Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Luận văn: Thị trường chứng khoán Việt Nam và các giải pháp trong thời gian tới pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.26 KB, 26 trang )


1





BÀI LUẬN


ĐỀ TÀI
ThịtrườngchứngkhoánViệtNamvà
cácgiảipháptrongthờigiantới

Nhóm 5-K21.Đêm






2

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 4
I. LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (TTCK): 4
1. Cơ sở hình thành thị trường chứng khoán: 4
2. Khái niệm, bản chất, cơ cấu tổ chức và vai trò của thị trường chứng khoán: 4
3. Phân loại thị trường chứng khoán: 6


4. Các chủ thể hoạt động trên thị trường chứng khoán: 8
5. Các nguyên tắc ho
ạt động của thị trường chứng khoán: 10
II. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY: 11
1. Sơ lược về thị trường chứng khoán Việt Nam: 11
2. Nguyên nhân sụt giảm của thị trường chứng khoán 2011: 16
III. CÁC GIẢI PHÁP KIỆN TOÀN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI: 19
1. Chủ trương vực dậy th
ị trường chứng khoán tại Việt Nam trong thời gian tới: 19
2. Một số giải pháp kiện toàn thị trường chứng khoán Việt Nam: 21
KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26








3
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán Việt Nam khép lại năm 2011 với chỉ số VN-Index ở mốc 351,55
điểm, giảm 27,46%; HNX-Index đóng cửa ở mốc 58,74 điểm, giảm 48,6%, xuống mức thấp nhất
trong lịch sử. Mặc dù đang gặp rất nhiều khó khăn xuất phát từ nhiều khía cạnh như ảnh hưởng của
bối cảnh khó khăn chung của kinh tế trong, ngoài nước hay do chính từ những v
ấn đề nội tại, bất
cập của thị trường chứng khoán Việt Nam nhưng với quan điểm của các cơ quan quản lý Nhà nước
thì thị trường chứng khoán vẫn được xem là kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền

kinh tế nước ta. Do đó, nhiệm vụ cần phải đề ra trong thời gian tới là vực dậy, tiếp tục thúc đẩy phát
triển và hoàn thiện thị trường chứng khoán Việt Nam.
Tiếp cận vấn đề từ việc đánh giá thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay,
qua đó kiến nghị một số giải pháp nhằm vực dậy và phát triển thị trường chứng khoán trong thời
gian tới, tiểu luận môn học Lý thuyết tài chính tiền tệ của Nhóm có kết cấu 03 phần như sau:
− Phần 1: Lý thuyết về thị trường ch
ứng khoán;
− Phần 2: Thực trạng thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện nay;
− Phần 3: Các giải pháp kiện toàn thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới.










4
NỘI DUNG
I. LÝ THUYẾT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (TTCK):
1. Cơ sở hình thành thị trường chứng khoán:
Do sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về tích vốn trong xã hội tăng lên và trở nên đa dạng,
phong phú; người thì cần vốn cho mục đích tiêu dùng hay đầu tư, người thì có vốn nhàn rỗi muốn
cho vay để sinh lời. Đầu tiên, họ tìm gặp nhau trực tiếp trên cơ sở quen biết. Tuy nhiên sau đó, khi
cung c
ầu vốn không ngừng tăng lên thì hình thức vay, cho vay trực tiếp dựa trên quan hệ quen biết
không đáp ứng được. Vậy cần phải có một thị trường cho cung và cầu gặp nhau, đáp ứng các nhu
cầu tài chính của nhau – đó là thị trường tài chính.

Thông qua thị trường tài chính, nhiều khoản vốn nhàn rỗi được huy động vào tiêu dùng, đầu tư,
tạo đòn bẩy cho phát triển kinh tế. Căn cứ vào thời gian luân chuyển vốn, thị
trường tài chính bao
gồm:
− Thị trường tiền tệ: mua bán, trao đổi các công cụ tài chính ngắn hạn dưới một năm.
− Thị trường vốn: mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn.
 Tóm lại: ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân chưa cao và nhu cầu về vốn chủ
yếu là vốn ngắn hạn. Theo thời gian, sự phát triển kinh tế, nhu cầu về vốn dài hạn cho đầ
u tư phát
triển ngày càng cao. Chính vì vậy, thị trường vốn đã ra đời để đáp ứng các nhu cầu này. Để huy
động được vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp,
Chính phủ và doanh nghiệp còn huy động vốn thông qua hình thức phát hành chứng khoán. Khi
một bộ phận các chứng khoán có giá trị nhất định được phát hành, thì xuất hiện nhu cầu mua, bán
chứng khoán; và đây chính là sự ra đời của thị trường chứng khoán
với tư cách là một bộ phận của
thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán và trao đổi chứng khoán các loại.
2. Khái niệm, bản chất, cơ cấu tổ chức và vai trò của thị trường chứng khoán:
2.1 Khái niệm thị trường chứng khoán:
TTCK là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán,
các giấy ghi nợ trung và dài hạn (thườ
ng từ một năm trở lên) nhằm mục đích kiếm lời.

5
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, TTCK được quan niệm là một thị trường có tổ
chức và hoạt động có điều khiển, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán trung
và dài hạn giữa những người phát hành chứng khoán và mua chứng khoán hoặc kinh doanh chứng
khoán. Chứng khoán là chứng thư hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người chủ sở hữu và có thể mua bán, chuyển nhượng trên thị trường.
2.2 Bản chất của thị trường chứng khoán:
Bản chất của TTCK là nơi phân phối lại các nguồn vốn tiết kiệm từ chủ thể thặng dư vốn sang

chủ thể thiếu vốn. Là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả
của chứng khoán chứ
a đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. TTCK là hình thức
phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa.
2.3 Cơ cấu tổ chức của thị trường chứng khoán:
Bất cứ một TTCK nào của bất cứ nước nào, dù mới thành lập hay đã phát triển, đều cấu thành
bởi hai bộ phận thị trường có tổ chức khác nhau:
- Thị trườ
ng sơ cấp (primary market) là giai đoạn khởi đầu của TTCK. Đây là nơi mua bán
những chứng khoán mới phát hành. Vì vậy, trong thực tế thị trường sơ cấp còn được gọi là thị
trường phát hành chứng khoán. Nguồn vốn chủ yếu của thị trường này là nguồn tiết kiệm của công
chúng cũng như một số tổ chức phi tài chính. Như vậy thị trường sơ cấp thực hi
ện chức năng quan
trọng nhất của TTCK đó là chức năng kinh tế: mang nguồn tiền nhàn rỗi đến cho người cần sử
dụng, đưa nguồn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. Vai trò của thị trường sơ cấp là tạo ra hàng hóa
cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
- Thị trường thứ cấp (secondary market) còn được gọi là thị tr
ường cấp hai, là nơi giao dịch mua
bán các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp và là một bộ phận quan trọng của
TTCK, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Những chứng khoán giao dịch ở đây có thể được
mua đi bán lại nhiều lần với giá cả cao thấp khác nhau. Vì vậy trong thực tế, thị trường thứ cấp còn
được gọi là thị trường giao dịch luân chuyển chứng khoán, là nơi chủ yếu tạo điều kiện trao đổi
chứng khoán “cũ”, mà chủ sở hữu của chúng lúc này nhà đầu tư, chứ không phải là của công ty
phát hành, càng không phải của Sở giao dịch. Thị trường thứ cấp thực hiện các chức năng: tạo dễ
dàng để bán những công cụ tài chính nhằm thu tiền mặt, lấy ngân quỹ, tức là tạo cho các công cụ

6
tài chính tăng cao tính thanh khoản; kiếm lời từ việc nắm giữ chứng khoán; xác định giá chứng
khoán hợp lý trên cơ sở đấu giá tự do (cạnh tranh hoàn hảo); giá hợp lý trên thị trường thứ cấp ảnh
hưởng đến giá phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp.

2.4 Vai trò của thị trường chứng khoán:
TTCK có vai trò góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, tạo điều kiện thu hút và kiể
m
soát vốn đầu tư nước ngoài, kích thích các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả hơn và lành mạnh
hơn. TTCK là hình thức huy động vốn mà không gây ảnh hưởng đến lạm phát và thực thi chính
sách tiền tệ, là công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh, là phong vũ biểu của nền kinh tế.
3. Phân loại thị trường chứng khoán:
3.1 Căn cứ về phương diện pháp lý, thị trường chứng khoán được chia làm các loại sau:
- Thị trường sàn giao dịch hay Sở giao dịch hoặc thị trường niêm yết tập trung: thị trường sàn
giao dịch là một thị trường được tổ chức tập trung có địa điểm giao dịch cố định. Chứng khoán
được mua bán là loại đã được niêm yết tại Sở giao dịch, việc mua bán được thực hiện theo phương
thức đấu giá hai chiều giữa đại diện người mua và đại diện người bán. Các môi gi
ới sàn giao dịch
cùng nhau trả giá cạnh tranh và sẽ thực hiện giao dịch khi đạt được giá thỏa đáng nhất cho khách
hàng đầu tư.
- Thị trường phi tập trung – Thị trường OTC: đúng như tên gọi, thị trường phi tập trung được tổ
chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định như thị trường sàn giao dịch, mà dựa vào một
hệ thống vận hành theo cơ chế chào giá c
ạnh tranh và thương lượng giữa các công ty chứng khoán
với nhau, thông qua một sự trợ giúp quyết định nhiều đến hiệu quả hoạt động, đó là phương tiện
thông tin. Việc giao dịch và thông tin được dựa vào hệ thống điện thoại và internet với sự trợ giúp
của các thiết bị đầu cuối. Thị trường OTC là nơi ít “kén” chứng khoán giao dịch hơn thị trường sàn
giao dịch. Tuy nhiên, chứng khoán giao dịch v
ẫn phải là loại đáp ứng các chuẩn mực và được phép
giao dịch đại chúng. Đặc biệt, đây là thị trường đảm nhận vai trò bán ra các chứng khoán phát hành
mới, do công ty chào bán lần đầu.
- Thị trường thứ ba: đây là thị trường giao dịch các chứng khoán đã niêm yết tại Sở giao dịch
nhưng theo cơ chế OTC. Ở Mỹ thị trường này được lập ra do yêu cầu của các nhà đầu tư c
ần mua


7
bán với số lượng lớn, có thể gọi là “mua sỉ” chứng khoán niêm yết thông qua thương lượng. Các
thương vụ được thu xếp bởi các công ty chứng khoán là nhà tạo giá của thị trường OTC, các công
ty này phải đăng ký và được phép mua bán lô lớn chứng khoán niêm yết.
- Thị trường thứ tư: để tạo thuận lợi cho các tổ chức tài chính chuyên nghiệp có điều kiện trực
tiếp mua bán chứng khoán cho tổ chức của mình, các th
ị trường lớn có lập ra một mạng giao dịch
nội bộ gọi là “INSTINET” phục vụ cho việc giao dịch các khối lượng lớn chứng khoán giữa họ với
nhau. Cả loại niêm yết trên sàn hoặc loại mua bán OTC đều có thể đem ra giao dịch. Các tổ chức
tham gia vào mạng này thường là các ngân hàng, các quỹ hỗ tương đầu tư, các đại diện quản lý quỹ
hưu trí và nhiều tổ chức khác tùy theo quy định.
3.2 Căn cứ vào địa điểm phát hành, thị trường chứng khoán được chia làm hai loại:
- TTCK chính thức – Sở giao dịch chứng khoán còn gọi là TTCK tập trung như đã trình bày ở
trên.
- TTCK phi chính thức gồm có 2 loại: một là TTCK bán tập trung, một là thị trường thứ ba cũng
đã trình bày ở trên.
3.3 Căn cứ vào phương thức giao dịch, thị trường chứng khoán được chia làm 2 loại:
- Thị trườ
ng giao ngay: còn gọi là thị trường thời điểm, có nghĩa là thị trường giao dịch mua bán
theo giá của ngày hôm đó. Còn việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày
tùy theo mỗi TTCK quy định riêng số ngày này.
- Thị trường tương lai: là thị trường mua bán chứng khoán theo những hợp đồng mà giá cả được
thỏa thuận ngay trong ngày giao dịch, nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ
hạn nhất định ở tương lai (có thể là 1 tháng, 6 tháng hay 1 n
ăm…).
3.4 Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hóa lưu hành trên thị trường chứng khoán, thị trường
chứng khoán chia làm 3 loại:
- Thị trường cổ phiếu: giao dịch mua bán những cổ phiếu thường và những cổ phiếu ưu đãi.
- Thị trường trái phiếu: giao dịch mua bán trái phiếu dài hạn kho bạc, trái phiếu đô thị, công trái
nhà nước, trái phiếu công ty, trái phiếu cầm cố.


8
- Thị trường các công cụ có nguồn gốc chứng khoán: giao dịch mua bán những hợp đồng về
quyền lựa chọn, những giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu…
4. Các chủ thể hoạt động trên thị trường chứng khoán:
Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát hành,
nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán.
4.1 Chủ thể phát hành:
Nhà phát hành là các tổ chứ
c thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Chủ thể phát hành là
người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của TTCK. Chủ thể phát hành gồm có:
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu
địa phương, trái phiếu kho bạc, nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ cho những công trình lớn thuộc cơ sở
hạ tầng, phát triển sự nghiệp văn hóa giáo dục, y tế hoặc bù đắp thiếu hụt ngân sách;
- Công ty là nhà phát hành các c
ổ phiếu và trái phiếu công ty;
- Các tổ chức tài chính như là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ
thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ.
4.2 Nhà đầu tư:
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể
được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân: nhà đầu tư cá nhân là các hộ
gia đình, những người có vốn nhàn rỗi
tạm thời tham gia mua bán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận;
- Các nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế tài chính thường xuyên mua bán chứng khoán với số
lượng lớn trên thị trường. Một số nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường là các ngân hàng thương
mại, các công ty chứng khoán, công ty đầu tư, các công ty bảo hiểm, quỹ tương hỗ…
4.3 Các tổ ch
ức kinh doanh trên thị trường chứng khoán:
- Công ty chứng khoán: là các doanh nghiệp hoạt động theo quy định của Pháp luật hoạt động

trên TTCK. Tùy theo số vốn điều lệ và nội dung trong đăng ký kinh doanh mà công ty chứng

9
khoán có thể thực hiện một hoặc một số nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán như: môi giới chứng
khoán, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và lưu ký chứng
khoán.
- Các ngân hàng thương mại: ở một số nước các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn tự có
để tăng và đa dạng hóa lợi nhuận qua việc đầu tư vào chứ
ng khoán. Ở Việt Nam, các ngân hàng
thương mại thành lập các công ty con chuyên doanh trong hoạt động kinh doanh chứng khoán.
- Các trung gian tài chính khác như quỹ đầu tư, …
4.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán:
- Cơ quan quản lý Nhà nước: nhận thấy cần thiết phải có một cơ quan bảo vệ lợi ích của các nhà
đầu tư và đảm bảo cho TTCK hoạt động một cách thông suốt cũng như việc thanh tra giám sát hoạ
t
động của các chủ thể trên thị trường chính là việc cần thiết phải có một cơ quan thực hiện các
nhiệm vụ trên. Ở Việt Nam có Ủy ban chứng khoán nhà nước thuộc Bộ Tài Chính.
- Sở giao dịch chứng khoán: Sở giao dịch chứng khoán thực hiện việc vận hành thị trường thông
qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ cho các họat động giao dịch trên
S
ở giao dịch. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng ban hành những quy định điều chỉnh các hoạt động giao
dịch trên Sở giao dịch phù hợp với quy định của Pháp luật.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là một tổ chức tự quản và thường thực hiện một số
chức năng chính sau: khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán, ban hành và
thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ
sở của Pháp luật về chứng khoán, điều tra và giải quyết
các tranh chấp giữa các thành viên trong thẩm quyền, hợp tác với các cơ quan nhà nước và các cơ
quan khác để giải quyết các vấn đề có liên quan đến hoạt động chứng khoán.
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: là tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và
tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch chứng khoán.

- Công ty đánh giá hệ
số tín nhiệm: là các công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực
thanh toán vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát
hành đối với một đợt phát hành cụ thể. Các mức hệ số tín nhiệm vì thế thường gắn với một đợt phát
hành cụ thể chứ không phải cho công ty.

10
Ngoài ra, chủ thể hoạt đông trên TTCK còn có các công ty dịch vụ máy tính chứng khoán, các
tổ chức tài trợ chứng khoán…
5. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán:
5.1 Nguyên tắc trung gian:
Mọi hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán trên TTCK đều được thực hiện thông qua các
trung gian, hay còn gọi là các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực hiện giao dịch theo lệnh của
khách hàng và hưởng hoa hồng. Ngoài ra, nhà môi giới còn có thể cung cấp các dịch vụ khác như
cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng trong việc đầu tư
Theo nguyên tắc trung gian, các nhà đầu tư không thể trực tiếp thỏa thuận với nhau để mua bán
chứng khoán. Họ đều phải thông qua các nhà môi giới của mình để đặt lệnh. Các nhà môi giới sẽ
nhập lệnh vào hệ thống để khớp lệnh.
5.2 Nguyên tắc đấu giá:
Giá chứng khoán được xác định thông qua việc đấu giá giữa các lệnh mua và các lệnh bán. Tất
cả các thành viên tham gia thị truờng đều không thể can thiệp vào việc xác định giá này. Có hai
hình thức đấu giá là đấu giá trực tiếp và đấu giá tự động:
− Đấu giá trực tiếp là việc các nhà môi giới gặp nhau trên sàn giao dịch và trực tiếp đấu giá.
− Đấu giá tự động là việc các lệnh giao dịch từ các nhà môi giới được nhập vào hệ thống máy
chủ của Sở giao dịch chứng khoán. Hệ thống máy chủ này sẽ xác định mức giá sao cho tại mức giá
này, chứng khoán giao dịch với khối luợng cao nhất.
5.3 Nguyên tắc công khai:
Tất cả các hoạt động trên TTCK đều phải đảm bảo tính công khai. Sở giao dịch chứng khoán
công bố các thông tin về giao dịch chứng khoán trên thị trường. Các tổ chức niêm yết công bố công
khai các thông tin tài chính định kỳ hàng năm của công ty, các sự kiện bất thường xảy ra đối với

công ty, nắm giữ cổ phiếu của giám đốc, người quản lý, cổ đông đa số. Các thông tin càng được
công bố công khai minh bạch, thì càng thu hút đuợc nhà đầu tư tham gia vào TTCK.
 Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả chứng khoán được hình thành một cách
thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch. Do đó, ở hầu hết các nước trên thế giới hiện

11
nay, mỗi nước chỉ có một Sở giao dịch chứng khoán duy nhất (tuy nhiên, người dân mọi miền đất
nước đều có thể tiếp cận thị trường thông qua các phòng giao dịch của công ty chứng khoán mở tới
các điểm dân cư).
Một số nước khác còn tồn tại vài Sở giao dịch chứng khoán do lịch sử để lại thì đều nối mạng
với nhau hoặc giao dịch những chứng khoán riêng biệt.
II. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY:
1. Sơ lược về thị trường chứng khoán Việt Nam:
Đối với các nước phát triển, các chỉ báo của TTCK được xem như là một công cụ phản ánh
động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và khá chính xác nhất. Chính vì vậy, TTCK luôn
được coi là phong vũ biểu của nền kinh tế.
TTCK Việ
t Nam trải qua hơn 10 năm xây dựng và phát triển (từ năm 2000 đến năm 2011) đã
từng bước khẳng định vai trò của nó như là một kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế bổ
sung cho hệ thống ngân hàng. Có thể sơ lược lịch sử hình thành TTCK Việt Nam như sau:
1.1 Diễn biến thị trường chứng khoán giai đoạn 2000-2005:
Năm 2000, với 02 công ty niêm yết khi đưa Thị trường giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí
Minh vào hoạt động, TTCK đã có mức tăng trưởng nhanh về giá do nguồn cung hàng hóa khan
hiếm, chỉ số VN-Index liên tục tăng và đạt tới đỉnh điểm là 571,04 điểm ngày 25/06/2001. Sau đó,
thị trường đã liên tục sụt giảm trong suốt 03 năm sau đó trước khi tăng mạnh trở lại vào cuối năm
2003. Năm 2005, sau khi Thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội đi vào hoạt động, tổng số các
công ty niêm yết trên cả hai thị trường là 44 công ty với tổng giá trị niêm yết là 4,94 ngàn tỷ đồng.
Tuy nhiên, nhìn chung giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn hoạt động khá trầm của TTCK Việt Nam.
1.2 Diễn biến thị trường chứng khoán giai đoạn 2006-2008:
TTCK Việt Nam giai đoạn cuối năm 2006 và đầu năm 2007 chính là giai đoạn mà thị trường

bùng nổ nhất. Năm 2006 chỉ số VN-Index đã tăng tới 146% và trong 03 tháng đầu nă
m 2007, chỉ
số này tiếp tục tăng thêm 46% đạt mức đỉnh 1.170 vào ngày 12/3. Biến động của thị trường này có
thể được chia làm 03 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị bức phá do Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO,
giai đoạn thị trường tăng trưởng mạnh và giai đoạn điều chỉnh. Trong giai đoạn đầu, những sự kiện
kinh tế chính trị tích cực của qu
ốc gia như Việt Nam gia nhập WTO, tổ chức thành công hội nghị
APEC đã tạo hình ảnh Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư. Từ tháng 12/2006, sự bùng nổ về số

12
lượng các công ty niêm yết cộng với kết quả kinh doanh tốt tạo ra một sự bùng nổ cho thị trường
cho đến tháng 3/2007.

Diễn biến chỉ số VN-Index và các sự kiện quan trọng giai đoạn từ tháng 06/2006 đến
tháng 07/2007(Nguồn: Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn)

Diễn biến 2 chỉ số VN-Index và HNX-Index và các thông tin quan trọng giai đoạn từ
tháng 12/2007 đến tháng 7/2008 (Nguồn: Công ty cổ phần Chứng khoán Bảo Việt)
Những tháng cuối năm 2008, thị trường giảm điểm và kéo dài đến đầu năm 2009.

13
1.3 Diễn biến thị trường chứng khoán 2009:
Từ ngày 01/01/2009 đến 31/12/2009 VN-Index tăng thêm 171,96 điểm từ 312,49 điểm
lên đến 494,77 điểm tương đương với mức tăng là 58%. Nếu tính từ đáy thấp nhất trong
năm khi VN-Index ở mốc 234,66 điểm vào ngày 24/02/2009 và đỉnh cao nhất là 633,21
điểm vào ngày 23/10/2009 thì VN-Index đã tăng 2,69 lần. Tương tự ở sàn HNX mức tăng
trưởng trong năm 2009 của HNX-Index là 60,9%; và nếu so t
ừ đáy thấp nhất 78,06 điểm
lên đỉnh cao nhất trong năm 218,38 điểm thì HNX-Index đã tăng 2,79 lần.
Tính đến cuối năm 2009, đã có 541 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên cả hai sàn

giao dịch chứng khoán và 4 chứng chỉ quỹ đại chúng niêm yết, với tổng giá trị niêm yết
đạt 127,489 nghìn tỷ đồng, tăng 66,5 lần so với cuối năm 2005. Tổng giá trị vốn hóa thị
trường tính từ thờ
i điểm ngày 31/12/2009 ước đạt 620,551 nghìn tỷ đồng tương đương với
gần 38% GDP cả năm 2009.
1.4 Diễn biến thị trường chứng khoán 2010:
Sang đến năm 2010, xu hướng thị trường được chia làm 04 giai đoạn chính:
− Giai đoạn 1 (từ 01/10-04/11): giảm nhẹ, đi ngang xen kẽ các đợt tăng nhẹ. TTCK mở
cửa năm 2010, với liên tiếp các phiên giảm điểm ảnh hưởng bở
i thông tin không chính
thức từ việc tăng lãi suất cơ bản, VN-Index rơi mạnh từ 530 xuống còn 478 điểm. Tiếp
đó, VN-Index tăng quay lại ngưỡng 530 do được hỗ trợ bởi thông tin lãi suất cơ bản vẫn
được giữ ở mức 8% và việc phát hành thành công 1 tỷ USD trái phiếu chính phủ tại thị
trường Mỹ. Kỳ vọng về kết quả kinh quý I của các doanh nghiệp khiến VN-Index tăng
nhẹ trở
lại vào cuối tháng tư.
− Giai đoạn 2 (từ 05/11-08/11): giảm, đi ngang và giảm mạnh. Đầu tháng 5, VN-Index
đột ngột quay đầu giảm điểm do ảnh hưởng từ khủng khoảng nợ châu Âu lan rộng mà
khơi ngòi là Hy Lạp. Tiếp đó, tin đồn về thông tư 13 ra đời đã kiến cho VN-Index tiếp tục
rơi. Từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 7, VN-Index lình xình đi ngang, một phần bị ảnh
hưởng l
ớn bởi số lượng cổ phiếu niêm yết bổ sung và niêm yết mới. Trong giai đoạn này
có khoảng 3.058.308.677 cổ phiếu được đưa vào giao dịch chiếm khoảng 43% tổng số cổ
phiếu niêm yết bổ sung và niêm yết mới năm 2010. Vào cuối tháng 7, VN-Index tiếp tục
bị giáng một đòn khá mạnh từ thông tin chính phủ quyết định tái cơ cấu tập đoàn công

14
nghiệp tàu thủy Vinashin. Với khoản nợ là 4,5 tỷ USD. Việc rơi tự do của VN-Index, còn
được củng cố thêm bằng việc bán giải chấp của hầu hết các mã chứng khoán do dùng đòn
bẩy tài chính. Cuối tháng 8, VN-Index tạo đáy tại vùng 420-424.

− Giai đoạn 3: tăng nhẹ và đi ngang rồi giảm nhẹ. Sau một quá trình tăng mạnh ngắn
ngủi, VN-Index có một khoảng đi ngang khá dài do không có tin tức vĩ mô gì đột biến hỗ

trợ. Đồng thời, với lực cung cổ phiếu khá mạnh trong thời điểm từ đầu tháng 9 đến đầu
tháng 11 (chỉ trong vòng 2 tháng đã có khoảng 1.830.529.826 cổ phiếu, chiếm khoảng
25% tổng số lượng cổ phiếu niêm yết mới và niêm yết bổ xung cả năm 2010) là một yếu
tố cơ bản ngăn cản sự tăng giá của VN-Index. Giữa tháng 11, VN-Index giảm nhẹ do
dòng tiền đ
ã ra khỏi thị trường, để tìm kiếm lợi nhuận ở kênh đầu tư khác như vàng, USD.
Đây là thời điểm vàng và USD tăng khá mạnh.
− Giai đoạn 4: tăng trưởng bắt đầu cuối tháng 11 đến gần cuối năm. Sau một thời gian
dài đi ngang và giảm vào cuối tháng 11, khi mà tất các các tin tức vĩ mô ảnh hưởng xấu
đến thị trường đều đạt đến đỉnh điểm, nh
ư lãi suất cơ bản tăng từ 8% lên 9%, vàng và
USD đều có một giai đoạn tăng nóng. Dòng tiền bắt đầu chảy vào chứng khoán khi nhận
thấy kênh này có thể đem lại được lợi nhuận cao. Các cổ phiếu chứng khoán, tài chính,
bất động sản lần lượt là điểm sáng kéo thị trường tăng mạnh từ 421 đến 495 vào thời
điểm gần cuối năm. Tại thời đi
ểm này thanh khoản của thị trường tăng mạnh, bình quân
khoảng trên 100 triệu cổ phiếu được chuyển nhượng mỗi phiên cho cả hai sàn.
Tóm lại xu thế chủ đạo của năm 2010 là đi ngang và giảm mạnh. Thị trường đón nhận
một khối lượng niêm yết mới và niêm yết bổ sung cổ phiếu kỷ lục.
1.5 Diễn biến thị trường chứng khoán năm 2011:
Năm 2011 là m
ột năm khá khó khăn của nền kinh tế Việt Nam và thế giới, nó đã tác
động tiêu cực đến TTCK Việt Nam theo đó. Trong cả năm, thị trường chỉ có được hiếm
hoi hai đợt phục hồi ngắn vào cuối tháng 5 và khoảng giữa tháng 8, toàn bộ khoảng thời
gian còn lại thị trường chủ yếu đi xuống trong sự chán nản và mệt mỏi của các nhà đầu tư.
Chốt phiên ngày 30/12/2011, VN Index và HNX Index lần lượ
t đóng cửa ở 351,55 và

58,74 điểm, như vậy so với đầu năm 2011 sàn Hồ Chí Minh đã giảm mạnh 27,46% còn
sàn Hà Nội thì lao dốc đến hơn 48,6%. Thanh khoản của TTCK cũng giảm mạnh, so với

15
con số của năm 2010 thì giá trị trung bình của mỗi phiên giao dịch của mỗi sàn đều sụt
giảm mạnh đến xấp xỉ 60%.

VN-Index và HNX-Index trong năm 2011 (Nguồn: VCBS tổng hợp)
Phần đông các công ty chứng khoán (CTCK) gặp khó khăn và chịu thua lỗ trong năm
2011: cùng với sự sụt giảm cả về điểm số lẫn giá trị giao dịch của TTCK Việt Nam thì,
theo thống kê chưa đầy đủ, trong năm 2011, số lượng công ty chứng khoán chịu thua lỗ
chiếm ưu thế áp đảo. Trong số hiếm hoi những công ty có lợi nhuận thì các khoản này chủ
y
ếu đến từ mảng kinh doanh khác ngoài dịch vụ môi giới cũng như tự doanh. Tính đến
thời điểm hiện tại có khoảng 105 CTCK đang hoạt động thì hơn 80% con số này phải đối
diện với Báo cáo tài chính lợi nhuận âm khi doanh thu sụt giảm trong khi chi phí lại đội
lên cao. 1.400 tỷ đồng là số tiền mà 18/27 CTCK niêm yết ghi lỗ trong 09 tháng đầu năm
2011. Để tiếp tục tồn tại, một số công ty đã phả
i cắt giảm nhân sự thậm chí là loại bỏ một
số nghiệp vụ, trong đó có môi giới cụ thể như trường hợp của CTCK SME, chứng khoán
Gia Anh, chứng khoán Đông Dương, chứng khoán Hà Nội… và lấn sân sang lĩnh vực bất
động sản, như CTCK Kim Long (KLS), CTCK Sài Gòn (SSI)… hoặc chuyển tiền gửi tiết
kiệm ngân hàng. Các CTCK không kiểm soát chặt chẽ quy trình nội bộ và quản lý rủi ro,
dẫn đến thời đi
ểm thanh toán không chuyển đủ tiền thanh toán vào tài khoản. Điển hình
cho hiện tượng này trong thời gian qua là vụ việc của CTCK SME, TAS. Bên cạnh đó
hiện tượng cắt giảm nhân sự cũng diễn ra trên diện rộng. Với hơn 100 CTCK hoạt động

16
trong khi thị trường diễn biến ảm đảm, thị phần của từng công ty bị thu hẹp lại, hoạt động

môi giới, tư vấn trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Nhiều CTCK phải cắt giảm từ 15% -
20% nhân sự.
Các doanh nghiệp niêm yết: năm 2011 vừa qua là một năm đầy khó khăn và thử thách
với các doanh nghiệp, trong khi phải đối mặt với lạm phát cao khiến chi phí đầu vào tăng
mạnh thì việc tiếp cận vốn vay cũng không dễ dàng khi mặt bằng lãi suất liên tục ở mức
cao. Sự suy giảm của TTCK kéo theo hơn 50% số cổ phiếu niêm yết có thị giá rơi xuống
dưới mệnh giá (10.000 đồng) và thấp hơn nhiều so với giá trị ghi sổ của doanh nghiệp.
Kết thúc quý III/2011, theo báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết, có tới 14
doanh nghiệp có Tổng nợ/Tổng tài sản lớn hơn 90%, hơn 50 doanh nghi
ệp có hệ số nợ từ
80%-90%, hơn 80 doanh nghiệp từ 70%-80%. Đòn bẩy vốn của doanh nghiệp lên tới 9
lần. Mức đòn bẩy tài chính này kéo theo không ít rủi ro trong bối cảnh kinh tế khó khăn
và nguồn lợi tạo ra từ vay nợ không đủ bù đắp chi phí vốn phải trả. Số dư hàng tồn kho
cuối quý III/2011 của các doanh nghiệp niêm yết tăng hơn 30% so với cùng kỳ.
2. Nguyên nhân sụt giảm củ
a thị trường chứng khoán 2011:
2.1 Kinh tế thế giới:
Tình hình Nợ công tại Châu Âu tiếp tục căng thẳng mà vẫn chưa có giải pháp cụ thể,
tăng trưởng của các nền kinh tế vẫn trì trệ, lòng tin của người dân giảm sút. Tương tự
châu Âu, vấn đề trần nợ Mỹ cũng được ví như quả bom nổ chậm của kinh tế thế giới, quá
trình thỏa hiệp chính trị
giữa các Đảng phái trong Chính phủ liên bang Mỹ về cắt giảm chi
tiêu diễn ra rất chậm chạp. Ngày 06/08/2011, Cơ quan đánh giá tín dụng quốc tế Standard
& Poor tuyên bố hạ bậc xếp hạng tín dụng của Mỹ từ AAA xuống còn AA+ kèm theo
đánh giá triển vọng tiêu cực. Đây là lần đầu tiên Mỹ mất xếp hạng AAA. Chính những
yếu tố này đã tác động tiêu cực tới thị trường xuất khẩu Việt Nam và dòng vốn đầu tư vào
Việt Nam, ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết, dòng vốn
chảy vào TTCK Việt Nam.

Tăn

g
tr
ư

n
g
GDP
(
%
)
2010 2011*

2012*
Thế
g
iới
5.2 3.9

3.8
Châu
Á
-Thái Bình Dư
ơ
n
g
8.4 6.3

6.5
Châu
Á

-Châu Đ

iDư
ơ
n
g
2.6 1.8

3.3

17

Tăn
g
tr
ư

n
g
GDP
(
%
)
2010 2011*

2012*

Đông
Â
u

3.3 3.7

3.2
M

La-tinh
6.1 4.5

4.0
Trun
g
Đôn
g
và Châu Phi
4.7 4.4

4.3

B
ắc
M

3.0 1.6

1.8
Đôn
g

Â
u 2.3 1.9


0.7
Tăng trưởng kinh tế thế giới và các khu vực
(Nguồn: IMF; *Số liệu dự báo được công bố vào tháng 12/2011)
2.2 Kinh tế trong nước:
2.2.1 Lạm phát:
Trong năm 2011, lạm phát trung bình 12 tháng tăng 18,58% so với giai đoạn tương
ứng của năm 2010 và 18,13% so với tháng 12/2010. Mức lạm phát tăng cao trong 04
tháng đầu năm, đỉnh điểm lên tới mức 3,32% trong tháng 4. Đây là hệ quả từ việc cung
tiền những năm trước, t
ăng tỷ giá (ngày 11/02/2011 tăng 9,3%), giá nguyên vật liệu trong
nước tăng (nguồn nguyên liệu Việt Nam đang phụ thuộc nhập khẩu quá nhiều), giá năng
lượng tăng (xăng dầu, điện) dẫn đến giá hàng hoá các loại đồng loạt tăng theo. Từ tháng 5
trở đi, nhờ những nỗ lực ổn định hóa quyết liệt của Chính phủ, CPI đã liên tục giảm tốc
và xuống dưới 1% kể từ tháng 08/2011.
2.2.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2011 tiếp tục suy giảm. Cụ
thể nguồn vốn FDI năm 2011 đạt 14,7 tỷ USD, giảm 26% so với cùng kỳ năm 2010, trong
đó vốn đăng ký mới giảm tới 35% chỉ đạt 11,6 tỷ USD. Nguyên nhân giảm sút là do nền
kinh tế thế giới còn chịu nhiều áp lực từ khủng hoả
ng nợ công tại Châu Âu, thiên tai và
bất ổn chính trị tại nhiều nước. Tuy nhiên sự yếu kém nội tại của nền kinh tế Việt Nam
với lạm phát cao, hiệu quả đầu tư của nền kinh tế thấp (chỉ số ICOR cao), hoạt động sản
xuất kinh doanh bị đình đốn cũng như các yếu tố nguồn lực hạn chế (như thiếu lao động
có kỹ năng, thi
ếu điện, hạ tầng giao thông yếu kém) cũng là những yếu tố tác động tâm lý
các nhà đầu tư nước ngoài.
2.2.3 Tỷ giá:
Cuối năm 2010 căng thẳng tỷ giá đã diễn ra do tình trạng nhập siêu, dữ trữ ngoại hối
sụt giảm mạnh, tín dụng ngoại tệ tăng cao dẫn đến sức ép tỷ giá và thị trường ngoại tệ đã


18
tồn tại hai tỷ giá từ những tháng cuối năm 2010 tỷ giá USD/VND trên thị trường tự do
tăng mạnh và vượt xa khỏi tỷ giá chính thức 10% và dao động xung quanh mức 21.000 -
21.500. Để giải quyết vấn đề tỷ giá vào đầu tháng 2 (11/02/2011) Ngân hàng Nhà nước đã
phá giá đồng nội tệ lên tới 9,3%, đây là lần phá giá cao nhất từ năm 2008 (Tỷ giá liên
ngân hàng tăng từ 19.500->20.693 VND/USD) với mức điều chỉnh tăng giảm cho phép
trong biên độ
từ +-3% giảm xuống +/-1%. Ngay sau khi phá giá VND, tình hình kinh tế
đã phản ứng khá mạnh, tỷ giá liên tục tăng. Tuy nhiên sau khi lập đỉnh vào ngày
19/04/2011, cùng với những biện pháp kiểm soát ngoại tệ như kết hối, thắt chặt tín dụng
ngoại tệ nên tỷ giá đã được kiểm soát trong một thời gian dài từ tháng 5-10/2011. Tuy
nhiên vào giữa tháng 08/2011 trước những biến động mạnh của thị trường vàng và việc
nhập khẩu vàng nên tỷ giá đ
ã có những biến động trở lại, tỷ giá trên thị trường tự do đã có
lúc lên đến 21.900. Cụ thể, cán cân thanh toán tổng thể năm 2011 ước đạt khoảng 2,5 –
4,5 tỷ USD.
2.2.5 Giá vàng:
Thị trường Vàng là một trong những kênh cạnh tranh vốn với TTCK, chính vì vậy
những biến động trên thị trường vàng sẽ là một trong những nhân tố quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến TTCK. Năm 2011, trước những diễn bi
ến phức tạp của khủng hoảng
Nợ công thế giới như Ireland, Hy Lạp và Bồ Đào Nha, vàng đã được nhiều nhà đầu tư
trên thế giới lựa chọn vàng là kênh trú ẩn an toàn. Giao dịch vàng trên thế giới tăng mạnh
và đã đẩy giá vàng thế giới lên cao và lập kỷ lục ở mức $1.920/oz vào đầu tháng 9 sau đó
giảm dần trong quý IV. Giá vàng trong nước cũng đã giao động với biên độ mạnh, tă
ng từ
mức khoảng 37 triệu đồng/lượng lên tới mức cao nhất là 49 triệu đồng/lượng, sau đó giảm
dần và đứng quanh mốc 44 triệu đồng/lượng vào thời điểm cuối năm 2011.
2.2.6 Chính sách tiền tệ:

Trước áp lực lạm phát tăng cao, ngay từ đầu năm, Chính phủ đã ra Nghị quyết 11/NQ-
CP, chính sách tiền tệ thắt chặt đã được thực hiện khá nhất quán trong suố
t cả năm 2011.
Về lãi suất điều hành, lãi suất cơ bản giữ nguyên ở mức 9% trong cả năm nhưng lãi
suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn đều đã được điều chỉnh tăng. Cụ thể, lãi suất tái
chiết khấu đã được điều chỉnh tăng từ 7% lên mức 12% trong Quý I và lên mức 13% cho

19
Quý III và IV, còn lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh tăng từ mức 9% trong tháng 1 lên
tới 15% từ Quý IV.
Lãi suất cho vay VND bình quân thực tế khá cao, cụ thể, lãi suất cho vay nông nghiệp,
nông thôn và xuất khẩu khoảng 17-19%/năm, lãi suất cho vay lĩnh vực sản xuất kinh
doanh khác khoảng 17-21%năm, lãi suất cho vay lĩnh vực phi sản xuất khoảng 22-
25%/năm. TTCK là nơi chịu những tác động trực tiếp từ chính sách tiền tệ thắt chặ
t, trong
đó có tín dụng phi sản xuất kiểm soát dưới 16%.
III. CÁC GIẢI PHÁP KIỆN TOÀN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI:
1. Chủ trương vực dậy thị trường chứng khoán tại Việt Nam trong thời gian tới:
Năm 2011, TTCK Việt Nam đã hoạt động khó khăn để lại nhiều hệ lụy cho toàn hệ thống kinh
tế, lượng cổ phiếu phát hành trong năm chỉ đạt 13.000 tỷ đồng, giảm 60% so với cùng kỳ, nhiều
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ khi giá cổ phiếu dưới mệnh giá không thể phát hành được. Doanh
nghiệp huy động vốn qua TTCK quá khó khăn, hàng loạt cổ phiếu trở nên “rẻ rúng”, mệnh giá chỉ
dưới 10.000 đồng. Khoảng 67% doanh nghiệp niêm yết có thị giá thấp hơn giá trị sổ sách, 38%
công ty niêm yết trên HOSE có thị giá dưới mệnh giá và trên HNX là 55%. Điều này khiến TTCK
suy giảm mạnh và khó hồi phục nếu như không có chính sách, giải pháp hợp lý.
Mặc dù TTCK đang có nhiều khó khăn, nhưng với vai trò là kênh dẫn vốn dài hạn quan trọng,
nên cần thiết phải tiếp tục thúc đẩy phát triển. Chính vì vậy cuối năm 2011 đã có khá nhiều lời hứa
từ phía lãnh đạo Bộ tài chính (BTC), Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Ủy ban chứng khoán
(UBCK) về việc vực dậy TTCK trong năm 2012:

− BTC đã có văn bản báo cáo tổng thể và có giải pháp thúc đẩy TTCK trình Chính phủ. Qua đó,
Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo BTC khẩn trương triển khai các giải pháp tái cấu trúc TTCK, để sớm
đưa TTCK trở thành kênh huy động vốn chủ yếu cho nền kinh tế.
− UBCK cho biết năm 2012 sẽ triển khai T+2 và đề xuất với NHNN về việc tách tín dụng chứng
khoán ra khỏi nhóm phi sản xuất, để “cởi trói” dòng vốn chảy vào chứng khoán.
− NHNN cho biết dòng vốn vào chứng khoán sắp tới sẽ vẫn phải kiểm soát nhưng hợp lý hơn.
Bên cạnh đó, Thống đốc NHNN cũng cho biết sẽ khống chế tốc độ tăng trưởng của hệ thống ngân

20
hàng, để hệ thống không hút hết tiền của nền kinh tế. Từ đó, lãi suất ngân hàng sẽ giảm, kéo theo
lãi suất cho vay giảm. Trong thời gian tới, NHNN sẽ xác lập lại vị thế cân bằng giữa thị trường tiền
tệ với thị trường vốn nhằm khôi phục TTCK.
Trên cơ sở đó, trong thời gian gần đây các cơ quan quản lý Nhà nước đã có chủ trương và ban
hành một số chính sách nhằm vực dậy lại TTCK như:
− Năm 2011, BTC đã ban hành nhiều thông tư nhằm phát triển TTCK như Thông tư 74 cho phép
margin, mở nhiều tài khoản, giao dịch cổ phiếu trong ngày; Thông tư 183 về quỹ mở; Thông tư 37
hướng dẫn thi hành Nghị định 85 về xử phạt vi phạm chứng khoán, quy trách nhiệm cụ thể đến
từng cá nhân.
− Kể từ ngày 01/04/2012, Thông tư số 226 chính thức có hiệu lực thi hành. Đây là cơ sở pháp lý
quan trọng để thực hiện việc quản lý, giám sát, tái cấu trúc các công ty chứng khoán trên cơ sở
phân loại, xử lý theo các mức cảnh báo, kiểm soát, kiểm soát đặc biệt. Thậm chí nếu công ty chứng
khoán không khắc phục được theo yêu cầu sẽ đình chỉ hoạt động.
− BTC đang xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn tổ chức và hoạt động công ty chứng khoán
theo hướng tập trung vào công tác quản trị, quản lý an toàn tài chính, hướng dẫn cụ thể về việc hợp
nhất, sáp nhập, giải thể. Ngoài ra, sẽ tăng cường công tác giám sát đối với công ty chứng khoán
thông qua việc ban hành quy định đánh giá xếp hạng, phân loại hoạt động theo tiêu chuẩn quốc tế.
Đồng thời, xây dựng hệ thống chấm điểm mức độ rủi ro và quy trình hoạt động của công ty chứng
khoán để áp dụng cơ chế kiểm tra, giám sát theo mức độ rủi ro.
− BTC và UBCK đã xây dựng Đề án tái cấu trúc TTCK. Đề án sẽ là cơ sở để BTC, UBCK thực
hiện từng bước tái cấu trúc TTCK từ nay đến năm 2015 trên các lĩnh vực: cải cách cơ sở hàng hóa;

tăng cường chất lượng nhà đầu tư; nâng cao hiệu quả của thị trường trái phiếu; tái cấu trúc tổ chức
kinh doanh chứng khoán; tái cơ cấu Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm lưu ký chứng khoán
tại Việt Nam.
− Để hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn này, BTC hiện đang xây dựng giải
pháp tháo gỡ tài chính và đã trình Chính phủ để giãn thuế cho doanh nghiệp. Tùy vào diễn biến
năm 2012, BTC sẽ tiếp tục tham mưu về giãn và miễn thuế.

21
− Ngay trong quý II/2012, BTC sẽ trình Chính phủ về việc thành lập Sở giao dịch chứng khoán
Việt Nam trên cơ sở sáp nhập hai Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và Tp. HCM, tạo ra một thị
trường giao dịch chứng khoán thống nhất nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả.
2. Một số giải pháp kiện toàn thị trường chứng khoán Việt Nam:
Với định hướng vực dậy TTCK Việt Nam của các cơ quan quản lý Nhà nước như đã phân tích
ở trên, có thể thấy TTCK đang đứng trước nhiều cơ hội để phục hồi và trở lại chức năng là kênh
dẫn vốn quan tr
ọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, kết quả của quá trình này còn phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tình hình kinh tế trong và ngoài nước; sự phát huy hiệu quả và tính
nhất quán của các chính sách đã, đang và sẽ được áp dụng; sự phục hồi niềm tin của các nhà đầu tư
vào thị trường… Dưới đây là kiến nghị một số giải pháp nhằm vực dậy và phát triển TTCK Việt
Nam trong thời gian tới:
− Ổn định vĩ mô và kiềm chế lạm phát:
9 Kiểm soát được lạm phát thành công, kéo theo mặt bằng lãi suất giảm, đây sẽ là yếu tố quyết
định và chỉ khi đó TTCK mới có thể hồi phục. Thêm vào đó, quan niệm của Nhà nước đối với
TTCK có yếu tố quyết định đến lòng tin của thị trường, nếu chúng ta xem xét lại việc xem TTCK
là lĩnh vực phi sản xuất và nhất quán khẳng định chủ trương tiếp tục thúc đẩy TTCK trở thành kênh
dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng bên cạnh thị trường tiền tệ, khi đó chúng ta sẽ có chính sách vĩ
mô điều hành phù hợp, vừa bảo đảm mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô vừa duy trì sự linh hoạt cần
thiết, điều hòa trong cả năm thì thị trường sẽ có bước cải thiện trở lại. TTCK và thị trường tiền tệ,
thị trường tín dụng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Về mặt nguyên lý, ngân hàng lo kênh dẫn
vốn ngắn hạn và TTCK lo kênh dẫn vốn dài hạn. Hiện nay, một tỷ trọng lớn tín dụng của ngân

hàng là tín dụng dài hạn, điều đó sẽ rất rủi ro cho hệ thống ngân hàng vì vậy cần có các giải pháp
hỗ trợ để TTCK phát triển, hỗ trợ cho hệ thống ngân hàng.
9 Trên thực tế, vốn ngắn hạn và vốn dài hạn luôn có sự liên thông với nhau, các ngân hàng vẫn
phải huy động vốn trên TTCK và cũng có thể hoàn toàn không cho vay dài hạn. Các nước vẫn cho
phép các ngân hàng cho vay giao dịch ký quỹ qua công ty chứng khoán theo một tỷ lệ nhất định
trên cơ sở bảo đảm tỷ lệ an toàn tài chính đối với từng ngân hàng và đối tượng vay. Khoản cho vay
ký quỹ này thực tế là khoản cho vay ngắn hạn dưới 12 tháng và chủ yếu để mua chứng khoán trên
thị trường thứ cấp, không phải góp vốn dài hạn.

22
9 Về nguyên lý và thực tế trên thế giới cho thấy, việc duy trì thanh khoản của TTCK có ảnh
hưởng tích cực tới giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp cũng như nền kinh tế nhờ vào khả năng luân
chuyển và sử dụng tối đa nguồn lực tài chính. Rủi ro thanh khoản hay khả năng giao dịch chứng
khoán khó khăn làm cho giá chứng khoán sẽ giảm, nói cách khác là chi phí vốn tăng.
9 Trong nhiều năm qua, vấn đề liên thông vốn giữa ngân hàng và chứng khoán của ta là khá lỏng
lẻo, việc kiểm soát rủi ro theo các tiêu chí phù hợp tại các ngân hàng và công ty chứng khoán còn
chưa được thực hiện đầy đủ. Vì vậy có nhiều trường hợp luồng tiền qua chứng khoán lại đi vào bất
động sản hoặc vào các nghiệp vụ đòn bẩy tài chính có tính rủi ro cao. Tuy nhiên nếu từ tình hình
trên lại chuyển sang giải pháp thắt chặt tất cả các luồng tín dụng vào chứng khoán là ta đang
chuyển từ thái cực này sang thái cực khác. Vấn đề quan trọng là cần có các tiêu chí kiểm soát rủi ro
để bảo đảm dòng tiền vào là ngắn hạn và được đi đúng hướng trên cơ sở tình hình của từng ngân
hàng và công ty chứng khoán. Nếu chúng ta có chính sách phù hợp sẽ huy động và khơi thông
nguồn vốn trên TTCK phục vụ cho các ngân hàng, doanh nghiệp và cả nền kinh tế.
− Tái cấu trúc thành câu chuyện sống còn:
9 Mục tiêu đến năm 2015, TTCK Việt Nam có quy mô vốn hoá của thị trường cổ phiếu đạt
khoảng 60% GDP. Bên cạnh việc chú trọng phát triển quy mô các thị trường, trong năm 2012 sẽ
phải thực hiện từng bước tái cấu trúc lại các thị trường tài chính và dịch vụ tài chính trong khuôn
khổ nội dung tái cấu trúc lại nền kinh tế.
9 Theo đề án tái cấu trúc TTCK do BTC xây dựng trình Chính phủ, dự kiến thông qua vào quý
I/2012, chủ trương phát triển TTCK giai đoạn sắp tới sẽ hướng tới mục tiêu: tăng quy mô, củng cố

tính thanh khoản cho TTCK, tăng tính hiệu quả cho thị trường trên cơ sở tái cấu trúc tổ chức
TTCK, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, chuyên nghiệp hóa việc tổ chức và vận hành hạ tầng công nghệ
thông tin, nâng cao sức cạnh tranh của các định chế trung gian thị trường, các tổ chức phụ trợ thị
trường và của TTCK Việt Nam, tăng cường năng lực quản lý, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm,
củng cố lòng tin của nhà đầu tư
9 Trong bối cảnh nhiều công ty chứng khoán đang đứng trước bờ vực phá sản, không thể đứng
nhìn TTCK “chìm dần”, việc tái cấu trúc lại TTCK là việc làm cần triển khai kịp thời trong năm
2012. Mặc dù, thách thức trong năm 2012 vẫn khá lớn, lạm phát tuy giảm nhưng vẫn còn cao, tăng

23
trưởng kinh tế chậm lại, TTCK quốc tế biến động mạnh. Tuy nhiên vẫn có thể tận dụng những
điểm sáng và chính sách hợp lý để tìm “cửa” làm ăn trong bóng tối.
9 Trọng tâm sẽ đi sâu vào tái cấu trúc TTCK, trong đó xoay quanh 4 vấn đề gồm tái cấu trúc các
trung gian tài chính, thị trường hàng hóa, cầu đầu tư và các công ty chứng khoán. Theo đó, có 4 nội
dung trọng tâm để tái cấu trúc kênh chứng khoán, bao gồm: Hoàn thiện cơ sở pháp lý; Tái cấu trúc
công ty chứng khoán; Tái cấu trúc các trung gian tài chính (hợp nhất 2 sở giao dịch Thành phố Hồ
Chí Minh và Hà Nội); Tái cấu trúc hàng hóa và tái cấu trúc cơ sở các nhà đầu tư.
9 Về việc cấu trúc lại thị trường hàng hóa, trước kia TTCK Việt Nam theo chiều rộng, các công
ty vào sàn càng nhiều càng tốt nhưng trước yêu cầu đặt ra khi doanh nghiệp vào sàn cần được nâng
cấp tiêu chuẩn niêm yết để tạo ra dòng hàng hóa tốt cho thị trường. Hoàn thiện các khung pháp lý,
thể chế… để tạo minh bạch cho thị trường. Do đó việc tái cấu trúc TTCK là điều kiện sống còn để
phát triển.
− Các cơ quan quản lý cần tập trung nỗ lực để hạn chế các hành vi trục lợi, thao túng thị trường
chứng khoán. Cần phát hiện và nghiêm trị thích đáng các hành vi trục lợi để đảm bảo tính minh
bạch và lành mạnh của thị trường.
− Cần có các chế tài xử phạt mạnh để đảm bảo minh bạch thông tin. Doanh nghiệp có những sai
lệch vi phạm liên tiếp phải bị xử phạt nặng. Kế toán trưởng của doanh nghiệp lập Báo cáo tài chính
sai sót vượt quá một số lần cụ thể phải bị thu hồi có thời hạn giấy phép hành nghề.
− Đẩy mạnh tiến độ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn, hiệu quả kinh doanh cao như
BIDV, MobiFone, VinaPhone, Viettel để tăng nguồn cung hàng hóa chất lượng cao nhằm thu hút

vốn đầu tư của nhà đầu tư tổ chức nước ngoài, giảm thiểu hoặc bán hết cổ phần của nhà nước tại
các doanh nghiệp không thiết yếu. Mở rộng room (tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong
các doanh nghiệp niêm yết) (trừ ngành ngân hàng) đối với những lĩnh vực không cần hạn chế để
thu hút vốn của khối đầu tư nước ngoài.
− Nhanh chóng xóa bỏ các rào cản phát triển TTCK Việt Nam bằng cách khắc phục những yếu
kém do tính không hoàn hảo của thị trường gây ra:
9 Khắc phục hiện tượng thông tin bất cân xứng bằng cách thực hiện minh bạch hoá, khai thông
kênh thông tin đối với giới đầu tư trên thị trường. Khuyến khích các công ty định mức tín nhiệm có

24
uy tín như Standard & Poor’s, Moody thành lập chi nhánh tại Việt Nam. Để đánh giá được năng
lực tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam thì cần phải có những tổ chức chuyên nghiệp, những
tổ chức tài chính có uy tín như trên thì mới có thể đánh giá được khả năng tài chính của các doanh
nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra bản thân các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
cần phải công khai hơn, minh bạch về tài chính hơn thì mới có thể đạt được tín nhiệm trên thị
trường. Đây cũng là một trong những khó khăn và thách thức khi phát triển hệ thống định mức tín
nhiệm cũng như việc mở rộng quy mô thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay.
9 Thúc đẩy hoạt động đào tạo, nghiên cứu và nâng cao nhận thức về TTCK cho công chúng đầu
tư để tránh tình trạng đầu tư theo bầy đàn như hiện nay.
9 Tăng cường năng lực hoạt động của các tổ chức trung gian trên thị trường và tạo ra một cơ chế
cạnh tranh công bằng để giảm chi phí giao dịch cho các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân.
Quy định một mức giá chung hợp lý xuyên suốt trên thị trường.
 Hệ thống tài chính xảy ra đổ vỡ, khủng hoảng, Chính phủ phải đứng ra can thiệp bằng chính
sách cứng rắn. Các chính sách này đến lượt nó lại bóp méo các quan hệ thị trường, không phân bổ
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, cản trở sự phát triển kinh tế xã hội và dẫn đến thất bại của
Chính phủ. Để giải quyết, Chính phủ trở lại nới lỏng và tự do hoá TTCK, như vậy có một “vòng
luẩn quẩn” trong hoạt động và phát triển của TTCK của các nước đang phát triển nói chung và
TTCK Việt Nam nói riêng khi mà chính phủ can thiệp quá sâu vào thị trường với kỳ vọng khắc
phục thất bại thị trường. Điều chỉnh cấu trúc của thị trường sao cho phù hợp với cấu trúc kinh tế,
cân đối sự phát triển của các thành tố trong thị trường. Đặc biệt là giảm bớt sự can thiệp một cách

trực tiếp của Nhà nước vào thị trường, thay vào đó sự can thiệp của Nhà nước chỉ mang tính chất
định hướng, gián tiếp.






25
KẾT LUẬN
Qua việc phân tích quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam từ khi mới thành
lập đến nay, có thể thấy “sức khỏe” của thị trường chứng khoán có sự gắn kết chặt chẽ với các yếu
tố kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước hay thị trường chứng khoán chính là phong vũ biểu của nền
kinh tế. Vì vậy, để vực dậy và phát triển thị trường chứng khoán trong thời gian tới, bên cạnh việc
giải quyết các vấn đề bất cập nội tại của thị trường chứng khoán, thì vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô,
tái cấu trúc nền kinh tế, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, khôi phục niềm tin của các nhà đầu tư… giữ
vai trò quyết định. Các giải pháp, chính sách của các cơ quan quản lý Nhà nước nhằm khôi phục
nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng phải mang tính nhất quán, gắn kết, đồng
bộ và phải được triển khai hợp lý, xuyên suốt, hiệu quả. Có như vậy thị trường chứng khoán Việt
Nam mới có thể phục hồi và phát huy vai trò quan trọng đối với nền kinh tế.















×