Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Bài Luận: PHÂN TÍCH TÍNH KHÓ HIỂU CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.66 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP


BÀI LUẬN

PHÂN TÍCH TÍNH KHĨ HIỂU
CỦA HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM

Giảng viên hướng dẫn: Trần Nguyên Đán
Nhóm thực hiện: Nhóm 107
Lớp: TC01 – VB2K13

TP.HCM, năm 2011


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

MỤC LỤC
Trang
1. Tổng quan về hợp đồng bảo hiểm .................................................................... 2
1.1. Khái niệm về hợp đồng bảo hiểm .................................................................. 2
1.2. Các loại hợp đồng bảo hiểm .......................................................................... 2
1.3. Tính chất của hợp đồng bảo hiểm ................................................................. 3
2. Tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm ............................................................ 3
2.1. Định nghĩa tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm....................................... 3
2.2. Các nguyên nhân dẫn đến tính khó hiểu ...................................................... 3
2.2.1. Bản chất của hợp đồng .................................................................................. 3
2.2.2. Hệ thống pháp luật......................................................................................... 6


2.2.3. Thị trường bảo hiểm Việt Nam ..................................................................... 7
2.3. Các tác nhân khác làm tăng tính khó hiểu ................................................... 8
2.3.1. Người môi giới bảo hiểm .............................................................................. 8
2.3.2. Người tham gia bảo hiểm .............................................................................. 8
2.4. Hậu quả của tính khó hiểu ............................................................................. 9
3. Giải pháp kiến nghị ........................................................................................ 14
3.1. Về phía nhà nước .......................................................................................... 14
3.2. Về phía doanh nghiệp bảo hiểm .................................................................. 14
3.3. Về phía người mua bảo hiểm ....................................................................... 15

Trang 1


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

1. Tổng quan về hợp đồng bảo hiểm
1.1. Khái niệm về hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm là căn cứ quan trọng quy định quyền và nghĩa vụ của
DNBH và người tham gia bảo hiểm theo thỏa thuận của 02 bên. Khoản 1 điều 12
Luật kinh doanh bảo hiểm quy định:
“ Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh
nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người
được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.”
Định nghĩa này có độ chênh so với định nghĩa về hợp đồng bảo hiểm được
quy định tại Điều 567 Bộ luật dân sự 2005: "Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm
phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo

hiểm".
Từ hai định nghĩa này có thể thấy sự mâu thuẫn trong quan điểm về đối
tượng được nhận tiền bảo hiểm, trong luật kinh doanh bảo hiểm đối tượng được
nhận tiền bảo hiểm là người thụ hưởng hoặc người được bảo hiểm, Bộ luật dân sự
không quy định về người thụ hưởng mà chỉ quy định về bên được bảo hiểm và trong
luật cũng không làm rõ hơn về khái niệm bên được bảo hiểm.
1.2. Các loại hợp đồng bảo hiểm kinh doanh
Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm được chia thành 3 loại đang tồn tại
a) Hợp đồng bảo hiểm tài sản:
Là loại bảo hiểm lấy tài sản có trên và trong phạm vi thuộc quyền sở hữu,
quản lý, trơng nom,, kiểm sốt của người được bảo hiểm làm đối tượng bảo hiểm.
Khi xảy ra rủi ro tổn thất về tài sản như mất mát, hủy hoại về vật chất, người bảo
hiểm có trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm căn cứ vào giá trị thiệt
hại thực tế và mức độ đảm bảo thuận tiện hợp đồng. Bảo hiểm tài sản có thể là bảo
hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu; bảo hiểm thân tàu, thuyền, xe cơ giới; bảo hiểm hỏa
hoạn.
b) Hợp đồng bảo hiểm con người:
Đối tượng của các loại hình này, chính là tính mạng, thân thể, sức khỏe của
con người. Người ký kết hợp đồng bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm để thực hiện mong
muốn nếu như rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng tính mạng, sức khỏe của người được bảo
hiểm thì họ hoặc một người thụ hưởng hợp pháp khác sẽ nhận được khoản tiền do
người bảo hiểm trả. Bảo hiểm con người có thể là bảo hiểm nhân thọ hoặc bảo hiểm
tai nạn - bệnh.
c) Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự:
Đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm phát sinh do ràng buộc của các quy định
trong luật dân sự, theo đó, người được bảo hiểm phải bồi thường bằng tiền cho
người thứ 3 những thiệt hại gây ra do hành vi của mình hoặc do sự vận hành của tài
Trang 2



Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

sản thuộc sở hữu của chính mình. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự có thể là bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp hoặc bảo hiểm trách nhiệm cơng cộng.
1.3. Tính chất của hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm có một số tính chất chung trong khn khổ những quy
định của pháp luật về hợp đồng dân sự, ngồi ra cịn có một số tính chất riêng biệt
của ngành bảo hiểm như:
- Tính tương thuận: Hợp đồng bảo hiểm được thiết lập dựa trên sự chấp
thuận của cả đôi bên trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tự do giao kết trong
khuôn khổ pháp luật.
- Là hợp đồng song vụ: các bên ký kết đều có quyền và nghĩa vụ, quyền của
bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại, người bảo hiểm phải đảm bảo cho các
rủi ro cịn người được bảo hiểm thì phải trả phí bảo hiểm.
- Tính chất may rủi: nếu khơng tồn tại rủi ro thì khơng có việc giao kết
cũng như khơng tồn tại hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm.
- Tính chất tin tưởng tuyệt đối: để tồn tại và có thể thực hiện được hợp
đồng bảo hiểm thì hai bên phải có sự tin tưởng lẫn nhau.
- Tính chất phải trả tiền: bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền phí bảo
hiểm, người bảo hiểm có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra.
- Tính chất gia nhập: nội dung chính của hợp đồng do người bảo hiểm soạn
trước theo mẫu, bên mua bảo hiểm sau khi đọc thấy phù hợp thì gia nhập hợp đồng.
- Tính dân sự, thương mại hỗn hợp: bên mua bảo hiểm có thể là thể nhân
hoặc pháp nhân dân sự hay thương mại, người bảo hiểm cũng có thể là một pháp
nhân dân sự hay thương mại, do đó mối quan hệ giữa họ có thể có tính dân sự hoặc
thương mại thuần túy hoặc dân sự - thương mại hỗn hợp.
2.Tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm
2.1. Định nghĩa tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm là việc người tham gia bảo hiểm
không hiểu hoặc hiểu không đầy đủ, khơng chính xác về nội dung của hợp đồng bảo
hiểm.
2.2. Các ngun nhân dẫn đến tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm
2.2.1. Bản chất của hợp đồng
 Tính khó hiểu là hệ quả của các tính chất riêng có của hợp đồng bảo hiểm
 Thứ nhất, xuất phát từ tính may rủi của hợp đồng bảo hiểm. Việc giao kết,
thực hiện hợp đồng bảo hiểm gắn liền với những rủi ro tức những biến cố khơng
chắc chắn. Chính vì vậy mà nhà bảo hiểm chỉ đồng ý chịu trách nhiệm bảo hiểm
trong một số trường hợp, nên khi soạn thảo hợp đồng công ty bảo hiểm sẽ đưa ra
nhiều tình huống giả định (nếu thế này thì.., nếu thế kia thì…, ngoại trừ…. v..v…).
Trang 3


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

Điều này làm cho câu văn sử dụng để diễn đạt luôn phức tạp. Hơn nữa, nhà bảo
hiểm miêu tả các trường hợp giả định ở mức độ khái quát cao làm người đọc phải
cố gắng hình dung ra các trường hợp đó. Tất nhiên, vì trình độ rất khác nhau và lĩnh
vực hoạt động rất khác nhau nên không phải ai cũng có thể có trình độ, hiểu biết
chun môn đầy đủ để hiểu tường tận một cách thống nhất với nhà bảo hiểm.
Từ đó, dẫn đến mâu thuẫn là các định nghĩa trong hợp đồng bảo hiểm không phù
hợp với cách hiểu thơng thường. Ví dụ, nếu theo thơng thường là sự va chạm dẫn
đến thương tích thì trong hợp đồng muốn được bảo hiểm phải là một lực tác động
lên cơ thể con người, bất ngờ, ngoài ý muốn, mối quan hệ giữa thương tật và tác
động bên ngồi.
Ví dụ về một trường hợp rắc rối câu chữ trong hợp đồng bảo hiểm trong vụ tranh
chấp giữa Ngân hàng Đại Tín và cơng ty bảo hiểm AAA.

Cơn mưa chiều 1.8.2008 kết hợp với triều cường khiến nhiều tuyến đường trong
TP.HCM biến thành sông. Nước ngập đường Hồ Hảo Hớn (Q.1), tràn vào tòa nhà
Chi nhánh Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Tín (số 75 Hồ Hảo Hớn), làm tầng
hầm đang chứa đầy xe bị ngập nước. Trong đó có chiếc xe Mercedes biển số 52P 1980 bị hư hỏng nặng.
Theo tường trình của Ngân hàng Đại Tín tại UBND P.Cơ Giang, Q.1 thì khoảng
16 giờ ngày 1.8.2008 cơn mưa bắt đầu. Nửa tiếng sau, nước tràn vào tầng hầm trụ
sở. Đến 17 giờ, tầng hầm bị ngập trong nước hơn 0,5m. Toàn bộ nhân viên của
ngân hàng đã tập trung xử lý để hạn chế thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên, do mực nước
dâng cao và độ dốc của đường hầm khá lớn nên không thể đem xe ra khỏi tầng
hầm. Mực nước tiếp tục dâng cao hơn 1m làm ngập hệ thống dẫn điện vào tịa nhà.
Tồn bộ nhân viên của ngân hàng phải sơ tán khỏi tòa nhà để tránh tai nạn về điện.
Sáng 2.8.2008, Ngân hàng Đại Tín đã thơng báo tai nạn cho Bảo hiểm AAA qua
điện thoại và dịch vụ cứu hộ mang xe đi giám định thiệt hại. Kết quả làm việc của
các bên cho biết ngân hàng bị thiệt hại gần 400 triệu đồng do các hư hỏng của xe
Mercedes 52P-1980.
Trước đó, Ngân hàng Đại Tín có ký kết hợp đồng số P080 – 710 – 08/0046 với
Bảo hiểm AAA. Theo hợp đồng thì phạm vi bảo hiểm: âm va, lật đổ; hỏa hoạn, cháy
nổ; bão, lũ lụt, sụt lở, sét đánh, động đất, mưa đá; mất toàn bộ xe; tai nạn rủi ro bất
ngờ khác ngoài những điểm loại trừ. Sau khi nhận thấy trường hợp chiếc xe
Mercedes nằm trong phạm vi tai nạn rủi ro bất ngờ, Ngân hàng Đại Tín đã yêu cầu
AAA trả tiền bảo hiểm.
Tuy nhiên, AAA cho rằng rủi ro ngập nước gây hư hỏng hệ thống điện của chiếc
Mercedes không thuộc phạm vi hợp đồng. Theo yêu cầu của Bảo hiểm AAA, Đài khí
tượng thủy văn khu vực Nam Bộ có cơng văn trả lời: “Diễn biến thời tiết trên không
phải là bão, không phải là lũ lụt. Hiện tượng này là do giông mạnh gây ra mưa to
làm cho ngập nhiều nơi”. Dựa vào lý do này Bảo hiểm AAA từ chối bồi thường thiệt
hại cho ngân hàng mà chỉ hỗ trợ 50 triệu đồng để khắc phục một phần thiệt hại.
Bên Ngân hàng Đại Tín khơng chấp nhận cách giải quyết này. Vụ việc xảy ra đến
nay đã hơn nửa năm nhưng cả hai bên chưa có tiếng nói chung và Ngân hàng Đại
Tín gửi đơn khiếu nại đi khắp nơi.

Trang 4


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

Chiều 20.3.2009, trao đổi với PV Thanh Niên, ông Phạm Trường Khê, Phó tổng
giám đốc Bảo hiểm AAA cho biết: “Sau khi Bảo hiểm AAA tiếp nhận tin báo đã cử
chuyên viên giám định phối hợp với Ngân hàng Đại Tín và HAXACO để kiểm định
thiệt hại đối với chiếc Mercedes. Nguyên nhân khiến chiếc xe bị hư hỏng không
thuộc phạm vi bảo hiểm nên chúng tôi không đền bù mà chỉ hỗ trợ 50 triệu đồng
cho Ngân hàng Đại Tín để khắc phục một phần sự cố”. Theo ơng Khê lý giải thì
“rủi ro bất ngờ” là những rủi ro xảy ra trong khoảng thời gian chỉ trong tích tắc,
khơng lường trước được. Sự cố nước mưa từ ngồi đường tràn ngập tầng hầm (mưa
bắt đầu từ lúc 16 giờ, nước mưa tràn vào tầng hầm lúc 16 giờ 30, đến 17 giờ nước
trong tầng hầm ngập 0,5m) là xảy ra trong một thời gian dài nên không phải là tai
nạn rủi ro bất ngờ. Theo ông Khê, những trường hợp xem là rủi ro bất ngờ như xe
bị cành cây rơi trúng hoặc đang chạy đột ngột mất tay lái lao xuống biển...
Mặt khác theo quy định của Luật Dân sự, đối với những hợp đồng soạn sẵn, nếu
có những điều khoản, từ ngữ có cách hiểu khơng rõ ràng thì sẽ giải thích sao cho có
lợi cho người được bảo hiểm. Cách giải thích như trên của Bảo hiểm AAA là khơng
thỏa đáng.
Trích: />
 Thứ hai, xuất phát từ tính gia nhập của hợp đồng bảo hiểm, biểu hiện ở
chỗ hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng theo mẫu, mở sẵn và doanh nghiệp bảo hiểm là
bên đưa ra các điều khoản mẫu (do Bộ Tài chính ban hành hoặc phê duyệt) để
khách hàng xem xét trả lời chấp nhận trong một khoảng thời gian hợp lý; nếu khách
hàng đồng ý tham gia bảo hiểm đồng nghĩa với việc chấp nhận toàn bộ nội dung
hợp đồng theo điều khoản mẫu mà doanh nghiệp bảo hiểm đã đưa ra, chứ khơng

phải hình thành từ việc đàm phán trực tiếp của hai bên như các hợp đồng mua bán
khác. Điều này đòi hỏi người mua bảo hiểm phải đọc thật kỹ để thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ trước khi ký kết và trong khi thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Nhưng,
ngay cả khi đọc kỹ, nếu khơng có sự giúp đỡ, tư vấn của người hoạt động chuyên
ngành, chưa chắc người mua bảo hiểm có thể hiểu đúng và thống nhất với người
soạn thảo các điều khoản.
Các điều khoản trong hợp đồng mâu thuẫn với nhau.
- 3.1.1: “Người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm có trách nhiệm kê
khai đầy đủ, trung thực tất cả những điều thực tế đang biết và cần phải biết về các
rủi ro có trước khi yêu cầu bảo hiểm cũng như các thơng tin có liên quan theo u
cầu của Bảo Việt”.
- 14: Các trường hợp nhầm lẫn khi kê khai thì nếu như người tham gia bảo
hiểm có sự nhầm lẫn khi kê khai tuổi, giới tính của người được bảo hiểm thì giữa
nhà bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm sẽ có sự thống nhất điều chỉnh hợp đồng
theo thơng tin chính xác.
Các điều khoản trong hợp đồng và phần phụ lục không thống nhất với nhau.
-

Hợp đồng: điều khoản chung chung

-

Phần phụ lục tiếp theo lại có những quy định rất cụ thể và chặt chẽ

Trang 5


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107


 Ngoài ra, đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, tính khó hiểu cũng xuất
phát từ các tính chất riêng có của nó: bảo hiểm nhân thọ có tính “đa mục đích” (bảo
vệ, tiết kiệm và đầu tư), dài hạn và có nhiều chủ thể tham gia vào hợp đồng (người
mua bảo hiểm, người được bảo hiểm, người thụ hưởng,…), vì thế, hệ thống sản
phẩm nhân thọ rất đa dạng về chủng loại: sản phẩm chính (sinh kỳ, tử kỳ, niên kim,
trọn đời, hỗn hợp,…), sản phẩm bổ trợ (tai nạn, bệnh, từ bỏ thu phí..) và phức tạp
(sản phẩm kết hợp, sản phẩm có khả năng chuyển đổi, liên kết nhân mạng,…). Điều
này dẫn đến có sự mâu thuẫn giữa tính phức tạp, chuyên biệt của sản phẩm bảo
hiểm với mức độ hiểu biết về bảo hiểm chưa cao của đại đa số khách hàng, tức là
khách hàng khơng hiểu hết tính năng của từng loại sản phẩm, dễ nhầm lẫn giữa các
loại sản phẩm.
 Trong một hợp đồng bảo hiểm riêng lẻ đã tồn tại tính khó hiểu, trong
những hợp đồng hỗn hợp, phức tạp thì tính khó hiểu đó càng tăng.
2.2.2. Hệ thống pháp luật
Hệ thống văn bản pháp lý chi phối hợp đồng bảo hiểm hiện nay còn nhiều
bất cập. Hợp đồng bảo hiểm hiện nay tùy trường hợp và tùy lọai chịu sự chi phối
điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật như Luật Kinh doanh Bảo Hiểm, Bộ luật Hàng Hải,
Bộ luật Dân Sự, pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Chính vì thế, gây khó khăn cho cả
những người hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm lẫn người dân bình thường trong
việc tiếp cận hợp đồng bảo hiểm do mâu thuẫn trong quy định giữa các nguồn luật
khác nhau.
Cụ thể, mâu thuẫn trong quy định giữa luật dân sự và luật kinh doanh bảo hiểm.
Điều 578 Bộ Luật Dân Sự 1995 về bảo hiểm tính mạng: “Trong trường hợp bảo
hiểm tính mạng thì khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên bảo hiểm phải trả tiền bảo
hiểm cho bên được bảo hiểm hoặc người đại diện theo uỷ quyền của họ; nếu bên
được bảo hiểm chết thì tiền bảo hiểm được trả cho người thừa kế của bên được bảo
hiểm”.
Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam (2000): “Kinh doanh bảo hiểm là hoạt
động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp

bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm
đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.”
Ví dụ về sự mâu thuẫn trong luật:
Vụ kiện giữa nguyên đơn là bà Huỳnh Thị Thảo và bị đơn là Công ty TNHH
BHNT Prudential Việt Nam (sau đây gọi tắt là Prudential VN). Theo đơn khởi kiện,
ngày 7.2.2006 bà Thảo mua BHNT của Prudential VN cho con trai là Nguyễn Văn
Nghĩa, thời hạn đóng bảo hiểm 15 năm, giá trị hợp đồng 70 triệu đồng cho sản
phẩm “Phú tích lũy định kỳ gia tăng”, kèm theo sản phẩm bổ trợ “chết và tàn tật”
là 80 triệu đồng. Bà Thảo đã đóng tiền được 1 năm (7.590.000 đồng). Tối 5.3.2006,
trên đường từ Vĩnh Long về Sa Đéc (Đồng Tháp), đến cầu Cái Cam (Vĩnh Long) thì
Nghĩa bị tai nạn giao thơng, tử vong. Sau đó, bà Thảo yêu cầu Prudential VN xem
Trang 6


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

xét, đền bù quyền lợi bảo hiểm, nhưng Prudential VN từ chối khơng đền bù vì cho
rằng hợp đồng bảo hiểm trước đó đã vơ hiệu, khơng có hiệu lực.
Lý do Prudential VN đưa ra là trước khi ký hợp đồng mua bảo hiểm bà Thảo
đã vi phạm, không kê khai trung thực về tình trạng sức khỏe của anh Nghĩa. Vì vậy,
Prudential VN chỉ trả lại số tiền bà Thảo đã đóng. Khơng chấp nhận, bà Thảo đưa
vụ việc ra tòa nhờ phân xử.
Tháng 8.2008, vụ kiện được TAND tỉnh Đồng Tháp đưa ra xét xử sơ thẩm. Tòa
sơ thẩm áp dụng Luật Kinh doanh bảo hiểm để xem xét vụ kiện. Theo tòa, hợp đồng
BHNT của bà Thảo đã bị vơ hiệu vì theo quy định của Prudential VN thì bà Thảo
phải kê khai đầy đủ, khẳng định rõ “có” hoặc “khơng” các câu hỏi trong phần khai
chi tiết về sức khỏe, mà cụ thể ở câu số 7(b): bạn đã, đang có sử dụng ma túy hoặc

chất gây nghiện không?, bà Thảo đánh dấu chéo vào ô "khơng"; trong khi ngày
18.12.2001, Trung tâm y tế dự phịng Đồng Tháp ra thông báo anh Nghĩa bị HIV.
HĐXX nhận xét bà Thảo đã vi phạm phần cam kết, khai không trung thực được quy
định tại điều 18, 19 Luật Kinh doanh bảo hiểm nên tuyên bác yêu cầu của bà Thảo
đòi Prudential VN bồi thường 150 triệu đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, HĐXX nhận định bà Thảo mua BHNT khơng phải vì
mục đích kinh doanh, nên đây chỉ là hợp đồng dân sự. Việc Tòa sơ thẩm áp dụng
Luật Kinh doanh bảo hiểm xem xét vụ kiện là không phù hợp. Tòa phúc thẩm cũng
cho rằng, quy định ghi trong hợp đồng “nếu kê khai khơng trung thực... thì hợp
đồng sẽ vô hiệu” là vi phạm pháp luật. Bởi lẽ, hợp đồng chỉ vô hiệu khi vi phạm các
điều cấm của pháp luật, được quy định trong Bộ luật Dân sự. Ngoài những lý do
trên, do bản án sơ thẩm cịn có những vi phạm tố tụng khác nên HĐXX tuyên hủy
án sơ thẩm để xét xử lại.
Theo lãnh đạo một công ty bảo hiểm, quy định ràng buộc trong mẫu hợp đồng
tranh chấp tại phiên tòa được rất nhiều các cơng ty bảo hiểm sử dụng. Vì vậy, từ kết
quả của vụ kiện này, rất có thể nhiều công ty bảo hiểm sẽ phải điều chỉnh mẫu hợp
đồng, liên quan đến hàng vạn khách hàng.
Theo: />
Do đó, luật sư Nguyễn Văn Hậu, Đoàn luật sư TP HCM, đã nhận định: “đọc các
hợp đồng nước ngồi soạn thảo có cảm giác rất mệt và khó chịu, vì q nhiều quy
định trong đó. Nhưng nhờ vậy mà việc đảm bảo các điều kiện thực hiện hợp đồng
của họ khá dễ dàng. Cịn các hợp đồng trong nước thì ngược lại, đọc rất nhẹ nhàng
dễ chịu, nhưng khi thực hiện thì dễ gặp những tình huống rắc rối pháp lý bất ngờ”.
Ngồi ra,
 Luật Kinh doanh bảo hiểm còn thiếu sự giải thích một số thuật ngữ rất phổ
biến trong hợp đồng bảo hiểm như “giá trị hồn lại” và “chi phí hợp lý”.
 Luật Kinh doanh bảo hiểm chưa quy định hợp lý về việc chuyển nhượng hợp
đồng bảo hiểm con người.
 Luật Kinh doanh bảo hiểm có những quy định mâu thuẫn liên quan đến hành
vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm.

Trang 7


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

2.2.3. Thị trường bảo hiểm Việt Nam
Ngành bảo hiểm là một ngành du nhập vào nước ta và cũng chỉ mới trong thời
gian đầu. Hầu hết các hợp đồng bảo hiểm, đặc biệt, là hợp đồng bảo hiểm nhân thọ
đều dựa theo mẫu của nước ngoài nên khi chuyển đổi ngơn ngữ, một số từ ngữ cịn
rất mới mẻ và khó hiểu chưa được bổ sung vào từ điển tiếng Việt phổ thơng (trong
khi đó vẫn chưa có từ điển thuật ngữ chuyên ngành bảo hiểm nhân thọ đầy đủ).
Thị trường bảo hiểm nhân thọ nước ta chỉ thực sự phát triển trong những năm
gần đây. Nhận thức của người dân về bảo hiểm còn nhiều hạn chế mà việc tuyên
truyền, phổ biến pháp luật bảo hiểm cho người dân một cách rộng rãi hình như chưa
được quan tâm đúng mức. Một khi chưa biết nhiều về bảo hiểm và pháp luật bảo
hiểm thì khi tiếp cận với hợp đồng bảo hiểm nói chung, hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ nói riêng gặp khó khăn, khó hiểu là điều dễ hiểu.
2.3. Các tác nhân khác làm tăng tính khó hiểu
2. . . g

g

ả h

 Số lượng nhà môi giới bảo hiểm có trình độ ở Việt Nam hiện nay cịn hạn chế.
 Nhà mơi giới thường muốn tối đa hóa số lượng hợp đồng mà không quan tâm
đến chất lượng, đến lợi ích của người mua bảo hiểm.
Có một số đại lý vì lợi ích cục bộ (tiền hoa hồng chẳng hạn) đã khuyên khách

hàng: "Khai đại khái thôi...". Cái "đại khái" ấy khi có chuyện mới vỡ ra là sai về
nguyên tắc. Giả sử khách hàng đều khai sai, các hãng đổ tội cho đại lý "vơ đạo đức"
thì khách hàng vẫn mất trắng.
 Đối tượng nhắm đến của những người môi giới là những người thân quen. Dựa
trên sự tin tưởng của những người này mà họ có những giải thích sai lệch về hợp
đồng bảo hiểm.
2. .2.

g

tha

ga ả h

 Nhận thức của người dân về bảo hiểm còn nhiều hạn chế, cộng với những
khó hiểu trong hợp đồng khiến họ khó tiếp cận và hiểu thấu đáo các điều khoản
trong hợp đồng.
Ví dụ
NS Lê Dung có người hàng xóm là Nguyễn Văn Thuỷ, một đại lý chính thức của
Prudential. Thông qua ông Thuỷ, NS Lê Dung đã ký kết hợp đồng mua một bảo
hiểm của Prudential. Sau khi Lê Dung đột ngột qua đời, con trai chị (cháu Tuấn) đã
đến hỏi ơng Thuỷ thì được trả lời là sẽ chi trả 60 triệu đồng tiền bảo hiểm. Nhưng
khi đến gặp lãnh đạo của Prudential thì được trả lời: "Mẹ cháu đã kê sai một số
khoản trong hợp đồng, nên hãng khơng thanh tốn". Bấy giờ mới hay Lê Dung đã
khai sai thực sự.
Cụ thể: Với câu hỏi trong vịng 6 tháng qua, bạn có phải điều trị bởi một bác sĩ
nào khơng, trong vịng 5 năm qua, bạn có phải điều trị..., đặc biệt là câu hỏi "Bạn
đã đi nước ngồi chưa? Nếu có, xin biết tên quốc gia bạn đến?", NS Lê Dung đều
khai là không. Nhưng Prudential đã có đủ căn cứ để chứng minh cái sai ấy. Chẳng
Trang 8



Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

hạn, năm 1999, chị Lê Dung đã bị xuất huyết não (báo chí có đưa tin). Chị cũng đã
đi học ở Nga, đi biểu diễn ở rất nhiều nước.
Theo: Theo_VnExpress.net
 Do tin tưởng vào nhà môi giới và nhà bảo hiểm; cũng như do tâm lý chủ
quan, hoặc cho rằng khi xảy ra tranh chấp do tính khó hiểu của những điều khoản
này thì họ là những người có lợi.
Vấn đề đặt ra là khi nhân viên bảo hiểm mời chào và cùng khách hàng thực hiện
hợp đồng, tất cả khách hàng đều kê khai rất xuề xồ, hay nói đúng hơn, nhiều khách
hàng khơng ý thức được tính chất phức tạp của hợp đồng mà mình đăng ký. Nếu
khách hàng nào cũng khai sai một số điều khoản thì... các hãng bảo hiểm sẽ không
bao giờ phải mất một đồng nào cho việc chi trả bảo hiểm.
2.4. Hậu quả của tính khó hiểu
2.4.1. Gây ra tranh chấp dẫn đến tốn ké
cũng nh của ng
tha g a ả h

th

g an và t ền ạc của nhà ả h

Ví dụ điển hình:
Ơng Nguyễn Văn T. và Bà Ngơ Thị K. tham gia Hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ
thời hạn 05 năm cho chính mình với số tiền bảo hiểm (STBH) ghi tại Phụ lục 1Mục III của Hợp đồng Bảo hiểm như sau:
+ STBH của Hợp đồng chính (Bảo hiểm và tiết kiệm): 20.000.000 đồng

+ STBH của Điều khoản riêng I(Bảo hiểm thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai
nạn): 20.000.000 đồng
+ STBH của Điều khoản riêng II (Bảo hiểm chi phí phẫu thuật): 20.000.000
đồng
Đến ngày đáo hạn Hợp đồng bảo hiểm nói trên, Cơng ty bảo hiểm nhân thọ PT
đã thanh tốn cho Ơng T. và Bà K. với STBH của Hợp đồng chính cho mỗi người là
20.000.000 đồng cộng với lãi chia thêm.
Được sự tư vấn của Văn phòng Luật sư HV, ông T. và bà K. đã làm đơn yêu cầu
Bảo Việt Nhân thọ PT thanh toán thêm STBH của các điều khoản riêng I, II với lý
do viện dẫn là tại Điều 2 điểm 2.1 điều khoản Hợp đồng chính có ghi: “Đến ngày
đáo hạn hợp đồng bảo hiểm, Cơng ty sẽ thanh tốn cho người được bảo hiểm toàn
bộ số tiền bảo hiểm đã cam kết tại Phụ lục 1- Mục III của Hợp đồng Bảo hiểm”.
Thực tế, đề nghị của bà K. với sự viện dẫn như trên là khơng có cơ sở pháp lý do
đã hiểu điều khoản này một cách quá cứng nhắc, máy móc theo hướng “chẻ chữ”
mà khơng căn cứ vào các cách thức giải thích hợp đồng đã được quy định tại Điều
408 Bộ luật dân sự năm 1995 (do tại thời điểm giao kết và thực hiện hợp đồng bảo
hiểm của bà K. và ông T., Bộ luật dân sự 2005 chưa ra đời nên Bảo Việt lấy Bộ luật
dân sự 1995 để giải thích). Lý do như sau:
Thứ nhất, bản chất của hợp đồng chính và điều khoản riêng I, II mà ông T. và
bà K. đã tham gia là hồn tồn khác nhau. Hợp đồng chính là loại sản phẩm bảo
Trang 9


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

hiểm hỗn hợp vừa tiết kiệm vừa bảo hiểm (nghĩa là trong thời hạn có hiệu lực của
hợp đồng nếu người được bảo hiểm (NĐBH) gặp rủi ro thương tật tồn bộ vĩnh
viễn hoặc bị tử vong thì Cơng ty bảo hiểm sẽ trả STBH và nếu khi hợp đồng đáo

hạn mà NĐBH cịn sống thì sẽ được nhận STBH). Cịn điều khoản riêng I (Bảo
hiểm thương tật tồn bộ vĩnh viễn do tai nạn) và riêng II (Bảo hiểm chi phí phẫu
thuật) đơn thuần là sản phẩm bảo hiểm rủi ro (nghĩa là chỉ có rủi ro quy định trong
các điều khoản riêng này xảy ra đối với NĐBH thì Cơng ty bảo hiểm mới trả tiền
bảo hiểm theo các điều khoản riêng này). Điều này được giải thích rõ ngay tại Điều
2 điều khoản riêng I, II “Số tiền bảo hiểm theo điều khoản này được hiểu là giới
hạn trách nhiệm tối đa của Công ty bảo hiểm đối với hậu quả của từng rủi ro được
bảo hiểm xảy ra đối với Người được bảo hiểm”. Đây cũng là lý do tại sao số phí
bảo hiểm của hợp đồng chính lại gấp rất nhiều lần số phí bảo hiểm của điều khoản
riêng trong khi có cùng STBH .
Thứ hai, giới hạn trách nhiệm của Công ty bảo hiểm nhân thọ PT đối với người
mua bảo hiểm, người được bảo hiểm đã được phân định rõ ràng, tách biệt tại phần
quyền lợi bảo hiểm của điều khoản hợp đồng chính và điều khoản riêng I, II. Theo
đó, Cơng ty bảo hiểm thanh toán STBH cho NĐBH khi hợp đồng đáo hạn chỉ được
đề cập tại Điều 2 của điều khoản hợp đồng chính cịn tại điều khoản riêng I, Công
ty bảo hiểm chỉ trả STBH khi “NĐBH bị thương tật bộ phận vĩnh viễn do tai nạn”
(phần III) và điều khoản riêng II khi “NĐBH bị phẫu thuật do bệnh tật hoặc tai
nạn”(Điều 5 phần II). Nếu không bị rủi ro, tai nạn trong thời gian hợp đồng bảo
hiểm thì khi đáo hạn, NĐBH khơng được nhận số tiền theo điều khoản riêng này.
Thứ ba, việc ký kết Hợp đồng Bảo hiểm Nhân thọ giữa Công ty bảo hiểm PT và
ông T., bà K. trước tiên được dựa trên cơ sở là Giấy yêu cầu bảo hiểm mà Ông, Bà
đã tự kê khai. Ngay tại phần đầu của Giấy yêu cầu bảo hiểm này đã ghi: “Sau khi
tìm hiểu Điều khoản, Biểu phí do Bộ Tài chính ban hành kèm theo Quyết định số …,
tôi đồng ý tham gia bảo hiểm …và làm Giấy yêu cầu bảo hiểm này kê khai đầy đủ,
trung thực các chi tiết sau đây”. Đồng thời tại Điểm 2 Phần II (Điều kiện bảo hiểm)
của Giấy yêu cầu bảo hiểm Ông, Bà cũng ghi rõ: STBH của hợp đồng chính, STBH
của điều khoản riêng I, STBH của điều khoản riêng II. Như vậy, ngay từ khi thể
hiện nguyện vọng tham gia bảo hiểm, các điều kiện bảo hiểm đã được Ông, Bà
phân định rõ ràng, các điều khoản của Hợp đồng chính và các điều khoản riêng I,
II cũng đã được giải thích chi tiết và cụ thể.

Với những lý do trên, mặc dù Điều 2 điểm 2.1 của bản điều khoản Hợp đồng
chính có ghi: “Đến ngày đáo hạn hợp đồng bảo hiểm, Cơng ty sẽ thanh tốn cho
người được bảo hiểm tồn bộ số tiền bảo hiểm đã cam kết tại Phụ lục 1- Mục III
của Hợp đồng Bảo hiểm” nhưng vì quy định này chỉ nằm trong điều khoản hợp
đồng chính (chứ không nằm trong điều khoản riêng I, II) nên “tồn bộ số tiền bảo
hiểm” mà ơng T. và bà K. viện dẫn phải được hiểu là toàn bộ và chỉ số tiền của hợp
đồng chính (20.000.000 đồng) chứ khơng thể bao gồm cả STBH của các điều khoản
riêng và cũng không thể coi điều khoản này là “không rõ ràng”.
Theo: Phí Thị Quỳnh Nga Bảo Việt Nhân thọ

Trang 10


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

2.4.2. Là
ất n ề t n và h ạt động ả h
nó chung và là g ả uy tín
của c ng ty ả h
nó r êng.
Trường hợp bị từ chối thanh tốn bảo hiểm của Cơng ty Chinfon Manulife.
Sự "vơ tư" đến mức không ngờ của đơn vị kinh doanh bảo hiểm khi khách hàng
của mình nằm viện gần 1 năm trời vẫn không hay biết mà chỉ lẳng lặng thu tiền,
đến khi xảy ra sự việc lại đổ lỗi hồn tồn cho phía khách hàng...
Sau khi tiếp nhận những lời mời chào khó nỗi từ chối của nhân viên tiếp thị,
ngày 6/9/2000, bà Nguyễn Thị Thu Oanh ngụ tại số 171/1E Cô Bắc, Q.1, TP HCM
quyết định tham gia bảo hiểm hỗn hợp 10 năm với công ty Chinfon Manulife mức
phí 680.000 đồng/tháng. Trong hợp đồng bảo hiểm, bà Oanh đã kê khai theo mẫu

nội dung mà Chinfon Manulife soạn sẵn; trong đó có phần bà đề nghị cơng ty bảo
hiểm kiểm tra y tế về tình trạng sức khỏe nếu có yêu cầu và được Chinfon Manulife
tiến hành vào ngày 11/9/2000 trước khi hợp đồng có hiệu lực.
Mọi việc diễn ra bình thường, đơn yêu cầu bảo hiểm của bà Oanh được Chinfon
Manulife chấp thuận. Cho đến ngày 15/9/2000, thấy có triệu chứng ho khan, ói
mửa, nhức mỏi hai vai... bà Oanh đến chẩn đoán tại Trung tâm Lao phổi Phạm
Ngọc Thạch và phát hiện bị "ung thư phế quản phổi di căn hạch". Điều trị ở đây
được một thời gian, bà Oanh được chuyển sang Trung tâm Ung bướu gần 6 tháng,
sau đó xuất viện về nhà riêng rồi qua đời. Trong thời gian bà Oanh nằm viện, cơng
ty Chinfon Manulife vẫn tiếp tục thu phí.
Chơn cất mẹ mình xong, ơng Cao Hữu Trí, con trai bà Oanh đã gửi thông báo
tới công ty xin được thanh tốn bảo hiểm tử vong nhưng thật bất ngờ cơng ty này đã
từ chối.
Bộ phận giải quyết khiếu nại của Chinfon Manulife cho biết, trước khi chưa ký
hợp đồng bảo hiểm, bà Oanh có đi khám vài lần ở các phòng mạch tư. Đồng thời
ngày 11/9, khi đến khám y tế tại cơng ty, ở câu hỏi trong vịng 5 năm trở lại đây bà
đã có: ốm, phẫu thuật, tham vấn y khoa hoặc điều trị tại bệnh viện không nêu trên?
Bà Oanh cũng đã khơng thơng báo về tình trạng bệnh lý của mình. Vì vậy, việc cơng
ty Chinfon Manulife bác đề nghị thanh toán bảo hiểm tử vong đối với trường hợp bà
Oanh là hoàn toàn phù hợp.
Câu hỏi đặt ra là đành rằng một phần lỗi do khách hàng thiếu trách nhiệm, "xuề
xòa" trước những câu hỏi mang tính trắc nghiệm, nhưng cũng khơng thể vì thế mà
buộc khách hàng của mình phải mất trắng. Nếu chỉ căn cứ vài câu trả lời kiểu điền
vào chỗ trống: có rối loạn hơ hấp, giọng khàn, hoặc ho kéo dài, dị dạng, rối loạn
tại cột sống, lưng cổ khớp cổ bắp... hoặc một câu hỏi rất tối nghĩa là trong vịng 5
năm trở lại đây q bà đã có ốm, phẫu thuật, tham vấn y khoa... tại bệnh viện không
nêu trên không? để từ chối bảo hiểm là thiếu sức thuyết phục. Bởi vì cơng ty bảo
hiểm có quyền kiểm tra sức khỏe của người tham gia bảo hiểm trước khi ký hợp
đồng. Đằng này chính bà Oanh đã tình nguyện đề nghị được kiểm tra sức khỏe mà
cơng ty bảo hiểm vẫn không phát hiện được bệnh và quyết định ký hợp đồng là lỗi

từ phía Chinfon Manulife. Còn việc bà tiếp tục đi khám bệnh viện và điều trị vào
ngày 9/9/2000 là một hành động nhằm kéo dài sự sống và khơng thể vì thế mà
Chinfon Manulife quy kết là không báo cáo với công ty.
Mặc khác, điều 18 về bảo hiểm hỗn hợp của Bộ Tài chính đã quy định rõ:
"Quyền lợi bảo hiểm sẽ được giải quyết theo các điều khoản của hợp đồng khi công
ty nhận được các bằng chứng tử vong của người được bảo hiểm, hoặc yêu cầu hủy
Trang 11


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

ngang hợp đồng để nhận được giá trị hoàn lại tiền mặt. Công ty sẽ cố gắng giải
quyết ngay tất cả các khiếu nại khơng được thanh tốn sau 2 tháng kể từ ngày khiếu
nại thì cơng ty phải trả lãi theo tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn do ngân hàng Nhà nước
Việt Nam quy định...". Nhưng cho đến nay, ơng Cao Hữu Trí vẫn chưa nhận được
hồi âm nào ngồi tờ thơng báo: "Sẽ bồi thường số tiền bảo hiểm bằng... việc chi trả
lại tồn bộ phí bảo hiểm đã đóng với số tiền 4.080.000 đồng".
Theo VN-express
Một trường hợp khác, du khách đi du lịch nước ngoài đã đóng phí bảo hiểm,
được cấp chứng nhận bảo hiểm, nhưng khi phát sinh sự kiện bảo hiểm thì khơng
được bồi thường.
Giữa tháng 7, chị Lê Thị Thu Hương (vợ anh Hồng Bang Phát, nhân viên Cơng
ty cổ phần khử trùng giám định VN – viết tắt là VFC) cùng đại diện VFC đến Báo
Thanh Niên phản ảnh bức xúc việc chồng chị tử vong khi đang du lịch ở nước
ngoài, nhưng các bên liên quan từ chối bồi thường.
Tháng 3.2009, VFC ký hợp đồng mua tour du lịch Thái Lan với Công ty TNHH
dịch vụ du lịch Lễ hội (Carnival). Theo hợp đồng, Carnival bán tour cho 26 nhân
viên của VFC đi du lịch Thái Lan (5 ngày, 4 đêm, từ 26-30.3.2009), giá trọn gói là

273 USD/khách, bao gồm bảo hiểm du lịch quốc tế do Công ty bảo hiểm Viễn Đơng
(BHVĐ) cấp. VFC đã thanh tốn đầy đủ giá trị hợp đồng như thỏa thuận. Ngày
26.3, đoàn khởi hành đi Thái Lan như lịch trình đã định. Đến tối 27.3, sức khỏe của
anh Phát có biểu hiện xấu nên mọi người trong đoàn chuyển anh từ khách sạn đến
Bệnh viện Pattaya Hospital (Thái Lan).
Đại diện VFC cho biết sự việc được thông báo ngay với Carnival cùng BHVĐ
và nhận được phản hồi là BHVĐ khơng có văn phịng đặt tại Thái Lan, do đó chi
phí anh Phát điều trị ở bệnh viện Thái Lan sẽ được thanh toán lại. Ngày 28.3, anh
Phát được chuyển đến Bệnh viện Piyavat Hospital (Bangkok Thái Lan) và đến
6.4.2009 thì qua đời tại bệnh viện, sau đó được đưa về VN an táng.
Căn cứ vào quy định của Luật Bảo hiểm thì giấy chứng nhận bảo hiểm của
BHVĐ được coi là hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực từ ngày được phát hành. BHVĐ
phải có trách nhiệm bồi thường khi có sự cố (tai nạn, bệnh tật, chết…) xảy ra trong
quá trình khách đi du lịch. Việc Carnival đã nộp tiền cho BHVĐ hay chưa không
ảnh hưởng đến quyền lợi được bảo hiểm của anh Phát, bởi lẽ BHVĐ đồng ý cho
Carnival thu hộ phí bảo hiểm. Do đó, việc anh Phát nộp phí bảo hiểm (do VFC
thanh toán) cho Carnival cũng đồng nghĩa với việc anh Phát đã nộp phí bảo hiểm
cho BHVĐ. (Luật sư Mai Tuấn Anh, Đoàn luật sư TP.HCM)
Theo hợp đồng liên kết giữa BHVĐ và Carnival thì ngay khi nhận được danh
sách yêu cầu bảo hiểm, BHVĐ sẽ xác nhận và chuyển cho Carnival hợp đồng liên
kết, giấy chứng nhận bảo hiểm là cơ sở để bồi thường. Thực tế, ngày 24.3.2009
BHVĐ đã cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho đồn khách của VFC, trong đó có anh
Phát.
Trong hợp đồng cịn có một điều khoản quan trọng khác là hằng tháng BHVĐ
và Carnival đối chiếu, xác nhận phí bảo hiểm phát sinh trong tháng, việc thanh
tốn phí bảo hiểm được thực hiện theo quý “từ ngày 1 đến 5 của quý sau”. Ngày
Trang 12


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm


Nhóm 107

5.4.2009 BHVĐ gửi cho Carnival danh sách thanh tốn phí bảo hiểm, trong đó có
đồn 26 khách nói trên và tên du khách Hoàng Bang Phát, tổng cộng 202,5 USD.
Ngày 5.6.2009, Carnival thanh toán hơn 34 triệu đồng tiền bảo hiểm, trong đó có
tiền bảo hiểm của nhóm 26 khách nói trên, cho BHVĐ.
Mặc dù đã nhận phí bảo hiểm và chứng nhận bảo hiểm cũng đã cấp cho khách
hàng, nhưng trong văn bản gửi Carnival và VFC do ông Trần Hữu Dực, Giám đốc
bồi thường của BHVĐ ký, lại cho rằng: “Do Cơng ty du lịch Carnival khơng thanh
tốn phí bảo hiểm đúng thời hạn theo thỏa thuận cho hợp đồng bảo hiểm (đóng phí
bảo hiểm trễ hơn 2 tháng kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm), điều này dẫn đến
hợp đồng bảo hiểm không phát sinh hiệu lực”. Trong khi đó, bà Đinh Kim Phượng,
Giám đốc Carnival, cho rằng: “BHVĐ đã cấp chứng nhận bảo hiểm, đã ra phiếu
thu tiền và thu tiền của Carnival, tức là đã thực hiện thỏa thuận nên phải bồi
thường cho gia đình nạn nhân”.
Đến nay, việc ai phải bồi thường cho gia đình anh Phát vẫn chưa ngã ngũ.
Song, qua vụ việc cho thấy các công ty du lịch cần có những thỏa thuận chặt chẽ
khi mua bảo hiểm cho du khách, đồng thời du khách ngoài yêu cầu được cấp giấy
chứng nhận bảo hiểm, cần thiết phải đòi hỏi cơng ty du lịch đưa ra hóa đơn thanh
tốn phí bảo hiểm để tránh vất vả đi đòi quyền lợi như trường hợp trên. “Hiện
lượng người đi du lịch nước ngồi rất lớn và trong q trình đi tour khơng ai có thể
lường trước điều gì. Vì vậy, để bảo vệ cho du khách, chúng tôi luôn phải trả tiền
bảo hiểm trước khi tour khởi hành. Rất nhiều khách yêu cầu cung cấp hóa đơn mua
bảo hiểm trước khi tour khởi hành và chúng tôi phải đáp ứng”, bà Trần Anh Đoan
Nghi, Giám đốc Công ty du lịch Chuông Vàng, chia sẻ.
Theo: Thanhnien.
2.4.3. Dễ dẫn đến tình trạng trục lợ của nhà ả h
ga ả h
.


cũng nh của ng

tha

Trục lợi bảo hiểm là một hiện tượng khá phổ biến trong hoạt động kinh doanh
bảo hiểm và các nhà bảo hiểm ln tìm mọi cách để giảm thiểu, loại trừ tác động
tiêu cực của hiện tượng này. Trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ (BHNT) cũng
khơng ngoại lệ. Có nhiều tình huống có thể dẫn đến trục lợi trong BHNT.
Có thể kể một số tình huống như sau:
-Khơng xác định được thời điểm khách hàng yêu cầu bảo hiểm và thời điểm
phát sinh sự kiện bảo hiểm. Tình huống này phát sinh khi sự kiện bảo hiểm xảy ra
rất gần so với thời điểm yêu cầu bảo hiểm. Cách đây không lâu dư luận và báo chí
đã đưa tin trường hợp phát sinh sự kiện bảo hiểm (chết) 4 giờ sau khi khách hàng
yêu cầu bảo hiểm tại Công ty A. Công ty đã lúng túng trong việc xử lý; cách xử lý
khơng làm hài lịng khách hàng và tranh chấp đã phát sinh.
-Không xác định được việc khách hàng tự kê khai giấy yêu cầu hay đại lý kê
khai hộ khách hàng.
-Khơng xác định được tình trạng sức khỏe ban đầu của khách hàng. Chẳng hạn,
không xác định được khách hàng có đủ tay, chân, mắt hay khơng.
-Khơng xác định được chữ ký của khách hàng là thật hay giả cũng như không rõ
mặt khách hàng để trả tiền. Khi trả tiền bảo hiểm cho khách hàng, các nhà bảo hiểm
Trang 13


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

thường yêu cầu khách hàng xuất trình chứng minh thư, hộ chiếu… Tuy nhiên do

kích cỡ ảnh trong chứng minh thư khá nhỏ và thường rất mờ (do thời gian) nên việc
kiểm tra đơi khi gặp khó khăn.
3. Giải pháp
3.1. Về phía nhà nước
Để tránh hiện tượng các bộ luật chồng chéo lẫn nhau, nhất là Luật Kinh Doanh
Bảo Hiểm và luật Dân Sự và các công ước quốc tế, Nhà nước ta nên hoàn thiện
khung pháp lý cho hoạt động bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm nói riêng.
Việt Nam và một nước nghèo, do đó, lẽ ra việc mua bảo hiểm phải được nhận
thức sớm hơn để phòng ngừa rủi ro. Nhà nước nên tăng cường tuyên truyền, thông
tin và giáo dục về bảo hiểm cũng như pháp luật bảo hiểm để phổ biến rộng rãi đến
các tầng lớp nhân dân (các phương tiện thông tin đại chúng, biên sọan và xuất bản
các ấn phẩm có liên quan, biên sọan từ điển bảo hiểm…).
Bên cạnh đó, nhà nước cũng nên tạo điều kiện khuyến khích mạng lưới trung
gian bảo hiểm phát triển dưới hình thức mơi giới bảo hiểm, đại lý độc lập để giúp
người dân tiếp cận bảo hiểm một các dễ dàng và bảo vệ quyền lợi của người mua
bảo hiểm.
3.2. Về phía doanh nghiệp bảo hiểm
Để xảy ra tính khó hiểu trong hợp đồng bảo hiểm có phần lỗi của đội ngũ nhân
viên của doanh nghiệp. Việc chay theo doanh số đã làm doanh nghiệp quên mất
khâu tư vấn nghiệp vụ. Do đó, đề nghị phía doanh nghiệp bảo hiểm tăng cường đào
tạo chuyên môn cho các cán bộ – nhân viên;
Các hợp đồng bảo hiểm đa phần có chấp bút từ những khng mẫu có sẵn của
nhà nước và quốc tế. Thực tế thì lúc nào cũng nhiều hơn trên giấy tời. Do đó, việc
chấp bút hợp đồng bảo hiểm phải cố gắng làm sao cho phù hợp với đặc điểm ngôn
ngữ của nước ta, đơn giản đến mức có thể có nhưng không ảnh hưởng đến những
nội dung quan trọng của hợp đồng bảo hiểm.
Quy trình trở thành nhân viên tư vấn bảo hiểm khá đơn giản, và áp lực cho đại
lý chủ yếu về doanh số. Về phía cơng ty đã tăng cường đội ngữ tư vấn pháp luật
riêng tại trụ sở. Nhưng thực tế cho thấy, lực lượng tư vấn viên khá mỏng không đáp
ứng được nhu cầu, đồng thời người dân cũng thụ động trong việc tư vấn trước khi

mua bảo hiểm. Do đó, việc nâng cao chất lượng, kiến thức pháp luật và đạo đức
nghề nghiệp cho đội ngũ đại lý bảo hiểm rất cần thiết.

Trang 14


Phân tích tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm

Nhóm 107

3.3. Về phía người mua bảo hiểm
Đa phần tính khó hiểu của hợp đồng bảo hiểm xuất phát từ việc người mua chủ
quan với những điều khoản miễn trừ, hoặc cả người mua và doanh nghiệp bảo hiểm
đều không lường trước được rủi ro xảy ra. Khi có rủi ro thì 2 bên lại đưa vào những
điều khoản khác nhau làm rắc rối thêm vấn đề. Để hạn chế điều đó, người mua bảo
hiểm cần chủ động tiếp cận và tự nâng cao trình độ về mọi lĩnh vực, trong đó có
lĩnh vực bảo hiểm. Phải thấy được rằng hợp đồng bảo hiểm khó hiểu bởi vì tính chất
vốn có của nó, muốn hiểu được thì bản thân phải tự hồn thiện, khắc phục điểm yếu
của mình trong mối quan hệ với nhà bảo hiểm trên hợp đồng bảo hiểm. Đành rằng,
khi thị trường bảo hiểm phát triển, mối quan hệ giữa người mua bảo hiểm và nhà
bảo hiểm là qua trung gian (môi giới, đại lý), nhưng kiến thức cơ bản về bảo hiểm
và pháp luật bảo hiểm sẽ giúp người mua tự bảo vệ quyền lợi của mình tốt nhất và
với chi phí thấp nhất.

Trang 15



×