Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

báo cáo “vai trò, mối quan hệ của nguồn vốn trong nước và nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.8 KB, 73 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Báo cáo
“Vai trò, mối quan hệ của nguồn vốn
trong nước và nước ngoài với tăng trưởng
và phát triển kinh tế”
MỤC LỤC:
• Giới thiệu.
• Chương 1 : Những vấn đề lí luận chung về vai trò và mối quan
hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư
nước ngoài.
I. Khái niệm phân loại và bản chất nguồn vốn đầu tư.
II. Vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong
nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
• Chương II.Thực trạng về vai trò và mối quan hệ giữa nguồn
vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
I. Thực trạng về việc huy động và sử dụng nguồn vốn
trong nước trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế.
II. Thực trạng về việc huy động và sử dụng nguồn vốn
nước ngoài trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế.
III. Thực trạng mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và
nguồn vốn nước ngoài đối với tăng trưởng và phát triển
kinh tế ở Việt Nam.
Chương III. Giải pháp tăng cường vai trò và mối quan hệ giữa
nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

Mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn
2001 - 2010 là: Đưa nước ta ra thoát khỏi khủng hoảng và tình trạng kém phát
triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu đã đề ra, đòi hỏi nền kinh tế của Việt Nam


phải có được một sự phát triển toàn diện theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Lúc này,
nguồn vốn đầu tư trở thành một vấn đề được quan tâm và đề cập đền thường xuyên
nhất.
Trong cơ cấu vốn đầu tư, nguồn vốn trong nước là nội lực đóng một vai trò
quyết định, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là ngoại lực đóng một vai trò quan trọng
đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia. Hai nguồn vốn này không
chỉ có vai trò đặc thù mà còn có những mối liên hệ, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau
cùng tác động lên sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Nhóm chúng em được phân công đề tài “Vai trò, mối quan hệ của nguồn vốn
trong nước và nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế” làm đề tài
nghiên cứu không ngoài mục tiêu tổng kết lại những kiến thức về chuyên ngành
Kinh tế Đầu tư, trên cơ sở đánh giá thực trạng về vai trò, mối quan hệ của 2 nguồn
vốn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam những năm gần đây và đề
xuất một số giải pháp cụ thể góp phần nâng cao hiệu quả vai trò, mối quan hệ giữa
2 nguồn vốn đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong quá trình nghiên cứu,
tập thể nhóm xin chân thành cảm ơn thầy Từ Quang Phương và thầy Phạm Văn
Hùng đã giúp đỡ hoàn thành đề tài. Trong bài viết không tránh khỏi những thiếu
sót, kính mong Thầy cùng các bạn góp ý để bài viết được hoàn chỉnh.
Chương 1 : Những vấn đề lí luận chung về vai trò và mối quan hệ giữa nguồn
vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
I. Khái niệm phân loại và bản chất nguồn vốn đầu tư.
1. Khái niệm.
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích lũy được thể hiện dưới dạng giá trị
được chuyển hóa thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
2. Phân loại và bản chất nguồn vốn đầu tư.
2.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước.
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế bao gồm tiết
kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của
chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội.
Đây là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết định chi phối mọi hoạt động đầu tư phát

triển trong nước. Theo lí luận cũng như thực tiễn đã chứng minh bất kì nước nào
cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính. Sự chi viện bổ sung từ bên ngoài chỉ
mang tính chất tạm thời và chỉ khi sử dụng nguồn vốn trong nước có hiểu quả thì
mới nâng cao được vai trò của nguồn bên ngoài này.
2.1.1. Nguồn vốn nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn
vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của
doanh nghiệp nhà nước.
- Nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Thường chiếm một tỉ
trọng nhất định trong toàn bộ khối lượng đầu tư, giữ một vai trò quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Thường được sử dụng cho
các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự án
đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia của nhà nước. Đây là nguồn cung quan trọng để
xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then
chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nguồn kinh phí trong ngân sách
cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, khi các
doanh nghiệp gặp khó khăn cần sự trợ giúp của nhà nước.
- Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ
hình thức cấp phát vốn ngân sách sang hình thức tín dụng đối với các dự án có khả
năng thu hồi vốn trực tiếp. Đây là hình thức cho vay ưu đãi với lãi suất thấp hơn lãi
suất thị trường tín dụng nên nhà nước phải dành ra một phần ngân sách để trợ cấp
bù lãi suất. Có tác dụng giảm chi ngân sách nhà nước và nâng cao trách nhiệm của
người sử dụng vốn. Đồng thời có vai trò đáng kể trong việc phục vụ công tác quản
lí và điều tiết kinh tế vĩ mô. Do mang tính ưu đãi nên nhà nước chủ động định
hướng dòng chảy của nguồn vốn này theo chiến lược quy hoạch đã vạch sẵn để
thực hiện các mục tiêu xã hội như xóa đói giảm nghèo, giáo dục, y tế …
- Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước.

Nguồn vốn này chủ yếu từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại của
doanh nghiệp nhà nước, thường chiếm 14 – 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chủ
yếu là đầu tư theo chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại hóa dây
chuyền công nghệ của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước là thành phần
chủ đạo của nền kinh tế và nắm giữ một lượng lớn nguồn vốn của đất nước. Hoạt
động của các doanh nghiệp nhà nước là hoạt động then chốt của nền kinh tế nó và
góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào
phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế,
tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả
các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, chống lạm phát
2.1.2. Nguồn vốn của dân cư và khu vực tư nhân.
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của khu vực dân cư, phần
tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Trong giai đoạn 2001 –
2005 vốn đầu tư của dân cư va khu vực tư nhân chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu
tư toàn xã hội, nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động được của
hệ thông ngân hàng. Tiềm năng vốn của khu vực này là rất lớn, nếu có thể huy
động triệt để thì sẽ tạo ra được số vốn khổng lồ phục vụ cho nhu cầu đầu tư của cả
nền kinh tế. Có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển nông nghiệp và kinh tế
nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,
thương mại, dịch vụ và vận tải trên các địa phương. Đây là khhu vực năng động,
nhạy bén, tạo nhiều công ăn việc làm, giải quyết vấn đề thất nghiệp, thất nghiệp
thời vụ tại các vung nông thôn, phát huy được các lợi thế của địa phương.
2.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cá nhân, các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động vào
quá trình đầu tư của nước sở tại.
Đây là nguồn vốn quan trọng mà mỗi quốc gia đều quan tâm, nó có thể tạo ra cú
hích cho sự phát triển. Nó bổ sung vốn cho đầu tư khi nguồn vốn trong nước không
đáp ứng đủ nhu cầu, nhất là đối với các nước đang phát triển khi nội lực chỉ mới
đáp ứng hơn 50% tổng nhu cầu về vốn.

2.2.1. Tài trợ phát triển chính thức :ODF. Với ODA chiếm tỉ trọng chủ yếu.
Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ
nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. Với các điều
kiện ưu đãi hấp dẫn về lãi suất thấp, thời hạn cho vay dài, khối lượng cho vay lớn
và đặc biệt bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%.
Nguồn vốn này được cấp qua các cơ quan chính thức của chính phủ nước nhận
viện trợ, và để được nhận ODA thì nước nhận đầu tư phải có nguồn vốn đối ứng
tương ứng. Nguồn vốn ODA mang mục đích nhân đạo, tăng cường mối quan hệ
giữa các nước nên không cấp cho dự án mang tích thương mại.
Tuy có nhiều ưu đãi song đi kèm với loại vốn này thường là các điều kiện và ràng
buộc bất lợi cho nước nhận viện trợ. Các nước khi đi viện trợ vốn ODA đều gắn
với nhũng lợi ích và chiến lược lâu dài để mở rộng thi trường, mở rộng các quan hệ
có lợi cho mình, gây ra sự lệ thuộc về quân sự, chính trị, … các nước viện trợ ODA
thường yêu cầu các nước nhậ viện trợ phải dỡ bỏ dần hang rào thuế quan bảo hộ
các ngành công nghiệp non trẻ, giảm thuế nhập khẩu. Hơn nữa các dự án ODA
thường đòi hỏi phải do các công ty của nước viện trợ trực tiếp thực hiện dự án, với
giá cả đắt hơn hẳn so với giá cả chung của thị trường, bỏi vậy cho nên thường hơn
90% nguồn vốn ODA lại chảy về nước viện trợ qua các công ty này. Bởi vây nhiều
lúc bản chất của viện trợ ODA là các nước viện trợ tạo điều kiện cho các công ty
của nước mình có các hợp đồng béo bở, bởi vậy thực sự khi đi viện trợ họ lại được
nhiều hơn mất. Bởi vậy khi đàm phán xin viện trợ cần cố gắng hạn chế đến mức
thấp nhất bất lợi này.
2.2.2. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế.
Đây là nguồn vốn vay từ ngân hàng thương mại quốc tế với lãi suất tương
đối cao, có thời gian trả nợ chính xác và thủ tục cho vay khắt khe. Tuy nhiên nó
không có các ràng buộc về chính trị xã hội. Đây là nguồn vốn cho vay với lãi suất
thương mại nên nếu các nước tiếp nhận không sử dụng hiệu quả nguồn vốn này thì
có nguy cơ dẫn đến tình trạng mất khả năng chi trả, dẫn đến nguy cơ vỡ nợ. Đây là
những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo khi hiệu quả sử dụng vốn chưa
cao. Bởi vậy nguồn vốn này thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu vốn

của các hoạt động xuất nhập khẩu thường là ngắn hạn.
2.2.3. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.
Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước này đến để đầu tư cho sản
xuất kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận ở một nước khác. Hình
thức này không làm phát sinh nợ ở nước nhận đầu tư bởi vì nhà đầu tư thay vì nhận
lãi suất trên vốn đầu tư thì họ sẽ thu được lợi nhuận khi kết quả đầu tư đi vào hoạt
động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường mang theo tất cả tài nguyên
kinh doanh như phương pháp quản lí, mô hình hoạt động, công nghệ máy móc, …
nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, như ngành công nghệ cao hay
ngành cần nhiều vốn. Bởi vậy nguồn vốn này có tác động cực kì lớn tới quá trình
công nghiệp hóa hiện đại hóa đấy nước, chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tốc độ tăng
trưởng cao và tăng thu cho ngân sách ở nước nhận đầu tư.
2.2.4. Nguồn vốn từ thị trường vốn quốc tế.
Đây là nguồn vốn được huy động từ thị trường chứng khoán trên thế giới bằng việc
bán các chứng khoán của chính phủ và các công ty trong nước ra nước ngoài.
Có thể huy động vốn với số lượng lớn, trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về
vốn cho nến kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng, quan hệ
cho vay để gây sức ép với nước huy động vốn trong các quan hệ khác.
II. Vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu
tư nước ngoài.
1. Vai trò của vốn đầu tư trong nước.
Vốn đầu tư trong nước là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết định đối với tăng
trưởng và phát triển của từng đơn vị kinh tế cũng như của cả đất nước. Bởi sự phát
triển của bất cứ hiện tượng sự vật nào cũng phải bắt đầu từ sự chuyển biến thay đổi
trong ngay bản thân sự vật hiện tượng đó. Đây là nội lực của mỗi quốc gia nên
chúng ta chủ động trong việc thu hút và sử dụng vào các lĩnh vực cần thiết mà
không phải chịu bất cứ sự lệ thuộc nào và nó có tính ổn định, đảm bảo hơn nguồn
vốn từ nước ngoài
- Nguồn vốn trong nước là nguồn đóng góp lớn vào GDP , góp phần thúc đẩy tăng
trưởng phát triển kinh tế. Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước đầu tư cho các dự án

kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đã tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực khác phát triển. Bởi các dự án này thường đòi hỏi
nguồn vốn lớn, khả năng thu hồi vốn chậm, cho nên các doanh nghiệp không đủ
khẳ năng để thực hiện. Hơn nữa vốn trong nước thường được bổ sung cho các
doanh nghiệp vơi lãi suất ưu đãi để các doanh nghiệp này tận dụng được cơ hội đầu
tư tăng lợi nhuận. Từ đó làm tăng GDP cho xã hội.
- Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay đổi cơ cấu
kinh tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng,
phát triển toàn diện, đồng đều và bền vững giữa các vùng miền. Vốn của nhà nước
thường được đầu tư vào cách lĩnh vực đòi hỏi quy mô vốn rất lớn như điện lực, dầu
khí,… hay vào những ngành có tỉ suất lợi nhuận thấp, thời gian thu hồi vốn lâu dài
như các ngành xây dựng đường, các công trình công cộng. Để ưu tiên vốn của các
thành phần kinh tế khác đầu tư vào các lĩnh vực sinh lời. Việc phân bổ nguồn vốn
của nhà nước theo kế hoạch cũng nhanh chóng tạo xu thế thay đổi cơ cấu kinh tế
theo định hướng của nhà nước.
- Thường nguồn vốn trong nước được ưu tiên để xây dựng cơ sở hạ tầng cho các
vùng kinh tế còn yếu kém. Tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và nâng
cao hiểu quả đầu tư của nguôn vốn, tạo sự vững chắc cho sự tăng trưởng của nền
kinh tế. Bởi nguồn vốn đầu tư nước ngoài chỉ lựa chọn địa điểm đầu tư tại nơi có
lợi thế so sánh nhất. Do đó nguồn vốn trong nước phải đi trước để chuẩn bị sẵn đón
các nhà đầu tư nước ngoài vào như xây dựng các khu công ngiệp, cơ sở hạ tầng
phục vụ sản xuất kinh doanh…
- Góp phần kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế, đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá
trong nhiều doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng trưởg và phát triển kinh tế.
Đầu tư quá mức gây ra lạm phát. Một phần việc sử dụng vốn thực hiện hoạt động
đầu tư gây ra lạm phát "cầu kéo". Việc sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả lại gây
ra lạm phát "chi phí đẩy". Như vậy, đầu tư trọng tâm, trọng điểm, có hiệu quả và
kiểm soát cả về mặt lượng và mặt chất của việc sử dụng nguồn vốn trong nước đặc
biệt là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và việc kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các
doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện pháp được nêu ra để chống lạm

phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Nguồn vốn đầu tư trong nước đặc biệt là nguồn vốn
dồi dào của khu vực dân cư và tư nhân là tác động lớn nhất thúc đẩy quá trình cổ
phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra nhanh chóng và đồng bộ. Từ đó giải
quyết những tồn tại và tình trạng sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh
nghiệp nhà nước, đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và
hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nguồn vốn đầu tư trong nước phải luôn là đối trọng với nguồn vôn đầu tư nước
ngoài để có thể hạn chế được những mặt tiêu cực của nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, đồng thời tạo bộ khung kinh tế để có thể chống lại được những tác động của
thị trường thế giới. Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ không nước
nào không chịu ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng, mà việc quan tâm là mức độ
ảnh hưởng như thế nào và khả năng phục hồi ra sao khi kết thúc khủng hoảng kinh
tế. Nhà nước ta vẫn luôn nắm giữ những ngành then chốt trong nền kinh tế như
điện lực, tài chinh, viễn thông,…và luôn dành một phần ngân sách nhất định để
duy trì, phát triển các lĩnh cực này không cho đầu tư nước ngoài tham gia hay tham
gia góp vốn với tỉ lệ hợp lí để nhà nước vẫn luôn nắm các ngành này trong tay. Mặt
trái của vốn đầu tư nước ngoài là có thể đó là công cụ để nước ngoài thâu tóm
quyền lực chính trị, tạo ra sự phụ thuộc. Bởi vậy việc duy trì những ngành then
chốt này là cần thiết.
Tuy nguồn vốn trong nước có một vai trò quyết định không thể thay thế như vậy,
nhưng nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước trong việc thúc đẩy và tăng trưởng
kinh tế mà không xem xét đến nguồn vai trò của nguồn vốn nước ngoài thì sẽ là
một sự thiếu sót lớn. Trong điều kiện nền kinh tế đất nước ta mới phát triển được
hơn 30 năm, khả năng tích lũy của nền kinh tế còn thấp trong khi nhu cầu phát
triển lại vô cùng cấp bách, đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn thì nguồn vốn đầu
tư trong nước sẽ là không đủ. Do đó, nguồn vốn trong nước luôn rơi vào tình trạng
thiếu và bị hạn chế về cả qui mô và số lượng. Lúc này, sự bổ sung của nguồn vốn
nước ngoài đối với nhu cầu về vốn là rất quan trọng và kịp thời.
2. Vai trò của nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là nguồn vốn có vai trò rất quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển nền

kinh tế. Nó bổ sung nguồn vốn đầu tư cho, nhất là với Việt Nam chúng ta tích lũy
nội bộ còn thấp mới chỉ đáp ứng được hơn 50% nhu cầu vốn đầu tư. Nhờ việc thu
hút vốn đầu tư mà vị thế của đất nước trên chính trường quốc tế càng được nâng
cao. Đi theo dòng tiền thường là các khoa học công nghệ, kĩ thuật, trình độ quản lí
mà nước nhận đầu tư rất cần nhất là với các nước đang phát triển.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nước nhận
đầu tư sẽ từ một nước nông nghiệp lạc hậu sang nước công nghệp hiện đại. Nó làm
thay đổi cơ cấu từ ngành có trình độ khoa học kĩ thuật lạc hậu chuyển thành trình
độ khoa học tiên tiến hiện đại, nâng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt.
- Nhờ có nguồn vốn này mà các mục tiêu xã hội sẽ được quan tâm hơn tạo điều kiện
xóa đói giảm nghèo làm nền tảng vững chắc cho sự phát triển. Khi có nguồn vốn
đầu tư nước ngoài vào trong nước, số lượng và quy mô các doanh nghiệp sẽ tăng
lên làm tăng việc làm, giải quyết vấn đề thất nghiệp, giảm tệ nạn xã hội. Ngoài ra,
nguồn vốn này còn là cơ hội để các nước nghèo, kém phát triển giải quyết vấn đề
xoá đói giảm nghèo(đặc biệt là nguồn vốn ODA). Chỉ khi giải quyết được các vấn
đề xã hội thì nước tiếp nhận vốn mới có được môi trường ổn định để phát triển
kinh tế.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện nâng cao trình độ khoa học công nghệ,
đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng. Việc đầu tư vào trong nước sẽ đi kèm với
đào tạo đội ngũ lao động hình thành nên đội ngũ lao động có chất lượng cao. Đội
ngũ lao động này một phần làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài, bên cạnh
đó lại góp phần vào xây dựng đất nước. Nguồn vốn nước ngoài khi vào trong nước
sẽ đem theo các công nghệ tiên tiến, hiện đại đồng thời thực hiện chuyển giao công
nghệ. Bởi vậy nước sở tại sẽ được thừa hưởng, học hỏi những công nghệ đó. Trình
độ công nghệ của nước nhận đầu tư sẽ tăng lên đáng kể.
- Vốn đầu tư nước ngoài vào cổ phiếu trong nước sẽ giúp giảm chi phí vốn và đa
dạng hóa rủi ro. Sự có mặt của các nhà đầu tư nước ngoài vô hình chung tạo một
áp lực cải thiện thể chế và chính sách lên nước nhận đầu tư. Không chỉ có vậy, đi
kèm với nguồn vốn đầu tư nước ngoài là các công ty đánh giá mức độ tín nhiệm sẽ
có tác động tích cực, góp phần cải thiện chất lượng thông tin trên thị trường và nhờ

đó tăng tính hiệu quả của thị trường chứng khoán. Cơ chế cáo bạch sẽ tăng lên và
giúp nước sở tại phát triển các dịch vụ về kế toán, kiểm toán, các dịch vụ môi giới
và kinh doanh chứng khoán. Vậy là, cùng với nguồn vốn đầu tư nước ngoài thị
trường tài chính trong nước sẽ từng bước được cải thiện, hoàn chỉnh, nâng cao chất
lượng và hiệu quả trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc gia.
- Nguồn vốn nước ngoài làm hình thành các loại hình doanh nghiệp mới, các
phương thức kinh doanh hiện đại tạo ra môi trường cạnh tranh, nâng cao tính cạnh
tranh giữa các thành phần kinh tế trong xã hội tạo động lực cho sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn cung ngoại tệ đáng kể cho cán cân thương
mại quốc tế của đất nước. Tạo điều kiện nâng cao năng lực xuất nhập khẩu, đầu tư
ra nước ngoài và trả nợ từ đó tạo đà cho tăng trưởng và phát triển.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng tạo điều kiên giúp nước nhận đầu tư tiếp cận
với thị trường quốc tế, mở rộng giao lưu quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập với
thế giới va khu vực.
3. Mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước
ngoài.
Đối với các nước đang phát triển thi vấn đề thiếu vốn luôn là một vấn đề nan giải.
Một quốc gia mà chỉ sử dụng những nguồn lực sẵn có của mình thì sẽ không bao
giờ có thể đuổi kịp các nước khác, bởi vậy trên thế giới không có quốc gia nào chỉ
sử dụng nguồn vốn trong nước, các nước đều cố gắng thu hút nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. Vì thế hai nguồn vốn
này có mối lien hệ chặt chẽ, hữu cơ gắn bó với nhau, tác động lẫn nhau theo nhiều
chiều. Tuy nguồn vốn trong nước có một vai trò quyết định, nhưng nếu chỉ dựa vào
nguồn vốn trong nước trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế mà không xem
xét đến nguồn vốn nước ngoài thì nền kinh tế sẽ mãi trì trệ trong vòng luẩn quẩn
của nghèo đói đó là
Thu nhập bình quân thấp → Tiết kiệm, đầu tư thấp
↑ ↓
Năng suất thấp ← Tăng trưởng chậm

Trong điều kiện nền kinh tế đất nước ta mới phát triển được hơn 30 năm, khả năng
tích lũy của nền kinh tế còn thấp trong khi nhu cầu phát triển lại vô cùng cấp bách,
đòi hỏi phải có nguồn vốn đầu tư lớn thì nguồn vốn đầu tư trong nước sẽ là không
đủ. Do đó, nguồn vốn trong nước luôn rơi vào tình trạng thiếu và bị hạn chế về cả
qui mô và số lượng. Lúc này, sự bổ sung của nguồn vốn nước ngoài đối với nhu
cầu về vốn là rất quan trọng và kịp thời. Bên cạnh đó việc sử dụng vốn đầu tư
trong nước còn chưa hiệu quả, chưa tương xứng với tổng số vốn đã chi, gây tổn
thất cho nền kinh tế. Nhưng nếu được sự bổ sung kết hợp của nguồn vốn đầu tư
nước ngoài cùng với sự chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lí thì tổn thất đó
sẽ phần nào được giảm bớt. Như vậy trong mối quan hệ giữa hai nguồn vốn, nguồn
vốn nước ngoài có vai trò tác động ngược trở lại nguồn vốn trong nước, là nguồn
vốn đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong việc hỗ trợ, khắc phục những
nhược điểm của nguồn vốn trong nước trong tác động đối với sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế của một quốc gia.
* Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài sẽ làm tăng tổng
vốn đầu tư toàn xã hội. Xét về mặt lượng thì hai nguồn vốn này hoàn toàn độc lập
vơi nhau do đó khi kết hợp chúng lại ta sẽ có tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội là
tổng của hai nguồn vốn này.
* Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
chủ yếu theo bề rộng trong đó nhân tố khối lượng vốn đầu tư chiếm vai trò quan
trọng chủ yếu tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Cho nên sự gia tăng
tổng số vốn đầu tư toàn xã hội kéo theo bước tăng trưởng và phát triển đáng kể của
nền kinh tế Việt Nam. Chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa nên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá luôn phải giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Yêu cầu có tính
nguyên tắc này đã được bảo đảm trong suốt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế những
năm vừa qua. Mặc dù trong những năm 2001-2005, số lượng doanh nghiệp Nhà
nước đã giảm đáng kể do tổ chức, sắp xếp lại và thực hiện cổ phần hoá, nhưng tỷ
trọng của khu vực kinh tế Nhà nước trong tổng sản phẩm trong nước vẫn duy trì ở

mức trên 38% (Năm 2001 chiếm 38,40%, năm 2002 chiếm 38,38%; 2003 chiếm
39,08%; 2004 chiếm 39,10%; năm 2005 ước tính chiếm 38,42%)
* Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn tạo nguồn lực tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế
xã hội. Một phần vốn đầu tư đã dành cho chương trình phát triển kinh tế-xã hội và
xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ tại các xã đặc biệt khó khăn. Tính chung từ năm
1999 đến hết năm 2005 chương trình đã được đầu tư trên 8850 tỷ đồng. Nhờ vậy,
đến hết năm 2004 đã có 97% số xã đặc biệt khó khăn có đường ô tô đến trung tâm
xã; 100% số xã có trạm y tế; 70% số xã có điểm bưu điện văn hoá; 90% số xã có
trạm truyền thanh; 65% số xã có công trình nước sạch và 50% số hộ được sử
dụng nước sạch.
* Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn này có thể tạo ra những cú hích nâng cao năng
lực khoa học công nghệ của nước ta. Đối với mỗi nước thì khoa học công nghệ
luôn là một nguồn lực quan trọng và cần phải đầu tư xây dựng lâu dài, với yêu cầu
vốn và nền tảng kĩ thuật cao. Do đó nếu chỉ dựa vào nội lực với nguồn vốn đầu tư
trong nước thì quá trình phát triển rất chậm không theo kịp với trình độ phát triển
chung của khu vực và thế giới, vì thế cần có sự bổ sung từ nguồn vốn nước ngoài.
- Nguồn vốn đầu tư trong nước hỗ trợ tạo điều kiện cho nguồn vốn đầu tư nước
ngoài. Nguồn vốn trong nước đặc biệt là nguồn vốn ngân sách nhà nước thường
được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng càng hiện đại, càng đồng
bộ thì các hoạt động đầu tư càng thuận lợi và do đó nguồn vốn nước ngoài chảy
vào càng nhiều. Đồng thời các nguồn vốn trong nước thường được ưu tiên để xây
dựng các công trình, lĩnh vực phụ trợ với mức lợi nhuận thấp như xây dựng các
khu công nghiệp, các khu chế xuất,… để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào. Do đã
được giải phóng san lấp mặt bằng, hệ thống giao thông, điện nước… nên nguồn
vốn đầu tư nước ngoài sẽ không mất chi phí này mà được dung trực tiếp đầu tư vào
sản xuất kinh doanh. Do đó mức lợi tức cao hơn nên thu hút được nhiều vốn đầu tư
nước ngoài hơn.
- Nguồn vốn trong nước hạn chế gây cản trợ nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đó là lúc
các nước nhận đầu tư thực hiện các chính sách bảo hộ doanh nghiệp trong nước,
nhà nước dành cho các doanh nghiệp này những ưu đãi đặc biệt như bù lỗ, tạo độc

quyền,…Khiến cho nguồn vốn bên ngoài không thể xâm nhập vào được. Tạo ra
môi trường cạnh tranh không lành mạnh nên làm giảm sức hút đầu tư của bên
ngoài.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện nâng cao hiểu quả sử dụng nguồn vốn
đầu tư trong nước. Do có nguồn vốn đầu tư nước ngoài bổ sung nên nguồn vốn
trong nước sẽ được phân bổ một cách hợp lí hơn giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế
và mục tiêu phát triển đồng bộ. Các mục tiêu xã hội như xóa đói giảm nghèo, y tế,
giáo dục… sẽ được quan tâm hơn do nguồn vốn được cấp nhiều hơn, đó là vốn
trong nước với tỉ trọng lớn hơn và vốn ODA của các tổ chức quốc tế. Cùng với sự
tăng trưởng kinh tế thì các thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn tạo ra
rất nhiều công ăn việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho người lao động.
Từ đây mà tích lũy của đất nước tăng lên, dẫn đến nguồn vốn đầu tư trong nước
tăng lên. Cùng với quá trình hội nhập và hợp tác kinh tế với nước ngoài thì những
nguồn lực mà trước đây chưa được sử dụng hay sử dụng với hiệu quả chưa cao do
thiếu vốn, thiếu công nghệ,… nay được đưa vào sản xuất bằng cách hợp tác sản
xuất kinh doanh. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài này do có thừa hưởng trình
độ quản lí, khoa học kĩ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến nên thường làm ăn có
hiệu quả cao hơn doanh nghiệp trong nước. Do đó cùng với quá trình hoạt động có
hiểu quả của các doanh nghiệp liên doanh thì phần vốn góp của phía Việt Nam
trong các doanh nghiệp cũng tăng lên từ đó làm quy mô vốn trong nước tăng lên.
Hơn nữa thuế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một nguồn thu
quan trọng đối với các nước đang phát triển.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài làm giảm khối lượng nguồn đầu tư trong nước, do
các khoản vốn đầu tư nước ngoài đến kì phải trả, mà nếu sử dụng các khoản vay
này không hiểu quả thì đây sẽ là vấn đề đáng lo ngại đối với các nước thu hút vốn
đầu tư nước ngoài. Đây là gánh nặng nợ mà nguồn vốn trong nước phải trích ra để
trả nợ, do đó tổng vốn đầu tư trong nước sẽ giảm đi. Không những vậy các khoản
vốn đầu tư nước ngoài thường đi kèm theo các ràng buộc về kinh tế, chính trị. Điều
này có thể dẫn đến tình trạng phụ thuộc mất tự chủ của nước nhận vốn. Nguồn vốn
đầu tư nước ngoài tạo điều kiện hội nhập nền kinh tế thế giới nên cũng làm cho các

nước này dễ bị ảnh hưởng của các khủng hoảng kinh tế thế giới. Mà khi bị khủng
hoảng thì tất cả mọi mặt của đất nước sẽ bị giảm sút.
Chương II.Thực trạng về vai trò và mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong
nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế:
I.Thực trạng về việc huy động và sử dụng nguồn vốn trong nước trong việc
thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế.
Có thể nói vốn có vai trò quyết định trong việc tạo ra mọi của cải vật chất va
tiến bộ xã hội, vì thế nó là nhân tố vô cùng quan trọng để thực hiện quá trình ứng
dụng tiên bộ khoa học kĩ thuật, phát triển cơ sở hạ tâng, chuyển dịch cơ cấu và đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từ đó tác động mạnh đến cơ cấu kinh tế của đất
nước được chuyển dịch nhanh chóng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
làm cho nền kinh tế có các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm tỉ lệ cao và hướng
mạnh về xuất khẩu. Chính điều đó đã dẫn tới nền kinh tế có tốc độ tăng cao và ổn
định.
Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới đã có những chuyển biến quan trọng và
đạt được những thành tựu lớn lao, nhưng chúng ta vẫn là nước nghèo, mức sống
còn thấp, tích tụ và tập trung vốn trong nội bộ nền kinh tế còn quá thấp, Trong khi
đó nhu cầu vốn đầu tư cho cả nền kinh tế nói chung và cho việc phát triển công
nghiệp nói riêng rất lơn và cấp bách.
Trong giai đoạn 2001 – 2005, vốn đầu tư trong nước tăng khá nhanh, từ
1240011 tỷ đồng(chiếm 82,04% tổng vốn đầu tư)(năm 2000) lên 292033 tỉ đồng
(năm 2005) chiếm 85,11 % tổng vốn đầu tư ,tính chung trong cả thời kỳ này vốn
trong nước chiếm 67,61% tổng vốn đầu tư toàn xã hội,giai đoạn 2006-2007 vốn
đầu tư trong nước chiếm 78,96% tổng vốn đầu tư.
Đối với Việt Nam, trong thành phần của nguồn vốn đầu tư trong nước, nguồn vốn
khu vực nhà nước luôn chiếm một tỉ trọng rất lớn và có một vai trò rất quan trọng;
nó là nguồn hình thành các công trình trọng điểm của quốc gia, nhất là các công
trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của đất nước, những công trình mà các thành
phần kinh tế khác không thể hoặc không muốn đầu tư. Nguồn vốn này góp phần

thay đổi cơ bản hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, hình thành những ngành công
nghiệp mới và nhiều lĩnh vực dịch vụ, cải tạo nền nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá, dần tiếp cận với thị trường thế giới; tạo tiền đề cho quá trình tăng trưởng
kinh tế của đất nước.
2. Thực trạng về vai trò của vốn đầu tư trong nước đối với tăng trưởng và
phát triển kinh tế ở Việt Nam
2.1 Nguồn vốn trong nước là nguồn đóng góp lớn vào GDP toàn xã hội, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế Việt Nam.
Khả năng huy động vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong 5 năm 2001-2005
vào khoảng 840 nghìn tỷ đồng (theo mặt bằng giá năm 2000) tương đương khoảng
60 tỷ USD, bằng 1,5 lần tổng vốn đầu tư thực hiện thời kỳ 1996-2000; trong đó
nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 2/3.
Vốn đầu tư trong nước giai đoạn 1995-2007
(nguồn:tổng cục thống kê)
. Tỷ lệ đầu tư so với GDP chiếm khoảng 31-32%, bảo đảm tốc độ tăng
trưởng kinh tế 7,5%/năm.
Đưa tổng sản phẩm trong nước năm 2005 gấp 2 lần so với năm 1995. Nhịp độ
tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước bình quân hàng năm thời kỳ 5 năm 2001-2005
là 7,51%, trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%; công nghiệp và xây dựng
tăng 10,8%; dịch vụ tăng 6,2%.Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm.
Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/năm; giá trị sản xuất ngành công
nghiệp tăng 13%/năm; giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm.
Đến năm 2005 tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng sản phẩm trong nước
chiếm 20-21%; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm 38-39%; tỷ trọng các
ngành dịch vụ chiếm 41-42%.
GDP giai đoạn 2000-2008

Tính ra trong 5 năm 2001-2005, bình quân mỗi năm tổng sản phẩm trong nước
tăng 7,51%, đưa quy mô nền kinh tế năm 2005 gấp 1,44 lần năm 2000.
Để có thể đạt được thành tựu như trên thì tổng số vốn đầu tư phát triển 5 năm

2001-2005 theo giá thực tế đã đạt trên 1200 nghìn tỷ đồng, gấp trên 2 lần tổng
số vốn đầu tư phát triển huy động được trong kế hoạch 5 năm 1996-2000. Tính
ra, vốn đầu tư phát triển bình quân mỗi năm trong 5 năm 2001-2005 đạt trên 240
nghìn tỷ đồng, bằng 201,6% mức bình quân mỗi năm trong kế hoạch 5 năm
1996-2000.
Tỷ lệ vốn đầu tư so với tổng sản phẩm trong nước đã tăng từ 35,42% năm 2001
lên 37,16% năm 2002; 37,76% năm 2003; 38,45% năm 2004 và ước tính năm
2005 là 38,67%. Tỷ lệ đầu tư của nước ta hiện nay chỉ thấp hơn Trung Quốc,
còn cao hơn hầu hết các nước trong khu vực (Tỷ lệ đầu tư so với tổng sản phẩm
trong nước năm 2004 của Trung Quốc là 45,7%; Hàn Quốc 29,3%; Thái Lan
37,8%; Ma-lai-xi-a 22,5%; Phi-li-pin 19,6%, In-đô-nê-xi-a 19,5%; Xin-ga-po
15,3%.
Trong tổng số vốn đầu tư 5 năm 2001-2005 thì vốn đầu tư trong nước
chiếm tới 84%, cao hơn hẳn tỷ lệ 78,6% của những năm 1996-2000. Sở dĩ có
được kết quả này một mặt do Nhà nước tăng cường đầu tư, nhưng mặt khác còn
do các chính sách khuyến khích kinh tế ngoài Nhà nước phát triển, trong đó có
Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX) về kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân đã góp
phần rất quan trọng. Trong 5 năm 2001-2005 đã có gần 14 vạn doanh nghiệp dân
doanh đăng ký thành lập với tổng số vốn đăng ký lên tới 294 nghìn tỷ đồng. Nhờ
vậy số vốn của khu vực này chiếm trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng từ
22,6% năm 2001 lên 26,2% năm 2002; 29,7% năm 2003; 30,9% năm 2004 và
ước tính năm 2005 là 32,4%
2.2 nguồn vốn trong nước được tập trung đầu tư cho những ngành quan
trọng nhằm tăng cường sự ổn định đồng thời giúp nền kinh tế tăng trưởng
bền vững ,phát triển một cách toàn diện giữa các ngành ,các vùng và các địa
phương khác nhau:.
Đầu tư trong nước là công cụ định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kích
thích phát triển sản xuất kinh doanh ,trong những năm gần đây thự hiện chủ trương
của Đảng là thực hiện “công nghiệp hóa ,hiện đại hóa đất nước”vì vậy, vốn đầu tư
trong nước cũng có những bước chuyển biến hết sức căn bản và mạnh mẽ về cơ

cấu vốn đầu tư theo lĩnh vực ngành nghề theo hướng tăng nhanh tỷ trọng vốn dành
cho đầu tư phát triển các dự án công nghiệp nặng, công nghiệp hóa nông nghiệp
nông thôn và hiện đại hóa công nghiệp nhẹ, trong đó chú trọng đến công nghiệp
chế biến nông, lâm, thủy sản
Nguồn vốn đầu tư phân theo ngành kinh tế giai đoạn2000-2006
(đơn vị:tỉ đồng)

(nguồn:tổng cục thống kê)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế 5 năm 2001-2005 tương đối cao và đạt mục tiêu
đề ra. Trong ba khu vực kinh tế thì khu vực công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng
trưởng bình quân hàng năm cao nhất với mức tăng 10,24%/năm (công nghiệp tăng
10,12%; xây dựng tăng 10,75%); khu vực dịch vụ tăng bình quân hàng năm 6,96%;
khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,83%/năm.
Khu vực công nghiệp và xây dựng đạt tốc độ tăng cao hơn các khu vực khác
nên đóng góp của khu vực này vào tốc độ tăng chung của tổng sản phẩm trong nước
cũng lớn nhất trong 3 khu vực kinh tế. Sau khu vực công nghiệp và xây dựng là
đóng góp của khu vực dịch vụ. Khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp thấp
nhất. Trong 5 năm 2001-2005, hàng năm đóng góp của khu vực này thường không
vượt qua mức một điểm phần trăm.
Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng
tổng sản phẩm trong nước 2001 - 2005
%

200
1
200
2
200
3
200

4
200
5
Tốc độ tăng tổng sản phẩm 6,89 7,08 7,34 7,79 8,43
trong nước
Nông lâm nghiệp và thuỷ sản 0,69 0,93 0,79 0,92 0,82
Công nghiệp và xây dựng 3,68 3,47 3,92 3,93 4,19
Dịch vụ 2,52 2,68 2,63 2,94 3,42

Khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tuy đạt tốc độ tăng bình quân hàng năm
5,42% về giá trị sản xuất và 3,83% về giá trị tăng thêm, nhưng tỷ trọng trong tổng
sản phẩm trong nước đã giảm từ 24,53% năm 2000 xuống 23,24% năm 2001;
23,03% năm 2003; 21,81% năm 2004 và ước tính năm 2005 chỉ còn 20,89% phần
lớn giá trị tăng thêm đạt được trong những năm vừa qua là do tăng trưởng của
ngành trồng trọt. Ngành chăn nuôi trong hai năm 2004 và 2005 bị ảnh hưởng lớn
của dịch cúm gia cầm. Tuy nhiên, do có sự tăng nhanh về số lượng gia súc và áp
dụng các phương pháp chăn nuôi có tính chất công nghiệp với qui mô lớn nên giá
trị tăng thêm của ngành chăn nuôi vẫn đạt tốc độ tăng bình quân hàng năm xấp xỉ
tốc độ tăng chung của ngành nông nghiệp. Trong giai đoạn 1995-2000, ngành
Nông Lâm Ngư nghiệp đóng góp trung bình khoảng 26% GDP, vốn đầu tư cho
Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản chiếm khoảng 14% trong tổng vốn đầu tư
xã hội. Trong đó, nguồn vốn đến chủ yếu từ khu vực ngoài quốc doanh. Tốc độ
tăng vốn đầu tư từ khu vực Nhà nước vào Nông nghiệp tăng bình quân 2,1%/năm
trong giai đoạn 2001-2005, có những năm tốc độ tăng âm. Chính vì sự giảm đầu tư
xã hội cho Nông nghiệp để ưu tiên cho các ngành khác nên tốc độ tăng trưởng
GDP nông nghiệp trung bình trong giai đoạn 2001-2005 chỉ là 3,8%, năm 2006 là
2,8% và năm 2007 là 2,3%.
Giá trị tăng thêm của ngành thuỷ sản bình quân hàng năm tăng 8,9%, cao hơn
tốc độ tăng bình quân 4,9% của thời kỳ 1996-2000, do tăng cả sản lượng nuôi trồng
và sản lượng khai thác, nhất là khai thác biển. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng,

chủ yếu do nhiều địa phương tiếp tục mở rộng diện tích nuôi trồng.
Giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp thì tỷ trọng giá trị tăng thêm theo giá
thực tế chiếm trong tổng sản phẩm trong nước của khu vực công nghiệp và xây
dựng đã tăng từ 36,73% năm 2000 lên 38,13% năm 2001; 38,49% năm 2002;
39,47% năm 2003; 40,21% năm 2004 và năm 2005 ước tính chiếm 41,04%. chiếm
khoảng 85% giá trị tăng thêm của khu vực công nghiệp và xây dựng với tốc độ tăng
bình quân hàng năm 10,1%, trong đó công nghiệp chế biến tăng 11,69%; điện, ga,
nước tăng 12,15%. Riêng công nghiệp khai thác có tốc độ tăng bình quân hàng năm
không cao, chủ yếu do sản lượng khai thác dầu thô tăng thấp hoặc có năm bị giảm
sút. Tăng trưởng giá trị gia tăng của ngành xây dựng bình quân hàng năm đạt
10,75%, cao hơn tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Ta thấy, cũng trong lĩnh vực
công nghiệp, tỷ lệ vốn tín dụng của quỹ hỗ trợ phát triển luôn cao hơn tỷ lệ vốn
đầu tư của toàn xã hội, điều này đồng nghĩa với việc lĩnh vực công nghiệp cũng thu
hút các nguồn vốn khác trong nền kinh tế ngày càng nhiều. trong giai đoạn 2006-
2010 ngành Công nghiệp sẽ đầu tư khoảng 388,2 ngàn tỷ đồng, tăng gấp 1,7 lần so
với giai đoạn 2001-2005, chiếm 29,5% tổng vốn đầu tư cộng đồng. Dự kiến nguồn
vốn đầu tư công cộng sẽ tập trung phát triển có chọn lọc các ngành công nghiệp có
tiềm năng, các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, công nghiệp sản xuất tư
liệu sản xuất quan trọng và công nghiệp xuất khẩu; đầu tư trang thiết bị cho các
công trình lớn và phức tạp; đầu tư phát triển các khu công nghiệp, cụm công
nghiệp và các điểm công nghiệp trên cả nước theo quy hoạch để thu hút các nguồn
vốn khác đầu tư vào các khu công nghiệp…
Khu vực dịch vụ có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế nước ta. Chính vì
vậy Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra mục tiêu tăng trưởng dịch
vụ bình quân hàng năm 7% và đến năm 2010 giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ
phải chiếm 42-43% tổng sản phẩm trong nước. Để đạt mục tiêu này, trong những năm
vừa qua các cấp, các ngành đã quan tâm đầu tư thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển.
Nhờ vậy, tốc độ tăng bình quân hàng năm về giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ thời
kỳ 2001-2005 đã đạt 6,96%, xấp xỉ mục tiêu tăng 7% và cao hơn mức tăng 5,69% của
thời kỳ 1996-2000, trong đó năm 2004 tăng 7,3% và năm 2005 tăng 8,5%.

Trong khu vực dịch vụ, các ngành dịch vụ kinh doanh (bao gồm thương mại;
khách sạn, nhà hàng; vận tải, bưu điện; tài chính, ngân hàng; kinh doanh tài sản, dịch
vụ tư vấn liên quan) nhìn chung có mức tăng trưởng cao. Đây cũng là những ngành
có chi phí đầu tư không lớn, còn nhiều tiềm năng nên cần được phát triển mạnh hơn
trong những năm tới. Khu vực dịch vụ vẫn duy trì được tỷ trọng chiếm trên dưới
38% tổng sản phẩm trong nước. Tỷ trọng của ba khu vực qua các năm như trên đã
thể hiện rất rõ nền kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. . Đây là sự chuyển dịch đúng hướng vì nước ta đang trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu theo 3 khu vực kinh tế, các số liệu động thái về
tỷ trọng giá trị gia tăng trong tổng sản phẩm trong nước còn cho thấy nội bộ từng khu
vực kinh tế cũng có sự chuyển dịch nhất định. Trong nội bộ khu vực nông lâm nghiệp
và thuỷ sản sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng
tỷ trọng của ngành thuỷ sản. Tỷ trọng của ngành lâm nghiệp tương đối nhỏ do vậy ít
ảnh hưởng. Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp, tức là
giữa trồng trọt và chăn nuôi thì chưa thật rõ nét. Ngành trồng trọt vẫn chiếm trên 80%;
ngành chăn nuôi hàng năm chỉ tạo được gần 20% giá trị gia tăng của ngành nông
nghiệp do chăn nuôi ở nước ta quy mô nhỏ, phân tán, khó chủ động trong phòng
chống dịch bệnh.
Khu vực công nghiệp và xây dựng chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp chế biến và tỷ trọng của ngành xây dựng. Ngành điện, ga và nước giữ được
tỷ trọng ổn định. Tỷ trọng ngành công nghiệp khai thác có xu hướng giảm. Tuy
nhiên, tỷ trọng công nghiệp chế biến tăng không nhiều do các ngành công nghiệp
gia công lắp ráp chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong sản xuất công nghiệp. Giá trị
sản xuất công nghiệp những năm vừa qua tăng trưởng nhanh nhưng chủ yếu là tăng
ở các ngành may mặc, giầy da, lắp ráp ô tô, lắp ráp ti vi, lắp ráp xe máy có giá trị
tăng thêm chỉ chiếm 10-15% giá trị sản xuất.
Khu vực dịch vụ nhìn chung không tăng được tỷ trọng trong tổng sản
phẩm trong nước, chủ yếu là do những ngành dịch vụ có khả năng tạo nhiều giá
trị tăng thêm vẫn chưa được đầu tư thích đáng, nhất là đầu tư chiều sâu cho các

ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ cảng biển, dịch vụ hàng không,
dịch vụ bưu chính viễn thông, dịch vụ du lịch. Tuy nhiên, trong những năm vừa
qua cũng đã có một số ngành tăng trưởng tương đối khá như: thương mại; khách
sạn, nhà hàng; vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc; tài chính, tín dụng.
Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, trong 5 năm 2001-2005 cơ cấu
thành phần kinh tế cũng có sự chuyển dịch theo hướng giữ vững vai trò chủ đạo
của kinh tế Nhà nước và tăng đóng góp của các khu vực kinh tế ngoài Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước tăng bình quân hàng năm 7,46%, gần bằng mức tăng trưởng
chung của nền kinh tế, do kết quả sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, giảm
đáng kể các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả hoặc thua lỗ. Do vậy, trong 5 năm
2001-2005, kinh tế Nhà nước vẫn giữ được tỷ trọng tương đổi ổn định, chiếm
khoảng 38-39% tổng sản phẩm trong nước.
Tỷ trọng giá trị tăng thêm của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước thường chiếm
46-47% tổng sản phẩm trong nước và những năm gần đây có xu hướng giảm do
khu vực kinh tế cá thể chiếm tỷ trọng 2/3 khu vực kinh tế ngoài Nhà nước nhưng
chỉ tăng bình quân hàng năm 6,26%. Trong khu vực kinh tế ngoài Nhà nước thì
kinh tế tư nhân tuy có tốc độ tăng cao, nhưng mới chiếm tỷ trọng trên 8% tổng sản
phẩm trong nước nên không bù được cho sự tăng trưởng thấp của khu vực cá thể
và tập thể.
Nếu nhìn một cách khái quát thì trong những năm vừa qua cơ cấu kinh tế của
nước ta tuy đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ và tích cực, nhưng vẫn chưa ra khỏi
cơ cấu ngành truyền thống với tỷ trọng tương đối cao của khu vực sản xuất vật chất

×