Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Pháp luật vầ quản lý chất thải nguy hại tại Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.62 KB, 20 trang )

Tài liệu
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÍ CHẤT THẢI
NGUY HẠI TẠI VIỆT NAM
1
Lời mở đầu
Môi trường là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng và
cần thiết với mỗi con người và mỗi quốc gia. Nó là nền tảng
của sự tồn tại và phát triển bền vững của xã hội, bất cứ hoạt
động gì của con người cũng diến ra trong môi trường và vì thế
nó có những tác động nhất định tới môi trường. Hiện nay với sự
bùng nổ dân số trên toàn cầu và tốc độ công nghiệp hóa cao đã
gây ra những tổn thất to lớn cho môi trường. Những tốn thất
này đang là mối đe dọa cho toàn nhân loại. Chính vì vậy một
trong những vấn đề mang tính toàn cầu hiện nay là những biện
pháp bảo vệ hiệu quả nhất cho môi trường của trái đất. Việt
Nam cũng không tránh khỏi những vấn đề nan giải về môi
trường. Trong đó, vấn đề quản lí chất thải nguy hại là một vấn
đề bức thiết, đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp giải
quyết. Xuất phát từ tấm quan trọng của chất thải nguy hại, Nhà
nước đã ban hành những văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực
này. Tuy nhiên, đây là một vấn đề khá mới mẻ nên bên cạnh
những ưu điểm của những quy định về quản lí chất thải nguy
hại không tránh khỏi những bất cập, những thiếu sót. Việc hoàn
thiện những quy định về quản lí chất thải nguy hại sẽ góp phần
không nhỏ cho công tác bảo vệ môi trường của nước ta đảm
bảo cho sự phát triển bền vững trong thòi kì phát triển kinh tế
như hiện nay.
I – Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
2
1. Khái niệm chất thải nguy hại
Chất thải nguy hại luôn là một trong những vấn đề môi


trường trầm trọng nhất mà con người dù ở bất cứ đâu
phải tìm cách để đối phó. Phải hiểu chất thải nguy hại là
gì và tác hại của nó như thế nào mới giúp chúng ta có cơ
sở đặt ra các quy định để quản lý nó. Hiện nay ở Việt Nam
có hai văn bản pháp luật nêu định nghĩa về chất thải
nguy hại:
- Theo Quy chế quản lý chất thải nguy hại năm 1999:
“Chất thải nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp
chất có một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ
cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và các
đặc tính gây nguy hại khác), hoặc tương tác với các chất
khác gây nguy hại tới môi trường và sức khoẻ con người”
Luật bảo vệ môi trường ban hành sau này nêu định nghĩa
ngắn gọn hơn, rõ ràng hơn và gần như là sự khái quát của
định nghĩa trong Quy chế quản lý chất thải nguy hại
- Theo Luật bảo vệ môi trường 2005: “Chất thải nguy hại
là chất thải chứa yếu tố độc hại, phúng xạ, dễ cháy, dễ nổ,
dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy
hại khác”
Tuy có sự khác nhau về từ ngữ nhưng cả hai định nghĩa
đều có nội dung tương tự nhau, giống với định nghĩa của
các nước và các tổ chức trên thế giới, đó là nêu lên đặc
tính gây huy hại cho môi trường và sức khỏe cộng đồng
của chất thải nguy hại.
2. Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
a, Định nghĩa
Dựa trên các quy định của Quy chế quản lý chất thải nguy
hại và Luật bảo vệ môi trường 2005, khái niệm pháp luật
về quản lý chất thải nguy hại có thể được hiểu như
sau: Đó là một hệ thống các quy phạm pháp luật điều

chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan đến chất
thải nguy hại đối với cơ quan quản lý nhà nước về môi
3
trường và với nhau trong quy trình quản lý chất thải
nguy hại nhằm bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng
đồng.
Với tư cách là phương tiện hàng đầu của quản lý nhà
nước đối với chất thải nguy hại, pháp luật xác định địa vị
pháp lý của các cá nhân, các tổ chức sản xuất kinh doanh
có liên quan đến lĩnh vực chất thải nguy hại, tạo hành
lang pháp lý để các chủ thể này tham gia vào các quan hệ
khai thác, sử dụng các thành phần môi trường. Cũng
thông qua pháp luật, Nhà nước với vai trò là chủ thể
quản lý tạo ra môi trường thuận lợi, tin cậy và chính thức
cho các hoạt động quản lý chất thải nguy hại trong phạm
vi cả nước, cần kiểm soát tốt chất thải nguy hại ngay từ
nguồn thải đồng thời thực hiện tốt các bước trong quy
trình quản lý chất thải nguy hại như thu gom, vận
chuyển, quá cảnh, lưu trữ, xử lý và tiêu hủy chất thải
nguy hại.
b, Nội dung pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã đưa ra một
quy trình để triển khai và thực hiện một cách lần lượt từ
việc thu gom, lưu giữ, vận chuyển đến việc xử lý và tiêu
hủy chất thải nguy hại. Đồng thời cũng quy định rõ trách
nhiệm của các chủ thể liên quan đến chất thải nguy hại,
từ các cơ quan quản lý nhà nước đến các tổ chức, cá nhân.
Cụ thể:
+ Việc quản lý chất thải nguy hại phải được lập hồ sơ và
đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi

trường. Nếu các tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện về năng
lực quản lý chất thải nguy hại thì được cơ quan quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường có thẩm quyền cấp giấy
phép, mã số hoạt động quản lý chất thải nguy hại. (Điều
70 Luật bảo vệ môi trường 2005)
+ Việc phân loại, thu gom, lưu giữ tạm thời chất thải nguy
hại phải được tiến hành theo hai cách: Tổ chức, cá nhân
4
có hoạt động làm phát sinh chất thải huy hại phải tổ chức
phân loại, thu gom hoặt hợp đồng chuyển giao cho bên
tiếp nhận quản lý chất thải thu gom chất thải nguy hại.
Chất thải nguy hại phải được lưu giữ tạm thời trong thiết
bị chuyên dụng bảo đảm không rò rỉ, rơi vãi, phát tán ra
môi trường. Tổ chức, cá nhân phải có kế hoạch, phương
tiện phòng, chống sự cố do chất thải nguy hại gây ra,
không để lẫn chất thải nguy hại với chất thải thông
thường. (Điều 71 Luật bảo vệ môi trường 2005)
+ Việc vận chuyển chất thải nguy hại phải bằng thiết bị,
phương tiện chuyên dụng phù hợp, đi theo tuyến đường
và thời gian do cơ quan có thẩm quyền về phân luồng
giao thông quy định. Chỉ những tổ chức, cá nhân có giấy
phép vận chuyển chất thải nguy hại mới được tham gia
vận chuyển. Phương tiện vận chuyển chất thải nguy hại
phải có thiết bị phòng, chống rò rỉ, rơi vãi, sự cố do chất
thải nguy hại gây ra. Tổ chức, cá nhân vận chuyển chất
thải nguy hại phải chịu trách nhiệm về tình trạng rò rỉ,
rơi vãi xảy ra sự cố môi trường trong quá trình vận
chuyển, xếp dỡ. (Điều 72 Luật bảo vệ môi trường 2005)
+ Việc xử lý chất thải nguy hại phải tiến hành bằng
phương pháp, công nghệ, thiết bị phù hợp với đặc tính

hóa học, lý học và sinh học của từng loại chất thải nguy
hại để đảm bảo đạt tiêu chuẩn môi trường. Trường hợp
trong nước không có công nghệ, thiết bị xử lý thì phải lưu
giữ theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường cho đến khi
chất thải được xử lý. Chỉ những tổ chức, cá nhân được cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép và
mã số hoạt động mới được tham gia xử lý chất thải nguy
hại. Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở xử lý chất
thải nguy hại phải lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường và thực hiện yêu cầu về bảo vệ môi trường. Việc
chuyển giao trách nhiệm xử lý chất thải nguy hại giữa
5
chủ có hoạt động làm phát sinh chất thải và bên tiếp
nhận trách nhiệm xử lý chất thải được thực hiện bằng
hợp đồng, có xác nhận của cơ quan chuyên môn về bảo vệ
môi trường cấp tỉnh. Hợp đồng chuyển giao trách nhiệm
xử lý chất thải nguy hại phải ghi rõ xuất xứ, thành phần,
chủng loại, công nghệ xử lý, biện pháp chôn lấp chất thải
còn lại sau xử lý. (Điều 73 Luật bảo vệ môi trường 2005)
+ Việc thải bỏ, chôn lấp chất thải nguy hại còn lại sau khi
xử lý phải được thực hiện theo quy định của pháp luật và
hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
về bảo vệ môi trường. Khu chôn lấp chất thải nguy hại
phải đáp ứng các yêu cầu: Được bố trí đúng quy hoạch,
thiết kế theo yêu cầu kỹ thuật đối với khu chôn lấp chất
thải nguy hại. Có khoảng cách an toàn về ôi trường đối
với khu dân cư, khubaor tồn thiên nhiên, nguồn nước
mặt, nước dưới đất phục vụ mục đích sinh hoạt. Có hàng
rào ngăn cách và biển hiệu cảnh báo. Có kế hoạc và trang

bị phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường. Bảo đảm các
điều kiện về vệ sinh môi trường, tránh phát tán khí độc
ra môi trường xung quanh. (Điều 74, 75 Luật bảo vệ môi
trường 2005)
Do chất thải nguy hại thường có nguồn gốc phát sinh từ
các hoạt đồng sản xuất kinh doanh thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau nên pháp luật môi trường cũng quy định
trách nhiệm của nhiều loại cơ quan trong việc quản lý
loại chất thải này. Cụ thể:
- Bộ tài nguyên và môi trường thực hiện việc thống nhất
quản lý nhà nước về chất thải nguy hại trong phạm vi
toàn quốc; chịu trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo các hoạt
động quản lý chất thải nguy hại. Ban hành các chỉ tiêu
môi trường cho việc lựa chọn bãi chôn lấp chất thải nguy
hại các chỉ tiêu kỹ thuật cho việc thiết kế, xây dựng và
vận hành các khu lưu giữ, các bãi chôn lấp chất thải nguy
hại bảo đảm vệ sinh môi trường; lựa chọn và tư vấn các
6
công nghệ xử lý chất thải nguy hại; phối hợp với Bộ Tài
chính ban hành mức thu phí, lệ phí quản lý chất thải
nguy hại. Hướng dẫn nội dung và thẩm định các báo cáo
đánh giá tác động môi trường của cơ sở thu gom, vận
chuyển, lưu giữ, xử lý, tiêu hủy và các bãi chôn lấp chất
thải nguy hại. (Điều 21 Quy chế quản lý chất thải nguy
hại)
- Bộ xây dựng có trách nhiệm Hướng dẫn các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương trong việc quy hoạch xây
dựng các khu xử lý chất thải nguy hại hợp vệ sinh, các bãi
chôn lấp chất thải nguy hại phù hợp với quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Phối hợp với ủy ban

nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong
việc chỉ đạo các Sở Giao thông Công chính trong việc lập
quy hoạch và kế hoạch xây dựng các khu lưu giữ, các cơ
sở xử lý, tiêu hủy, các bãi chôn lấp chất thải nguy hại hợp
vệ sinh, lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch quản
lý chất thải (bao gồm cả chất thải nguy hại) của địa
phương (Điều 22 Quy chế quản lý chất thải nguy hại)
- Bộ công nghiệp có trách nhiệm Giám sát, kiểm tra và
triển khai các biện pháp hữu hiệu buộc các chủ nguồn
thải phải tuân thủ các quy định của Quy chế. Trường hợp
các chủ nguồn thải không có khả năng tự thực hiện được
việc thu gom, xử lý, tiêu hủy chất thải nguy hại, thì yêu
cầu các chủ nguồn thải phải ký hợp đồng với các chủ thu
gom, vận chuyển, xử lý, tiêu hủy chất thải nguy hại. Phối
hợp với Tài nguyên và môi trường tổ chức điều tra, đánh
giá mức độ ô nhiễm môi trường do chất thải nguy hại gây
ra tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc Bộ Công
nghiệp quản lý (Điều 23 Quy chế quản lý chất thải nguy
hại)
- Bộ y tế có trách nhiệm Giám sát, kiểm tra và có các biện
pháp hữu hiệu buộc các bệnh viện, trạm y tế, cơ sở dịch
vụ y tế tuân thủ các quy định của Quy chế. Chủ trì, phối
7
hợp với Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Xây dựng trong
việc quy hoạch, lựa chọn công nghệ, thiết bị, đầu tư xây
dựng và vận hành hệ thống lò thiêu đốt chất thải y tế đạt
tiêu chuẩn môi trường Việt Nam, ban hành quy chế quản
lý chất thải y tế. (Điều 24 Quy chế quản lý chất thải nguy
hại)
- Bộ quốc phòng, Bộ công an có trách nhiệm Giám sát,

kiểm tra và triển khai thực hiện các biện pháp hữu hiệu
buộc các chủ nguồn thải thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công
an tuân thủ các quy định về quản lý chất thải nguy hại.
Các chủ nguồn thải CHấT THảI được Bộ Quốc phòng, Bộ
Công an xác nhận là các chủ nguồn thải hoạt động thuần
túy trong lĩnh vực kinh tế phải chấp hành đầy đủ các quy
định về quản lý chất thải nguy hại. (Điều 25 Quy chế quản
lý chất thải nguy hại)
- Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Chỉ đạo Sở Xây dựng lập quy hoạch, kế hoạch xây dựng
các khu lưu giữ, các cơ sở xử lý, tiêu hủy và các bãi chôn
lấp CHấT THảI hợp vệ sinh thuộc địa bàn quản lý của địa
phương. Chỉ đạo Sở Giao thông Công chính lập kế hoạch
khả thi (phương án tổ chức, phương tiện, thiết bị, công
nghệ, vốn ) Và tổ chức thực hiện tốt kế hoạch quản lý
chất thải bao gồm cả thu gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý
và tiêu hủy chất thải nguy hại trên địa bàn quản lý của
địa phương. Chỉ đạo Sở Tài nguyên và môi trường hướng
dẫn nội dung, yêu cầu xây dựng báo cáo đánh giá tác
động môi trường cho các chủ cơ sở lưu giữ, xử lý, tiêu hủy,
các bãi chôn lấp chất thải nguy hại để trình cơ quan quản
lý nhà nước về môi trường có thẩm quyền phê duyệt.
(Điều 27 Quy chế quản lý chất thải nguy hại)
II – Ưu điểm và hạn chế của pháp luật về quản lý chất thải
nguy hại
8
1. Ưu điểm
Mục đích của pháp luật quản lý chất thải nguy hại là bảo vệ môi trường và
sức khỏe của cộng đồng. Thông qua vấn đề đặt ra các khung pháp lý quy
định về trách nhiệm của cơ quan Nhà nườ về môi trường: quyền, nghĩa vụ

của các tổ chức cá nhân liên quan đến chất thải nguy hại. Pháp luật quản lý
chất thải nguy hại đã phân định rõ quyền hạn cho các cơ quan Nhà nước
giúp cho hoạt động quản lý của Nhà nước đối với vấn đề này đạt hiệu quả
cao. Đồng thời pháp luật còn định hướng cho hành vi, xử sự của các chủ
thể khi tham gia các hoạt động liên quan đến chất thải nguy hại. Qua đó
ngăn ngừa, hạn chế việc gia tăng số lượng chất thải nguy hại vào môi
trường, giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi của nó đối với sức khỏe con
người cũng như môi trường sống.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, với việc thành lập nhiều nhà máy, xí
nghiệp, pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã góp phần đáng kể hạn
chế các vi phạm về môi trường thông qua các biện pháp cụ thể.
Biện pháp pháp lý: Với tư cách là hệ thống các quy phạm pháp luật điểu
chỉnh hành vi xử sự của con người, pháp luật quản lý chất thải nguy hại đã
tác động trực tiếp đến hành vi xử sự của các chủ thể. Đây là biện pháp đem
lại hiểu quả cao nhất, thông qua đó hoạt động quản lý chất thải nguy hại
được thể chế hóa bằng pháp luật.
Biện pháp kinh tế: Đó là việc sử dụng lợi ích vật chất để kích thích hoặc bắt
buộc các chủ thể thực hiện những hoạt động có lợi cho hoạt động quản lý
chất thải. Biện pháp này thực hiện thông qua hình thức thu phí chất thải đổi
với các cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế lượng chất thải có thể phát
sinh ngay tại nguồn. Áp dụng thuế cao đối với những sản phẩm có khả
năng gây ô nhiễm môi trường hoặc sức khỏe con người ở mức độ cao. Đó
còn là những biện pháp hỗ trợ vốn, miễn giảm thuế cho doanh nghiệp đầu
tư trang thiết bị công nghệ thân thiện môi trường, Biện pháp kinh tế rất
cần thiết và có hiệu quả phòng ngừa cao vì nó tác động trực tiếp tới nguồn
thu nhập, lợi nhuận của doanh nghiệp
Biện pháp khoa học công nghệ: Vận dụng các thiết bị khoa học công nghệ
tiên tiến vào việc quản lý chất thải. Biện pháp này giúp hạn chế được lượng
chất thải, đồng thời xử lý được khối lượng lớn và triệt để chất thải.
Biện pháp chính trị: Đảng đưa ra vấn đề môi trường và quản lý chất thải

trong cương lĩnh của mình, từ đó thể chế hóa thành pháp luật. Biện pháp
này có tác dụng định hướng và có tính bao quát cao.
Các quy định của pháp luật ngày càng rõ ràng và cụ thể đã làm cho người
dân hiểu pháp luật, nâng cao ý thức của họ. Người dân sẽ tự giác thực hiện
những hành vi có ích cho môi trường.
2. Hạn chế của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
- Việc quy định của pháp luật về quản lí chất thải là một trong những vấn
9
đề vô cùng quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường. Tuy nhiên,
trên thực tế những quy định pháp luật về quản lí chất thải nguy hại còn rất
nhiều bất cập. Chính những hạn chế trong pháp luật về quản lí chất thải
nguy hại đang làm ảnh hưởng xấu đến công tác quản lí chất thải nguy hại.
Một thực tế đã bôc lộ và gây nhiều khó khăn cho công tác quản lí chất thải
hiện nay là hệ thống văn bản pháp luật về quản lí chất thải nguy hại của
chúng ta vẫn còn chưa đầy đủ chưa hoàn thiện, thiếu những văn bản chi tiết
hướng dẫn việc thực hiện và nhất là thiếu các chế tài xử phạt. Như chưa có
các quy đinh về quản lí khí thải, các quy đinh về chất thải nguy hại từ sinh
hoạt và nông nghiêoj chưa được quản lí chặt chẽ, quy định về lưu giữ chất
thải chờ thiết bị công nghệ không mang tính khả thi, chưa có quy định của
pháp luật về phân loại các chất thải nguy hại trong sinh hoạt.
Chế tài xử phạt còn nhẹ đối với các hành vi vi phạm: Thiếu các quy định
liên quan đến mua bán chất thải, kinh doanh chất thải. Người bán chất thải
nguy hại chỉ bị xử lí kỉ luật, không bị xử lí về phương diện môi trường.
Người mua cũngkhông bị xử lí về phương diện môi trường mà chỉ bị xử lý
kỷ luật
Việc xây dựng các quy định về quản lí chất thải mới chỉ căn cứ chủ yếu vào
kết quả của một dự án ( Dự án TA:2704-VIE-chiến lược quốc gia về quản lí
CHấT THảI ở Việt Nam) mà chưa mang tính tổng thể vì vậy nội dung của
quy chế chỉ tập trung tới các hóa chất ở ba dạng: chất thải chứa kim loại,
chất thải chứa chất hữu cơ vô cơ, chất thải chứa hợp chất nhưng bản chất

CHấT THảI có tính đa dạng hơn nhiều so với các hóa chất thuần túy và vì
thế quy chế đã được ban hành nhưng thiếu tính khả thi vì nó chưa bao trùm
hết các dạng chất thaỉ nguy hại.
Để các văn bản pháp luật liên quan đến quản lí chất thải phát huy hiệu lực
cần có sự hướng dẫn cu thể và chi tiết, ví dụ cần chỉ rõ các yêu cầu thiêu
đốt chất thải y tế và chỉ ra cụ thể diện tích tối thiểu mà một bãi chôn lấp
hợp vệ sinh cần có hay chí tiết hóa mục tiêu với phần trăm phạm vi thu
gom. Tuy nhiên cho đến nay mặc dù quy chế quản lí chất thải nguy hại và
sau đó là quy chế quản lí chất thải y tế đã được ban hành khá lâu nhưng
điều bất cập là chưa có đầy đủ các thông tư hướng dẫn cụ thể. Việc thực
hiện quy chế cho các đối tượng là các cơ quan quản lí nhà nước về CHấT
THảI ở địa phương các nguồn chất thải chủ thu gom vận chuyển, chủ xử lí
tiêu hủy CHấT THảI. Việc ban hành các văn bản quy định về các tiêu
chuẩn bãi chôn lấp hợp vệ sinh tiêu chuẩn xe chuyển tải, tiêu chuẩn thiết bị
vận hành xử lí cũng còn chậm trễ và chưa đồng bộ.
Một vấn đè nữa đang gây rất nhiều khó khăn trong công tác thực hiện pháp
luật về quản lí CHấT THảI hiện nay là chúng ta chưa thể thể chế hóa được
các chế tài xử lí cu thẻ việc vi phạm các quy định về quản lí CHấT THảI
trong quy chế mới Điều 30 đề cập tới vấn đề này nhưng rất chunh chung
10
chưa cụ thể.
Việc xây dưng các tiêu chuẩn hiện nay dựa tên giả định trước rằng đã đầy
đủ cơ quan giám sát các hoạt động người gây ô nhiễm và có quyền ra lệnh
phạt những người vi phạm. Tuy nhiên hiện nay hệ thống thanh tra môi
trường ở các địa phương còn yếu, chưa có đủ chuyên môn và kinh nghiệm
cần thiết. Từ góc đọ khác có thể thấy những người tham gia xây dựng các
tiêu chuẩn thường có tham vọng và đưa ra các tiêu chí tương đối nghiêm
ngặt thường quá cao so vói trình độ phát triển chung toàn quốc và do đó
khó có đủ cơ sở để thực thi hiệu quả.
- Đối với những quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người sản sinh chất

thải nguy hại nhìn chung là đã đáp ứng được thực tiễn đặt ra nhưng vần còn
những hạn chê đó là việc quy đỉnh rất chung chung.
Quy định phải thực hiện các biện pháp giảm thiểu chất thải ngay từ nguồn
nhưng lại không quy định những biện pháp cụ thể. Đối với việc giảm thiểu
CHấT THảI ngay từ nguồn là rất phù hợp, là một biện pháp giải quyết tiến
bộ nên quy định những biện pháp rõ ràng cụ thể vì nếu các chủ thể tiến
hành xử lí chất thải từ nguồn mà áp dụng không đúng các biện pháp thì có
thể gây ra những hậu quả nặng nề cho môi trường nên cần quy định rõ các
biện pháp cụ thể. Chất thải rất đa dạng phong phú, mỗi loại lại có những
biện pháp xử lí riêng nên công việc này khá phức tạp đòi hỏi pháp luật cần
điều chỉnh và can thiệp cụ thể hơn nữa.
Phải tổ chức lưu giữ tạm thời trong thiết bị chuyên dụng, đóng gói chất thải
nguy hại theo chủng loại theo các bao bì thích hợp đáp ứng các yêu cầu an
toàn kĩ thuật” Nhưng bên cạnh đó còn một vấn đề nảy sinh một vấn đề là
việc lưu giữ tạm thời với các đối tượng sản sinh là rất tốn kém. Vì việc lưu
giữ CHấT THảI là một vấn đề khá phức tạp phải có những dụng cụ, theo
một quy trình kĩ thuật xử lí công phu đòi hỏi phảir có chi phí kinh tế lớn mà
với cơ sở sản sinh thì rất khó để những đối tượng này chi ra một khoản tiền
lớn như vậy. Trên thực tế thì các cơ sở này cũng khó có thể đáp ứng được
đúng các tiêu chuẩn kĩ thuật.
Khu vực lưu giữu chất thải của nơi sản sinh có một vai trò quan trọng, cần
có thêm quy định về vấn đề này.
- Đối với những quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người vận chuyển
CHấT THảI
Pháp luật quy định chỉ được vận chuyển khi có giấy phép vận chuyển chất
thải nguy hại do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Quy định này nhằm
giúp các cơ quan quản lí tốt nhất quá trình vận chuyển chất thaỉ nguy hại.
Song trên thực tế vấn đề xin cấp giấy phép còn gặp nhiều khó khăn, phải
qua nhiều khâu xem xét, thẩm định Vậy nếu lượng chất thải ứ đọng quá
lớn mà giấy phép vận chuyển đi tiêu hủy chưa xin được thì cần phải có biện

pháp cụ thể xử lí.
11
Do tính chất của việc vận chuyển chất thải nguy hại có tính chất đặc thù
nên pháp luật phải quy định cụ thể hơn nữa về người vận chuyển chất thải
nguy hại vì người này gắn liền với quá trình vận chuyển và là người chủ
yếu đảm bảo an toàn cho quá trình vận chuyển.
Thiếu quy định về việc quyết định các biện pháp xử lý khi có sự cố xảy ra
trong quá trình vận chuyển chất thải nguy hại. Pháp luật chỉ quy định là tự
chịu trách nhiệm còn chịu trách nhiệm cụ thể như thế nào thì chưa quy định
rõ.
Việc quy định về phương tiện vận chuyển còn lỏng lẻo. Pháp luật chỉ quy
định bằng phương tiện chuyên dụng phù hợp để xác định một phương tiện
đủ tiêu chuẩn để vận chuyển chất thải nguy hại thì chưa có những tiêu
chuẩn cụ thể
- Đối với người xử lý chất thải nguy hại
Chỉ được thực hiện những hoạt động xử lý khi có giấy phép và mã số hoạt
động do cơn quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp. Đây là một quy
định hợp lý nhưng trên thực tế khâu cấp giấy phép lại gây ra những khó
khăn cho hoạt động xử lý. Hoạt động xử lý vô hình chung làm ảnh hưởng
đến tốc độ của quá trình này.
Pháp luật quy định phương pháp xử lý chất thải nguy hại bằng phương
pháp công nghệ, thiết bị phù hợp với đặc thù hóa học, lý học và sinh học
của từng loại chất thải nguy hại đểm đảm bảo đạt được tiêu chuẩn môi
trường. Trường hợp trong nước không có công nghệ thiết bị xử lý thì phải
lưu giữ theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà
nước về bảo vệ môi trường cho đến khi chất thải được xử lý. Nhưng trên
thực tế công nghệ khoa học kỹ thuật trong nước vể kiểm định và xử lý chất
thải còn lạc hậu, vấn đề kinh phí để đổi mới và bổ sung các thiết bị khoa
học tiên tiến còn đang gặp khó khăn do thiếu nguồn đầu tư, bởi vậy nếu
không có công nghệ thiết bị phù hợp với đặc tính của chất thải nguy hại mà

phải lưu giữ để chờ mua được thiết bị thì phải chờ đến khi nào?
- Ngoài ra còn một số khó khăn khác làm ảnh hưởng tới quản lý chất thải
nguy hại như:
Hệ thống pháp luật liên quan tới chất thải nguy hại tại Việt Nam còn chưa
đồng bộ và đầy đủ. Những quy định của pháp luật chính là cơ sở pháp lí để
thực hiện nghĩa vụ của các cá nhân tổ chức trong việc quản lí chất
thải.Công tác này đã có sự quan tâm và đầu tư nhất định từ phía Nhà nước
nhưng trên thực tế thì hệ thống văn bản pháp luật về lĩnh vực này còn thiếu
nhiều văn bản hướng dẫn về chất thải gây khó khăn cho quá trình quản lí
chất thải. Các văn bản hiện hành phần lớn đề cập tới việc quản lí chất thải
rắn, chất thải y tế … các chất thải khác như chất thải sinh hoạt, chất thải
lỏng, chất thải trong công nghiệp, chất thải phóng xạ… chưa được quan
tâm thích đáng. Việc điều chỉnh những hành vi quản lí chát thải trong lĩnh
12
vực trên thường được dẫn chiếu từ những văn bản khác nhau, do đó các cơ
quan có thẩm quyền thường không có cơ sở để áp dụng.
Vấn đề vốn công nghệ và trình độ công nghệ còn gập nhiều khó khăn. Về
cơ bản nguồn vốn đầu tư cho quản lí chất thải đặc biệt là xử lí chât thải còn
hạn hẹp, trong khi đó nhu cầu quản lí đòi hỏi phải có đầu tư lớn và tập
trung. Hơn thế nữa công nghệ xử lí chất thải còn lạc hậu là nguyên nhân
khiến chất thải không được xử lí triệt để. Hiện nay ngân sách nhà nước
dành cho công tác bảo vệ môi trường và quản lí chất thải là 1% và dự kiến
đến năm 2010 là 2 %. Công nghệ xử lí chất thải còn lạc hậu. Theo Bộ Tài
nguyên và môi trường hiện nay có trên 193 đội thuộc các ngành như chế
biến thực phẩm và dược phẩm … cho thấy có 118 nhà máy đã đầu tư xây
dựng trạm xử lí nước thải. Tuy nhiên có tới 21/118 trạm không hoạt động.
Các trạm xử lí nước thải hoạt động thường xuyên là của đơn vị đầu tư nước
ngoài nhưng cũng chỉ là đối phó với cơ quan chức năng. Mặt khác, lại thấy
hầu hét các trạm xử lí chất thải đều không có các cán bộ kĩ thuật chuyên
trách về môi trường đề điều chính các thông số tối ưu trong xử lí nên hệ

thống vận hành không đúng theo hướng dẫn kĩ thuật, làm giảm tuổi thọ hệ
thống.
Nhận thức của cộng đông về công tác bảo vệ môi trường và xử lí chất thải
còn yếu kém. Người dân hầu như không nhận thức được tác hại của rác thải
và sự ảnh hưởng của rác thải với sức khỏe và môi trường sống, ý thức bảo
vệ môi trường chưa cao. Người dân thường quan niệm quản lí chất thải là
công việc của nhà nước, pháp luật, chính vì vậy tình trạng xả thác tràn lan
bừa bãi còn phổ biến. Nếu cứ tiếp tục xả rác như hiện nay thì phải sống
chung với rác thải của chính mình
III - Giải pháp
13
Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững hiện nay đã trở thành một vấn đề
sống còn của toàn nhân loại. Cùng với phát triển kinh tế, mức sinh hoạt của
người dân ngày càng được nâng cao thì lượng chất thải nguy hại cũng tăng
nhanh gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng môi trường và sức khoẻ
con người.Chất thải nguy hại luôn là một trong những vấn đề môi trường
trầm trọng nhất mà con người dù ở bất cứ đâu cũng phải tìm cách để đối
phó. Có người cho rằng, chỉ có các nước phát triển mới phải lo lắng đến
việc quản lý chất thải nguy hại vì ở các nước phát triển đã sản sinh ra nhiều
chất thải, còn các nước đang phát triển thì còn nhiều vấn đề khác cần ưu
tiên quan tâm hơn. Đây là một suy nghĩ rất sai lệch. Vì, như chúng ta biết,
với tốc độ phát triển liên tục của công nghiệp hoá ở các nước đang phát
triển, vấn đề quản lý chất thải nguy hại là hết sức cần thiết, đòi hỏi phải có
sự quan tâm đặc biệt để đối phó ngay một cách nghiêm túc, kịp thời trước
khi vấn đề đã trở nên trầm trọng.
Ở Việt Nam, quản lý chất thải và đặc biệt là chất thải nguy hại đang là một
trong những nội dung quan trọng trong lĩnh vực quản lý môi trường.
Ngày 16/7/1999, Chính phủ đã ban hành Quy chế quản lý chất thải nguy
hại, theo đó khái niệm chất thải nguy hại đã được nêu tại Khoản 2, Điều 3
như sau: “Chất thải nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất

có một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ
độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác) hoặc
tương tác với các chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khoẻ con
người”. Khái niệm này được khái hơn trong Luật bảo vệ môi trường 2005
như sau: “Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phúng xạ, dễ
cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại
khác “ .Theo định nghĩa, chất thải nguy hại có các đặc tính lý hoá hoặc sinh
học đòi hỏi phải có một quy trình đặc biệt để xử lý hoặc chôn lấp nhằm
tránh những rủi ro đối với sức khoẻ con người và những ảnh hưởng bất lợi
đối với môi trường.
1. Kinh nghiệm của các nước
Có thể nói, công tác quản lý chất thải nguy hại là một vấn đề thời sự nóng
hổi hiện đang được cả thế giới quan tâm, bởi tất cả đều nhận thức được
rằng: nếu không có các biện pháp để quản lý chất thải nguy hại một cách
hiệu quả, đúng đắn thì những hậu quả không thể lượng trước được của nó
khiến chúng ta và cả thế hệ mai sau phải gánh chịu. Chính vì vậy, các quốc
gia đều có đưa ra các quy định pháp luật cụ thể về công tác quản lý chất
thải nguy hại để ngăn ngừa và giảm thiểu tối đa các tác hại của chất thải
nguy hại. Để hiểu rõ thêm tầm quan trọng của điều đó, chúng ta sẽ đi sâu
phân tích sự tiếp cận ở một số nước trong lĩnh vực này.
Ở Pháp, văn bản quy định đầu tiên về những cơ sở sản xuất bị đưa vào
danh sách xếp hạng gây ô nhiễm môi trường là một sắc lệnh Napoléon ký
14
năm 1810, và từ năm 1917 trở đi văn bản này được liên tục sửa đổi, bổ
sung.
Chính sách của Pháp trong việc quản lý chất thải đã được cụ thể hoá bằng
một văn bản đầu tiên mang tên Luật về chất thải rắn được thông qua vào
năm 1975, đây là mốc đánh dấu giai đoạn đầu tiên việc thiết lập một quá
trình quản lý hiện đại công tác xử lý chất thải. Cũng chính tại Luật này đã
đưa ra những công cụ và cơ chế để quản lý những loại hình rác thải đặc biệt

(hay còn gọi là chất thải nguy hại).
Ngày 2/2/1995, Pháp lại có thêm một bộ luật mới là Bộ luật về tăng cường
bảo vệ môi trường đã thiết lập thêm phụ phí đối với việc xử lý chất thải
nguy hại, tương đương 40F (frăng Pháp)/1 tấn chất thải được loại bỏ để lại
trong một cơ sở xử lý, và sẽ được tăng gấp đôi nếu tấn chất thải đó được
tích trong một bãi thải đặc biệt. Phụ phí này do Cục Môi trường và quản lý
năng lượng thu lại và trong vài năm tới sẽ tăng gấp đôi. Năm 1998, phụ phí
trên đã mang lại 10 triệu frăng Pháp được sử dụng cho việc phục hồi và xử
lý những địa điểm ô nhiễm đã bị bỏ hoang.
Cộng hoà liên bang Đức đã đưa ra các biện pháp chiến lược để quản lý các
chất thải nguy hại như: ngăn ngừa ngay từ nguồn thải, giảm thiểu số lượng
chất thải nguy hại, xử lý và tái sử dụng chúng. Trong vòng 20 năm lại đây,
Cộng hoà liên bang Đức đã ban hành nhiều đạo luật về quản lý chất thải.
Có khoảng 2000 điều luật, quyết định, quy định về hành chính với nội
dung phân loại các chất độc hại trong chất thải khí, rắn, nước về thu thập,
vận chuyển, xác định biện pháp giải quyết chất thải. Mỗi lần thay đổi luật,
quy định mới lại khắt khe và chặt chẽ hơn. Đó là những biện pháp xử lý
bằng pháp luật rất nghiêm các trường hợp làm phát sinh các chất thải nguy
hại mà chưa xử lý hoặc quá giới hạn cho phép, có thể áp dụng biện pháp
phạt tiền hoặc đình chỉ hoạt động của nhà máy, xí nghiệp hay cơ sở sản
xuất đã vi phạm pháp luật, bắt bồi thường thiệt hại gây ra hoặc truy tố trước
pháp luật.
Bên cạnh đó, pháp luật của Cộng hoà liên bang ĐỨc khuyến khích việc đổi
mới công nghệ và thiết bị (bằng cách thay thế từng phần hoặc toàn bộ)
nhằm hướng tới một công nghệ không hoặc ít sinh ra chất thải nguy hại.
Nhà nước cộng hoà Liên bang Đức giảm thuế hoặc cho vay tiền với lãi suất
thấp trả dần nếu đầu tư vào công nghệ mới hay thiết bị xử lý chất thải nguy
hại. Thêm vào đó, Nhà nước còn tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân nhận
thức được tác hại nguy hiểm của loại chất thải này và chính nhân dân sẽ là
người giúp cho các cơ quan nhà nước kiểm tra, phát hiện các nguồn phát

sinh ra chất thải nguy hại và nhanh chóng tìm ra biện pháp giải quyết. Sự
phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước, các kỹ thuật gia, các nhà sinh
học, hoá học trong lĩnh vực chất thải nguy hại đã đưa cộng hoà liên bang
Đức trở thành một trong những quốc gia đứng hàng đầu về công nghệ bảo
15
vệ môi trường nói chung và trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại nói
riêng.
Đối với các nước đang phát triển hiện nay, vấn đề quản lý chất thải nguy
hại cũng đang là vấn đề rất nhức nhối. Ở các nước này đã và đang tồn tại
nhiều chất thải nguy hại mà phần nhiều là do nhập khẩu hoá chất và các sản
phẩm khác từ các nước phát triển (như dầu mỏ, thuốc trừ sâu, các chất thải
hoá chất trong thương mại, axit và chỉ dùng trong tái chế acquy ). Ngoài
ra, còn có một lượng lớn chất thải nguy hại tồn tại lẫn trong rác sinh hoạt
và rác y tế mà khả năng phân loại và xử lý triệt để chúng còn là một vấn đề
nan giải.
Các nước đang phát triển đang phải đương đầu với những khó khăn như
thiếu vốn, thiếu cán bộ trong lĩnh vực công nghệ môi trường và nhiều khi là
thiếu cả cơ cấu hạ tầng cần thiết để duy trì hệ thống pháp lý và kiểm soát ô
nhiễm do chất thải nguy hại gây ra. Mặt khác, các nước đang phát triển
ngày càng khó kiếm được những công nghệ đơn giản mà các nước phát
triển đã áp dụng trước đó như là những công nghệ tạm thời hoặc chuyển
tiếp, vì hiện nay các công nghệ này đã bị cấm. Ví dụ như việc đốt chất thải
trên biển đã bị cấm cuối năm 1992, đổ chất thải công nghiệp xuống biển bị
cấm năm 1995 hay một số nước đã cấm việc đổ chất thải nguy hại chung
với các loại chất thải khác trong cùng một bãi thải, việc xuất khẩu cac chất
thải nguy hại sang các nước khác cũng bị Công ước Basel cấm.
Đa số các nước đang phát triển đều có những khó khăn lớn trong việc xây
dựng, áp dụng và thực thi các quy định pháp luật về quản lý chất thải nguy
hại. Cũng có một số nước đang phát triển đã xây dựng các văn bản pháp
luật theo cách của nước ngoài nhưng kết quả lại không khả quan, không có

hiệu quả vì đặc thù kinh tế - xã hội của các nước không hoàn toàn giống
nhau.
2. Thực trạng công tác quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam
Đồng thời với những thành quả do sự phát triển kinh tế đem lại, cũng xuất
hiện những nguy cơ gây ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng mà sự đe
doạ từ việc phát thải các chất thải nguy hại có ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khoẻ cộng đồng là một trong những vấn đề đáng lo ngại nhất. Nhận thức rõ
được điều đó, chúng ta đã sớm nhận ra các yêu cầu về việc xây dựng và
hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại, nhằm
đạt được mục tiêu đã đặt ra là không làm kìm hãm sự phát triển kinh tế,
đồng thời ngăn ngừa và giảm thiểu tối đa những tác hại do chất thải nguy
hại gây ra cho môi trường và sức khoẻ cộng đồng.
Luật bảo vệ môi trường 2005 và Quy chế quản lý chất thải nguy hại đã
được ban hành nhưng việc quản lý chất chải nguy hại vẫnkhông ít khó
khăn, trở ngại mà những nguyên nhân, những tồn tại chủ yếu xuất phát từ 2
vấn đề sau:
16
Thứ nhất, thực trạng các văn bản pháp luật
Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại của chúng ta hiện nay vẫn còn chưa
đầy đủ, chưa hoàn thiện, thiếu tính đồng bộ, tổng thể; thiếu những văn bản
chi tiết hướng dẫn việc thực hiện quy chế quản lý chất thải nguy hại; các
địa phương áp dụng chưa thống nhất và còn nhiều lúng túng và nhất là
thiếu các chế tài xử phạt cụ thể đối với các hành vi vi phạm.
Thứ hai, thực trạng áp dụng các văn bản pháp luật
Việc triển khai áp dụng các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường nói
chung và quản lý chất thải nguy hại nói riêng là một vấn đề hết sức khó
khăn, đòi hỏi phải kết hợp đồng bộ nhiều yếu tố như: tuyên truyền, giáo
dục để các đối tượng liên quan đến lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại hiểu
biết và nâng cao được ý thức tự giác trong việc thực hiện trách nhiệm của
mình; việc thực hiện chức năng, vai trò quản lý nhà nước trong việc triển

khai giám sát thực thi; vấn đề đầu tư vốn, phương tiện xử lý chất thải nguy
hại; việc xác định mức độ vi phạm và các chế tài xử phạt, v.v Nhưng có
thể nói, sau một số năm triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về
quản lý chất thải nguy hại, chúng ta chưa giải quyết được thấu đáo các vấn
đề trên và thực sự chưa thu được những kết quả khả quan như mong đợi do
rất nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Trong đó, có
những nguyên nhân chính là:
- Ý thức thực hiện pháp luật về môi trường nói chung và pháp luật về quản
lý chất thải nguy hại nói riêng của các cơ sở sản xuất kinh doanh và đại bộ
phận nhân dân chưa cao. Điều này cũng xuất phát từ sự nhận thức vấn đề
bảo vệ môi trường vẫn còn hạn chế và bản thân pháp luật môi trường hiện
nay do ảnh hưởng của nhiều vấn đề xã hội nên còn mang nặng tính tuyên
truyền, giáo dục và thiếu tính răn đe.
- Việc thực hiện các quy định pháp luật bắt buộc của các chủ nguồn thải,
chủ thu gom, vận chuyển, chủ lưu giữ, xử lý chưa được nghiêm túc và triệt
để, nhất là trong các cơ sở công nghiệp. Các nguyên nhân chính dẫn đến
tình trạng này là công tác thanh tra môi trường còn kém, các chế tài xử phạt
chưa nghiêm minh và chưa có tính răn đe cao. Ngoài ra, còn có một nguyên
nhân hết sức quan trọng khác là việc đầu tư kinh phí cho công tác này sẽ
làm tăng giá thành sản phẩm, giảm tính cạnh tranh trong kinh doanh.
3. Xây dựng cơ chế quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam
Từ những trình bày ở trên, nhóm em cho rằng, việc xây dựng cơ chế quản
lý chất thải nguy hại ở nước ta phải quán triệt quan điểm: kết hợp chặt chẽ
giữa việc xây dựng một hệ thống pháp luật “cứng” với các chính sách quản
lý “mềm” phù hợp với đặc thù của Việt Nam nhằm đảm bảo sự cân bằng
hai lợi ích - vừa thúc đẩy sự phát triển kinh tế và vừa ngăn ngừa, giảm thiểu
tác hại đến môi trường.
Một hệ thống pháp luật “cứng” là việc xây dựng một hệ thống các văn bản
17
pháp lý quy định chi tiết và đầy đủ trách nhiệm của các đối tượng liên quan

đến lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại như: các cơ quan quản lý nhà nước,
các chủ nguồn thải, chủ thu gom, vận chuyển, chủ lưu giữ, xử lý tiêu huỷ
chất thải nguy hại cũng như các chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các
hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải biết “mềm” hoá việc
thực thi pháp luật bằng các cơ chế, chính sách phù hợp nhằm tạo điều kiện
kích thích cho việc đầu tư phát triển nền kinh tế nhưng vẫn kiểm soát và
ngăn ngừa được ô nhiễm do việc phát sinh các chất thải nguy hại gây ra.
Để cụ thể hoá cho quan điểm trên, theo nhóm em cần thực hiện một số biện
pháp sau:
- Xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể
Ban hành các chỉ tiêu môi trường cho việc chọn lựa địa điểm, thiết kế xây
dựng, vận hành bãi chôn lấp chất thải nguy hại. Nghiên cứu, ban hành các
hướng dẫn về phương pháp tính để xây dựng phí thu gom, xử lý, tiêu huỷ
chất thải nguy hại. Ban hành danh mục các loại phế liệu, phế phẩm (trong
đó có quy định khống chế tỷ lệ chất thải nguy hại) được phép nhập khẩu
dùng trong sản xuất công nghiệp.
- Sửa đổi, bổ sung các quy định về xử lý các vi phạm
Hiện nay, các mức phạt theo các quy định tại Nghị định số 26/CP quy định
xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường là quá nhẹ, không hợp lý
và còn nhiều điểm quy định rất chung chung (ví dụ: theo Điểm b, Điều 16
Nghị định 26/CP, mức phạt cao nhất chỉ là 15.000.000đ áp dụng đối với
hành vi chôn vùi, thải các chất thải nguy hại quá giới hạn cho phép với khối
lượng lớn, thời gian khắc phục hậu quả lâu dài). Ngay cả trong 10 tội danh
tại Chương 17 Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định tội phạm về môi trường
cho thấy các mức xử lý các cá nhân vi phạm cũng còn rất thấp (chỉ có từ 5
– 10 năm là tối đa). Ở đây, chúng ta thử một phép so sánh một cá nhân nếu
phạm tội cố ý giết người trong Luật hình sự có thể bị kết án tử hình. Tuy
nhiên, chủ một doanh nghiệp cố ý thải chất thải nguy hại gây ô nhiễm
nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của nhân dân, gây nên nhiều
căn bệnh nan y dẫn đến tử vong cho nhiều người trong một thời gian dài thì

chỉ bị phạt tiền hoặc phạt tù ở mức độ thấp – đây là một điều chưa hợp lý.
Trong thời gian qua có rất nhiều tổ chức và cá nhân vi phạm các quy định
này và vẫn thường xuyên tái phạm vì tiền phạt không thấm là bao so với
việc phải đầu tư trang thiết bị cho công tác xử lý chất thải nguy hại. Vì vậy,
sự nghiêm minh và tính răn đe của pháp luật chưa được phát huy hiệu lực.
Giải pháp đề ra trong thời gian tới là: chúng ta cần sửa đổi, bổ sung các
mức xử phạt đúng đắn, sát với tình hình thực tế của công tác quản lý chất
thải nguy hại nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý trong vấn đề này.
- Ban hành một số chính sách quản lý nhà nước phù hợp
Các chính sách về tài chính
18
+ Thu lệ phí đối với các hoạt động gây ô nhiễm:
Các phí này là loại thuế hoặc phí trực tiếp đánh vào các chất thải nguy hại
tại điểm được sản sinh ra hay tại điểm đổ bỏ. Mục tiêu chính của những
thuế này là kích thích các nhà sản xuất sử dụng các phương pháp hạn chế
và giảm thiểu chất thải. Đánh thuế trực tiếp vào một số sản phẩm có khả
năng gây ảnh hưởng lớn đến môi trường như xăng, dầu có chì, nhà máy
nhiệt điện, thuốc trừ sâu, một số hoá chất, năng lượng
+ Có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng công nghệ sạch và
tạo điều kiện cho việc hình thành các công ty vận chuyển và xử lý chất thải
nguy hại từ những nguồn vốn khác nhau (vốn liên doanh, vốn cổ phần hoặc
vốn tư nhân) bằng các cơ chế tài chính như: miễn thuế, giảm thuế, cho vay
tín dụng ưu đãi ).
Các chính sách về quản lý hành chính và đầu tư khoa học công nghệ
+ Tăng cường hệ thống thanh tra môi trường. Cần tổ chức đào tạo chuyên
sâu về nghiệp vụ chuyên môn cũng như luật pháp đề đội ngũ này có khả
năng thực thi có hiệu quả công tác kiểm soát việc thực hiện các quy định
pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.
+ Xây dựng những khu công nghiệp tập trung bao gồm nhiều nhà sản xuất
để có phương án tập trung xử lý chất thải, cách này giảm được chi phí riêng

biệt cho các nhà sản xuất và tránh được ô nhiễm môi trường ở nhiều khu
vực khác nhau.
+ Khuyến khích việc nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công
nghệ trong lĩnh vực xử lý chất thải nguy hại.
- Công tác tuyên truyền, giáo dục
Khuôn khổ pháp lý là cần thiết nhưng ý thức tự giác của các tổ chức, cá
nhân trong hoạt động bảo vệ môi trường cũng đóng góp một vai trò quan
trọng, phù hợp với quan điểm chung: “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của
toàn dân”, tất cả cùng hướng đến mục đích vì một sự phát triển bền vững
trong hiện tại và tương lai cho đất nước. Vì vậy, chúng ta cần tăng cường
hơn nữa việc tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về chất thải nguy
hại và pháp luật về chất thải nguy hại, phân tích làm cho nhân dân hiểu
được rằng đây là một vấn đề đang được cả thế giới quan tâm và “tai hoạ sẽ
đến với tất cả chúng ta, không kể người giàu hay nghèo” nếu không ý thức
được điều này.
- Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
Để thúc đẩy nhanh và có hiệu quả quá trình hội nhập chúng ta cần:
+ Tích thực nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực và
các quốc gia trên thế giới trong vấn đề quản lý chất thải nguy hại để tìm ra
các giải pháp, các chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước.
+ Thiết lập và phát triển mối quan hệ hợp tác quốc tế sẽ giúp cho các hoạt
19
động quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại đạt kết quả
cao hơn. Thông qua các hoạt động như trao đổi thông tin, chuyển giao công
nghệ, đào tạo cán bộ quản lý, hỗ trợ về tài chính, chúng ta sẽ có điều kiện
triển khai giải quyết nhiều vấn đề vướng mắc trong công tác quản lý chất
thải nguy hại, nhất là vấn đề vốn và công nghệ.
+ Tham gia xây dựng và thực hiện các công ước quốc tế về lĩnh vực quản
lý chất thải nguy hại cũng cần coi là một ưu tiên hàng đầu trong chính sách

bảo vệ môi trường bởi nói không chỉ thể hiện ý thức trách nhiệm trong việc
bảo vệ sự phát triển bền vững của riêng đất nước chúng ta mà còn là trách
nhiệm chung đối với sự tồn tại và phát triển của toàn nhân loại.
Kết luận
20

×