuất khẩu của mình lẫn nguồn đầu tư từ nước ngoài sẽ bảo vệ được chế độ hối đoái ấy với một
dự trữ ngoại tệ thấp. Dân chúng thì lạc quan vay tiền ở nước ngoài với lãi suất rẻ để đầu tư vào
trong với lợi suất cao nhờ chính sách ưu đãi và sự bảo vệ của nhà nước. Trong 2 năm giá USD
tăng 25 % nhưng chính phủ không có sự điều chỉnh tỉ giá thích ứng. Giá đồng baht tăng làm
suy yếu nhanh chóng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu và làm tăng tương ứng nợ nước
ngoài, gây ra nạn đầu cơ tiền tệ, kích thích nhu cầu ngoại tệ giả tạo, nhập khẩu gia tăng, thúc
đẩy thâm hụt cán cân thương mại và tài khoản vãng lai. Ngoài ra do hệ thống tín dụng hoạt
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
6
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
động yếu kém, sự dễ dãi trong quản lý tiền mặt và mua bán ngoại tệ tự do,sự chiếm dụng vốn,
nợ đọng khó đòi, sự mất cân đối giữa đầu tư và tiêu dùng quá mức là nguyên nhân làm tăng
cường độ khủng hoảng.
d. Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán
Sự sụt giá trên thị trường BĐS và TTCK làm các nhà đầu tư lo ngại về tính bền vững của
hệ thống tài chính của Thái Lan. Thâm hụt tài khoản vãng lai cao tạo nên kỳ vọng về sự phá giá
của đồng baht. Từ giữa năm 1996, đồng Baht đã được bán ra hàng loạt. Những người vay ngoại
tệ trước đây tin rằng tỷ giá hối đoái được cố định thì nay bắt đầu lo ngại và cũng mua đô la vào
để đảm bảo có đô la để trả nợ khi đáo hạn. Chính phủ Thái Lan ban đầu dùng dự trữ ngoại tệ để
bảo vệ tỷ giá nhưng cũng không có khả năng duy trì được lâu. Đồng Baht được thả nổi vào đầu
tháng 7 năm 1997.
Đi liền với khủng hoảng tiền tệ là khủng hoảng ngân hàng. Lãi suất cao trong thời gian
chính phủ bảo vệ tỷ giá buộc cả các tổ chức tài chính và các đối tượng vay vốn lâm vào tình thế
khó khăn. Hàng loạt công ty tài chính của Thái Lan phá sản trước cả khi phá giá đồng baht. Và
khi đồng baht bị phá giá, trách nhiệm nợ phải trả tính ra đồng nội tệ của các khoản nợ nước
ngoài tăng vọt, kéo theo sự phá sản của nhiều doanh nghiệp và tổ chức tài chính nữa.
e. Sự rút vốn ồ ạt và phối hợp không tốt giữa các nhà đầu tư.
Radelet và Sachs (1998) đưa ra ý tưởng rằng trục trặc ở Đông Á nảy sinh do nhà đầu tư
mất niềm tin và khủng hoảng xảy ra là một cuộc khủng hoảng mất tính thanh khoản. .Sự thất
bại trong phối hợp đã làm cho các nhà đầu tư đồng loạt rút vốn. Một ngân hàng đang hoạt động
tốt nhưng bị người gửi tiền đến rút tiền ồ ạt cũng lâm vào tình trạng khó khăn. Đông Á rơi vào
tình trạng các nhà đầu tư không còn tin rằng dự trữ ngoại tệ đủ để trả nợ ngắn hạn. Cả các nhà
đầu tự nước ngoài lẫn trong nước đều muốn chuyển vốn ra. Ngân hàng đòi lại vốn cho vay, từc
hối đảo nợ và ngưng cho vay mới; còn các nhà đầu tư chứng khoán thì bán chứng khoán, đổi ra
ngoại tệ và chuyển ra ngoài.
2.1.2 Diễn biến:
Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính ở châu Á nổ ra năm 1997 trước hết xuất phát từ Thái
Lan, rồi sau đó lan sang các nước khác như Philippines, Malaysia, Indonesia, HongKong, Hàn
Quốc, Mỹ, Nhật bản, Mỹ…
2.1.2.1 Thái Lan
- Tình hình Thái Lan trước khủng hoảng:
Trước khi bắt đầu phân tích diễn biến khủng hoảng tại Thái Lan, ta nhìn lại sơ qua về nền kinh
tế của Thái Lan trước khủng hoảng:
+ GDP tăng cao, liên tục, xuất khẩu phát triển: Thái Lan bắt đầu thời kỳ công nghiệp
hóa đất nước từ năm 1961, khi bắt đầu kế hoạch phát triển năm thứ nhất. Tốc độ tăng trưởng
GDP trong thập niên 60 khoảng 8%/năm, trong thập niên 70 khoảng 7%/năm và trong thập niên
80 khoảng 8%/năm. Tổng sản phẩm nội địa theo đầu người tăng từ mưc 440 USD năm 1955
lên 3.012 USD năm 1996. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng 39% trong nền kinh tế vào 1961 giảm
xuống còn 26.7% năm 1976 và chỉ còn 10.4% năm 1996.
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
7
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
Thái Lan đã thực thi một chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu từ thập niên 80. Năm
1986 -1990 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân là 28%/năm. Năm 1992 và 1993 khoảng
13%/năm. Năm 1994 và 1995 khoảng 20%/năm/ Năm 1996, tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và
dịch vụ chỉ còn 3.4% so với năm 1995. Giá trị xuất khẩu theo đầu người đạt 630USD/người
năm 1991, đã tăng lên 1.177USD/người năm 1996.
Như vậy, nhìn vào mức độ tăng trưởng GDP của Thái Lan suốt hơn 3 thập kỉ từ 1961
đến 1996,ta thấy rất đáng yên tâm vì tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm luôn từ 7%
đến 8%. Tuy nhiên, chỉ tiêu GDP mới phản ánh đầu ra của nên kinh tế mà chưa đề cập đến đầu
vào. Trong khi đó từ năm 1991-1996, đầu tư Thái Lan rất cao, hàng năm chiếm khoảng 40%
GDP. Tăng trưởng cao dựa trên hiệu quả kinh tế cao của sản xuất kinh doanh mới lâu bền, tăng
trưởng cao mà chi phí tăng trưởng thấp thì mới bên vững. Bình quân từ năm 1991 tới 1996, hệ
số ICOR của Thái Lan là 5,22. Tức là phải đầu tư 5,22 Baht thì GDP mới tăng 1Baht.
+ Các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng kém hiệu quả: tăng trưởng GDP ở mức cao,
kéo dài nhiều thập kỷ, cộng thêm lãi suất tiết kiệm trong nước cao (bình quân 16.3%, trong khi
ở Mỹ là 7,6), và tỉ giá hối đoái gần như cố định tạo ra môi trường kinh doanh khá hấp dẫn cho
các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư tài chính, cho vay ngắn hạn và tín dụng thương
mại. Như vậy, các doanh nghiệp trong nước nếu vay vốn trực tiếp từ các ngân hàng, công ty
nước ngoài như Mỹ thì chỉ chịu lãi suất khoảng ½ lãi suất cho vay trong nước. Nếu các doanh
nghiệp tận dụng khả năng sử dụng vốn bên ngoài này không quan tâm thực sự đến hiệu quả sử
dụng vốn vay thì hiệu quả kinh tế sẽ giảm, dù tổng giá trị sản lượng có thể tăng.
Việc sử dụng đến gần 90% nguồn vốn nước ngoài ở dạng đầu tư tài chính và tín dụng
ngắn hạng sẽ tạo áp lực tài chính rất lớn lên các công ty, vì phải trả lãi thường xuyên và bằng
ngoại tệ. Hậu quả, là nếu quản lý kinh doanh không tốt thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của
công ty sẽ thấp. Hơn nữa, tỉ suất thu hồi hay tỉ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) bình quân của
doanh nghiệp đã giãm từ 8%/năm vào năm 1991 xuống chỉ còn 1%/năm vào năm 1996. Trong
một nên kinh tế mà lãi suất cho vay là 16,3%/năm, còn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
là 1%/năm thì rõ ràng đã đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng ‘phá sản doanh nghiệp’
+ Ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả: Trước nhu cầu vốn của các doanh
nghiệp và do có phần buông lơi vai trò giàm sát hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp đi
vay nên các ngân hàng và công ty tài chính Thái Lan rất tích cực vay nợ từ nước ngoài để tài
trợ cho doanh nghiệp trong nước.
+ Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán: trong suốt các năm 1991 -1996,
cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm hụt, tổng cộng là 35,26 tỉ USD/ Thâm hụt tài
khoản vãn lai năm 1996 tới 14.6 tỉ USD.
Từ năm 1985 đến năm 1995, kinh tế Thái Lan tăng trưởng với tốc độ bình quân hàng
năm là 9%. Nhưng đếncuối năm 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm xuống chỉ còn 6,4%, nợ
nước ngoài tăng quá lớn so với dự trữ ngoại tệ (nợ 90 tỷ USD, trong đó nợ ngắn hạn chiếm tới
40%). Theo báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới của IMF đã cảnh báo nền kinh tế Thái Lan
tăng trưởng quá nóng và bong bóng kinh tế có thể không giữ được lâu.
- Diễn biến khủng hoảng ở Thái Lan
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
8
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
Việc đầu tư ồ ạt vào BĐS dẫn tới hậu quả tỷ lệ phòng trống của các nhà cao ốc văn phòng
và khu nhà ở lên tới 20%. Điều này đã gây khó khăn lớn cho các nhà đầu tư BĐS phải trả nợ
ngân hàng khi lãi suất lại đang ở mức cao (thời điểm này, các Công ty tài chính và ngân hàng
Thái Lan năm tới 30 tỷ USD các khoản vay không trả được của các công ty). Đồng thời Thái
Lan dựa chủ yếu vào danh mục đầu tư ngắn hạn của nước ngoài mà phần lớn trong số này được
thông qua các ngân hàng trong nước và các công ty tài chính. Như vậy các khoản vay càng trở
thành gánh nặng lớn với Thái Lan.
Chính phủ Thái Lan giữ cố định tỷ giá đồng Baht đối với đồng đô la Mỹ trong suốt 13
năm qua khiến đồng Baht trở nên kém linh hoạt và gây cản trở đối với các nhà xuất khẩu. Đồng
Baht lên giá đã làm cho hàng hoá của Thái Lan trở nên quá đắt trên thị trường Châu Âu và kể
từ giữa năm 1995 khi đồng Baht lên giá theo với đồng USD đã làm Thái Lan mất đi hàng tỷ
USD đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Như vậy từ việc mua sản phẩm và dịch vụ nước ngoài
nhiều hơn là thu nhập từ xuất khẩu và đầu tư, Thái Lan trở thành nước có mức thâm hụt tài
khoản vãng lai cao nhất thế giới (8% so với GDP năm 1996). Thêm vào đó, chính sách quản lý
ngoại hối của Thái Lan tương đối tự do, cơ chế chuyển đổi ngoại tệ đồng Baht khá dễ dàng, do
đó tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào hoặc chảy ra bất cứ lúc nào theo ý kiến
của các nhà đầu tư. Chính vì vậy, khi có biến động trên thị trường Tài chính tiền tệ, luồng vốn
ngoại tệ chuyển ra ngoài tăng mạnh, đã kéo theo đồng Baht xuống giá. Bối cảnh này càng thúc
đẩy giới đầu cơ trong và ngoài nước muốn phá giá đồng Baht để kiếm lợi nhuận do chênh lệch
tỷ giá.
Ngày 30 tháng 6, thủ tướng Thái Lan tuyên bố sẽ không phá giá Baht, song rốt cục ngày
2/7/1997 Ngân hàng trung ương Thái Lan lại tuyên bố thả nổi đồng Baht. Ngay sau khi đồng
Baht giảm giá (15 - 20% so với USD) với mức thấp nhất 32 Bath/1USD kể từ 20 năm trở lại
đây, nó đã kéo theo phản ứng giảm giá dây chuyền đối với các đồng tiền trong khu vực như: đô
la Singapore giảm giá 5%, Peso Philippines 9 - 10% Ngày 14 và ngày 15 tháng 5 năm 1997,
đồng Baht Thái bị tấn công đầu cơ quy mô lớn. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức
56 baht mới đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280
cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ
141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị
phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar Mỹ cho
Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ dollar.
2.1.2.2 Philippines
Tháng 5/1997, Ngân hàng Trung Ương (NHTW) Philippines tăng lãi suất lên1,75 điểm
phần trăm và tiếp tục tăng lên 2 điểm vào tháng 6/1997. Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái
Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường
ngoại hối để bảo vệ đồng peso bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ
15% lên 24%. Đồng peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào
năm 2000 và còn 40 vào cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan tới các vụ
bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm 2001, Chỉ số Tổng
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
9
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
hợp PSE (Philippine Stock Exchange) của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn
khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng peso
thêm mất giá.Giá trị của đồng peso chỉ được phục hồi từ khi Gloria Macapagal-Arroyo lên làm
tổng thống.
2.1.2.3 Hong kong
Cuộc khủng hoảng nổ ra 24 giờ sau khi Vương Quốc Anh trao trảHong Kong lại cho
Trung Quốc. Tháng 10 năm 1997, Dollar Hong Kong vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá
7,8 HKD/USD. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở để cho
giới đầu cơ tấn công. Nhờ có dự trữ ngoại tệ lớn lên tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương
đương 700% lượng cung tiền M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong
Kong đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị trường chứng khoán
ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20 đến 23 tháng 10, Chỉ số Hang Seng
1
đã giảm 23%.
Ngày 15 tháng 8 năm 1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ 8% lên thành 23% và
ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời, Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các
loại cổ phiếu thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ phiếu. Cơ quan này
và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài chính Hong Kong đã công khai tuyên chiến với
giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ
Dollar Mỹ) các loại chứng khoán. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã bán ra số chứng
khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong Kong (khoảng 4 tỷ DollarMỹ).
Các hoạt động đầu cơ nhằm vào Dollar Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước
này đã ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị thiệt hại bởi chính sách
điều tiết dòng vốn nước ngoài của chính phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái
phiếu và tiền tệ ở Nga. Tỷ giá neo giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo toàn ở
mức 7,8:1.
2.1.2.4 Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có một gánh nặng nợ nước
ngoài khổng lồ. Các công ty nợ ngân hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân
hàng nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị khủng hoảng, tháng 11
các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm
1997, tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ A1 xuống A3, sau đó
vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2. Điều này góp phần làm cho giá chứng khoán của
Hàn Quốc thêm giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường chứng khoán Seoul tụt 4%.
Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm lý lo sợ IMF sẽ đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính
sách khắc khổ. Năm 1998, Hyundai Motor mua lại Kia Motors. Quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 5
tỉ USD của Samsung cũng giải thế do tác động quá mạnh của cuộc khủng hoảng, tiếp đó
Daewoo Motors phải bán lại cho General Motors. Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn
1
Chỉ số Hang Seng là chỉ số chứng khoán được xây dựng dựa trên giá trị vốn hóa thị trường của các công ty lớn nhất ở
Hồng Kông
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
10
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
khoảng 1700 KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD. Dù có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện
GDP trên đầu người, nhưng sau khủng hoảng, nợ quốc gia của Hàn Quốc tăng gấp ba lần so với
trước đó.
2.1.2.5 Malaysia
Trước khủng hoảng, tài khoản vãng lai của Malaysia thâm hụt 5%. Malaysia là quốc gia
nhận được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, điều này phản ánh qua việc KLSE (sàn giao dịch
chứng khoán chính thức của Malaysia) được coi là sàn giao dịch có hoạt động mạnh nhất trên
thế giới (tổng giá trị giao dịch thậm chí vượt qua cả NYSE mặc dù có mức vốn hóa thị trường
thấp hơn rất nhiều). Ở thời điểm đó, mọi người đều kỳ vọng quốc gia này tiếp tục duy trì tốc độ
tăng trưởng và trở thành nước phát triển vào năm 2020. Vào thời điểm trước khi xảy ra khủng
hoảng, KLSE Index đang ở mức 1.200, đồng ringgit được giao dịch ở tỉ lệ 2.5:1 so với USD, lãi
suất qua đêm dưới 7%. Lãi suất qua đêm tăng từ dưới 8% lên 40%, làm cho mức đánh giá tín
dụng tụt xuống và xảy ra làn sóng bán chứng khoán và tiền tệ ồ ạt. Ngay sau khi Thái Lan thả
nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng
khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75
Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là
từ việc buôn bán đồng tiền này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị
trường tiền duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự
tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương lai. Kết quả là lãi suất trong nước của
Malaysia giảm xuống khuyến khích dòng vốn chảy ra nước ngoài. Lượng vốn chảy ra đạt tới
mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997. Năm 1998, GDP giảm 6,2%, đồng
ringgit mất thêm 4,7% giá trị và KLSE tụt xuống dưới 270 điểm.
2.1.2.6 Indonesia
Tháng 7, khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của Indonesia đã nới
rộng biên độ dao động của tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8,
đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14 thì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản
lý được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn toàn. Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp
một gói viện trợ tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục
mất giá do đồng Rupiah bị bán ra ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt. Tháng 9,
cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức thấp lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc biệt là
làm cho món nợ ngân hàng nước ngoài của các công ty tăng lên. Trước tình hình đó, nhiều
công ty đẩy mạnh mua Dollar vào (có nghĩa là bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ thêm mất giá và
tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF khiến
chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này tăng lên. Tình
trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở Jakarta đã có tới 500 người bị
chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị.
Giữa năm 1998, Suharto buộc phải từ chức tổng thống.Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
11
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
Rupiah và Dollar vào khoảng 2000 : 1. Nhưng trong thời kỳ khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống
mức 18.000 : 1. Do thay đổi tỷ giá hối đoái và do nhiều nhân tố khác, GDP theo Dollar Mỹ của
Indonesia đã giảm đi.
2.1.2.7 Nước Mỹ và Nhật Bản
Khủng hoảng khiến nền kinh tế nước Mỹ tuy không sụp đổ nhưng cũng bị tác động nặng
nề. Ngày 27/11/1997, chỉ số DJ công nghiệp giảm 554 điểm, tương đương 7,2%, NYSE tạm
ngừng giao dịch trong thời gian ngắn.
Nhật Bản cũng chịu nhiều ảnh hưởng do là nền kinh tế lớn trong khu vực. Nhiều nước
Châu Á khác ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thương mại với Nhật Bản. Vào cuộc khủng
hoảng, đồng yen Nhật giảm còn 147:1 với USD khi có những đợt bán ra ồ ạt. Tốc độ tăng
trưởng GDP của Nhật giảm từ 5% xuống còn 1,6%. Cuộc khủng hoảng Châu Á cũng làm một
số doanh nghiệp ở Nhật phá sản.
2.2 Cách tiếp cận theo hướng hiện đại
Với mục đích là làm rõ hơn nguyên nhân, diễn biến của cộng khủng hoảng tài chính – tiền
tệ châu Á 1997-1998. Nhóm đã có cách tiếp cận theo cách khác. Nếu như cách tiếp cấn trên là
theo kiểu logic đi tìm các lí do A, B, C để dẫn tới kết cục D (khủng hoảng). Còn theo cách tiếp
cận mới này, đề tài không tìm lí do theo kiểu khủng hoảng theo kiểu logic “nếu A thì B”, mà
coi khủng hoảng là kết quả của một quá trình tích lũy các tiền đề có thể gây khủng hoảng từ
thấp đến cao, là một quá trình chuyển đổi lượng thành chất. Tức là khủng hoảng có thể được
khởi động từ rất lâu bởi các thay đổi có quy mô nhỏ hàng năm, có vẻ rất không nguy hiểm,
song được tích lũy dần dần và tiến tới bùng nổ do sự chín muồi bên trong nền kinh tế hoặc
trước một số tác động bên ngoài. Tất cả cách nhìn này dựa trên mô hình “Các nguy cơ khủng
hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh tế - tài chính” của GS. Nguyễn Thiện Nhân.
2.2.1 Mô hình “Các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng hoảng kinh
tế - tài chính”
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
12
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
Qua biểu đồ ta thấy, khủng hoảng chỉ có thể nổ ra khi bên trong nền kinh tế quốc gia đã tích lũy
4 nguy cơ khủng hoảng là:
+ Sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp
+ Sự kém hiệu quả của các ngân hàng, công ty tài chinh
+ Sự lên giá của đồng nội tệ
+ Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán
Và khi bên ngoài có 1 tác động quyết định là sự rút vốn tài chính của các nhà đầu tư nước ngoài.
Khi đồng nội tệ lên giá do quốc gia duy trì tỷ giá hối đối gần như cố định quá lâu, yếu
kém về xuất khẩu, giữ lãi suất cho vay trong nước cao hơn lãi suất các đồng tiền mạnh ở nước
ngoài, thì trước sau nguy cơ mất khả năng thanh toán sẽ ngày càng suy yếu và việc phải thả nổi
đồng tiền nội địa – tức là tăng tỷ giá hối đối chỉ còn là vấn đề thời gian.
Khi một số nhà đầu tư nước ngoài tiên đoán chính phủ nước sở tại sắp hết dự trữ ngoại tệ
để duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì họ sẽ bán tài sản họ đã đầu tư, đổilấy ngoại tệ mang ra
nước ngoài. Lúc đầu, chính phủ các nước thường bán dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá cũ, song
đến một lúc nào đó, không còn đủ khả năng bán nữa thì sẽ thả nổi tỷ giá hối đoái. Lúc nà các
nhà đầu tư nước ngoài chưa bán tài sản (cổ phần, trái phiếu, tín phiếu) thì sẽ tìm cách bán thật
nhanh và đổi ngoại tệ mạnh để tối thiểu hóa thiệt hại của mình. Áp lực này càng làm cho tỷ giá
hối đoái tăng vọt. Đó là vòng xoáy khủng hoảng thứ nhất, tác động nhanh đến tỷ giá hối đoái.
Khi tỷ giá hối đoái tăng vọt, thì nợ nước ngoài của các ngân hàng, công ty tài chính bằng
đồng tiền nội địa sẽ tăng vọt theo, trong khi đó người dân lại đổ xô đi rút tiền tiết kiệm ra khỏi
ngân hàng. Các ngân hàng, vốn làm ăn đã kém hiệu quả, sẽ nhanh chóng mất khả năng chi trả,
phá sản. Đó chính là vòng xoáy thứ 2.
Và chỉ việc vài ngân hàng phá sản, sẽ gây tâm trạng lo âu cho người dân gửi tiền tiết kiệm
ra khỏi ngân hàng khác, họ sẽ lại chạy đi rút tiền tiết kiệm ra khỏi ngân hàng, dẫn đến việc cả
các ngân hàng làm ăn hiệu quả cũng lâm vào mất khả năng chi trả, phá sản. Đó là vòng xoáy
khủng hoảng thứ 3, tác động nhanh.
Khi tỷ giá hối đoái tăng mạnh, nợ nước ngoài của các doanh nghiệp tính bằng tiến nội tệ
sẽ tăng vọt, cùng với việc các ngân hàng, công ty tài chính phá sản sẽ không có khả năng cung
ứng tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động nữa. Các doanh nghiệp nào hoạt động vốn kém
hiệu quả thì giờ đây sẽ không có đủ vốn để kinh doanh, càng sớm bị đẩy tới thua lỗ và phá sản.
Khi doanh nghiệp thua lỗ thì các ngân hàng, công ty tài lại không đòi được nợ, sẽ càng phá sản
nhanh hơn. Đó là vòng xoáy thứ 4, tác động chậm hơn các vòng trước.
Khi một nước bị khủng hoảng dẫn tới hậu quả là tỷ giá hối đoái của nước đó tăng mạnh,
thì tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu từ nước đó tăng, làm cho xuất khẩu các nước có tỷ
gia hối đoái ổn định bị ảnh hưởng xấu. Điều này làm cho cán cân thương mại nước này càng
thâm hụt, khả năng thanh toán của quốc gia càng suy yếu. Đó là áp lực buộc các nước này phải
phá giá đồng nội tệ đẩy mạnh xuất khẩu, phòng ngừa mất khả năng thanh toán. Đây có thể gọi
là tác động dây chuyền của việc phá giá nội tệ của một nước tới các nước khác.
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
13
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
Tóm lại, theo mô hình chúng ta nhận ra khủng hoảng kinh tế - châu Á 1997 – 1998 đã nổ
ra với các điều kiện bên trong là tích lũy 4 nguy cơ khủng hoảng và dưới tác động lẫn nhau của
4 vòng xoáy khủng hoảng và dưới tác động dây chuyền của phá giá nội tệ.
2.2.2 Phát triển mô hình “các nguy cơ khủng hoảng và cơ chế phát sinh khủng
hoảng kinh tế - tài chính” ở nước Thái Lan.
Nếu phần trên là mô hình chung để nhìn nhận một cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính.
Thì tiếp theo đề tài sẽ phát triển mô hình cho một nước cụ thể đó là Thái Lan – nơi bắt nguồn
cuộc khủng hoảng châu Á 1997-1998.
Với các số liệu về tình hình Thái Lan trước khi bị khủng hoảng, thì ta có thể thấy rằng:
Thực tế ở Thái Lan từ cuối năm 1996 và đầu năm 1997, ở Thái Lan đã xuất hiện đầy đủ 4 nguy
cơ khủng hoảng ở mức cao. Đó là:
+ Các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng kém hiệu quả
+ Ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả
+ Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán
Đồng Baht lên giá, do tỷ giá hối đoái gần như cố định (25,34 Baht/USD), đồn Baht bị lên giá
25%, thâm hụt tài khoản vãng lai 14,7 tỉ USD.Tương tự, ta cũng có mô hình tương tự cho quá
trình khủng hoảng ở Thái Lan:
Mô hình: các tiền đề và cơ chế khủng hoảng kinh tế - tài chính ở Thái Lan 1997
Khi đã xuất hiện 4 nguy cơ khủng hoảng, những người có đủ thông tin về các nguy cơ này
tất sẽ lo lắng. Lo sợ các ngân hàng và tổ chức tài chính phá sản sẽ thúc đẩy họ rút tiền ra khỏi tổ
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
14
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
chức này. Lo sợ tỉ giá hối đoái tăng, đồng Baht mất giá sẽ khiến họ đổ xô đi mua USD, làm cầu
USD tăng.
Thực tế ở Thái Lan, từ đầu năm 1997 đến 3.1997, người dân và các nhà đầu tư bắt đầu rút
vốn của mình ở dạng tiền mặt ra khỏi các ngân hàng và công ty tài chính, buộc chính phủ phải
đóng cửa TTCK một ngày 3.3.1997 và yêu cầu mọi tổ chức chính phải tăng thêm dự trữ tiền
mặt, và công bố 10 công ty tài chính ở trạng thái không bình thường.
Ngày 4 và 5.3.1997, hơn 21.4 tỉ Baht đã được rút khỏi các ngân hàng và công ty tài chính.
Sau đó một tháng, ngày 9.4.1997, tỷ giá hối đoái tăng lên 26,08 baht/USD, mức cao nhất
từ 1991.
Nếu mức độ giảm sút dự trữ quốc gia của quý 2.1997 kéo dài thêm khoảng 2-3 quý nữa
thì lúc đó dự trữ ngoại tệ quốc gia chỉ còn khoảng 10 tỉ USD, bằng 1/3 mức dự trữ ngoại tệ năm
1996 và chính phủ sẽ buộc phải thả nổi tỉ giá hối đoái vì hoàn toàn không còn khả năng bán
ngoại tệ để duy trì tỉ giá hối đoái.
Có lẽ thấy trước nguy cơ này, ngày 2.7.1007, chính phủ Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng
Baht. Như vậy, cuộc khủng hoảng ở Thái Lan bùng nổ do hoạt động trước hết ở vòng xoáy
khủng hoảng số 3 (mô hình ở 2.2.1) khi người dân và nhà đầu tư rút khỏi các ngân hàng, làm
phá sản hàng loạt ngân hàng và các công ty tài chính, kế đó là tác động của vòng xoáy khủng
hoảng 2 và 1 (mô hình 2.2.1) khi họ đổi đồng baht lấy ngoại tệ USD, làm tỉ giá hối đoái tăng
vọt. chỉ trong năm 1997, hơn 22 tỉ USD cho vay ngắn hạn đã được thu hồi và rút ra khỏi Thái
Lan. Sự phá sản của các ngân hàng, công ty tài chính và sự tăng vọt của tỉ giá làm cho các
doanh nghiệp vốn đã kém hiệu quả bị thua lộ và phá sản. Và trong năm 1998, gần 4000 doanh
nghiệp ở Thái Lan bị phá sản, tạo nên vòng xoáy khủng hoảng số 4. Sự phá sản của các doanh
nghiệp, tuy tác động chậm hơn, song sẽ lại thúc đẩy quá trình phá sản các ngân hàng,công ty tài
chính, còng xoáy khủng hoảng 4.
Như vậy, tiến trình bùng nổ khủng hoảng kinh tế- tài chính ở Thái Lan có thể được mô tà
như sơ đồ trên. Dưới tác động của vòng xoáy khủng hoảng số 2 và 1, tỉ giá hối đoái sẽ tăng vọt
từ khoảng 25 Baht/USD vào tháng 6.997 lên 53 Baht/USD vào 31.12.1997, sau đó tuy có giảm
song vẫn ở mức trên 38Baht/USD vào 30.4.1998
Như vậy, với mô hình được dựng nên ta có thể thấy được các mối liên hệ giữa các nguy
cơ và các yếu tố để nhìn nhân rõ hơn cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Thái Lan và lan truyền qua
các quốc gia khác.
2.3 Hậu quả của khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
2.3.1 Hậu quả tới nền kinh tế:
- Cuộc khủng hoảng tài chính 1997 có thể khiến cho một đất nước từ trạng thái tăng
trưởng cao nhanh chóng rơi vào tình trạng suy thoái, sụt giảm kinh tế trầm trọng. Không chỉ có
vậy, đồng tiền trong nước mất giá liên tục làm cho tình trạng vay nợ, xét trên góc độ đồng nội
tệ, thêm trầm trọng, ngay cả khi trên thực tế giá trị tài sảncủa họ không hề thay đổi. Một kết quả
tất yếu khác từ sự mất giá tiền tệ là lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng đều tăng, từ đó lãi
suất trên thị trường cũng tăng chóng mặt. Doanh nghiệp và các hộ gia đình do đó cũng phải
thanh toán lãi suất rất cao, tác động tiêu cực đến bảng cân đối tài sản của họ.
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
15
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
- Thị trường nợ ở các quốc gia mới nổi khu vực Đông Á có đặc trưng là những hợp đồng
nợ có kỳ hạn rất ngắn, thường là dưới một tháng. Do đó lãi suất ngắn hạn tăng lên ở những
quốc gia này đồng nghĩa với tác động rất lớn đến dòng tiền và bảng cân đối kế toán của các đơn
vị trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng còn phải đối mặt với một vấn đề trầm trọng khác là
khối lượng rất lớn những khoản nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ, trong khi đồng tiền trong nước bị
phá giá. Giá trị của những khoản nợ này tăng lên vùn vụt và tiếp tục làm tiêu hao đi lượng tài
sản thực đang còn rất ít của các ngân hàng. Khi mà hoạt động cấp tín dụng và cho vay sụt giảm
thì cũng đồng nghĩa với việc các hoạt động của nền kinh tế bị đình trệ và tốc độ tăng trưởng
GDP thực cũng sẽ sụt giảm theo. Nguồn lực bị bào mòn, ngân hàng không còn đủ khả năng cho
vay, khi hoạt động cho vay không còn được tiếp tục, các hoạt động của nền kinh tế bị thu hẹp là
điều dễ hiểu và tất yếu.
- Khủng hoảng đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao gồm mất giá tiền tệ,
sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp bị
phá sản, dẫn đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998.
Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan.
2.3.2 Hậu quả tới xã hội:
- Sự mất giá đồng tiền mở đầu cho cuộc khủng hoảng đã gần như ngay lập tức tác động
tới giá hàng hóa và dịch vụ. Lạm phát không chỉ giảm thu nhập thực tế mà cùng với sự sụp đổ
của thị trường chứng khoán, lạm phát còn làm giảm nghiêm trọng tỉ lệ dự trữ hộ gia đình.
- Biểu đồ: Lạm phát tại một số nước Đông Á 1996 - 1998
- Tác động tiêu cực tới việc làm xảy ra ngay sau khi đồng tiền mất giá. Thất nghiệp tăng
nhanh tại những nước bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính.
0
20
40
60
80
100
Indonesia Hàn Quốc Lào Malaysia Philippines Thái Lan
1996
1997
1998
0
2
4
6
8
10
Indonesia Hàn Quốc Malaysia Philippines Thái Lan
1997
1998
Chương 2. Khủng hoảng kinh tế-tài chính châu Á 1997-1998
16
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
- Biểu đồ: Tỉ lệ thất nghiệp 1997 - 1998
- Tỉ lệ đói nghèo ngày càng gia tăng trong giai đoạn 1997 -1998. Phân biệt xã hội càng
thêm mở rộng khoảng cách. Tại Hàn Quốc, khủng hoảng đã khiến cho tỉ lệ đói nghèo tăng
mạnh từ 3% (quí IV năm 1997) đến 6.4% (suốt quí I năm 1998) và chạm mức 7.5% (quí III
năm 1998). Tại Malaysia, tỉ lệ này tăng từ 6.8% đến 7.6% (1998).
- Ngân sách cho giáo dục và y tế cộng đồng tại các nước khủng hoảng bị cắt giảm không
thương tiếc để dồn ngân sách bù đắp cho nền kinh tế.
- Tỉ lệ tội phạm và bạo lực cũng tăng cao trong giai đoạn 1997 -1999 tại những nước
Đông Á này. Mất ổn định chính trị với sự ra đi của Suharto ở Indonesia và Chavalit
Yongchaiyudh ở Thái Lan là một ví dụ điển hình. Tâm lý chống phương Tây gia tăng cùng với
sự phê phán gay gắt nhằm vào George Soros và Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Các phòng trào Hồi giáo
và ly khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền trung ương của nước này suy yếu.
- Tại Hàn Quốc và Malaysia, ngân sách chính phủ dành cho việc bảo vệ môi trường cũng
bị cắt giảm mạnh. Chính phủ Hàn Quốc đã cắt giảm 12% chi phí bảo vệ môi trường trong ngân
sách bổ sung năm 1998. Chính phủ Malaysia thì cắt giảm phần ngân sách của Bộ Khoa học,
công nghệ và môi trường.
Không những gây hậu quả nghiêm trọng tới nền kinh tế Đông Á, cuộc khủng hoảng tài chính
1997 còn có tác động không nhỏ tới xã hội.
Tóm tắt chương 2:
Qua chương 2, đề tài đã mang lại 2 cách tiếp cận: theo kiểu cổ điển và theo kiểu hiện đại
để có cái nhìn rõ nét, và dễ hiểu nhất về cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính châu Á 1997.Tuy
là 2 cách tiếp cận khác nhau nhưng bản chất của nó là một, hai cách này nhằm hỗ trợ và bổ
sung cho nhau để giúp cho người đọc dễ hiểu và có nhiều cách nghĩ một vấn đề hơn. Trong
chương này cũng đã nói lên hậu quả của cuộc khủng hoảng để lại.
Chương 3: Bài học rút ra và tầm nhìn Việt Nam trong giai đoạn hội nhập
17
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC RÚT RA VÀ TẦM NHÌN VIỆT NAM TRONG GIAI
GIAI ĐOẠN HỘI NHẬP
3.1 Bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng
3.1.1. Đối với thế giới
Phải có công cụ điều tiết luồng vốn:
Không phải tình cờ khi hai nước châu Á ít bị ảnh hưởng nhất của cuộc khủng
hoảng tài chính, Trung Quốc và Ấn Độ, cũng chính là những nước không tự do hóa thị
trường vốn. Và trong số những nước đã tự do hóa thị trường vốn, cũng không phải
ngẫu nhiên mà nước khống chế tốt nhất những tác động của cuộc khủng hoảng,
Singapore, chính là nước có hệ thống luật pháp tốt nhất.
Do thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào tình trạng
quá phụ thuộc vào nguồn tài chính rất dễ biến động từ bên ngoài - đó là các khoản vay
ngắn hạn. Cuối năm 1996, các nước Đông Á đã nợ các ngân hàng châu Âu 318 tỷ USD,
ngân hàng Nhật Bản 260 tỷ USD và ngân hàng Mỹ 46 tỷ USD, đa số là dưới hình thức
vay ngắn hạn - dưới 1 năm.
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho biết trong 3 năm trước thời điểm 1997, các khoản
nợ ngắn hạn của Thái Lan chiếm tới 7-10% GDP, trong khi tổng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) chỉ chiếm 1% GDP.
Khi xảy ra khủng hoảng, các nguồn vốn ngắn hạn này biến mất cũng nhanh như
khi xuất hiện, vì không hề có các công cụ điều tiết.
Cần xây dựng hành lang pháp lý phù hợp:.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo vào những năm trước thời điểm
1997 đã dẫn đến sự phát triển quá mức của thị trường tín dụng ở nhiều nước châu Á,
như Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan, kéo theo việc đầu tư dư
thừa vào một số ngành kinh tế.
Việc dư thừa nguồn tín dụng còn dẫn đến tình trạng lãng phí, với cuộc chạy đua
sở hữu tòa nhà cao nhất thế giới ở các nước châu Á là một ví dụ. Tệ hơn, việc “thừa
tiền” còn châm ngòi cho sự phát triển bong bóng của thị trường bất động sản, từ đó lại
quay lại tình trạng dư thừa tín dụng, vì các ngân hàng cho vay nhiều hơn giá trị thực
của tài sản thế chấp. Kết quả là khi “bong bóng” vỡ, các ngân hàng phải hứng chịu hậu
quả.
Hệ thống ngân hàng với sự giám sát lỏng lẻo còn cho phép các ngân hàng có tỷ lệ
vốn lưu động không phù hợp. Theo số liệu năm 1997 của Ngân hàng Thanh toán Quốc
tế (BIS), ở Philippines (17%), Hồng Kông (18%) và Singapore (19%), tỷ lệ này cao
hơn nhiều so với tiêu chuẩn tối thiểu quốc tế.
Nguy cơ dư thừa vốn
Chính phủ của các nền kinh tế mới nổi không thể làm gì nhiều để ngăn “lũ” vì
nguồn cơn của sự mất cân bằng trên thị trường tài chính quốc tế không nằm trong tầm
kiểm soát trực tiếp của họ.
Chương 3: Bài học rút ra và tầm nhìn Việt Nam trong giai đoạn hội nhập
18
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á không phải chỉ do người châu Á gây ra.
Ngân khố của hầu hết các nền kinh tế châu Á đều ở mức cân bằng hoặc thặng dư, và
không hề có lạm phát. Cuộc khủng hoảng xảy ra phần nhiều là do những thay đổi về
mô hình của hoạt động trung gian tài chính quốc tế.
Sự mở rộng đáng kể của khả năng thanh khoản quốc tế vào thập niên 90 đã làm
gia tăng sự cạnh tranh trong ngành dịch vụ tài chính trên toàn thế giới. Vì thế, các giám
đốc tài chính buộc phải tìm kiếm những khoản lợi nhuận cao hơn, thông qua các dự án
đầu tư mạo hiểm.
Chính sách kinh tế vĩ mô của các cường quốc kinh tế đóng vai trò quan trọng
trong sự mở rộng của khả năng thanh khoản quốc tế. Ví dụ như ở Mỹ, việc thâm hụt
ngân sách giảm xuống trong khi khả năng sản suất tăng lên đã dẫn đến tốc độ lạm phát
giảm và do đó lãi suất giảm.
Hệ quả tất yếu là luồng vốn đổ vào châu Á tăng lên, vì lãi suất ở châu Á cao hơn,
còn các nước châu Á nhận thấy việc vay mượn quy đổi bằng đồng đôla Mỹ hoặc yên
Nhật có lợi hơn là bằng đồng nội tệ.
Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối này không thể kéo dài. Việc tăng nguồn vốn đã
gia tăng sức ép đối với việc tăng tỷ giá hối đoái, từ đó làm trầm trọng thêm tình hình
thâm hụt thương mại. Và khi thị trường tạo sức ép giảm giá đồng tiền, tình hình càng
trở nên xấu đi do sự rút vốn đột ngột của các nhà đầu tư nước ngoài. Thị trường tài
chính châu Á chao đảo.
3.1.2. Đối với Việt Nam
Về phía Việt Nam, cuộc khủng hoảng là sự cảnh báo trước những nguy cơ Việt
Nam có thể gặp phải trong quá trình phát triển kinh tế với chính sách như hiện nay.
Việt Nam không bị ảnh hưởng bao nhiêu trong cuộc khủng hoảng tài chánh Á châu
năm 1997, môt phần vì kinh tế Việt Nam lúc đó còn chưa hội nhập bao nhiêu vào với
kinh tế thế giới, một phần nữa là vì sự kiểm soát chặt chẽ việc tư bản ngoại quốc đầu tư
vào Việt Nam. Nhưng đến năm 2007, tình hình kinh tế Việt Nam cũng như là sự hội
nhập của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu đã khác hẳn với cách đây 10 năm.
Thứ nhất, hiệu quả kinh doanh của cácdoanh nghiệp và hiệu quả kinh tế quốc gia
là cơ sở quan trọng nhất đảm bảo cho phát triển bền vững và phải trở thành một mục
tiêu và chỉ tiêu của quản lý kinh tế đất nước, quản lí ngành và mỗi doanh nghiệp. Cần
đưa ra các chỉ tiêu như tỉ suất lợi nhuận, và tỉ suất giá trị gia tăng trên vốn riêng của
doanh nghiệp theo các ngành, theo các thành phần kinh tế và theo địa phương trong cả
nước, đồng thời theo dõi chặt chẽ sự biến động của chỉ số ICOR với mỗi địa phương và
cả nước.
Thứ hai, để các doanh nghiệp và nền kinh tế phát triển bền vững thì lãi suất vốn
vay để đầu tư phải tương đương với hoặc nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Vậy, để phát triển bền vững , lãi suất tín dụng chủ yếu phải hình thành từ quan hệ cung
cầu vốn trên thị trường chứ không dựa vào ý chí của nhà nước. Nếu lãi suất tín dụng
Chương 3: Bài học rút ra và tầm nhìn Việt Nam trong giai đoạn hội nhập
19
Rủi Ro Group-Nhóm 5_K09402B
nhỏ hơn khả năng sinh lời của doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp có tính
cạnh tranh cao, thì doanh nghiệp có thể sẽ càng phát triển nhanh và hiệu quả kinh
doanh cao.
Thứ ba, cần có một tổ chức chuyên trách của chính phủ theo dõi sự biến động
của lạm phát, tỉ giá hối đoái, lãi suất tín dụng trong nước và quốc tế, cán cân tài khoảng
vãng lai, nợ quốc gia, hiệu quả kiinh doanh của các doanh nghiệp để đề suất chính sách
và điều tiết cần thiết, đảm bảo phát triển quốc gia bền vững với tăng trưởng tương đối
cao.
3.2 Những nguy cơ có thể gây ra khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện tại
Tất cả những phần trên, đề tài đã đề cập đến nguyên nhân, diễn biến, hậu quả và
những bài học mang lại cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng châu Á 1997. Vậy dựa trên
những khía cạnh ấy, đề tài chúng tôi sẽ đề cập đến những nguy cơ có thể gây ra khủng
hoảng tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, và xem xét Việt Nam có thể bị
khủng hoảng như vậy hay không.
3.2.1 Nguy cơ từ bên trong
Có thể nói nguy cơ từ bên trong xuất phát từ nội tại nền kinh tế, từ sự bất cập của
hệ thống tài chính, cơ chế chính sách, quản lí trong quá trình mở cửa và tự do hóa
thương mại. Những nguy cơ đó là:
- Tăng trưởng nhanh nhưng chất lượng tăng trưởng thấp: Nếu như tốc độ tăng
trưởng kinh tế 1986 – 1990 là 4,4%, giai đoạn 1991 – 1995 là 8,18%, giai đoạn 1996 –
200 là 6,95% thì giai đoạn 2001 – 2995 là 7,51%. Con số tương ứng là 8.17% và
8.48% trong các năm 2006 và 2007. Tuy nhiên liên quan đến vấn đề chất lượng tăng
trưởng,có thể nói tốc độ tăng trưởng của Việt Nam không cao vì hiệu quả đầu tư còn
thấp, được thể hiện qua chỉ số ICOR – là hệ số cho biết số đơn vị đầu tư (tính theo %
của GDP) cần thiết để đạt được 1% đơn vị tăng trưởng GDP, nghĩa là nếu chỉ số này
càng cao thì hoạt động càng kém hiệu quả. Nhìn vào bảng ta thấy Việt Nam có chỉ số
ICOR cao hơn hẳn các nước có chỉ số phát triển tương đương.
Bảng : Chỉ số ICOR của VN so với các nước trong khu vực
Nguồn: Tính toán từ số liệu thống kê của IMF và World Bank