Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tiểu luận các học thuyết quản trị nhân lực phương đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.15 KB, 31 trang )

Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
Tiểu luận
Các học thuyết quản
trị nhân lực Phương
Đông
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
1
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
MỤC LỤC
Lời nói đầu:
Quản lý là một hoạt động đã có từ rất lâu đời nhưng khoa học quản lý là một
ngành khoa học còn mới mẻ và được nhiều người quan tâm. Theo thời gian đã tồn tại
nhiều lý thuyết, nhiều trường phái tư tưởng quản lý đa dạng khác nhau. Mỗi học thuyết
dù "già" hay "trẻ" đều có giá trị lịch sử và khoa học nhất định, mà những người quan
tâm tới lý thuyết cũng như thực hành quản lý đều cần phải biết để tìm được những tri
thức cần thiết với những giải pháp thích hợp cho công việc của mình. Phương Đông cổ
đại là cái nôi của sự xuất hiện các tư tưởng và học thuyết về quản trị. Nổi bật trong các
tư tưởng này phải kể đến đó là các học thuyết quản trị Phương Đông từ thời Xuân Thu
– Chiến Quốc. Ông tổ của các học thuyết này – người đặt nền móng đầu tiên cho các tư
tưởng quản trị nhân lực là Khổng Tử - với trường phái “Đức trị”; và Hàn Phi Tử - tiểu
biểu cho trường phái “Pháp trị”.
Nhóm 12 sẽ cùng thầy cô và các bạn nghiên cứu làm rõ hệ thống các tư tưởng
này, phân tích về ưu và nhược điểm của từng trường phái; những thuận lợi và khó khăn
khi áp dụng những quan điểm quản lý của từng trường phái trên vào hệ thống quản lý
của các doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế phát triển như hiện nay.
Dù đã rất nỗ lực và cố gắng, nhưng do hạn chế về thời gian, nguồn tài liệu và
kiến thức còn hạn hẹp nên nội dung của đề tài không tránh khỏi thiếu sót, rất mong
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
2
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
nhận được sự đóng góp ý kiến của Cô và các nhóm còn lại trong lớp để bài tiểu luận


được hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN
I. Trường phái “Đức Trị”
1. Khổng Tử - cuộc đời và sự nghiệp.
Người có công sáng lập và phát triển trường phái “Đức trị” chính là Khổng Tử -
một nhà hiền triết của Trung Hoa cổ đại. Tư tưởng “Đức trị” được thể hiện rõ nét trong
tác phẩm Luận ngữ - một trong những cuốn sách hàng đầu của bộ Tứ Thư (kinh điển
của các nhà Nho).
Khổng Tử họ Khổng tên Khâu, hiệu là Trọng Ni, người ở ấp Trâu nước Lỗ. Ông
sinh vào thời Chu Linh Vương năm thứ 21 (-551 TCN) và mất vào thời Chu Kính
Vương năm thứ 4 (-479 TCN), thọ 72 tuổi. Theo sử ký Tư Mã Thiên, ông dạy học từ khi
còn trẻ. Sinh thời ông có ra làm quan một thời gian ở nước Lỗ, sau bị gièm pha nên bỏ
đi chu du khắp thiên hạ. Sử chép rằng ông có hơn 3000 học trò, trong đó có 72 người
hiền tài nổi tiếng. Khổng tử là người sáng lập ra đạo Nho mà giới nghiên cứu tư tưởng
phương Tây gọi là phái Khổng học. Ông là danh sư có ảnh hưởng rất lớn và – điều
này mới là điều trọng yếu và duy nhất – là nhà giáo lập trường tư đầu tiên trong lịch
sử trung Quốc.
Khổng Tử sinh ra trong thời loạn lạc, :vương đạo” suy vi, “bá đạo” nổi lên lấn át,
“vương đạo” làm cho xã hội rối loạn. lễ phép nhà Chu bị đảo lộn. Ông nhận thấy rằng
cần lập lại kỷ cương trong xã hội, thì thiên hạ mới có đạo, xã hội mới ổn định. Để thực
hiện ý nguyện đó, ông đã dựa vào đạo đức, coi đạo đức là phương tiện, là sức mạnh
hiệu nghiệm nhất để quản lý xã hội, Thức chất của học thuyết đức trị là đòi hỏi người
trị dân phải có đức, quản lý xã hội bằng đạo đức, phải nêu gương đạo đức để làm cho
dân yên tâm mà theo lễ. Ông được người đời sau phong là Thánh và được coi là “vạn
sư thế biểu” (thầy của muôn đời)
Ở Trung Quốc vai trò của ông đã nhiều lần thăng- trầm theo quan điểm và xu
hướng chính trị, song đến nay, ông vẫn lại được đánh giá cao, UNESCO đã thừa nhận
ông là một “danh nhân văn hoá thế giới”.
2. Quan điểm về con người.

Các học thuyết quản trị Phương Đông.
3
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
Với Khổng Tử đạo đức là gốc của con người, nói đến con người trước hết là nói
đến đạo đức. Đúng như thiên "Học Nhi" - sách Luận ngữ đã viết: "Làm người có nết
hiếu, đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc phạm bề trên mà thích làm
loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức
sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức nhân "
Trước thời Khổng Tử đã xuất hiện khái niệm quân tử. "Nhưng thời đó nó trỏ cái
địa vị trong xã hội, chứ không trỏ cái phẩm tính con người. Người có phận cao (tối đại
đa số ở trong giai cấp quý tộc) cai trị dân, có đức hay không đều gọi là quân tử". Đến
thời mình, Khổng Tử đã đề ra những tiêu chuẩn về tài đức, về tư cách phẩm chất để
thành người quân tử đáng được nắm quyền trị dân, nhờ đó tiếng quân tử không còn
thuần tuý chỉ người cầm quyền như trước nữa, mà chủ yếu là có nghĩa chỉ người có
đức dù họ cầm quyền hay không.
Mặc dù coi trọng hiếu đức như vậy nhưng quan niệm của Khổng Tử không khắt
khe, nghiệt ngã, một chiều mà rất đúng mực "Thờ cha mẹ, nên nhỏ nhẹ khuyên can;
nếu thấy cha mẹ không theo ý mình thì vẫn cung kính mà không xúc phạm cha mẹ; tuy
khó nhọc, lo buồn nhưng không được oán hận". Có thể nói quan niệm này của Khổng
Tử nếu đặt trong bối cảnh xã hội hiện đại vị tất đã lỗi thời mà vẫn gợi lên cho chúng ta
nhiều suy nghĩ.
Sau hiếu, đễ, nói đến "đức" là nói đến tính thiện. Khổng Tử quan niệm: "Bản tính
tốt chẳng phải học tập theo cổ nhân mà cũng tốt, nhưng không đạt được mức tinh vi
của đạo". Người có "đức", có tính thiện thì "thấy việc thiện thì vội vàng như đuổi theo
không kịp, thấy việc bất thiện thì như nhúng tay vào nước sôi". Nhưng điều chủ yếu
"đức" không phải chỉ là thiện đức mà là hành động. Khổng Tử nói: "Biết (đạo lý)
không bằng thích nó, thích nó không bằng vui làm theo nó" và "nghe được điều nghĩa
mà không làm theo, có lỗi mà không sửa đổi đó là những mối lo của ta".
Như vậy, đức là lời nói đi đôi với việc làm đúng như Khổng Tử đã nói: "Người
xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được" và "Người quân tử

chậm chạp (thận trọng) về lời nói, mà mau mắn về việc làm".
Điều dễ nhận thấy là tuy Khổng Tử nói nhiều về "đức", tin vào "đức" và đề cao về
"đức" như vậy, nhưng ông cũng nhận thấy rằng, xã hội thời ông đang thiếu "đức" một
cách nghiêm trọng. Chính là thực tế xã hội và cuộc sống đã khiến ông phải buông ra
những lời than thở: "Ta chưa thấy ai hiếu đức bằng hiếu sắc", "Học ba năm mà không
có ý cầu bổng lộc, dễ được mấy người?" và "Trung dung là đức cực đẹp vậy. Từ lâu
rồi, người ta ít có đức đó". Có lần ông nói với Tử Lộ rằng: " người biết đạo đức
(nghĩa lý) ít lắm". Sống trong một xã hội "vô đạo", loạn lạc như vậy, một xã hội mà
đầy rẫy những cảnh phản loạn, tàn bạo, dâm bôn, đạo đức suy vi, phần nhiều giả dối,
nói mà không làm, nhưng Khổng Tử với lòng yêu thương con người thắm thiết, vẫn tin
ở con người, tin ở học thuyết của mình có thể cứu vớt cuộc đời. Với ông: "Người ta
không thể làm bạn với cầm thú; ta không sống chung với người trong xã hội này thì
sống chung với ai?. Chính là trên cơ sở đó, mà Khổng Tử đã đề xuất đường lối "Đức
trị" - đường lối trị nước bằng đạo đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Nguyễn Hiến
Lê rất có lý khi nhận xét rằng: "Khổng Tử là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư cách
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
4
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
người cầm quyền, đến bổn phận họ phải sửa mình, phải làm gương cho dân, phải giáo
hoá dân. Ông không tách rời đạo đức và chính trị, ông đã đạo đức hoá chính trị. Và tất
cả triết lý chính trị của ông gồm trong danh từ đức trị, mà danh từ này có nghĩa là
người trị dân, phải trị dân bằng đức, chứ không bằng bạo lực
3. Nôi dung về tư tưởng quản trị nhân lực.
Sống trong một xã hội nông nghiệp, sản xuất kém phát triển vào cuối đời Xuân
Thu, đầy cảnh “đại loạn” và “vô đạo”, bản thân đã từng làm nhiều nghề “bỉ lậu” rồi
làm quan cai trị, Khổng Tử nhận thức được nhu cầu về hoà bình, ổn định, trật tự và
thịnh vượng của xã hội và mọi thành viên.Khác với Trang Tử coi đời như mộng, kiếp
người phù du chỉ cốt “toàn sinh” cho bản thân, Khổng Tử là một người “nhập thể” và
luôn trăn trở với chuyện quản lý của xã hội theo cách tốt nhất. Song, ông không phải là
một nhà cách mạng từ dưới lên, ông chỉ muốn thực hiện những cải cách xã hội từ trên

xuống, bằng con đường “Đức trị”.
Xã hội lý tưởng mà Khổng Tử muốn xây dựng là một xã hội phong kiến có tôn ti,
trật tự. Từ Thiên Tử tới các chư hầu lớn nhỏ, từ quý tộc tới bình dân, ai có phận nấy,
đều có quyền lợi và nhiệm vụ sống hoà hảo với nhau, giúp đỡ nhau, nhất là hạng vua
chúa, họ phải có bổn phận dưỡng dân- lo cho dân đủ ăn đủ mặc, và bổn phận giáo dân
bằng cách nêu gương và dậy lễ, nhạc, văn, đức, bất đắc dĩ mới dùng hình pháp. Xã hội
đó lấy gia đình làm cơ sở và hình mẫu, trọng hiếu đễ, yêu trẻ, kính giá. Mọi người đều
trọng tình cảm và công bằng, không có người quá nghèo hoặc quá giàu; người giàu thì
khiêm tốn, giữ lễ, người nghèo thì “lạc đạo”.Dù sao thì ý tưởng trên cũng được cả hai
giai cấp bóc lột và bị bóc lột thời đó dễ chấp nhận hơn, dễ thực hiện hơn so với hình
mẫu xã hội vô chính phủ “ngu si hưởng thái bình” của Lão Tử và mẫu “quốc cường
quân tôn” bằng hình phạt hà khắc và lạm dụng bạo lực của phái pháp gia.
Cái “cốt” lý luận để xây dựng xã hội trên, cái giúp cho các nhà cai trì lập lại trật
tự từ xã hội vô đạo chính là đạo Nho - đạo Nhân của Khổng Tử. Cho nên, dù có nói về
chính trị, giáo dục hay đạo đức thì Khổng Tử đều xuất phát từ vấn đề nhân sự và mục
đích của ông chính là xây dựng một xã hội nhân bản.
3.1. Đạo nhân về quản lý.
Với vũ trụ quan “thiên, địa, nhân - vạn vật nhất thể”, trời và người tương hợp,
Khổng Tử nhận thấy các sự vật của vạn vật tuân theo một quy luật khách quan mà ông
gọi là trời “mệnh trời”. Con người theo Nho học “là cái đức của trời, sự giao hợp âm
dương, sự hội tụ của quỷ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành”. Con người sinh ra đều có
bản chất Người (đức - nhân) nhưng do trời phú khác nhau về năng lực, tài năng và
hoàn cảnh sống (môi trường) khác nhau cho nên đã trở thành những nhân cách không
giống nhau. Bằng sự học tập, tu dưỡng không ngừng, con người dần dần hoàn thiện
bản chất người của mình - trở thành người Nhân. Và những người hiền này có xứ mệnh
giáo hoá xã hội, thực hiện nhân hoá mọi tầng lớp. Nhờ vậy, xã hội trở nên có nhân
nghĩa và thịnh trị. Học thuyết Nhân trị của Khổng Tử cũng là một học thuyết quản lý
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
5
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12

xã hội nhằm phát triển những phẩm chất tốt đẹp của con người, lãnh đạo - cai trị họ
theo nguyên tắc đức trị: người trên noi gương, kẻ dưới tự giác tuân theo.
3.1.1. Về đạo Nhân:
“Nhân là yêu người” (Nhân là ái nhân). Nhân là giúp đỡ người khác thành công
“Người thân, mình muốn thành công thì cũng giúp người khác thành công, đó là
phương pháp thực hành của người nhân”. Nhưng Khổng Tử không nói đến tính nhân
chung chung ông coi nó như đức tính cơ bản của nhà quản lý. Nói cách khác, người có
nhân luôn tìm mọi cách đủ thu lợi về mình, nhân là nguyên tắc cơ bản của hoạt động
quản lý (trong quan hệ nhà quản lý với đối tượng bị quản lý) vưà là đạo đức và hành vi
của các chủ thể quản lý. Khổng Tử nâng tư tưởng nhân lên thành đạo (nguyên tắc sống
chung cho xã hội) vì là một nhà tư tưởng quản lý sâu sắc, ông thấy đó là nguyên tắc
chung gắn kết giữa chủ thể và khách thể quản lý đạt hiệu quả xã hội cao: “người quân
tử học đạo thì yêu người, kẻ tiểu nhân học đạo thì dễ sai khiến” (Dương hoá).
3.1.2. Nhân và lễ:
Nhân có thể đạt được qua Lễ, Lễ là hình thức biểu hiện của Nhân, thiếu Nhân thì
Lễ chỉ là hình thức giả dối: “Người không có đức Nhân thì Lễ mà làm chi”.
3.1.3. Nhân và Nghĩa:
Đúng lễ cũng là làm đúng nghĩa rồi. Nhân gắn liền với Nghĩa vì theo Nghĩa là
thấy việc gì đáng làm thì phải làm, không mưu tính lợi của cá nhân mình. “Cách xử sự
của người quân tử, không nhất định phải như vậy mới được, không nhất định như kia là
được, cứ hợp nghĩa thì làm”, làm hết mình không thành thì thôi.
Tư tưởng nhân ái của Khổng Tử có thể so sánh với tình bác ái của chúa Giê su và Đức
phật. Nhưng ông khác 2 vị kia ở chỗ, trong tình cảm, có sự phân biệt tuỳ theo các mối
quan hệ: trước hết là ruột thịt, sau đến thân, quen và xa hơn là người ngoài.
3.1.4. Nhân và Trí:
Trí trước hết là “biết người”. Có hiểu biết sáng suốt mới biết cách giúp người mà
không làm hại cho người, cho mình: “Trí giả lợi Nhân”. Rõ ràng là người Nhân không
phải là người ngu, không được để cho kẻ xấu lạm dụng lòng tốt của mình. Trí có lợi
cho Nhân, cho nên khi Khổng Tử nói đến người Nhân - quân tử, bao giờ cũng chú
trọng tới khả năng hiểu người, dùng người của họ. Phải sáng suốt mới biết yêu người

đáng yêu, ghét người đáng ghét.
3.1.5. Nhân và Dũng:
Dũng là tính kiên cường, quả cảm, dám hy sinh cả bản thân mình vì nghĩa lớn.
Khổng Tử khen Bá Di, Thúc Tê, thà chết đói chứ không thèm cộng tác với kẻ bất nhân,
là người Nhân. Khổng Tử rất ghét những kẻ hữu Dũng bất Nhân, vì họ là nguyên nhân
của loạn.
Đạo của Khổng Tử không quá xa cách với đời. Nhân - Trí - Dũng là những phẩm
chất cơ bản của người quân tử, là tiêu chuẩn của các nhà quản lý- cai trị. Tư tưởng đó
của Khổng Tử được Hồ Chí Minh kế thừa có chọn lọc và nó vẫn còn ảnh hưởng đối
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
6
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
với sự phát triển của xã hội hiện nay. Khổng Tử cũng mong phú quý, nhưng ông chỉ
thừa nhận nó trở thành ích lợi cho xã hội khi nó “không trái với đạo lý” và phải đạt
được bằng những phương tiện thích đáng. Khổng Tử khuyên các nhà cai trị không nên
chỉ dựa vào lợi để ra quyết định quản lý: “nương tựa vào điều lợi mà làm hay là sinh ra
nhiều điều oán” (Lý nhân, IV). Ông biết họ có nhiều ưu thế để tranh lợi với cấp dưới
và những người lao động luôn phải chịu mức sống thấp hơn, cho nên, điều quan trọng
đối với nhà quản lý là phải nghiêm khắc với mình, rộng lượng với người và lo trước
nỗi lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ. Chỉ như vậy xã hội mới có cái lợi dài
lâu là môi trường chính trị - xã hội ổn định, các giai cấp hợp tác cùng làm ăn vì mục
tiêu chung: kinh tế thịnh vượng, tinh thần tốt đẹp.
Khổng Tử khuyên các nhà quản lý phải “khắc phục được tư dục”, không nên cầu
lộc cho cá nhân mình, cứ chuyên tâm làm tốt công việc thì “bổng lộc tự khắc đến”.
Làm cho dân giàu là mục tiêu đầu tiên, cơ bản của nhà quản lý”: đối với những người
nông dân nghèo khổ đương thời, Khổng Tử biết lợi ích kinh tế là nhu cầu thiết yếu của
họ, nên ông biết đạo Nhân sẽ khó thực hiện được khi quần chúng còn nghèo khổ:
“Nghèo mà không oán là khó, giàu mà không kiêu là dễ” (Hiếu Vấn). Khổng Tử sang
nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe, Khổng Tử nói: “Dân đông thay”, Nhiễm Hữu hỏi: “Đã
đông rồi làm gì hơn nữa?”, Khổng Tử nói: “ Làm cho dân giàu”, Nhiễm Hữu hỏi: “ Đã

giàu rồi, lại làm gì hơn nữa?”, Khổng Tử nói: “Giáo dục họ”
Tư tưởng “làm cho dân giàu”, “tiên phú, hậu giáo” là tư tưởng duy vật của Khổng
Tử, được các học giả của Nho gia và Mắc gia sau này phát triển thêm. Nhưng những
giá trị tư tưởng của Khổng Tử để lại cho hậu thế đã không bị mai một theo thời gian.
Ngày nay, hệ thống học thuyết của Khổng Tử đã trở nên lạc hậu, trước hết là phần nội
dung liên quan tới vấn đề thế giới quan, song nhiều triết lý của ông về đạo đức - đạo lý,
giáo dục, cai trị - quản lý con người và xã hội vẫn là những nguyên tắc và triết học
chỉ đạo một số hoạt động. Ví dụ như:Khổng Tử nhấn mạnh tới quá trình tự tu dưỡng
trong hoạt động quản lý: “tu thân - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ” (Đại học).Người
Nhân thì phải hết lòng vì người, biết từ bụng ta suy ra bụng người: “Kỷ sở bất dục, vật
thi ư nhân” (Luận ngữ).
Trong hoạt động kinh tế, không chỉ căn cứ vào lợi nhuận đơn thuần “Giàu sang là
điều ai cũng muốn, nhưng nếu được giàu sang mà trái với đạo lý thì người quân tử
không thèm”. Cứ làm việc tốt, phục vụ người tốt thì “bổng lộc tự khắc đến”.Ở đây có
một điểm cần nói rõ hơn: “Chính” mà Khổng Tử nói ở đây là chính trị, chính sự. Và
chính trị là chỉ mọi biện pháp được thi hành để quản lý đất nước, làm cho chính sự
được quản lý chặt chẽ; chính sự là chỉ việc làm hành chính. Khổng Tử chủ trương tham
gia chính trị nuôi dưỡng nhân tài “Tòng chính” có nghĩa là chấp chính. Lúc bấy giờ,
chưa thể có quản lý xí nghiệp cũng như khái niệm về quản lý xí nghiệp. Thời bấy giờ,
việc quản lý quốc gia là việc mọi người quan tâm nhất, đó cũng là chính sự. Do đó,
Khổng Tử quan tâm đến “Chính”. Quan tâm và nghiên cứu việc quản lý quốc gia là rất
tự nhiên. Nhưng quản lý quốc gia là quản lý! Còn về điểm quản lý con người, nó cũng
có nét chung như bất cứ việc quản lý nào. Do đấy, tư tưởng quản lý của Khổng Tử có ý
nghĩa phổ biến.
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
7
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
Quản lý học phương Tây truyền thống cho rằng quản lý là quản lý, luân lý đạo
đức là luân lý đạo đức, hai phạm trù đó không có liên quan với nhau. Nhưng quản lý là
cái gì? Suy cho cùng, quản lý là quản lý con người. Trong quản lý, đối với con người

thì quản lý là cái gì? Quản lý mọi quan hệ giữa người với người. Còn luân lý đạo đức,
là quy phạm chuẩn mực hành vi giữa con người với con người. Do đấy giữa luân lý
đạo đức và quản lý là có quan hệ mật thiết.Quản lý có nghĩa là xử lý tốt mọi quan hệ
giữa con người với nhau. Ví dụ trong quản lý xí nghiệp là cần xử lý tốt hai quan hệ lớn
của con người với nội bộ xí nghiệp bên ngoài. Quan hệ giữa xí nghiệp với bên ngoài là:
Quan hệ giữa xí nghiệp với khách hàng, giữa xí nghiệp với tiền tệ, tiêu thụ, cung ứng
Do đấy cũng tự nhiên rút ra kết luận là Khổng Tử không có tư tưởng quản lý. Nhưng
qua phân tích ở trên, chúng ta có thể nhìn thấy rõ nhận thức ấy là phiến diện.
So với cách quản lý truyền thống của phương Tây và pháp gia cổ đại của Trung
Quốc, cách quản lý của Khổng Tử đi một con đường khác. Ông nhấn mạnh đức trị,
nhấn mạnh lấy luân lý đạo đức để giáo hoá nhân dân. Đương nhiên ở thời Khổng Tử,
nội dung của luân lý khác với ngày nay. Trong khi Khổng Tử nhấn mạnh nghiên cứu
“vị chính” quản lý, thì nội dung luân lý và nội dung quản lý có sự khác biệt. Nhưng đó
chỉ là sự cá biệt của vấn đề, không thể thay đổi được kết luận chung về mối quan hệ
khăng khít giữa quản lý và luân lý đạo đức. Quản lý là thể thống nhất hữu cơ của tư
tưởng quản lý và thuận quản lý. Tư tưởng quản lý là cái bản chất, thuật quản lý chỉ là
cái phát sinh mà thôi. Nhân tố cơ bản quyết định tính chất quản lý và thành bại của nó
là tư tưởng quản lý chứ không phải là thuật quản lý. Từ ý nghĩa ấy, lấy “thuật” để thay
thế quản lý phiến diện. Cũng vì lý do ấy, quyết không nêu vì Khổng học không có
“thuật” mà phủ định Khổng Tử từng bàn đến quản lý, phủ định tư tưởng quản lý của
Khổng Tử.
Vậy, tư tưởng học thuyết lễ trị (Vị Đức) của Khổng Tử là: Làm gì muốn thành
công cũng phải có chính danh (lẽ phải), phải biết chọn người hiền tài giúp việc, phải
thu phục lòng người, phải đúng đạo và phải tiết kiệm. Các ông cho rằng con người phải
chia thành 2 loại: quân tử thì có nghĩa, còn tiểu nhân thì chỉ chăm lo điều lợi.
3.2. Khổng Tử với tầng lớp quản lý chuyên nghiệp.
Đạo nhân của Khổng Tử là nền tảng của học thuyết quản lý đức trị, kỷ cương và
phát triển thịnh vượng. Trong một xã hội sản xuất thô sơ, có sự đối chọi về lợi ích và
tương phản rõ rệt giữa người giàu và kẻ nghèo thì rất khó thực hiện điều nhân cho toàn
xã hội. Tư tưởng của Khổng Tử đã được các vua chúa sau này học tập, xây dựng một

hệ thống tuyển lựa nhân tài cho quốc gia. Căn cứ vào kết quả các kỳ thi, những người
đỗ đạt, dù xuất thân từ giai cấp nào, đều được đề bạt các chức vụ quản lý, từ thấp đến
cao. Chế độ tuyển chọn nhân tài này đã tạo ra một đẳng cấp các nhà quản lý ở nhiều
nước phương Đông kiểu Khổng giáo.Thuyết chính danh của Khổng Tử đòi hỏi đặt tên
đúng sự vật và gọi sự vật bằng đúng tên của nó, khiến danh đúng với thực chất sự vật.
Trong quản lý, chính danh là phải làm việc xứng đáng với danh hiệu chức vụ mà người
đó được giao. Muốn chính danh thì thân phải chính (có nhân), không chấp nhận thói
xảo trá, lừa lọc hoặc việc lạm dụng chức quyề n. Đã mang cái danh là vua phải làm
tròn trách nhiệm của một vị vua, không sẽ mất cả danh và ngôi. Khổng Tử có tư tưởng
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
8
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
khi việc làm vượt quá trách nhiệm và danh vị, Khổng Tử gọi là “Việt vị”. Khổng Tử
cho rằng mầm mống của loạn lạc, bất ổn của quốc gia là các hành vi “việt vị”, “tiếm
lễ” của tầng lớp cai trị. Ngày nay, nhìn lại, chúng ta thấy tư tưởng quản lý của Khổng
Tử có nhiều điểm bảo thủ, thiếu dân chủ và ảo tưởng. Nhưng ở thời ông, luật pháp còn
rất sơ sài, quyền lực thực sự được quyết định bởi ý chí và hành vi của vua và tầng lớp
cai trị, người dân còn đói nghèo, dốt nát, không có quyền tự bảo vệ mình. Trong bối
cảnh như vậy, Khổng Tử muốn xây dựng xã hội lý tưởng bằng cách bắt đầu “từ trên
xuống dưới”, ông phải kêu gọi lòng khoan dung, sự gương mẫu của các nhà quản lý.
4. Ưu và nhược điểm của Trường phái Đức trị.
4.1. Ưu điểm:
 Nặng đức, nhẹ hình, khuyến khích người đời tu thân rèn đức theo mẫu
người quân tử
 Quan điểm về bản chất con người là tốt: Nhân chi sơ tính bản thiện
 Thu phục được người khác bằng cái Đức của Nhà quản trị
 Đức trị tích cực tiêu diệt tận gốc cái “ác”, thực hiện “chặt đứt gốc rễ”, giải
quyết vấn đề từ căn bản. quản lí mang tính chiến thuật và có hiệu quả trong
một thời gian dài
4.2. Nhược điểm:

 Nội dung thuyết Đức trị có hạn chế là vị thế và vai trò của pháp chế và lợi
ích kinh tế đối với xã hội không được coi trọng
 Thiếu tính răn đe trong quản trị nhân lực
 Trường phái Đức trị của Khổng Tử chỉ đề ra nguyên lý, không cụ thể hóa
thành thao tác và quy trình
 Đức trị dựa vào giáo hoá, dựa vào tư tưởng để giải quyết vấn đề. Như vậy,
hiệu quả sẽ nhìn thấy chậm. Nhất là hình thành đạo đức nếp sống lí tưởng,
xây dựng quan niệm giá trị chung thì mất thời gian, quyết không thể một
sớm một chiều.
II. Trường phái pháp trị.
1. Hàn Phi Tử - cuộc đời và sự nghiệp
Trung Hoa cổ đại có hai thời kỳ được đời sau nhắc đến nhiều là thời Xuân Thu và
thời Chiến Quốc, Thời Xuân Thu (770- 403 TCN) là thời kỳ suy tàn của nhà Chu, cũng
là thời của Lão Tử, Khổng Tử. Còn thời Chiến Quốc (403-221 TCN) là thời của Hàn
Phi Tử.
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
9
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
Hàn Phi Tử (khoảng 280 – 233 TCN) là người nước Hàn, học rộng, biết cả đạo
Nho lẫn đạo Giáo nhưng ông lại tâm đắc với học thuyết của Pháp gia và có tư tưởng
mới về pháp trị. Tuy thuộc tầng lớp quý tộc nhưng ông có tinh thần yêu nước, tiến bộ,
trọng kẻ sĩ, trọng người giỏi pháp thuật, chê bọn quý tộc, cổ hủ, vô dụng. Ông đã tiếp
thu điểm ưu trội của ba trường pháp “pháp”, “thuật”, “thế”để xây dựng và phát triển
một hệ thống lý luận pháp trị tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với đương thời. Coi
pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hoà bình, ổn định và công bằng, Hàn Phi đã
đề xuất tư tưởng dùng luật pháp để trị nước. Ông đưa ra một số nguyên tắc cơ bản
trong xây dựng và thực thi pháp luật, như pháp luật phải nghiêm minh, không phân
biệt sang hèn, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật Với những tư tưởng đó, học
thuyết của Hàn Phi được người xưa gọi là “học thuyết của đế vương”.
Theo ông, muốn cho nước Hàn mạnh (một nước nhỏ, yếu nằm sát nước Tần, luôn

bị nhòm ngó) thì phải dùng Thuật và Pháp cải tổ lại nội chính để tạo ra nội lực mạnh,
đừng trông cậy vào ngoại giao của bọn du thuyết. Ông thuyết phục vua Hàn nhiều lần
không được, tới khi nước Hàn sắp bị Tần thôn tính, vua Hàn mới phái ông đi sứ qua
Tần để thuyết phục vua Tần Thuỷ Hoàng. Hàn Phi Tử tới Tần không thuyết phục được
vua Tần. Bạn cùng học với Hàn Phi Tử là Lý Tư làm tể tướng của nhà Tần biết ông là
người có tài, khuyên Tần Thuỷ Hoàng nếu không khuất phục được thì phải giết đi để
trừ hậu hoạ. Hàn Phi Tử bị hãm hại ở Tần vào năm 233 TCN và ba năm sau đó nước
Hàn bị Tần thôn tính.
2. Quan điểm về con người.
Hàn Phi quan niệm nhà vua cũng chỉ là người bình thường như bao người khác.
Cái làm cho đất nước trị hay loạn không phải là ông vua của nước đó ra sao, mà là nền
pháp trị của nước đó như thế nào. Hiện tượng Quản Trọng và Tề Hoàn Công thường
được sử dụng như một ví dụ đắt giá cho tư tưởng này. Các nhà Nho tôn quân, Hàn Phi
cũng tôn quân, nhưng tôn quân theo một kiểu khác. Ông viết: “Bọn nhà Nho đời nay
nói với nhà vua lại không nói đến cái làm cho đời nay được trị mà nói đến công lao trị
an ngày xưa, không hiểu rõ công việc phép quan, không xét kỹ cái tình hình của bọn
gian tà, mà đều nói đến những chuyện truyền lại từ thời thượng cổ, ca ngợi công lao
của các tiên vương. Bọn nhà Nho tô vẽ lời nói, bảo: ‘Nghe lời nói của ta thì có thể làm
bá vương’. Loại người nói như vậy cũng như bọn thày cúng, đồng cốt, vị vua có pháp
độ không nghe. Cho nên vị vua sáng nêu lên những việc có thực, bỏ cái vô dụng,
không nói chuyện nhân nghĩa, không nghe lời bọn học giả”. Hàn Phi quan niệm pháp
luật là công cụ hữu hiệu nhất để đem lại hòa bình, ổn định và công bằng: “Bậc thánh
nhân hiểu rõ cái thực tế của việc phải và trái, xét rõ thực chất của việc trị và loạn, cho
nên trị nước thì nêu rõ pháp luật đúng đắn, bày ra hình phạt nghiêm khắc để chữa cái
loạn của dân chúng, trừ bỏ cái họa trongthiên hạ. Khiến cho kẻ mạnh không lấn át
người yếu, kẻ đông không xúc phạm số ít, người già cả được thỏa lòng, người trẻ và cô
độc được trưởng thành, biên giới không bị xâm lấn, vua và tôi thân yêu nhau, cha con
giữ gìn cho nhau.
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
10

Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
Sở dĩ tư tưởng chính trị của Hàn Phi đối lập với tư tưởng Nho gia là bởi ông có
một quan niệm hết sức sâu sắc về thực tiễn. Khác với Khổng Mạnh mượn đời xưa để
phê phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại, Hàn Phi cho
rằng, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận phải đều được bắt nguồn từ chính thực
tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc chính sự chẳng qua chỉ như
trẻ con nghịch đất, không thể đem lại hiệu quả thực tế: “Trẻ con đùa nghịch với nhau
lấy đất làm cơm, lấy bùn làm canh, lấy gỗ làm thịt. Nhưng chiều đến, thế nào cũng trở
về nhà ăn cơm. Cơm đất, canh bùn có thể đùa để chơi, nhưng không thể dùng để ăn.
Khen những điều truyền tụng từ thượng cổ, hùng biện mà không chắc chắn, nói chuyện
nhân nghĩa của các tiên vương mà không biết sửa đổi nước, thì đó cũng đều là những
điều có thể dùng để đùa chơi chứ không dùng để trị nước”.
Trong khi Khổng Tử cho rằng bản chất của con người là "thiện" thì Tuân Tử, một
học trò của ông lại cho rằng bản chất của con người là "ác". Hàn Phi Tử là học trò của
Tuân Tử cũng cho rằng con người có "tính bản ác". Tuân Tử nói đến tính ác để khuyên
nhà cầm quyền dùng đức trị, uốn nắn lại tính cho dân, còn Hàn Phi Tử chủ trương dùng
hình phạt để ngăn ngừa những hành động của dân có hại cho nước. Theo Hàn Phi Tử,
chỉ có một số rất ít thánh nhân có tính bản thiện, còn đại đa số vốn có tính ác: tranh
nhau vì lợi, sẵn sàng giết nhau vì miếng ăn hay chức vị, làm biếng, khi có dư ăn rồi thì
không muốn làm gì nữa, chỉ phục tùng quyền lực. Ông viết: "Thầy lang khéo mút vết
thương, ngậm máu bệnh nhân đâu phải vì tình cốt nhục mà chỉ vì lợi. Thợ đóng xe
mong cho nhiều người giàu sang, còn thợ đóng quan tài mong có nhiều người chết.
Không phải là thợ đóng xe có lòng nhân còn thợ đóng quan tài thì tàn nhẫn, chỉ vì
người ta không giàu sang thì không mua xe, không chết thì quan tài không bán được.
Thợ đóng quan tài không phải là kẻ ghét người nhưng có người chết thì anh ta mới có
lợi".
Có thể thấy Hàn Phi Tử là người duy lý, duy lợi, theo chủ nghĩa thực dụng. Song,
ông có một trí tuệ sâu sắc, đã vì sự tồn vong của đất nước mình mà chịu cái chết bi
thảm, tuy biết trước đó là số phận chung của các Pháp gia có tài, có tâm, nhiệt thành
yêu nước. Đặc biệt, Hàn Phi Tử đã vượt xa thời đại mình khi nêu ra tư tưởng đấu tranh

sinh tồn và giải thích nguyên nhân của sự nghèo khổ là do dân số tăng nhanh, vượt quá
sự gia tăng của sản xuất.
3. Nội dung tư tưởng quản trị nhân lực.
Hàn Phi Tử đưa ra ba khái niệm cơ bản trong quản lý - cai trị, đó là "thế" (quyền
lực), "pháp" (luật pháp) và "thuật" (phương pháp quản lý). Đây là ba vấn đề cốt lõi của
quản lý - cai trị, liên hệ khăng khít với nhau, trong đó "pháp" là yếu tố quan trọng nhất,
có tính quyết định.
3.1. “Pháp” và các tiêu chuẩn của luật pháp.
Then chốt của việc xây dựng đất nước giàu mạnh là phải dựa vào pháp luật. Có
pháp luật, pháp luật được thi hành một cách phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn
định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
11
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
dân chúng được yên bình, hạnh phúc. Từ chỗ cho rằng, “Không có nước nào luôn luôn
mạnh, cũng không có nước nào luôn luôn yếu. Hễ những người thi hành pháp luật mà
mạnh thì nước mạnh, còn hễ những người thi hành pháp luật yếu thì nước yếu”, Hàn
Phi đã đề xuất tư tưởng “trị nước bằng luật pháp” (dĩ pháp trị quốc), chủ trương “luật
pháp không phân biệt sang hèn” (pháp bất a quý), “hình phạt không kiêng dè bậc đại
thần, tưởng thưởng không bỏ sót kẻ thất phu” (hình quá bất tị đại thần, thưởng thiện
bất di tứ phu). Ông hết sức coi trọng tác dụng của pháp luật và chủ trương xây dựng
một lý luận pháp trị hoàn chỉnh, trong đó lấy “pháp” làm hạt nhân, kết hợp chặt chẽ
“pháp”, “thuật” với “thế”.
Hàn Phi hiểu rất rõ và sâu sắc về pháp luật, coi “pháp luật là mệnh lệnh ban bố rõ
ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn
thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ làm trái lệnh”. Đây là một tư tưởng hết sức
tiến bộ so với đương thời. Cái gọi là “mệnh lệnh ban bố rõ ràng nơi cửa công” khác xa
so với cách cai trị bởi ý muốn chủ quan của các cá nhân quý tộc nắm quyền đương
thời. Pháp luật rõ ràng được ban bố cho trăm họ, làm cho dân biết pháp luật để tránh
phạm pháp; lấy đó làm chuẩn tắc cho hành vi của mọi người, chứ không phải là cái bẫy

để hại dân. Các điều luật minh bạch là phương thức phòng bị tích cực, chứ không phải
là một thủ đoạn chế tài tiêu cực. Đồng thời, nó cũng chính là “hiến lệnh” – một công cụ
- để vua cai trị thần dân. Nội dung chủ yếu của “pháp” có thể quy về 2 khái niệm chủ
yếu là “thưởng” và “phạt”.
Thực hành pháp trị tất phải xây dựng pháp luật. Hàn Phi cho rằng, lập pháp
cần phải xét đến các nguyên tắc sau:
 Tính tư lợi.
Hàn Phi quan niệm nền tảng của quan hệ giữa con người với con người là tư
lợi, ai cũng muốn giành cái lợi cho mình. “Ông thầy thuốc khéo hút mủ ở vết thương
người ta, ngậm máu người ta không phải vì có tình thương cốt nhục, chẳng qua làm thế
thì có lợi. Cho nên, người bán cỗ xe làm xong cỗ xe thì muốn người ta giàu sang.
Người thợ mộc đóng xong quan tài thì muốn người ta chết non. Đó không phải vì
người thợ đóng cỗ xe có lòng nhân, còn người thợ đóng quan tài không phải ghét người
ta, nhưng cái lợi của anh ta là ở chỗ người ta chết”. Luật pháp đặt ra thì cái lợi của nó
phải lớn hơn cái hại.
 Hợp với thời thế.
Đây chính là thuyết biến pháp của Hàn Phi. Nguyên tắc thực tế của việc xây
dựng pháp luật, hay tính thực tiễn của luật pháp, là nét nổi bật trong tư tưởng pháp trị
của Hàn Phi. Đối với ông, không có một pháp luật siêu hình hay một mô hình pháp luật
trừu tượng tiên thiên để mà noi theo. Chỉ duy nhất có yêu cầu và tiêu chuẩn của thực
tiễn. “Pháp luật thay đổi theo thời thì trị; việc cai trị thích hợp theo thời thì có công
lao Thời thế thay đổi mà cách cai trị không thay đổi thì sinh loạn Cho nên, bậc
thánh nhân trị dân thì pháp luật theo thời mà thay đổi và sự ngăn cấm theo khả năng
mà thay đổi”.
 Ổn định, thống nhất.
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
12
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
Mặc dù pháp luật phải thay đổi cho hợp với thời thế, song trong một thời kỳ,
pháp lệnh đã đặt ra thì không được tùy tiện thay đổi (“số biến pháp”), vì nếu vậy thì

dân chúng không những không thể theo, mà còn tạo cơ hội cho bọn gian thần.
 Phù hợp với tình người, dễ biết dễ làm.
 Đơn giản mà đầy đủ.
 Thưởng.
Đối với việc chấp pháp, nguyên tắc của Hàn Phi là:
• Tăng cường giáo dục pháp chế, tức là “dĩ pháp vi giáo”.
• Mọi người, ai ai cũng bình đẳng trước pháp luật, tức “pháp bất a quý”,
“hình bất tị đại thần, thưởng thiện bất di tứ phu”. Đến bản thân bậc quân chủ
– nhà vua – cũng phải tôn trọng và tuân thủ pháp luật: “Kẻ làm vua chúa là
kẻ phải giữ pháp luật, căn cứ vào kết quả mà xét để lập công lao”; Nếu nhà
vua biết bỏ điều riêng tư, làm theo phép công thì chẳng những dân sẽ được
yên, mà nước cũng được trị. Nếu xét theo ý nghĩa của những luận điểm này
thì có thể thấy rằng, mặc dù Hàn Phi chủ trương quân quyền thần thánh
không thể xâm phạm, song hình thái quân quyền này vẫn bị chế ước bởi
pháp quyền.
• Nghiêm khắc cẩn thận, “tín thưởng tất phạt”, không được tùy ý thưởng cho
người không có công, vô cớ sát hại người vô tội.
• Dùng sức mạnh đạo đức hỗ trợ cho việc thi hành pháp luật.
3.2. “Thuật” và Phương pháp thi hành quyền lực, pháp luật
Nho gia nói nhiều tới tâm và đức trong quản lý - cai trị, còn Pháp gia nhấn mạnh
tới kĩ thuật cai trị. Vì công việc của vua rất nhiều nên phải giao việc cai trị dân cho
quan lại, nên thuật của vua chủ yếu là trị quan chứ không phải trị dân. Chữ "thuật" của
Hàn Phi Tử có hai nghĩa: kĩ thuật và tâm thuật. Kỹ thuật là cách thức, biện pháp để
tuyển, dùng, kiểm tra khả năng của quan lại. Tâm thuật là mưu mô để chế ngự quần
thần không cho họ biết suy nghĩ, tình cảm thực của mình.
Thuật trừ gian là cách loại trừ bọn gian thần. Hàn Phi Tử quan niệm bản chất con
người là tư lợi nên địa vị, quyền lực của nhà vua là mục tiêu lợi dụng, giành giật của
rất nhiều người. Theo ông có tám loại gian thần, tựu trung lại gồm hai hạng là: kẻ thân
thích của vua và quần thần, cả hai đều đánh vào tình cảm, dục vọng và điểm yếu của
vua để lung lạc, che giấu vua, để tự do hoành hành, ngăn cản, hãm hại trung thần. Các

trung thần muốn giết bọn gian thần nhưng vua lại che chở chúng, thành thử chúng càng
lộng hành mà bóc lột dân, làm giàu, lập bè cánh để che giấu tội ác cho nhau, bịt mắt
nhà vua; cũng như loài chuột đào hang trong đền thờ mà không ai làm gì được vì nếu
dùng lửa sợ bị cháy, dùng nước sợ hỏng lớp đất màu bao quanh cây cột. Muốn kiềm
chế hạng người tư lợi có địa vị cao, Hàn Phi Tử chia bọn họ ra từng loại để có các cách
xử lý khác nhau: Người hiền, có thể bắt vợ con thân thích làm con tin; kẻ tham lam,
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
13
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
cho tước lộc hậu hỹ, mua chuộc để khỏi làm phản; kẻ gian tà, phải làm cho khốn khổ
bằng cách trừng phạt. Theo ông, với kẻ xấu, nếu không cải hóa được thì phải trừ khử.
Muốn trừ họ mà không làm thương tổn đến danh tiếng của vua hãy nên đầu độc họ
hoặc dùng kẻ thù của họ để giết, nhưng tốt nhất là không dùng những kẻ không nên
dùng, để khỏi phải đề phòng
.Nguyên tắc cơ bản của thuật dùng người của Pháp gia là thuyết hình danh. Theo
thuyết này, muốn đánh giá con người phải xét cái sự thực đã làm (hình) và tên gọi của
công việc (danh) có phù hợp với nhau không. "Dùng quy tắc hình danh mà thu phục bề
tôi thì không được nghe lời giới thiệu của người khác, mà phải đích thân xem xét người
cần dùng có xứng đáng không vì người giới thiệu có thể vì tình riêng, tư lợi, muốn kéo
bè đảng mà đề cử hạng bất tài vô đức. Trong đời, kẻ có tài chưa nhất định đã có đức,
kẻ có đức chưa nhất định có tài, cho nên việc bổ nhiệm người nếu không có thuật thì sẽ
bại". Ông nhấn mạnh việc dùng người phải hết sức thận trọng. Muốn vậy, phải có
phương pháp nghe (thánh ngôn) bề tôi nói; phải khảo sát nhiều mặt để biết lòng bề tôi;
phải xem lời nói của họ có giá trị không; cuối cùng là giao chức cho họ, dùng thực tiễn
kiểm tra thực lực của họ. Trong mỗi việc trên, ông đều có những kĩ thuật tỉ mỉ nhằm
đạt được hiệu quả cao. Chẳng hạn, việc giao chức cần phải giao cho một chức nhỏ rồi
tuần tự thăng cấp, không cho kiêm nhiệm chức vụ, phải phân công rõ ràng, mỗi người
một chức để họ hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hàn Phi Tử cho rằng vượt chức là đầu mối
của loạn. Giao trách nhiệm cho một người rồi kiểm tra kết quả công việc, theo dõi
nhưng không can thiệp vào công việc của họ.

3.3. “Thế” và các tư tưởng trong thế
Hàn Phi Tử cho rằng vua không cần "hiền" mà cần "thế", vua phải biết dựa vào
thế của mình và ban lệnh, buộc quan và dân phải răm rắp tuân theo. Theo ông, "thế"
không liên quan đến đạo đức và tài trí của con người, bởi "hiền tài như vua Nghiêu khi
chưa làm vua nói không ai nghe, bạo tàn như vua Kiệt nhưng vì là vua nên mọi người
không dám trái lệnh". Trong khi Nho gia đặt tài, đức lên trên uy quyền và cho rằng
phải có tài, đức mới xứng đáng với ngôi vị để tránh làm hại dân. Ngược lại, Hàn Phi
Tử đặt địa vị, quyền thế lên trên tài, đức. Theo ông, chỉ cần tài, đức trung bình nhưng
có quyền thế là trị được nước. Là người trọng thế, trọng sự cưỡng chế của quyền lực,
Hàn Phi Tử chủ trương: Chủ quyền phải được tập trung vào một người, đó là vua. Vua
phải nắm quyền thưởng, phạt, phải được mọi người tôn kính và tuân thủ triệt để. Hàn
Phi quan niệm rất rõ ràng những điểm trọng yếu về thế:
• Vua không được cho bề tôi mượn quyền thế.
• Vua không được dùng chung quyền thế với bề tôi.
• Cần sử dụng thuật thưởng phạt để củng cố quyền thế.
• Vua phải duy trì địa vị độc tôn của mình, không được để bề tôi quá quý hiển, đề
phòng đại thần tiếm quyền.
Vì vậy, nếu chỉ xét về bản thân vị vua, thì “thế” là cái cốt lõi nhất, quan trọng
nhất, còn “pháp” và “thuật” chỉ là công cụ.
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
14
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
Hàn Phi Tử khen chính sách Đức trị của đạo Nho là đẹp nhưng chê là không thực
tế, "Vua Thuấn (được Khổng Tử suy tôn là bậc thánh) sửa khuyết điểm cho dân, một
năm sửa được một tật, ba năm sửa được ba tật. Tuổi thọ của ông có hạn mà tật của dân
thì vô cùng; lấy cái hữu hạn trừ cái vô cùng thì trừ được bao lâu? Nếu dùng sự thưởng
phạt, bắt dân thi hành mà ra lệnh rằng: hễ làm đúng phép thì thưởng, trái phép thì phạt,
thì sáng ban lệnh, chiều sự tình đã thay đổi, chỉ trong mười ngày là khắp cả nước thay
đổi cả, đâu phải đợi đến một năm?"
Hàn Phi Tử cho rằng cách thưởng phạt là nguyên nhân làm cho quốc gia thịnh,

suy, loạn lạc. Thưởng thì phải "tín" (xác thực, tin tưởng) và trọng hậu, phạt thì phải
"tất" (cương quyết) và phải nặng. Thưởng hậu thì dân thấy lợi mà ham; phạt nặng thì
dân thấy sợ mà tránh. Sự thưởng phạt phải theo đúng phép nước, trị tội không chừa các
quan và thưởng công không bỏ sót dân thường. Hình phạt nặng thì người sang không
dám khinh kẻ hèn, pháp luật phân minh thì người trên được tôn trọng, không bị lấn.
Vua phải nắm hết quyền thưởng phạt, dùng thưởng và phạt để chế ngự bề tôi, nếu bỏ
hai quyền đó, thậm chí bỏ một để cho bầy tôi dùng thì ngược lại sẽ bị bầy tôi chế ngự.
Hàn Phi Tử đề ra tính nghiêm khắc, công bằng của pháp luật và khuyên vua, chúa phải
vô tư, công minh khi sử dụng pháp luật. Song, chính ông lại thừa nhận mọi người đều
hành động vì tư lợi; và đó là điểm mâu thuẫn trong học thuyết của ông.
4. Ưu nhược điểm của Trường phái Pháp trị:
4.1. Ưu điểm:
 Chú trọng quá trình quản trị, đại chúng hóa quá trình này để người bình
thường cũng vận dụng được
 Cụ thể hóa thành thao tác và quy trình trong việc thực hiện các công tác
quản trị nhân lực
 Coi trọng thực tiễn, có xem xét đến sự ảnh hưởng của hoàn cảnh khách quan
đối với việc ra quyết định
 Pháp trị là quản lý tính chiến thuật, có hiệu quả trong thời gian ngắn
 Khi xảy ra các mâu thuẫn nội bộ, pháp luật sẽ là công cụ tiết chế các mối
quan hệ vào không gây ra tình trạng hỗn loạn
 Giúp nhà quản trị phát hiện và đạo tạo nhân tài dựa trên nguyên tắc thưởng
phạt công bằng, tìm ra được những cá nhân có ích cho sự phát triển của tổ
chức và xã hội
4.2. Nhược điểm:
 Quan điểm về bản chất con người quá cực đoan, độc đoán
 Tập trung quyền lực vào một cá nhân, Có thể gây ra sự ức chế tâm lý cho
người bị quản trị
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
15

Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
 Chỉ nhìn thấy khía cạnh vụ lợi, mà còn không thấy được lý tưởng cao đẹp
và sẵn sang hi sinh vì lí tưởng của người có tâm có đức, phủ nhận Đức trị.
 Đề cao, coi trọng vị thế của nhà quản trị và chủ yếu sử dụng các chế tài để
cưỡng ép, răn đe
III. So sánh 2 trường phái “Đức trị” và “Pháp trị”.
So
sánh
Quan
điểm
Đức trị Pháp trị
Giống
nhau
 Đều có nguồn gốc xuất phát ở Trung Hoa cổ đại
 Các tư tưởng quản lý của hai trường phái này hoà trộn với các tư
tưởng triết học, chính trị, pháp lý, đạo đức.
 Đều có mục đích đưa ra công cụ quản lý cùng với những phương
pháp hợp để trị vì thiên hạ.
 Chữ thuật trong quản lí: Một trong những nguyên tắc hành xử mà
Khổng Tử nhắc đến đó là sự quyền biến trong hành động,”vô khả,
vô bất khả” (đối với việc đời không nhất định phải làm, không
nhất định không làm, thấy hợp nghĩa thì làm). Đó là cách ứng xử
tùy thời, tùy nơi, tùy tâm cảnh, quyền biến vô ý, vô tắc, vô cố, vô
chấp, vô ngã. Cũng giống như Khổng tử, Hàn Phi Tử quan niệm
chữ thuật của ông là cách thức, nghệ thuật ứng xử, việc đó phải bí
mật và biến hóa khôn lường
Khác
nhau
Về
bản

chất
con
người
Khổng Tử cho rằng bản tính của
con người là thiện, sống gần
nhau, muốn giúp đỡ lẫn nhau
Tính tương cận, tập tương viễn.
Ông quan niệm con người sinh ra
vừa có tính bẩm sinh vừa có tính
tập nhiễm xã hội
Trên đời có 2 kiểu người: Thánh
nhân và tiểu nhân
Hàn Phi Tử cho rằng phần lớn
con người: tranh nhau vì lợi;
lười biếng, có dư ăn rồi thì
không muốn làm nữa; chỉ phục
tùng quyền lực
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
16
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
Về tư
tưởng
quản
trị
 Khổng Tử chủ trương trị
người bằng đức là chính.
 Nhà quản trị phải tu dưỡng
những đức tính cần thiết như
nhân, nghĩa, tín, dũng, liêm.
Trong đó đức nhân được đắt

lên hàng đầu và là trung tâm: vì
con người và từ con người
 Khổng tử chỉ rõ nguyên tắc “sử
dân dĩ thời” biết và đề bạt
người chính trực, khách quan
không thành kiến, phương pháp
quản lý cơ bản là nêu gương và
giáo hoá.
 Trường phái Đức trị theo ý
tưởng phân phối công bằng
quân bình “Không sợ thiếu, chỉ
sợ không đều”
 Hàn Phi Tử chủ trương chú
trọng đến pháp luật và coi
pháp luật chính là tiêu chuẩn
cho mọi hành vi trong ứng
xử.
 Ông xây dựng học thuyết
quản trị nhân lực xoay quanh
ba phạm trù pháp, thế, thuật
 Ông chủ trương việc quản trị
phải được cụ thể hóa thành
thao tác và quy trình để
người bình thường có thể
cũng có thể học và thực thi.
Pháp phải hợp thời, dễ biết,
dễ thi hành, phải công bằng.
 Ông chủ trương dùng người
phải đúng hình danh, theo
đúng quy trình khách quan,

đãi ngộ theo nguyên tắc, quy
tắc, quy chế ràng chứ không
theo ý riêng
IV. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong quản trị nhân lực.
1. Quan điểm của Người
Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới,
đã tiếp thu, kết tinh, phát triển một cách sáng tạo các di sản của cha ông cả về mặt lý
luận cũng như thực tiễn. Các bài nói, bài viết và tấm gương của Người chính là chuẩn
mực cho tư tưởng quản trị nhân lực Việt Nam hiện đại.
Hồ Chí Minh kế thừa các tư tưởng quản trị nhân lực của các nhà thuyết gia
phương Đông và cả phương Tây. Ở Người không có sự coi trọng “ đức” hơn hay pháp
luật hơn trong quản trị nhân lực cũng như trong quản lý kinh tế xã hội. Người học hỏi
và kế thừa những giá trị tiêu biểu của Khổng Tử về việc lấy đức trị người nghĩa là để
thu phục và dẫn dắt người khác nhà trị phải tu dưỡng những đức tính cần thiết như:
nhân, trí, dũng, nghĩa và trước hết người quản trị cũng cần phải rèn luyện bản thân
mình cả về mặt đạo đức và chuyên môn. Đồng thời, Người cũng tiếp thu những tinh
hoa trong tư tưởng quản trị của Hàn Phi Tử như quản trị phải quyền biến chứ không
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
17
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
câu nệ sách vở, thời khác thì sự việc phải khác, trong mỗi trường hợp thì cần có những
cách xử lý khác nhau. Từ đây, Hồ Chí Minh đã cùng với những tư tưởng mới của chủ
nghĩa Mác- Lê nin, Người đã xây dựng nên những tư tưởng mới và tiên bộ hơn về quản
trị nhân lực nói riêng cúng như quản trị nhà nước xã hội nói chung. Tư tưởng của
Người có sự kết hợp của các học thuyết quản trị phương Đông, phương Tây và đặc biệt
là những tiếp thu tinh tế của chủ nghĩa Mác-Leenin. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong quản
trị có sự kết hợp cả yếu tố cứng là pháp luật và các yếu tố mền dẻo là đạo đức.
Điển hình như trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước, tinh thần và phương pháp
xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa đạo đức và
pháp luật. Giữa đạo đức và pháp luật có mối quan hệ khăng khít với nhau. Pháp luật

bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức nào đó nhằm
biến nó thành thói quen, nếp sống. Chuẩn mực càng khó bao nhiêu, càng rộng, thậm
chí trừu tượng, khó định lượng bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy
nhiêu. Có lẽ, cũng do vậy, pháp luật được coi là đạo đức tối thiểu, còn đạo đức được
coi là pháp luật tối đa. Vì có những vi phạm đạo đức mà pháp luật không thể xét xử
nhưng con người vẫn không thoát khỏi sự trừng phạt của lương tâm, dư luận.
2. Tư tưởng quản trị nhân lực của Người
2.1. Mục tiêu phát triển con người:
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là động lực vừa là mục tiêu. Đối với
xây dựng con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải toàn điện về dạo đức, trí tuệ, bản
lĩnh văn hóa.
 Trước hết là đạo đức, trong xây dựng con người Bác đặc biệt chú trọng đến
đạo đức, xuyên xuốt tư tưởng của Hồ Chí Minh vấn đề đạo đức là gốc. Xây dựng
doanh nghiệp doanh nhân trong thời kỳ mới hàng đầu cũng phải là đạo đức. Đạo đức
hiểu theo nghĩa rộng tức là làm những việc vừa mang lại lợi ích cho dân tộc, đất nước,
doanh nghiệp của mình và doanh nghiệp khác.
 Thứ hai là trí tuệ, Bác không bao giờ tách đạo đức với năng lực trí tuệ. Ngay
từ khi nước nhà vừa giành được độc lập, Bác đã ra lời kêu gọi diệt giặc dốt và đặc biệt
chú trọng đến giáo dục với mong muốn chúng ta học tập, phát triển trí tuệ để có thể
sánh vai với “cường quốc năm châu”. Trong kỷ nguyên của toàn cầu hóa, của cách
mạng khoa học kỹ thuật, doanh nghiệp doanh nhân nếu không có trí tuệ thì khó có thể
cạnh tranh thành công và sẽ gặp nhiều khó khăn khi phải giải quyết những vấn đề lớn.
 Thứ ba là bản lĩnh. Trong giai đoạn hiện nay phải có bản lĩnh chấp nhận
những rủi ro và dám vượt qua khó khăn. Bản lĩnh con người Việt Nam trước đây chủ
yếu là bản lĩnh đánh giặc, chống ngoại xâm còn bây giờ trên thương trường, doanh
nhân cần phát huy được bản lĩnh làm giàu chính đáng cho mình và cho đât nước. Hạn
chế của chúng ta là xuất phát điểm thấp, có nhiều thiệt thòi vì vậy trong một số trường
hợp, doanh nhân phải có bản lĩnh để đối mặt với khó khăn, thậm chí lùi một bước để
tiến hai bước. Bản lĩnh ở đây cũng cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn là dám chống lại
những cái phản văn hóa, phản đạo đức, không nghĩ đến lợi ích toàn cục mà chỉ nghĩ

đến lợi ích trước mắt.
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
18
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
 Vấn đề thứ tư rộng hơn đó là văn hóa doanh nhân. Mỗi doanh nghiệp cần xây
dựng văn hóa cho doanh nghiệp mình trên nền nhận thức và hiểu biết chung về văn
hóa. Văn hóa doanh nghiệp không chỉ là xây dựng đời sống, lối sống và môi trường
văn hóa lành mạnh, phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa mà quan trọng
hơn là phát huy và thực hành dân chủ. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ, sáng kiến, hăng
hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề
ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được áp dụng và khen ngợi thì những người đó thêm
hăng hái. Và khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái thì khuyết điểm cũng bớt dần đi.
Trong văn hóa doanh nghiệp thì văn hóa doanh nhân là hạt nhân. Bởi con người là gốc
của doanh nghiệp. Trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp cũng cần chắt lọc tinh hoa trí
tuệ nhân loại trong quá trình giao lưu, tiếp nhận.
2.2. Về công tác tuyển dụng, tuyển chọn
Tư tưởng của Người về việc lựa chọn cán bộ:
Trước hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của cán bộ. Người cho
rằng: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy
thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính
sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính
sách hay cũng không thể thực hiện được”. Chính vì “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc” nên việc lựa chọn cán bộ phải tuân theo những tiêu chuẩn nhất định như phải có
đạo đức cách mạng, phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với sự nghiệp
cách mạng của nhân dân; có mối liên hệ mật thiết với nhân dân, hiểu biết nhân dân,
luôn chú ý đến lợi ích của nhân dân; người cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, có trí tuệ, có trình độ chuyên môn và nghiệp
vụ giỏi, chí công vô tư Những đòi hỏi này có thể coi là những tiêu chuẩn cơ bản
chung nhất của người cán bộ cách mạng trong tất cả các thời kỳ, ở tất cả các cấp, ở tất
cả các địa bàn. Với những yêu cầu này, các cấp, các ngành, các địa phương có thể vận

dụng để đề ra tiêu chuẩn cụ thể để lựa chọn cán bộ cho ngành mình, địa phương mình,
cấp mình.
Có thể thấy, dù yêu cầu của lịch sử, nhiệm vụ của cách mạng, quyền lợi của nhân
dân, ở mỗi thời điểm có thay đổi, tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí
Minh vẫn nhấn mạnh vào hai chữ Đức và Tài. Bởi cán bộ có đức thì mới chí công vô
tư trong cách làm việc và cán bộ cần có tài, đủ năng lực để lãnh đạo nhân dân.
2.3. Về việc bố trí, sử dụng nhân lực
Theo Hồ Chí Minh, trước hết phải xác định đúng yêu cầu của công việc, ''công
việc yêu cầu cán bộ'' và khi bố trí, sử dụng phải tránh sự thiên vị cá nhân. Dùng người
là cả một khoa học và nghệ thuật, do đó, nếu bố trí đúng sẽ phát huy mặt mạnh của cán
bộ, thúc đẩy được phong trào và còn hạn chế được mặt yếu, mặt dở của họ. Người chỉ
ra những khuyết điểm khi sử dụng cán bộ, người quản lý hay mắc phải đó là ''ba ham''.
''Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người
ngoài. Ham dùng những kẻ nịnh hót mình mà chán ghét những người chính trực. Ham
dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp
với mình''.
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
19
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
Người căn dặn 5 vấn đề mà người cán bộ lãnh đạo phải thực hiện khi dùng
người: ''Mình phải độ lượng, vị tha thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công -vô
tư, không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi''; ''Phải có tinh thần rộng rãi, mới
có thể gần gũi những người mình không ưa”; ''Phải có tính chịu khó dạy bảo mới có thể
nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ''; ''Phải sáng suốt mới khỏi bị
bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ tốt''; ''Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng
chí mới vui lòng gần gũi mình''. Đồng thời, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải mạnh dạn cất
nhắc cán bộ và thường xuyên luân chuyển cán bộ, chống bệnh ích kỷ, địa phương, kéo
bè, chia rẽ phái này phái kia ''phải kết thành một khối không phân biệt, không kèn cựa
và giúp đỡ nhau thì công việc mới chạy”. Trong quá trình sử dụng cán bộ phải thường
xuyên đánh giá để kịp thời uốn nắn, sửa chữa khuyết điểm cho cán bộ và bố trí lại cán

bộ khi cần thiết.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải dùng
chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người như dùng gỗ, người thợ
khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được”.
Hồ Chí Minh phê bình rằng, thường chúng ta không biết tùy tài mà dùng người,
thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao, thành thử hai người đều
lúng túng, nếu biết tùy tài mà dùng người thì hai người đều thành công. Người cũng
phê phán những bệnh sau đây: 1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn,
vì cho họ tốt hơn người bên ngoài; 2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình mà chán
ghét những người chính trực; 3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình mà
tránh những người tính tình không hợp với mình.
2.4. Về công tác đào tạo và bồi dưỡng nhân lực
Hồ Chí Minh yêu cầu nội dung đào tạo phải phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và
đối tượng đào tạo. Đồng thời, trong việc đào tạo con người Hồ Chí Minh cũng cho
rằng: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau”
Người nhấn mạnh: học để hành, nghĩa là để làm việc chứ không phải là để có
bằng cấp, để cho oai và để có chức này chức nọ. Việc giảng dạy, học tập, đào tạo, huấn
luyện phải gắn liền với nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế, “kinh
nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau”, “lý luận cùng thực hành phải luôn luôn đi liền
với nhau”. Ví dụ, trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh
cần phải tạo ra môi trường “khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến”, “có gan
phụ trách, có gan làm việc”; “khi đã giao việc cho cán bộ phải để cho cán bộ có quyền
tùy cơ ứng biến mới có thể phát huy tài năng của họ, không nên sớm ra lệnh này, trưa
đổi lệnh khác”.
Theo Người có các hình thức đào tạo sau:
 Một là, tự đào tạo, bồi dưỡng. Về hình thức này, có người có kế hoạch hẳn
hoi, không qua trường lớp nhưng có ý thức học tập mọi lúc, mọi nơi, nhất là qua cả
những thành công và qua cả những thất bại trong công tác để rút ra những bài học cho
bản thân mình.
 Hai là, được đào tạo, bồi dưỡng theo trường, lớp, theo bài bản có hệ thống.

Các học thuyết quản trị Phương Đông.
20
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
 Ba là, vừa được đào tạo, bồi dưỡng theo trường lớp, vừa được rèn luyện trong
thực tế, vừa là quá trình tự đào tạo.
2.5. Về chính sách đãi ngộ nhân lực
Hồ Chí Minh coi trọng những động lực về nhu cầu và lợi ích của người lao động.
“Có thực mới vực được đạo” - Hồ Chí Minh thấy rất rõ lợi ích cá nhân là “Phải thực
hiện ban khoán một thưởng. Nếu ai thực hiện vượt mức quy định thì được thưởng. Có
như thế mới kích thích mọi người cố gắng hơn nữa. Thưởng, phạt phải công bằng”.
Theo Người, chính sách tiền lương chính là một trong những đòn bẩy quan trọng bởi
tiền lương chính là thước đo giá trị sức lao động mà người lao động bỏ ra. Tiền lương
không phù hợp còn là một trong những nguyên nhân của nhiều căn bệnh như: tham ô,
tham nhũng Thực hiện trả lương theo nguyên tắc: tiền tệ hoá đầy đủ tiền lương, chống
bình quân, cào bằng, đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi về thu nhập dưới mọi hình
thức.
Cần lưu ý rằng, mặc dù, chúng ta hết sức quan tâm đến môi trường làm việc,
nhưng người lao động cần phải sống với những trăn trở trong cuộc sống hằng ngày, do
vậy đòi hỏi cần phải thực hiện các biện pháp về đãi ngộ vật chất với một chính sách
tiền lương và trợ cấp phù hợp và thích đáng, coi đó như là đòn bẩy kinh tế quan trọng
trong việc kích thích thái độ và năng lực của nhân tài được sử dụng. Đồng thời, cũng
phải có chính sách khen thưởng động viên, đề bạt kịp thời qua các phong trào thi đua
cũng như có biện pháp xử phạt nghiêm minh, gắn kết giữa chính sách nhân sự với
chiến lược sử dụng và đào tạo, bồi dưỡng nhân lực.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay, Đảng ta tiếp tục
khẳng định: lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững; nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con
người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2015, Đảng ta xác định mục tiêu: tăng trưởng kinh
tế nhanh và bền vững; nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; con

người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển; tạo chuyển
biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người.
Và trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1-2011), Đảng ta
đặt mục tiêu: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ
khoa học, công nghệ, văn hóa đầu đàn, đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề”.
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
21
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN
I. Giá trị thực tiễn của các học thuyết.
Thực tiễn cuộc sống luôn luôn biến chuyển, công việc kinh doanh cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Nó ít giống với khu vườn phì nhiêu mà bạn cần phải chăm sóc,
chọn giống, tưới, bón phân và chống sâu bệnh. Nó giống hơn với ngã tư đường ồn ào,
có các dòng khác nhau đang di chuyển qua. Dòng hàng hóa, thông tin, tài chính, khách
hàng. Nguồn nhân lực trong ý tưởng này cũng là một dòng - dòng nhân lực đang chảy
qua các công ty.
Việc quản lý các dòng loại này là công việc kinh doanh trong thời hiện đại. Nhà
quản trị - không phải là người làm vườn, mà là “Giám đốc ngã tư”. Vận dụng các học
thuyết về quản trị nhân lực của các danh nhân xưa giúp các nhà quản trị giải quyết
được một hoặc nhiều phần bài toán khó về nhân lực.
1. Trường phái “Đức trị”
Lần đầu tiên trong lịch sử, Khổng Tử đã tập hợp một cách có hệ thống các nguyên
lý trong việc đối nhân xử thế nhằm phát triển một xã hội tốt đẹp dựa trên nền tảng của
lòng nhân ái. Những điều tốt đẹp trong học thuyết này đến nay vẫn còn giá trị và đã
được kiểm chứng bằng sự vận dụng chúng vào phục vụ nhu cầu phát triển của các nền
kinh tế mới ở châu Á – những nền kinh tế đã phát triển nhanh chóng trong những năm
cuối thế kỷ 20.
2. Trường phái “Pháp trị”
Những tư tưởng tiến bộ của Hàn Phi Tử cách đây 2300 năm như: chú trọng quá

trình quản trị, đại chúng hóa quá trình này để người bình thường cũng vận dụng được,
…vẫn còn giá trị cho đến ngày nay và đã được vận dụng một cách thành công vào lĩnh
vực quản lý doanh nghiệp.
3. Tư tưởng quản trị của chủ tịch Hồ Chí Minh
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
22
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
Các tư tưởng quản trị nhân lực mang đậm nét văn hóa Việt Nam của Người đã
được tôn vinh và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thời kháng chiến cứu
quốc, Hồ Chí Minh, bằng tấm gương đạo đức của bản thân đã chinh phục được trái tim
và khối óc của nhân dân cả nước, thuyết phục được các sĩ phu yêu nước cũ, điển hình
là Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại và tầng lớp trí thức tân học theo Người. Thực
hiện đức trị, trong suốt thời kháng chiến chống Pháp, Người chỉ xử tử có một người:
Trần Dụ Châu. Các bài viết, bài nói và tấm gương của Người cũng chính là chuẩn mực
cho tư tưởng quản trị nhân lực Việt Nam hiện đại.
II. Vận dụng học thuyết quản trị nhân lực phương Đông vào phong
cách quản trị của TOYOTA
Toyota gây được sự chú ý lần đầu tiên của thế giới vào những năm 1980 khi mà
khách hàng bắt đầu nhận ra rằng xe Toyota có tuổi thọ dài hơn và ít sửa chữa hơn xe
Mỹ. Ngày nay họ là một trong những nhà sản xuất xe hơi có lãi nhất trên thế giới, sản
xuất xe hơi chất lượng cao, theo thị hiếu của người dùng, sử dụng ít giờ lao động và
hàng hóa tồn kho. Đến ngày hôm nay, Toyota vẫn tiếp tục gia tăng sản xuất, phát triển
sản phẩm và hoàn thiện quy trình. Một trong những yếu tố mang lại thành công cho
toyota là phong cách quản lý nhân sự có hiệu quả và tận dụng được nguồn nhân lực của
công ty.
Nhắc đến Toyota chúng ta không thể không nhắc đến 14 nguyên lý quản trị trong
hệ thống TPS (Toyota production system). TPS là một hệ thống sản xuất phức tạp, nó
không chỉ là một bộ các công cụ quản lý tinh gọn như JIT, 5S, kanban, hệ thống kéo, ô
sản xuất Nền tảng cốt lõi của TPS là tập trung vào việc hỗ trợ và khuyến khích nhân
viên liên tục cải tiến những quy trình hoạt động, hướng đến mục tiêu tối thượng là

giảm thiểu lãng phí và phục vụ khách hàng tốt nhất. Mà trung tâm của TPS chính là
con người với tinh thần CẢI TIẾN LIÊN TỤC.
Trong 14 nguyên lý quản trị của mình Toyota đã biết vận dụng kết hợp 1 cách tài
tình giữa các học thuyết quản trị của cả phương Đông lẫn phương Tây, của cả đời xưa
kết hợp quyền biến thay đổi phù hợp với các phong cách hiện đại. Chịu ảnh hưởng của
văn hóa phương Đông, nên việc quản trị nhân sự của Toyota cũng chịu tác động rất lớn
từ phong cách quản trị này và một trong các ảnh hưởng rất lớn đến 14 nguyên lý quản
trị thành công của Toyota chúng ta phải kể đến đó là các học thuyết quản trị phương
Đông. Phong cách này đã giúp cho Toyota vươn lên thành một trong những nhà sản
xuất xe hàng đầu thế giới, đánh bại nhiều đối thủ đáng gờm để chiểm lĩnh thị trường
Mỹ. Vậy chúng ta hãy đi tìm hiểu xem Toyota đã kế thừa và phát huy các quyền biến
của học thuyết quản trị phương Đông như thế nào để biến nó thành các nguyên lý quản
trị gắn mác Toyota.
1. Nguyên tắc 1:
Theo học thuyết quản trị phương Đông, trong trường phái Đức trị thì Khổng Tử
lấy con người (nhân) làm gốc, vì con người và từ con người. Toyota là một công ty
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
23
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
kinh doanh, nhưng trung tâm mà toyota hướng đến là khách hàng (nhân) thay vì đặt lợi
nhuận lên hàng đầu như nhiều công ty khác. Điều này có thể thấy rõ trong nguyên lý 1
Ra các quyết định quản lý dựa trên một triết lý dài hạn, dù phải hy sinh những mục tiêu
tài chính ngắn hạn. (Đây chính là nền tảng cho mọi nguyên lý khác)
Xuất phát từ quan điểm: Kiếm tiền không chỉ là cho công ty, cho cổ đông , mục
đích tối thượng của kiếm tiền là đầu tư cho tương lai để tiếp tục thực hiện sứ mệnh của
mình, đó mới là mục đích thật sự của đầu tư và cũng chính là để giúp đỡ cộng đồng và
giúp đỡ xã hội.
Có thể hiểu nguyên lý này là:
Thực hiện điều có lợi cho công ty, nhân viên, khách hàng của Toyota và toàn bộ
xã hội. Trang bị một ý thức về mục tiêu có tính triết lý để thay thế bất kỳ một hình thức

ra quyết định ngắn hạn nào. Làm việc, phát triển và chèo lái cả tổ chức theo một mục
đích chung lớn hơn là việc chỉ kiếm tiền. Cần thấu hiểu vị trí của công ty bạn trong lịch
sử để đưa nó lên một tầm cao mới. Tinh thần "hãy làm việc tốt cho công ty, cho đồng
nghiệp, khách hàng và cho cả xã hội" là nền tảng. Tạo ra giá trị cho khách hàng, cho
cộng đồng, cho nền kinh tế là khởi điểm để suy nghĩ và đánh giá.
1.1. Đối với Khách hàng.
Toyota thống nhất quan điểm của toàn công ty xoay quanh việc thỏa mãn khách
hàng, ,với niềm tin những khách hàng thỏa mãn quay trở lại và sẽ đem lại nhiều doanh
thu hơn thông qua việc giới thiệu sản phẩm của công ty. Một trong những yếu tố chính
tạo nên thành công của Toyota là nó sống với triết lý tín nhiệm lẫn nhau và tinh thần “
tự chúng ta làm”. Điều này được minh họa rõ nhất khi họ tham gia vào ngành công
nhiệp ô tô hạng sang. Họ không mua lại công ty đã sản xuất ô tô hạng sang. Thay vào
đó, côn ty đã tạo ra một bộ phận xe hơi hạng sang riêng – dòng Lexus- từ đống tạp
nham để học hỏi và hiểu được bản chất của xe hơi hạng sang
Sứ mệnh: Góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế tại lãnh thổ mà công ty hoạt động
(hướng lợi ích ra bên ngoài); Góp phần vào cuộc sống ổn định và khá giả của mọi
thành viên của công ty (hướng vào lợi ích nội bộ); Góp phần vào sự phát triển toàn
diện của công ty. Sứ mệnh ấy là sản xuất ra những chiếc xe hơi tốt nhất, Toyota ý thức
được sứ mệnh đó trong lịch sử tồn tại của mình.
1.2. Đối với Nhân viên
Không chỉ lấy khách hàng làm trung tâm, Toyota còn lấy nhân viên là chủ chốt
cho sự phát triển của công ty.
Trong thời gian Nhật Bản bị nền kinh tế Mỹ trấn át và hàng hóa Mỹ tràn ngập thị
trường Nhật trong khi đó thì lực lượng công nhân thiếu tay nghề rất cao và không sẵn
lòng làm với đồng lương chết đói. Kiichiro Toyoda, người đứng đầu Toyota, đã nhận
thấy rằng cách thức sản xuất thịnh hành ở Nhật đã lỗi thời và lãng phí về công sức,
nguyên liệu và thời gian. Họ nhận thấy rằng người công nhân lắp ráp chính là người
làm tǎng thêm giá trị sản phẩm và nếu công nhân phải làm việc miệt mài trên dây
chuyền chạy liên tục sẽ khiến những lỗi sản phẩm nhân lên không ngừng. ai nhà điều
Các học thuyết quản trị Phương Đông.

24
Quản trị nhân lực 1.3. Nhóm 12
hành cuối cùng đã kết hợp các phần rời rạc lại để tạo ra một hệ thống sản xuất mới.
Hãng Toyota gọi là đó là Hệ thống sản xuất Toyota còn những nguời khác thì gọi đó là
"lean production". Tư tưởng chính của nó là chuyển mục tiêu trọng tâm của sản xuất từ
quy mô sang thời gian.
Điều này được thực hiện bằng 3 cách:
Đầu tiên là biến mỗi nhân viên thành một người kiểm tra chất lượng sản phẩm, có
trách nhiệm phát hiện và ngay lập tức sửa lỗi dù là nhỏ nhất cho sản phẩm khi nó vừa
xảy ra tại quy trình của anh ta. Thay vì lập một phòng chuyên trách về quản lý chất
lượng như các đối thủ cạnh tranh người Mỹ đã làm, Toyota cho phép các công nhân có
quyền dừng ngay dây chuyền sản xuất lại khi vừa phát hiện ra lỗi.
Cách thứ 2 là thực hiện kiểu sản xuất "đúng lúc". Tại các nước khác, các nhà công
nghiệp sản xuất các bộ phận sản phẩm "chờ đúng dịp" cho đến khi người ta cần đến.
Các nhà sản xuất chất đống các chi tiết sản phẩm tốn kém của họ qua nhiều ngày hay
thậm chí nhiều tuần trong nhà kho, thùng chứa. Các bộ phận nằm phủ bụi cho đến khi
chúng được dùng tới. Người Nhật chỉ sản xuất các bộ phận vào "đúng lúc", đó là khi
chúng được cần tới. Các bộ phận sẽ được chuyển tới đúng lúc chúng cần được sử dụng
trong dây chuyền sản xuất
Cách thứ 3 để tiết kiệm thời gian là sản xuất "hướng theo nhu cầu". Các bộ phận
sản phẩm ở các nhà máy phương Tây thường được chuyển đến dưới sự sắp xếp, thúc
đẩy của các nhà cung cấp. Hàng hoá được chất đống khi nó chưa được dùng tới. Với
phương pháp "hướng theo nhu cầu", các bộ phận chỉ sản xuất khi được đặt hàng. Ví dụ
ở Toyota, người ta đặt 1 chiếc thẻ gắn vào mỗi hộp của các nhà cung cấp mô tả các
nguyên liệu đựng trong đó. Khi chiếc thẻ được gửi trở lại nhà cung cấp thì coi như có
một đơn đặt hàng tiếp theo.
=>"Lean production" làm cho công nhân phần nào cảm thấy giống như lao động
bằng trí óc với sự thông minh khéo léo của mình. Người công nhân có thể thấy được
kết quả lao động của mình - tốt hay xấu- trong quá trình sản xuất của công ty. Vỗ vai
vui vẻ với đồng nghiệp nếu công việc được thực hiện tốt, và trở nên cau có nếu ngược

lại.
Toyota cũng như nhiều công ty khác, thường tạo ra “ công ăn việc làm suốt đời”
cho nhân viên của mình. Tại Nhật Bản, "công việc làm trọn đời" luôn là phương pháp
nâng cao năng suất thường được các doanh nghiệp ứng dụng, giúp tạo ra hiệu quả
trong công việc. Các công nhân viên Nhật Bản, nhất là những nam công nhân viên có
tay nghề, thường thích làm một công việc suốt đời. Những công nhân viên này ít tình
nguyện đổi công ty hơn so với các nhân viên ở các nước khác. Những công nhân viên
khác gọi là những công nhân viên tạm thời, thường chiếm khoảng 6% lực lượng lao
động, ngay cả ở những công ty lớn như TOYOTA. Ngoài ra còn có nhiều công nhân
làm việc không trọn ngày. Khi hoạt động kinh doanh sa sút, hay khi sử dụng các kỹ
thuật tiết kiệm lao động, các công ty giữ lại số công nhân viên làm việc suốt đời này
trên bảng lương của họ, sa thải số công nhân tạm thời, giảm tiền thưởng thất thường
cho số công nhân làm việc suốt đời và thuyên chuyển công nhân viên sang các bộ phận
sản xuất khác.
Các học thuyết quản trị Phương Đông.
25

×