Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

GIẢI QUYẾT NỢ XẤU – KỲ 1 : CẦN CHẶN NGAY ĐÀ TĂNG CỦA NỢ XẤU ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.93 KB, 4 trang )

GIẢI QUYẾT NỢ XẤU – KỲ 1 : CẦN CHẶN
NGAY ĐÀ TĂNG CỦA NỢ XẤU
Bằng viêc hỗ trợ thanh khoản, kiểm soát vốn và tái cấp vốn cho các
ngân hàng, những tiêu cực do khủng hoảng nợ xấu gây nên sẽ được
giảm thiểu, đồng thời giúp ngăn chặn nợ xấu gia tăng.

Nợ xấu đang là thuật ngữ được nhắc tới khá nhiều trên thị trường tài chính
ngân hàng những tháng gần đây.

Một báo cáo khác của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia lại cho số liệu
“vênh” khá nhiều, khi nợ xấu toàn hệ thống cuối năm 2011 đã lên tới hơn
300.000 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 11,48% (chưa bao gồm nợ xấu của Ngân hàng
Chính sách và Ngân hàng Phát triển). Còn theo các tổ chức tín nhiệm quốc
tế, nợ xấu của Việt Nam có thể lên đến 13%.

Tỷ trọng nợ xấu, theo báo cáo của UBGSTCQG, tập trung nhiều vào nhóm
công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, với 27,6%, gấp hơn 2,6 lần con
số báo cáo; của nhóm NHTMCP là gần 14%, gấp 7,5 lần báo cáo, của nhóm
ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài là 7,5%, gấp 4 lần báo cáo. Tỷ
lệ nợ xấu của nhóm NHTMNN thấp nhưng nhóm này lại có dư nợ cho vay
nền kinh tế lớn nhất, nên con số nợ xấu cũng chiếm tỷ trọng lớn trong toàn
hệ thống.

Tố độ tăng của nợ xấu ngày càng nhanh hơn trong thời gian gần đây do vấn
đề sở hữu chéo giữa các tổ chức phức tạp; tình trạng cho vay tập trung vào
nhóm khách hàng có liên quan; tăng trưởng kinh tế và tổng cầu chậm lại;
đầu tư mạnh vào các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro như bất động sản, chứng
khoán; tính minh bạch của các tổ chức tín dụng còn hạn chế và nhiều hành
vi che giấu nợ xấu; năng lực kiểm tra của cơ quan giám sát hạn chế…

Cần số liệu nợ xấu thống nhất



Nợ xấu và phân loại nợ ở nước ta hiện nay đang được thực hiện theo Quyết
định 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để
xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các TCTD; và quyết
định 18/2007/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung một số điều của quyết định 493.

Tuy nhiên, trong quy định của 2 quyết định này lại cho phép NHTM được
thực hiện phân loại nợ theo 2 phương pháp là định lượng và định tính, bước
đầu tiếp cận các thông lệ quốc tế về phân loại nợ. Quyết định này cũng
không có quy định rõ và mang tính bắt buộc về thực hiện phân loại nợ theo
đánh giá mức độ rủi ro của khách hàng nên dẫn đến tình trạng tùy tiện phân
loại nợ, khiến cho các con số không được thống nhất giữa các cơ quan quản
lý.

Tại buổi trả lời chất vấn trong phiên họp của Ủy ban TVQH hôm 21/8,
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình đã khẳng định, số liệu của NHNN là
chuẩn nhất và NHNN cũng điều hành chính sách theo số liệu này. Dẫu vậy,
theo các chuyên gia về tài chính ngân hàng, chừng nào khi chưa có số liệu
về nợ xấu thống nhất thì chưa thể giải quyết nợ xấu. Có ý kiến cho rằng,
NHNN cần đưa ra một tiêu chuẩn khắt khe hơn về phân loại nợ để có một
kết quả chính xác và thống nhất giữa các cơ quan quản lý, từ đó mới giải
quyết dứt điểm vấn đề.



Cần chặn ngay đà tăng của nợ xấu

Đã có nhiều giải pháp về giải quyết nợ xấu mà các chuyên gia đã đưa ra,
nhưng tựu chung lại có thể quy về 2 nhóm, đó là nhóm giải pháp mang tính
chất ngắn hạn và nhóm mang tính dài hạn.


Giải quyết nợ xấu bằng giải pháp ngắn hạn sẽ giúp ngăn chặn mức độ khủng
hoảng của nợ xấu và áp lực gia tăng nợ xấu. Cụ thể là, bằng biện pháp này,
các ngân hàng sẽ tránh được ảnh hưởng tiêu cực của nợ xấu lên sự an toàn
của hệ thống, tránh được khả năng xảy ra khủng hoảng niềm tin của khách
hàng và ngăn chặn việc khách đến rút tiền hàng loạt.

Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới thì việc giải quyết nợ xấu bằng
biện pháp này sẽ gồm các giải pháp cụ thể:

Thứ nhất là Ngân hàng trung ương hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín
dụng có tỷ lệ nợ xấu cao để bù đắp lượng tiền bị rút ra. Thứ hai là sẽ kiểm
soát vốn và gia hạn nợ cho các tổ chức này nhằm thu hút dòng vốn bị chảy
ra. Thứ ba là tái cấp vốn cho ngân hàng thông qua các khoản trái phiếu xử lý
nợ xấu hoặc huy động từ nguồn khác dưới sự bảo lãnh của Chính phủ. Và

cuối cùng, bảo hiểm toàn bộ cho tiền gửi để tăng niềm tin trong hệ thống
ngân hàng, tạo ra thời gian cần thiết cho việc tái cấu trúc hệ thống.

Đối với việc bảo hiểm tiền gửi toàn bộ, chính sách này có thể sẽ khiến chi
phí khá cao, tuy nhiên nếu so với những tổn thất do hệ thống ngân hàng sụp
đổ thì lại hữu hiệu và ít tốn kém hơn nhiều.

Ở nhóm giải pháp dài hạn, một AMC được lập để giải quyết nợ xấu đã được
áp dụng rộng rãi ở nhiều nước. Tuy nhiên, trong trường hợp ở nước ta,
nguồn kinh phí lấy ở đâu để giải quyết được khoản nợ hơn 200 nghìn tỷ là cả
một vấn đề và đến nay dường như vẫn chưa có lời giải.

Trong nhóm này, biện pháp gắn giải quyết nợ xấu với tái cấu trúc ngân hàng
và tái cấu trúc kinh tế được đánh giá là giải pháp mang tính cơ bản, vì ngoài

vấn đề xử lý nợ xấu nó còn giúp ngăn chặn nợ xấu gia tăng.

Nhiều ý kiến cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, NHNN nên áp dụng cả hai
nhóm giải pháp này một cách song song. Việc giải quyết nợ xấu cũng cần
được giải quyết càng sớm càng tốt để tránh những hậu quả khó lường đối
với nền kinh tế.

×