Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bước tiến mới trong điều trị tiêu chảy ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.56 KB, 6 trang )



Bước tiến mới trong điều
trị tiêu chảy


Tiêu chảy là tình trạng đi tiêu nhiều lần (> 3 lần) trong ngày, với lượng phân
và nước khá lớn. Trẻ em càng nhỏ tiêu chảy càng dễ nặng hơn, nhất là tiêu
chảy cấp dễ dẫn đến mất nước nhanh gây nguy hiểm tới tính mạng. Bởi vậy,
cần được điều trị nhanh chóng, đặc biệt là bù đủ nước và chất điện giải.
Điểm qua các thuốc điều trị
Ở các nước đang phát triển (trong đó có nước ta), mỗi năm, mỗi đứa trẻ mắc
trung bình 5 - 12 đợt tiêu chảy, 25 - 30% trẻ nhập viện điều trị là do tiêu chảy.
Tiêu chảy là sát thủ nghiêm trọng thứ hai ở trẻ dưới 5 tuổi, chỉ đứng sau
nhiễm khuẩn cấp đường hô hấp. Người ta ước tính mỗi năm có khoảng 2 triệu
trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn thế giới chết do tiêu chảy, trong số đó có 80% là
trẻ dưới 2 tuổi.
Nguyên nhân gây tiêu chảy có nhiều: có thể do vi khuẩn, virut (hay gặp nhất
là Rotavirus), ký sinh trùng, dị ứng, ngộ độc thức ăn. Các thuốc điều trị đề
cập ở đây là điều trị triệu chứng, làm giảm sự co thắt ở ruột, sửa chữa sự rối
loạn tiết dịch, bổ sung nước và chất điện giải…Trên cơ sở này có thể dùng
nhóm thuốc là các chất hấp phụ (smecta, smectic, acticarbine, carbotrim…)
có cấu trúc xốp và có độ nhớt cao, tương tác với glycoprotein của dịch nhầy,
làm tăng sức chịu đựng của lớp gel dính trên niêm mạc ruột khi bị các vi
khuẩn tấn công, do đó bảo vệ được niêm mạc ruột.
Cũng có thể dùng nhóm thuốc có tác dụng ổn định hệ vi khuẩn chí ở ruột
(antibio, bioflor, enterogermina, lacteol…), với mục đích là chống loạn
khuẩn, kích thích tăng sản xuất IgA, phục hồi khả năng hấp thu của niêm mạc
ruột, lập lại sự cân bằng của hệ tạp khuẩn.
Tuy nhiên, đứng đầu trong các thuốc điều trị tiêu chảy phải kể đến là oresol
và racecadotril - một thuốc mới có nhiều triển vọng.


Oresol là lựa chọn số một
Mắc bệnh và tử vong do tiêu chảy chủ yếu là do mất nước và điện giải. Trẻ
em rất dễ mất nước, nếu giảm sút trên 10% thể trọng do tiêu chảy có thể tử
vong sau vài giờ. Do vậy, khi trẻ bị tiêu chảy nhất là tiêu chảy cấp, đặc biệt
đối với trẻ nhỏ vấn đề quan trọng là phải bù nước và điện giải đã mất do tiêu
chảy. Cách đơn giản nhất mà Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến cáo là
dùng oresol bằng đường uống.

Từ khi có oresol đưa vào điều trị tiêu chảy đã cứu được rất nhiều trẻ em thoát
chết. Năm 2008, WHO và UNICEF lại đưa ra khuyến cáo liệu trình mới điều
trị tiêu chảy ở trẻ em dựa trên nền của liệu trình cũ có cải tiến và thu được kết
quả cao hơn. Đó là dùng oresol có tỷ trọng thấp (so với oresol cũ) và một vài
thuốc khác.

Hình ảnh ruột khi bị tiêu chảy.
Dung dịch oresol mới có nồng độ NaCl 2,6g/lít (so với cũ là 3,5g/lít), glucose
13,5g/lít (so với cũ 20g/lít), một số chất khác không thay đổi. Như vậy là
dung dịch oresol mới có tỷ trọng thấp hơn hoặc có tổng độ thẩm thấu tốt hơn
oresol cũ. Các nghiên cứu cho thấy nhóm trẻ dùng oresol mới làm giảm tới
33% số trẻ phải truyền dịch, làm giảm 20% số lượng phân bài tiết và làm
giảm 30% số trẻ bị nôn so với nhóm trẻ dùng dung dịch oresol cũ (có tỷ trọng
cao hơn).
Oresol (gồm các hỗn hợp trên) được đóng gói trong giấy nhôm hàn kín, mỗi
gói dùng pha trong 1lít nước đun sôi để nguội, không được pha đặc hay loãng
hơn. Dung dịch pha xong chỉ nên uống trong ngày, qua ngày hôm sau thừa
phải đổ đi và pha gói mới.
Racecadotril - một thuốc mới
Tuy oresol có tính an toàn cao và dung nạp tốt, nhưng chỉ bù nước và chất
điện giải một cách thụ động mà cơ thể đã bị mất chứ không tác động chủ
động vào cơ chế sinh bệnh, chính là tình trạng tăng tiết quá mức ở ruột. Do

vậy, dung dịch bù nước và điện giải bằng đường uống không ngăn được
lượng dịch sẽ mất, không làm giảm lượng phân bài xuất và rút ngắn thời gian
tiêu chảy. Trên cơ sở nhận thức đó, những năm gần đây, các nhà nghiên cứu
lại tìm ra thuốc racecadotril (tên chung quốc tế). Cơ chế tác dụng của
racecadotril trong chống tiêu chảy là chống tăng tiết (kháng tiết).

Người ta nhận thấy ở ruột có một chất chống xuất tiết tự nhiên làm giảm mất
nước và điện giải được gọi là enkephalin. Tuy vậy, enkephalin lại không tồn
tại lâu mà dễ bị một loại enzym làm mất hoạt tính (được gọi là enkephalinase)
và làm mất tác dụng kháng tiết có lợi của enkephalin. Điều này dẫn đến nhu
cầu tìm ra racecadotril một loại thuốc ức chế men gây hại nói trên, để
enkephalin phát huy tác dụng có lợi chống mất nước và điện giải. Tuy vậy, sự
ức chế này là có chọn lọc, có thể phục hồi và bảo vệ được enkephalinase nội
sinh, không ảnh hưởng đến tiết dịch cơ bản, không tác dụng trên ruột bình
thường.
Racecadotril trên thực nghiệm và thực tế điều trị đều chứng minh được hiệu
quả chống tiêu chảy nhanh và rất an toàn, đặc biệt đối với trẻ em. Do tác động
chống tăng tiết racecadotril làm giảm lượng phân bài xuất và rút ngắn thời
gian tiêu chảy. Nó đặc biệt tốt cho trẻ em bởi đặc tính của thuốc không đi qua
hàng rào máu não (không ảnh hưởng hệ thần kinh trung ương, không ức chế
hô hấp), không làm giảm nhu động ruột (không gây trướng bụng chán ăn,
không gây tăng sinh vi khuẩn ruột quá mức) và đặc biệt khá an toàn nếu dùng
quá liều. Do vậy, racecadotril đã được nhiều hiệp hội nhi khoa thế giới
khuyến cáo sử dụng rộng rãi từ năm 2003 và thực tế cho tới nay đã chứng tỏ
tính ưu việt.
Như vậy, cách điều trị theo khuyến cáo mới thực sự là một kết hợp thú vị và
khá hoàn chỉnh, bởi lẽ oresol thì bù lại lượng nước và điện giải bị mất, còn
racecadotril thì ức chế sự tăng tiết nước và điện giải, làm giảm đi lượng nước
và điện giải lẽ ra sẽ tiếp tục bị mất, do đó làm giảm lượng phân bài xuất, rút
ngắn thời gian bị tiêu chảy.


×