Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

tiểu luận - tư duy biện chứng của phật giáo ảnh hưởng thế nào đến tư duy con người việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.03 KB, 11 trang )

Tiểu luận: Tư duy biện chứng của
Phật giáo ảnh hưởng thế nào đến tư
duy con người Việt Nam
Mục lục
Phần 1: Lời mở đầu 3
Phần 1: Lý luận chung: tư duy biện chứng trong triết học phật giáo 5
1. Bản chất của tư duy biện chứng trong triết học phật giáo 5
2. Thuyết vô ngã- vô thường 6
3. Luật nhân quả: 8
4.Nhân sinh quan trong triết học phật giáo 10
Phần 1: Lời mở đầu
Đất nước ta đã trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài với những biến động và
thăng trầm của riêng mình. Gắn liền với nó là sự ảnh hưởng của rất nhiều
các trường phái triết học khác nhau đã du nhập, đã được chọn lọc và áp dụng
trong cách sống, cách tư duy của người Việt Nam chúng ta. Và không thể
phủ nhận rằng trong hàng loạt các tư tưởng triết học đó, chúng ta nói riêng
và đông nam á cũng như châu á nói chung đã bị ảnh hưởng khác sâu sắc và
rõ rệt bởi mảng triết học phật giáo. Tất nhiên khi du nhập vào một đất nước,
một quốc gia hay một dân tộc thì triết học phật giáo nói riêng cũng như các
loại triết học khác đều có những biến chuyển để phù hợp và mang đậm dấu
ấn riêng của các quốc gia đó. Cùng bị ảnh hưởng bởi triết học phật giáo
nhưng tại sao người ta không bao giờ đồng quy Việt Nam với các vương
quốc phật giáo khác như Thái Lan, Campuchia hay Mianma…? Có lẽ câu trả
lời nằm trong chính nhận thức của mỗi một cá nhân mang dòng máu Việt
Nam, cũng như chính bản thân những người viết bài nghiên cứu này. Chúng
ta có những tư duy riêng của mình, có những cảm thụ cũng như cách chắt
lọc riêng về những lý luận hay tri thức mà triết học phật giáo mang lại cho
chúng ta. Đến với Việt Nam, những người nước ngoài không bao giờ quên
được những hình ảnh cây đa bến nước sân đình, những cánh đồng sen tỏa
ngát hương thơm, hay cong cong mái chùa nghi ngút khói hương, hay thân
tình hơn là cách mà con người Việt Nam đối xử với nhau và với xã hội. Vậy


triết học phật giáo đã đến, đã ảnh hưởng và đã biến đổi như thế nào ở Việt
Nam là vấn đề mà chúng tôi muốn tìm hiểu và phân tích dưới góc độ cảm
nhận của cá nhân mình. Nhưng có lẽ triết học phật giáo với hàng chục các
vấn đề mang trong mình sẽ làm cho một bài nghiên cứu nhóm sẽ trở nên
phức tạp và không bao quát hết được các khía cạnh. Vì thế với bài nghiên
cứu này chúng tôi sẽ chọn cho mình một khía cạnh riêng để tìm hiểu, để viết
và để hiểu hơn về một vấn đề mà có lẽ nếu nói chung chung thì ai cũng biết
nhưng nếu nói cho cặn kẽ thì lại có thật nhiều điều mới mẻ. Khía cạnh đó là
tư duy biện chứng trong triết học phật giáo và ảnh hưởng của nó đến tư duy
của con người Việt Nam. Trong khuôn khổ một bài viết 15 trang có thể sẽ có
những thiếu sót và chưa đầy đủ nhưng chắc chắn nó sẽ có những phát hiện
riêng và quan niệm mới mẻ về một vấn đề tưởng như rất lý luận và trừu
tượng đối với các bạn trẻ. Bản thân chúng tôi khi viết những dòng này cũng
hy vọng mình sẽ có được nhiều sự hiểu biết hơn về các kiến thức triết học,
và thấy rằng triết học thực sự là một bộ môn khoa học với những tri thức rất
tuyệt vời.
Phần 1: Lý luận chung: tư duy biện chứng trong triết học phật giáo
Có thể nói khi bàn về các vấn đề triết học người ta thường rơi vào trạng thái
là được tiếp xúc với rất nhiều các kiến thức, các luận giải nhưng lại rất khó
để hiểu được đâu là vấn đề cốt lõi thực sự. Ở đây triết học phật giáo cũng
thế, nó chứa đựng trong mình hàng chục các vấn đề khác nhau và hầu hết
chúng đều có các ảnh hưởng đến tư duy của người Việt Nam. Vậy khía cạnh
tư duy biện chứng trong triết học phật giáo thực chất là gì? Và biểu hiện cụ
thể ra sao? thì chúng ta có thể phân tích khái quát như sau:
1. Bản chất của tư duy biện chứng trong triết học phật giáo
-Tư duy biện chứng trong phật giáo là tư duy về sự vận động biến đổi của
vạn vật trong thế giới. Nó thể hiện rõ ràng nhất, nổi bật nhất là phạm trù tư
duy về về thế giới và con người trong đó luận giải về các vấn đề sinh ra, tồn
tại và biến mất:
+Con người nằm trong vòng sinh lão bệnh tử, quan niệm về con người trong

vòng luân hồi số kiếp và giải thoát.
+Thế giới vô thường -vô tại, hiện tại này là nguyên nhân dẫn đến những cái
khác.
-Tư duy biện chứng thể hiện rõ nhất và trung tâm nhất là ở thuyết vô ngã-vô
thường và luật nhân quả:
+Luật nhân- quả: triết học phật giáo đề cao tính tự thân sinh thành, biến đổi
của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng thần linh
hay thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ
biến của luật nhân – quả. Điều này được quán triệt trong việc lý giải những
vấn đề của cuộc sống nhân sinh như: Hạnh phúc, đau khổ, giàu nghèo,
thọ,yểu…
+Thuyết vô ngã-vô thường: Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật
giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc luận chứng về tính chất “vô ngã” và “vô
thường” của vạn vật.
2. Thuyết vô ngã- vô thường
Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vụ trụ
vốn không có tính thường hằng nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ nhân
duyên nên thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con
người chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại: Sắc (vật
chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Theo
cách phân loại khác-“lục tại”: địa (chất khoảng), thuỷ (chất nước), hoả (nhiệt
năng), phong (hơi thở), không (khoảng trống) và thức (ý thức). Nói một cách
tổng quát thì vạn vật chỉ là sự “hội hợp” của hai loại yếu tố là vật chất “sắc”
và tinh thần “danh”. Như vậy thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã).
Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. Vô thường
nghĩa là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: Sinh – Trụ – Dị –
Diệt…(hay: Sinh – Trụ – Hoại – Không). Vậy thì “có có” – “không không”
luân hồi (bánh xe quay) bất tận: “thoáng có”, “thoáng không” cái còn mà
chẳng còn, cái mất mà chẳng mất.
Triết học phật giáo cho rằng các sự vật hiện tượng trong vũ trụ là vô

thủy vô chung (vô cùng- vô tận). Tất cả thể giới đều ở quá trình biến đổi liên
tục (vô thường) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các
Pháp đều thuộc về một giới ( vạn vật nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi
một pháp( mỗi một sự vật hiện tượng, hay một lớp các sự vật hiện tượng)
đều ảnh hưởng đến toàn pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay các quá
trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và
quy định lẫn nhau. Tác phẩm “thanh dung thực luận” của kinh phật viết: có
người cố chấp có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào
cũng thường định ra chu pháp, đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi
phối bởi luật nhân quả, biến hóa vô thường, không có cái bản ngã cố định,
không có cái thực thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn.
SANH DIỆT VÔ THƯỜNG: Là sự vô thường nhanh chóng trong từng ý
niệm, nó thay đổi hoàn toàn, cái mà xảy ra bên trong bất cứ một chúng sanh
nào hay một sự vật nào, ngoài sự tập hợp của các pháp thì xuất hiện sự sanh
diệt ngay lúc đó. Như vậy, mỗi người, mỗi vật luôn luôn thay đổi và không
bao giờ giống nhau, vì hai sự kiện hoạt động tiếp nối nhau. Trong Triết học
Phật giáo gọi là “sanh diệt vô thường”, nguyên lý này được giải thích theo
quan điểm Phật giáo là bất cứ sự thay đổi nào của vạn vật đều sanh diệt
không ngừng trong từng khoảnh khắc.
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm
đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có.
Nhưng không hẳn là như vậy mà lắm lúc chúng ta quên đi sự vô thường và
biến hoại của vật chất trong từng giây phút đi qua. Ta có thể tận mắt nhìn
một đám mây đang bay ngang trước mắt, nhưng rồi nó cũng phải biến tướng
dời đi nơi khác mà không còn nguyên vẹn như ban đầu chúng ta đang có
cảm thọ là đám mây kia vẫn ở vị trí cũ.
Tóm lại : Ngay từ đầu triết học phật giáo đã giả quyết các vấn đề một cách
biện chứng và duy vật. TH phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới của
các đấng tối cao, của thượng đế và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại
khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là

sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn hình thức của vạn
vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng lại ở bất
kỳ hình thức nào.Và có thể nói qua thuyết vô ngã vô thường người ta nhận
ra thế giới quan trong triết học phật giáo hay nói cách khác là cách nhìn nhận
thế giới của triết học phật giáo. Đó là một thế giới luôn vận động, biến đổi
không ngừng và triết học phật giáo đã nhìn nhận thế giới trong sự hình
thành, tồn tại, phát triển và biến mất. Hay nói một cách khác triết học phật
giáo đã nhìn nhận sự tồn tại thế giới trong sự phức tạp của nó.
3. Luật nhân quả:
Luật nhân quả được hiểu một cách thông thường như sau: cái nhân nhờ có
cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Qủa lại nhờ có duyên mà thành
nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới … Cứ thế nối
nhau vô cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài, cứ sinh sinh, hóa hóa
mãi. Tất cả vạn vật đều tuân theo luật nhân quả biến đổi không ngừng và chỉ
có sự biến hoá ấy là thường còn(vĩnh viễn).
Do quy luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không ngừng,
thành, trụ, hoại, diệt( sinh thành, biến đổi, tồn tại và diệt vong). Qúa trình đó
phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất lượng
của sự vật hiện tượng. Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hóa vô
thường của vạn vật đã xây dựng nên thuyết nhân duyên. Trong thuyết nhân
duyên có ba khái niệm cơ bản là Nhân, Qủa, Duyên:
+Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó được gọi là
Nhân
+Cái gì tập lại từ Nhân gọi là Qủa.
+Duyên là điều kiện, mối liên hệ giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải
là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp
cho sự biến chuyển của Phật pháp.
Luật nhân quả có thể hiểu cụ thể như sau:
- Nhân Quả là một định luật mới ngó thì rất giản dị, nhưng nếu càng đi sâu
vào sự vật thì càng thấy phức tạp, khó khăn! Trong vũ trụ mọi sự vật không

phải đơn thuần tách rời từng món, mà có liên quan mật thiết, xoắn lấy nhau,
ảnh hưởng nhau, tương phản nhau, tiếp thừa nhau, chằng chịt giữa sự vật,
hành giả gọi nó là "Duyên" nên mới có từ “Nhân Duyên”.
Ví dụ hạt lúa cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây lúa sắp
thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và những
mối liên hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những nhân tố đó
chính là duyên. Mối quan hệ Nhân –Qủa là mối quan hệ biện chứng trong
không gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ bao trùm lên toàn bộ thế
giới không tính đến cái lớn nhỏ, cái đơn giản hay phức tạp.Ví như một hạt
cát nhỏ được tạo thành từ mối quan hệ nhân quả trong toàn vũ trụ, cả vũ trụ
hòa hợp tạo nên nó.
-Thuần nhân không sinh ra quả. Hạt lúa không thành cây, nếu không đem
gieọ Hạt lúa không thành cơm, nếu không đem xay giả và nấu chín. Ở khía
cạnh khác thì lại khác. Thí dụ, muốn có quả cam thì phải có nhân (hạt) cam.
Tức nhân nào thì quả nấỵ Học đàn thì biết đàn. Nghĩa là nhân quả phải đồng
loại nhau. Do đó, nhân chuyển đổi thì quả cũng chuyển đổi theọ Thế nên dựa
vào luật nhân quả ông bà ta khuyên ngắn gọn "làm lành hưởng phước, làn ác
mang họa", với ước muốn con cháu ăn hiền ở lành.
-Trong nhân có quả, trong quả có nhân. Chính trong Nhân hiện tại đã hàm
chứa cái Quả vị lai; cũng chính trong Quả hiện tại đã có hình bóng của Nhân
quá khứ. Một sự vật ta gọi là Nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành
ra cái Quả. Một vật đều có Nhân và Quả; đối với quá khứ nó là Quả, nhưng
đối với tương lai nó là Nhân. Nhân và Quả đấp đổi nhau, tiếp nối nhau
không bao giờ dứt. Nhờ sự liên tục ấy, mà trong một hoàn cảnh nào, người
ta cũng có thể đoán biết quá khứ và tương lai của một sự vật hay một người.
-Sự biến chuyển từ Nhân đến Quả có khi mau, khi chậm, chứ không phải
bao giờ diễn tiến trong một thời gian đồng đều. Có những Nhân và Quả xảy
ra kế tiếp nhau, Nhân vừa phát thì Quả xuất hiện, như khi ta vừa đánh xuống
mặt trống (nhân) thì âm thanh phát ra (quả). Nhiều khi Nhân gây rồi, nhưng
phải đợi một thời gian mới hình thành. Cái thời gian ấy phức tạp vô chừng.

Như gieo hạt lúa phải cần thời gian vài ba tháng. Có khi từ Nhân đến Quả
hàng chục năm, như từ khi đi học (nhân) đến lúc thành tài (quả). Có khi từ
Nhân đến Quả phải đợi một vài trăm năm hay hơn nữạ Điều nầy vượt qua
mức sự kiểm soát của một kiếp người nên có kẻ không tin luật Nhân Quả
Nhân Quả nơi con người: Nói đến con người thì có nhiều phương diện nào
vật chất, như con người do cha mẹ sanh ra (nhân) rồi hoàn cảnh cuộc sống
(duyên). Về phương diện tinh thần thì có tư tưởng tốt và xấu. Nói một cách
tổng quát dù vật chất hay tinh thần, hễ gieo nhân nào thì gặt quả nấỵ
Về thời gian thì Nhân trước, Qủa sau. Nhân Qủa tồn tại trong diễn biến
trước sau nối nhau, trong sự hòa hợp liên quan đến nhau. Có nguyên nhân
thì tất có kết quả, có kết quả thì tất có nguyên nhân. Mọi sự vật đều biến đổi
sinh diệt theo phép Nhân quả. Luật nhân quả là lý luận cơ bản mà triết học
phật giáo dùng để giải thích mối quan hệ tương hỗ của mọi sự vật.
4.Nhân sinh quan trong triết học phật giáo
Quan điểm về triết lý nhân sinh , ở phương Đông đã kết luận bản tính tự
nhiên của con người. Ở phương Tây thì kết luận con người được cấu tạo từ
vật chất. Còn theo triết học Mác-Lenin, quan niệm về con người: Con người
là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với xã hội; trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội; con người là
chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Đạo Phật quan niệm về triết lý nhân sinh
thể hiện trong thuyết “thập nhị nhân duyên”. Trong mười hai nhân duyên thì
vô minh căn bản. Từ nhân quá khứ sang quả hiện tại lại làm lại nhân cho quả
tương lai. Cũng theo phật giáo nguồn gốc vũ trụ và con người không do lực
lượng siêu nhân sáng tạo ra mà cho rằng thế giới là vô cùng vô tận.
Trong thập nhị nhân duyên ta chú trọng đến quy luật “sinh lão bệnh tử”, mà
ở đó con người tuân theo quy luật này để hình thành, tồn tại, phát triển và
biến mất:
+Sinh: hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm súc
vật. Do sinh mà có tử, ấy là sinh làm quả cho hữu và làm nhân cho tử.
+Lão tử: là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết.

Nhưng chết-sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi
là hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang nghiệp
rơi vào vòng luân hồi khổ não.
Sinh lão bệnh tử là bốn nỗi khổ mà ai cũng phải trải qua theo như phật giáo,
nó xuất phát từ một bài thơ của đức phật:
Trên trời dưới đất
Chỉ là tôn nhất
Tất cả thế gian
Sanh, già, bệnh, chết.
Sinh lão bệnh tử là quy luật lẽ thường của tự nhiên, cái chết không loại trừ
bất cứ ai. Trong mỗi con người luôn tồn tại hai mặt: sự sống và cái chết. Khi
con người sinh ra và lớn lên cũng đồng nghĩa với việc tiến dần tới cái chết.
Do vậy, nếu tất cả mọi người đều hiểu được sinh tử là quy luật tự nhiên thì
họ sẽ sống tích cực hơn và ra sức đóng góp cho đời nhiều hơn.

×