Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

GIÁO TRÌNH: DỊCH VỤ THANH TOÁN doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.51 KB, 45 trang )






GIÁO TRÌNH:
DỊCH VỤ THANH TOÁN
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người ,các quan hệ trao đổi ,mua bán diễn ra
với nhiều phương thức khác nhau phụ thuộc vào mức độ phát triển của nền sản xuất hàng
hóa và văn minh nhân loại .
Hình thức sơ khai của quan hệ trao đổi là vật đổi vật. Sự ra đời của tiền tệ đã làm thay đổi
gần như hoàn toàn phương thức trao đổi hàng hóa giữa các cá nhân trong xã hội cổ đại.
Với chức năng là phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Tiền tệ đóng vai trò
là hàng hóa trung gian để việc trao đổi thuận tiện và dễ dàng hơn.Việc sử dụng tiền mặt
(tức là tiền được in, đúc và chế tạo khác) để thanh toán giữa người bán và người mua
được gọi là thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt.
Sự phát triển của nền kinh tế dẫn đến việc của cải vật chất ngày càng được sản xuất nhiều
hơn và do đó nhu cầu mua bán hàng hóa ngày càng lớn .Việc mua bán hàng hóa không
chỉ diễn ra ở một cộng đồng dân cư, mà còn giữa vùng miền này với vùng miền khác,
giữa quốc gia này với quốc gia khác .Ngày nay việc mua bán hàng hóa giữa các tổ chức,
cá nhân quốc gia khác nhau ngày càng phổ biến.
Khoảng cách địa lý và sự khác biệt về pháp lý đã làm cho việc thanh toán trong mua bán
hàng hóa , đặc biệt là mua bán hang hóa quốc tế tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn. Chính vì thế ,
nền kinh tế đòi hỏi sự xuất hiện của các chủ thể chuyên nghiệp tham gia vào quá trình
thanh toán để tăng thêm mức độ an toàn , đồng thời tiết kiệm chi phí. Sự ra đời của các tổ
chức kinh doanh tiền tệ gọi là các tổ chức tín dụng và các tổ chức hoạt động tiền tệ khác
đã hình thành nên một hình thức thanh toán mới gọi là thanh toán qua các trung gian
thanh toán. Ở hình thức thanh toán này, các tổ chức tín dụng , kho bạc nhà nước , ngân
hàng trung ương ….thực hiện việc thanh toán cho chủ nợ hoặc người mắc nợ theo những
hình thức thanh toán được pháp luật quy định. Khi đó các tổ chức này đóng vai trò trung


gian giữa người chi trả và người thụ hưởng trong quá trình thanh toán. Để thực hiện chức
năng này, pháp luật cho các chủ thể trên thực hiện dịch vụ thanh toán qua tài khoản .
Như vậy, để các chủ thể nêu ở trên thực hiện dịch vụ thanh toán qua tài khoản thì pháp
luật Việt Nam của chúng ta có những quy định gì để điều chỉnh hoạt động của các đối
tượng này. Điều đó sẽ được làm rõ qua bài tiểu luận sau đây của nhóm chúng em.
I.TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ THANH TOÁN
1. Khái niệm về dịch vụ thanh toán và trung gian thanh toán
1.1. Dịch vụ thanh toán
a. Khái niệm
Dịch vụ thanh toán là dịch vụ do trung gian thanh toán cung cấp thông qua việc cung ứng
phương tiện thanh toán ; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ
thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách
hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
b. Các hình thức của dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
_ Hoạt động cung ứng các dịch vụ thanh toán. Phương tiện thanh toán là tiền mặt và các
phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được sử dụng nhằm thực hiện các giao dịch
thanh toán như séc, lệnh chi hoặc ủy nhiêm chi, ủy nhiệm thu , thẻ ngân hàng và các
phương tiện thanh toán khác.
_ Thực hiện các phương tiện thanh toán trong nước và quốc tế theo sự ủy nhiệm của
khách hàng như các giao dịch chuyển khoản , trả bằng tiền mặt , thanh toán qua séc,
thanh toán qua hình thức thư tín dụng
_ Thực hiện việc thu hộ hoặc chi hộ cho các chủ thể có nhu cầu .
_ Các loại dịch vụ khác do ngân hàng nhà nước quy định
c. Các tổ chức được thực hiện hoạt động thanh toán
Theo quy định của pháp luật các tổ chức sau được thực hiện hoạt động thanh toán:
_ Ngân hàng nhà nước được phép thực hiện các dich vụ thanh toán cho các tổ chức tín
dụng , chi nhánh ngân hàng nước ngoài , các tổ chức tiền tệ quốc tế , ngân hàng quốc tế
và các tổ chức khác được phép thực hiện dich vụ thanh toán . Hoạt động thanh toán của
ngân hàng nhà nước không nhằm mục tiêu thu lợi nhuận mà chỉ để tổ chức và hỗ trợ hệ
thống thanh toán qua tài khoản và thực hiện chức năng ngân hàng trung ương.

_ Ngân hàng được thành lập và hoạt động hợp pháp và được ngân hàng nhà nước cho
phép thực hiện một , hoặc một số hoặc toàn bộ các loại hình dịch vụ thanh toán qua tài
khoản cho các chủ thể là cá nhân và tổ chức có nhu cầu . Ngân hàng thực hiện dịch vụ
thanh toán qua tài khoản nhằm mục đích kinh doanh.
_ Các tổ chức khác được phép thực hiện dịch vụ thanh toán qua tài khoản theo quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền , Ví dụ như kho bạc nhà nước thực hiện dịch vụ
thanh toán cho các đơn vị dự toán để thực hiện nhiệm vụ thu và chi ngân sách nhà
nước.Kho bạc nhà nước cũng không tiến hành dịch vụ thanh toán vì mục đích kinh doanh
như ngân hàng.
1.2. Khái niệm trung gian thanh toán
Các chủ thể được phép thực hiện một phần hoặc toàn bộ các hoạt động dịch vụ thanh toán
trên được gọi là trung gian thanh toán.
Trong hoạt động thanh toán thông thường luôn có hai chủ thể là người chi trả và người
thụ hưởng. Người chi trả là chủ thể có nghĩa vụ trả tiền theo thỏa thuận của người đó với
một chủ thể khác hoặc trả tiền theo quy định của pháp luật . Người thụ hưởng là người
nhận tiền theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật .
Như vậy, trung gian thanh toán là tổ chức thực hiện các ủy nhiệm thanh toán giữa người
chi trả và người thụ hưởng.

2. Phân loại dịch vụ thanh toán
Việc phân loại dịch vụ thanh toán hiện nay có hai tiêu chí phổ biến , phân loại theo
phương thức thanh toán và phân loại theo phạm vi quốc gia hay quốc tế.
2.1. Phân loại theo phương thức thanh toán:
Dịch vụ thanh toán hiện nay bao gồm :
_ Thanh toán thông qua séc.
_ Thanh toán thông qua ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi.
_ Thanh toán thông qua ủy nhiệm thu hoặc nhờ thu.
_ Thanh toán thông qua thư tín dụng .
_ Thanh toán thông qua thẻ ngân hàng.
_ Các phương thức thanh toán khác .

2.2. Phân loại theo phạm vi quốc gia hay quốc tế :
a. Dịch vụ thanh toán trong nước
Là thanh toán qua tài khoản mà tổ chức tín dụng , kho bạc nhà nước , ngân hàng nhà
nước cung cấp cho khách hàng trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam .
Dịch vụ thanh toán trong nước của các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật hiện
hành là dịch vụ mà giao dịch thanh toán được xác lập , thực hiên và kết thúc trên lãnh thổ
Việt Nam , trừ trường hợp liên quan đến tài khoản mở tại nước ngoài hoặc có doanh
nghiệp chế suất tham gia.
Dịch vụ thanh toán trong nước được thực hiện bằng các phương thức thanh toán thông
qua các phương tiện thanh toán như séc , ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi , ủy nhiệm thu hoặc
nhờ thu , thư tín dụng , the ngân hàng , dịch vụ thu hộ , chi hộ và các phương thức thanh
toán trong nước khác theo quy định của ngân hàng nhà nước.
Ngân hàng thương mại khi thành lập và hoạt động được quyền hoạt động dịch vụ thanh
toán trong nước.
b. Dịch vụ thanh toán quốc tế
Là dịch vụ thanh toán mà giao dịch thanh toán được xác lập thực hiện hoặc kết thúc ở
nước ngoài , hoặc giao dịch thanh toán có liên quan đến tài khoản mở tại nước ngoài hoặc
giao dịch thanh toán có doanh nghiệp chế xuất tham gia.
Giao dịch quốc tế được thực hiện bằng các phương tiên thanh toán quốc tế như hối phiếu,
séc , ủy nhiệm chi hoặc lệnh chi , thẻ thanh toán hoặc các phương thức thanh toán quốc tế
khác được sử dụng như phương thức chuyển tiền , phương thức chuyển khoản liên ngân
hàng quốc tế , phương thức ghi sổ , phương thức nhờ thu , phương thức tín dụng chứng từ
và các phương thức khác.
Để được thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế , ngân hàng thương mại được ngân hàng
nhà nước cho phép trên cơ sở đáp ứng những điều kiện do pháp luật đặt ra mà chủ yếu là
hai điều kiện sau:
_ Một là ngân hàng phải được phép thực hiện hoạt động ngoại hối .
_ Hai là phải có đầy đủ cơ sở vật chất và nhân lực có chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng
các yêu cầu của hoạt động này.
Dịch vụ thanh toán quốc tế thường dựa trên tập quán thương mại quốc tế.Luật các tín

dụng năm 2010 cho phép các tổ chức tín dụng và khách hàng áp dụng tập quán thương
mạị quốc tế do phòng thương mại quốc tế ban hành (ICC) và các tập quán thương mại
quốc tế khác trên cơ sở không trái với quy định cảu pháp luật Việt Nam.
Tập quán thương mại quốc tế liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế rất nhiều nhưng
nổi bật và có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động thanh toán quốc tế hiện nay là Quy
tắc thống nhất về nghiệp vụ nhờ thu số 522 viết tắt là URC522 , Quy tắc và thực hành
thống nhất về tín dụng chứng từ số 600 viết tắt là UCP600.
Ngoài ra các quốc gia còn tham gia các điều ước quốc tế thanh toán quốc tế như Công
ước Geneve năm 1930 bao gồm luật thống nhất về hối phiếu và luật thống nhất về séc.

3 .Vai trò của dịch vụ thanh toán đối với nền kinh tế:
Dịch vụ thanh toán qua tài khoản có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế . Có thể đánh
giá rằng , nền kinh tế trong đó các chủ thể thanh toán thông qua các phương tiện thanh
toán tiền mặt là một sự phát triển vượt bậc , góp phần tích cực vào khâu lưu thông hàng
hóa , đáp ứng nhu cầu khác nhau của các chủ thể . Tuy nhiên từ sự từ sự phát triển của
tiền mặt dưới hình thức tiền giấy , tiền kim loại nền kinh tế đã vấp phải một trở ngại là
khó có thể kiểm soát được lương tiền mặt trong nền kinh tế , nguy cơ lạm phát ảnh hưởng
đến chính sách phát triển và sự quản lý vĩ mô của nhà nước cũng như đời sống của người
dân. Đó là không kể chi phí in, đúc thu đổi tiền mặt là đáng kể lấy ra từ quỹ ngân sách
nhà nước . Bên cạnh đó việc thanh toán trực tiếp đôi khi không đáp ứng được nhu cầu của
các chủ thể thanh toán về sự an toàn , tiện lợi và tiết kiệm chi phí.

3.1. Đối với tổ chức thực hiên dịch vụ thanh toán
Tổ chức thực hiện dịch vụ thanh toán có mục đích không giống nhau . Ngân hàng nhà
nước thực hiện dịch vụ thanh toán nhằm mục đích thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia là
chức năng của ngân hàng trung ương . Thông qua hoạt động dịch vụ thanh toán liên ngân
hàng do ngân hàng nhà nước đứng ra tổ chức , hệ thống tín dụng có sự liên kết chặt chẽ ,
có khả năng đối phó với những rủi ro đến từ hoạt động kinh doanh tiền tệ mang lại ,
thông qua đó ngân hàng nhà nước thực hiện việc quản lý nhà nước trên lĩnh vực ngân
hàng được tốt hơn .

Kho bạc nhà nước thực hiện dịch vụ thanh toán trước hết là nhằm mục đích giúp đỡ các
chủ thể sử dụng knhi phí từ quỹ ngân sách nhà nước trong hoạt động thnah toán và giảm
áp lực chi trả bằng tiền mặt cho các chủ thể sử dụng ngân sách . Bên cạnh đó , thông qua
việc thực hiện dịch vụ thanh toán , có thể kiểm tra , giám sát được hoạt động sử dụng
kinh phí từ quỹ ngân sách nhà nước .
Đối với ngân hàng được phép thực hiên dịch vụ thanh toán thì hoạt động này đem lại
nhiều lợi ích . Trước tiên , hoạt động dịch vụ thanh toán có thể đem lại thu nhập thông
qua việc thu phí dịch vụ từ những chủ thể sử dụng dịch vụ thanh toán . Bên canh đó , việc
mở tài khoản và hình thức thanh toán qua tài khoản sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức tín
dụng và các tổ chức khác mở rộng khả năng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế , thông
qua đó nâng cao hơn lợi nhuận của mình. Số dư tiền trong tài khoản thanh toán được coi
là tiền gửi không kỳ hạn đối ngân hàng nơi khách hàng mở tài khoản.
3.2. Đối với người chi trả và người thụ hưởng
Đối với người chi trả và người thu hưởng thông qua việc sử dụng dịch vụ thanh toán do
các trung gian thanh toán cung cấp , người chi trả và người thụ hưởng có thể thực hiện
hoạt động thanh toán nhanh chóng hơn , tiết kiệm chi phí và an toàn hơn , không những
thế , uy tín và năng lực tài chính của ngân hàng sẽ là một sự đảm bảo các bên tin tưởng
nhau hơn trong các giao dịch thanh toán . Ngân hàng cũng có thể hỗ trợ người chi trả và
người thụ hưởng bằng các khoản tín dụng để nhanh chóng hoàn tất việc thanh toán của
mình.

3.3. Đối với nhà nước
Với tư cách là chủ thể quản lý nền kinh tế , thanh toán qua trung gian thanh toán góp
phần giảm áp lực tiền mặt đối với nền kinh tế , qua đó nhà nước có khả năng kiểm soát
lạm phát tốt hơn . Mặt khác , việc sử dụng trung gian thanh toán cũng góp phần giúp nhà
nước kiểm soát nguồn thu nhập của các tổ chức , cá nhân trong xã hội , qua đso việc thu
thuế thu nhập cũng hiệu quả hơn , tăng cường khoản thu cho ngân sách nhà nước.
II/ CƠ SỞ LÝ LUẬN CHẾ ĐỘ MỞ VÀ SỬ DỤNG TÀI KHOẢN THANH TOÁN
1. Chế độ mở tài khoản thanh toán
1.1. Khái niệm tài khoản thanh toán

Theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, tài khoản thanh toán là tài khoản
tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng mở tại ngân hàng dể sử dụng các dịch vụ thanh
toán do ngân hàng cung ứng.
Về bản chất, khái niệm tài khoản dùng để chỉ công cụ ghi chép phản ánh vốn và nguồn
vốn của người chủ tài khoản. Tài khoản được thể hiện dưới hình thức sổ tài khoản hoặc
hình thức điện tử. Tài khoản do các chủ thể mở tại các trung gian thanh toán để thực hiện
thanh toán gọi là tài khoản thanh toán. Hiện nay, hầu hết tất cả các trung gian thanh toán
đều sử dụng hình thức điện tử để quản lý tài khoản thông qua hệ thống mạng máy tính.
1.2. Chủ tài khoản thanh toán
Chủ tài khoản là người đứng tên mở tài khoản. Có hai loại chủ tài khoản thanh toán:
- Đối với tài khoản của cá nhân, chủ tài khoản là cá nhân đứng tên mở tài
khoản.
- Đối với tài khoản của tổ chức, chủ tài khoản là người đại diện theo pháp luật
hoặc đại diện theo ủy quyền của tố chức mở tài khoản. Đồng chủ tài khoản là
trường hợp có 2 hay nhiều người cùng đứng tên mở tài khoản

1.3. Các bộ phận của tài khoản thanh toán
Tài khoản thanh toán gồm 2 phần là có và nợ để phản ánh quá trình giao dịch và trạng
thái tài khoản.
- Phần có ghi chép luồng tiền vào (ghi tăng) phản ánh khoản thu vào của chủ tài
khoản.
- Phần nợ ghi chép luồng tiền ra (ghi giảm) phản ánh phần đã chi của chủ tài
khoản.
Chênh lệch giữa phần có và nợ được gọi là số dư tài khoản. Chủ tài khoản phải duy trì số
dư tài khoản không thấp hơn mức tối thiểu do tổ chức thanh toán quy định nhằm duy trì
trạng thái hoạt động của tài khoản
1.4. Quy định của pháp luật về quá trình mở tài khoản thanh toán
Pháp luật quy định chỉ có những tổ chức được thực hiện dịch vụ thanh toán mới có quyền
nhận mở tài khoản thanh toán. Như vậy, các tổ chức sau đây được phép nhận mở tài
khoản thanh toán cho khách hàng:

 Ngân hàng Nhà nước nhận mở tài khoản thanh toán cho các tổ chức tín
dụng, kho bạc Nhà nước, ngân hàng nước ngoài là các tổ chức tín dụng quốc tế;
 Kho bạc Nhà nước nhận mở tài khoản cho các đơn vị sử dụng ngân sách ;
 Ngân hàng nhận mở tài khoản cho những các nhân, tổ chức có yêu cầu;
Để mở tài khoản tại nhân hàng, pháp luật quy định có sự khác biệt giữa tổ chức và cá
nhân.
 Đối với tổ chức có nhu cầu mở tài khoản phải gửi cho ngân hàng nơi muốn mở tài
khoản các giấy tờ sau:
 Giấy đăng ký mở tài khoản, thường được lập theo mẫu do đơn vị thanh toán
quy định bao gồm những nội dung cơ bản sau:
 Tên tổ chức (bao gồm cả tên đầy đủ và tên giao dich);
 Địa chỉ trụ sở chính;
 Họ tên chủ tài khoản (thường là người đứng đầu tổ chức); số chứng minh
thư, nơi cấp, ngày cấp chứng minh thư của chủ tài khoản;
 Tên ngân hàng nơi mở tài khoản;
 Bản đăng ký mẫu dấu và mẫu chử ký của nhựng người liên quan đến hoạt
động thanh toán như chủ tài khoản , kế toán trưởng và những người được ủy quyền ký
thay.
 Các giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của tổ chức như quyết định
thành lập, giấy phép thành lập, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, quyết định bổ
nhiệm người đứng đầu, văn bản ủy quyền … Nếu là bản sao phải có công chứng của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
 Đối với cá nhân có nhu cầu mở tài khoản phải gửi tới ngân hàng nơi muốn mở tải
khoản các giấy tờ sau đây:
 Giấy đăng ký mở tài khoản. Trên giấy này phải thể hiện đầy đủ các thông
tin sau: họ và tên; hộ khẩu thường trú; số chứng minh nhân dân, nơi cấp và ngày cấp
chứng minh nhân dân; đơn vị thanh toán nơi có nhu cầu mở tài khoản; chử ký mẫu.
 Bản sao giấy chưng minh nhân dân có công chứng.
Sau khi nhận đầy dủ các giấy tờ trên, ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định và quyết
định đồng ý cho mở tài khoản. nếu từ chối yêu cầu mở tài khoản của khách hàng, ngân

hàng phải trả lời bằng văn bản.
Đối với việc mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước, do tính chất đặc thù của hoạt
động ngân sách, việc mở tài khoản có những quy định riêng. Điều đó xuất phát từ việc
Kho bạc Nhà nước nhận mở tài khoản không phải vì mục đích thu lợi mà nhằm để quản
lý hoạt động sử dụng ngân sách.
2. Chế độ sử dụng tài khoản thanh toán.
2.1. Khái niệm và nội dung về sử dụng tài khoản thanh toán
a. Khái niệm
Chế độ sử dụng tài khoản thanh toán là tổng hợp các quy định của pháp luật cho phép
người sử dụng tài khoản sử dụng số dư trên tài khoản để thực hiện việc thanh toán.
b. Nội dung
Những nội dung chủ yếu quy định về sử dụng tài khoản thanh toán bao gồm:
 Chủ tài khoản có quyền sử dụng số tiền trên tài khoản thanh toán thông qua
các lệnh thanh toán phù hợp theo quy định của ngân hàng Nhà nước và thỏa thuận với
ngân hàng nơi mở tài khoản để thực hiện rút tiền mặt hoặc sử dụng các dịch vụ thanh
toán thông qua tài khoản.
 Chủ tài khoản có quyền nhận tiền từ các giao dịch hợp pháp chuyển vào tài
khoản bằng các phương thức thanh toán thông qua tài khoản.
 Chủ tài khoản có quyền yêu cầu ngân hàng cung cấp thông tin về tài khoản
theo quy định hoặc bất thường. Việc cung cấp thông tin trong một số trường hợp sẽ phải
trả phí dịch vụ nếu các bên có thỏa thuận.
 Chủ tài khoản được ủy quyền cho người khác bằng văn bản sử dụng tài
khoản theo quy định của pháp luật. Người được ủy quyền có quyền hạn và nghĩa vụ như
chủ tài khoản trong phạm vi được ùy quyền và không được ủy quyền lại cho người thứ
ba.
 Chủ tài khoản có nghĩa vụ tuân thủ các quy định của pháp luật trong việc sử
dụng tài khoản thanh toán như việc duy trì số dư tồi thiểu trên tài khoản, thực hiện các
lệnh thanh toán đúng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và thỏa thuận vời ngân
hàng cung cấp dịch vụ thanh toán.
2.2. Tài khoản phong tỏa và đóng tài khoản

a. Tài khoản phong tỏa
Tài khoản bị phong tỏa là tài khoản tạm thởi không được sử dụng, do đó không có
khả năng chi trả. Tài khoản thanh toán bị phong tỏa một phần hoặc toàn bộ số tiền có
trong tài khoản trong các trường hợp sau:
 Khi có thỏa thuận giữa chủ tài khoản và tổ chức cung cấp dịch vụ thanh
toán ;
 Khi có quyết định hoặc yêu cầu bằng văn bản của người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật;
 Các trường hợp khác do pháp luật quy định
Việc phong tỏa tài khoản thanh toán chấm dứt trong những trường hợp sau đây:
 Kết thúc thời hạn thỏa thuận phong tỏa tài khoản giữa chủ tài khoản và tổ
chức cung cấp dịch vụ thanh toán.
 Người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật ra quyết định hoặc yêu
cầu chấm dứt việc phong tỏa.
 Những trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
b. Đóng tài khoản
Đóng tài khoản là trường hợp tài khoản chấm dứt sử dụng và các bên tiến hành xử lý theo
quy định của pháp luật. Việc đóng tài khoản sẽ được thực hiện nếu chủ tài khoản có yêu
vầu hoặc chủ tài khoản không còn năng lực hành vi dân sự (tức là khi chủ tài khoản là cá
nhân bị chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc tổ chức có tài sãn chấm dứt
hoạt động theo quy định của pháp luật.
Ngân hàng cũng được quyền quyết định việc đóng tài khoản khi chủ tài khoản vi phạm
pháp luật trong thanh toán hoặc vi phạm thỏa thuận với ngân hàng hoặc khi tài khoản có
số dư thấp và không hoạt động trong thời hạn nhất định theo quy định của ngân hàng. Sau
khi tài khoản được đóng, số dư cón lại trên tài khoản được xử lý như sau:
 Chi trả theo yêu cầu của chủ tài khoản hoặc người được thừa kế, đại diện
thừa kế trong trường hợp chủ tài khoản là cá nhân chết hoặc người giám hộ trong trường
hợp chủ tài khoàn là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự;
 Chi trả theo quyết định của toán án;
 Quản lý theo quy định của ngân hàng đối với trường hợp tài khoản bị đóng

theo quyết định của tổ chức tín dụng trong những trường hợp mà chủ tài khoản, người
được thừa kế, người giám hộ không nhận lại số tiền còn lại trên tài khoản sau kho ngân
hàng đã tho6ng báo về việc đóng tài khoản bằng văn bãn cho chủ tài khoản, người được
thừa kế, đại diện thừa kế hoặc người giám hộ biết.
Trong quá trình cung cấp dịch vụ thanh toán thông qua tài khoản ngân hàng có các
quyền và nghĩa vụ cơ bản sau đây:
 Có quyền thu phí sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận với chủ thế mở và sử
dụng tài khoản thanh toán. Mức phí này trên thực tế do ngân hàng xây dựng nên, công bố
công khai. Nếu chủ thể mở và sử dụng tài khoản chấp nhận thì hợp đồng mở và sử dụng
tài khoản sẽ được giaao kết và thực hiện.
 Có quyền từ chối chi trả tiền từ tài khoản nếu chủ tài khoản hoặc người thụ
hưởng không thực hiện đúng các yêu cầu về mặt thủ tục khi tiến hành giao dịch. Điều này
đảm bảo cho tài khoản của khách hàng không bị lợi dụng đồng thời giúp cho ngân hàng
đảm bảo quyền lợi chính đáng của mình và của chủ tài khoản. Trong trường hợp từ chối,
ngân hàng phải trả lời và nêu rõ lý do.
 Có nghĩa vụ thực hiện đúng các lệnh thanh toán của chủ tài khoản 1 cách
nhanh nhất để đảm bảo giao dịch thanh toán được thuận lợi.
 Có nghĩa vụ cung cấp thông tin về tài khoản theo yêu cầu của chủ tài khoản
và của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. ngoài 2 trường hợp trên đây, ngân hàng phải có
nghĩa vụ giữ bí mất thông tin tài khoản của khách hàng




III/ CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN QUA NGÂN HÀNG
1. Hình thức thanh toán thông qua Séc.
1.1. Khái niệm
Theo công ước Geneve năm 1931: Séc là một lệnh trả tiền vô điều kiện do một
khách hàng của một ngân hàng ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài
khoản của mình mở tại ngân hàng đó để trả cho người cầm séc hoặc cho người chỉ định

trên séc.
Theo khoản 4, điều 4, Luật các công cụ chuyển nhượng 2005: Séc là giấy tờ có giá
do người ký phát lập, ra lệnh cho người bị ký phát là ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trích một số tiền nhất
định từ tài khoản của mình để thanh toán cho người thụ hưởng.
1.2. Các chủ thể tham gia vào quy trình thanh toán bằng séc.
Trong một quan hệ về séc sẽ có ít nhất 3 chủ thể sau đây tham gia:
Một là: người ký phát.
Theo khoản 5, điều 4, Luật các công cụ chuyển nhượng thì người ký phát là người lập và
ký phát hành séc. Đây chính là người ra lệnh cho người thực hiện việc thanh toán thay
mặt mình trả số tiền ghi trên séc. Trên thực tế, người ký phát thông thường là người mua
hàng hoặc thụ hưởng dịch vụ.
Hai là: người bị ký phát.
Theo khoản 6, điều 4, Luật các công cụ chuyển nhượng thì người bị ký phát là người có
trách nhiệm thanh toán số tiền ghi trên séc theo lệnh của người ký phát. Người bị ký phát
chính là ngân hàng hoặc các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán khác mà người ký phát
có số dư tài khoản ở đó.

Ba là: người thụ hưởng.
Theo khoản 8, điều 4, Luật các công cụ chuyển nhượng thì người thụ hưởng là cá nhân
hoặc tổ chức cầm tờ séc mà trên séc đó có ghi tên người được trả tiền là chính mình hoặc
mình là người được chuyển nhượng hợp pháp. Trên thực tế, người thụ hưởng thông
thường là người bán hàng hoặc người cung ứng dịch vụ.
Ngoài ra, để thuận tiện cho việc thanh toán bằng séc, còn có những chủ thể khác tham gia
như tổ chức thu hộ séc và trung tâm thanh toán bù trừ.
1.3. Đặc điểm
Từ hai khái niệm trên, có thể thấy được sự tương đồng của pháp luật Việt Nam và pháp
luật Quốc tế trong quy định về séc. Séc được quy định trong công ước Geneve và Luật
các công cụ chuyển nhượng đều có những đặc điểm sau đây:
Một là, séc là một giấy tờ có giá.

Như vậy, về nguyên tắc séc là một loại tài sản theo quy định tại điều 163, Bộ Luật Dân
Sự 2005. Do đó, chủ sở hữu séc có toàn quyền sở hữu đối với séc. Trong đó, có một
quyền quan trọng là chuyển nhượng séc cho người khác.
Hai là, séc là một chứng từ ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán vô
điều kiện.
Đặc điểm này dẫn đến những vấn đề pháp lý như sau:
 Séc là một lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán chứ không đồng nghĩa với
việc đã thanh toán. Chỉ được xem là đã thanh toán khi ngân hàng thương mại tiến
hành thanh toán tiền cho người thụ hưởng. Trong trường hợp ngân hàng từ chối
thanh toán thì người thụ hưởng vẫn được bảo lưu quyền đòi nợ đối với người ký
phát.
 Séc ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán vô điều kiện. Cho nên ngân
hàng có trách nhiệm thanh toán khi séc đảm bảo các điều kiện của pháp luật chứ
được quyền ràng buộc bất kỳ trách nhiệm nào đối với người thụ hưởng.
Ba là, tiền được ngân hàng dùng để thanh toán là tiền có trên số dư tài khoản mà
người ký phát có tại ngân hàng.
Như vậy, điều kiện cơ bản khi ký phát séc là người ký phát phải có số dư tài khoản tại
ngân hàng và số tiền thanh toán ghi trên séc tối đa là bằng số tiền có trong tài khoản.
Bốn là, séc chỉ có giá trị trong một thời hạn hiệu lực nhất định.
Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt séc và hối phiếu. Đối với hối phiếu thì thời hạn hiệu
lực của nó do các bên thỏa thuận. Trong khi đó, thời hạn hiệu lực của séc sẽ do pháp luật
quy định.
1.4. Phân loại séc
a. Căn cứ theo người thụ hưởng.
Theo khoản 8, điều 4, Luật các công cụ chuyển nhượng thì người thụ hưởng được chi
thành 3 loại và tương ứng với đó là ba loại séc:
 Séc đích danh: là loại séc có ghi tên người thụ hưởng trên đó. Do đó, chỉ có chủ
thể này được quyền nhận số tiền ghi trên séc. Đặc điểm này dẫn đến hệ quả là séc
đích danh không được phép chuyển nhượng.
 Séc vô danh: là loại séc mà trên séc không ghi tên người thụ hưởng mà chỉ ghi

câu: “trả cho người cầm séc”. Loại séc này có thể chuyển nhượng cho người khác
theo hình thức trao tay mà không cần thủ tục ký hậu. Bất kỳ ai nắm giữ hợp pháp
tờ séc này đều có quyền yêu cầu ngân hàng thanh toán.
 Séc theo lệnh: là loại séc không chỉ định rõ người thụ hưởng nhưng trên séc có ghi
câu: “trả theo lệnh của người thụ hưởng”. Loại séc này cũng có thể chuyển
nhượng nhưng phải theo thủ tục ký hậu.
b. Căn cứ theo phương thức thanh toán
Theo tiêu chí này, điều 61, Luật các công cụ chuyển nhượng chia séc thành 2 loại. Đó là:
 Séc trả vào tài khoản: Người ký phát séc hoặc người chuyển nhượng séc có thể
không cho phép thanh toán séc bằng tiền mặt bằng cách ghi trên séc cụm từ ''trả
vào tài khoản''. Trong trường hợp này, người bị ký phát chỉ được chuyển số tiền
ghi trên séc đó vào tài khoản của người thụ hưởng mà không được phép trả bằng
tiền mặt, kể cả trường hợp cụm từ “trả vào tài khoản” bị gạch bỏ.
 Séc trả bằng tiền mặt: Trường hợp séc không ghi cụm từ ''trả vào tài khoản'' thì
người bị ký phát thanh toán séc cho người thụ hưởng bằng tiền mặt.
c. Căn cứ theo tính bảo đảm thanh toán của tờ séc
Theo tiêu chí này, séc được chia thành 2 loại. Đó là séc bảo chi và séc không bảo chi.
 Séc bảo chi: là loại séc được ngân hàng nơi mở tài khoản tiến hành thủ tục bảo chi
séc và thông qua thủ tục này, ngân hàng bị ký phát cam kết trả đầy dủ số tiền ghi
trên séc nếu người xuất trình đúng thời hạn. Việc đảm bảo này được thực hiện
bằng cách ngân hàng tạm phong tỏa một phần tiền trên tài khoản của người ký
phát bằng số tiền ghi trên séc hoặc ngân hàng chấp nhận thấu chi phần còn thiếu
(nếu có) cho người ký phát khi thanh toán tờ séc (Điều 67, Luật các công cụ
chuyển nhượng).
 Séc không bảo chi; là loại séc không được ngân hàng đóng dấu bảo chi. Với loại
séc này, người bị ký phát có quyền từ chối thanh toán nếu số tiền trong tài khoản
của người ký phát không đủ thanh toán số tiền ghi trên séc hoặc chỉ thanh toán
một phần.
d. Căn cứ theo không gian thanh toán
Theo tiêu chí này thì séc có 2 loại là séc nội địa và séc Quốc tế.

 Séc nội địa: là loại séc chỉ có khả năng thanh toán khi nó được nộp cho tổ chức
thực hiện thanh toán trong nước.
 Séc Quốc tế: là loại séc có khả năng thanh toán khi nó được nộp cho một tổ chức
thực hiện thanh toán ở nước ngoài.
e. Căn cứ theo ngân hàng thu ngân.
Người ký phát hoặc người chuyển nhượng séc có thể tự tay vạch hai đường song song ở
bên góc trái của tờ séc. Người thụ hưởng trong trường hợp này không được quyền nhận
tiền mặt mà phải nhờ ngân hàng của mình thu ngân và chuyển tiền vào tài khoản của
mình tại ngân hàng. Trong loại séc này lại có hai loại séc nhỏ, đó là:
 Séc gạch chéo không ghi tên: với loại séc này thì ngân hàng thu ngân tiền cho
người thụ hưởng không bị giới hạn.
 Séc gạch chéo có ghi tên: bên cạnh việc vạch hai đường song song thì người ký
phát hoặc người chuyển nhượng còn có quyền ghi tên một ngân hàng giữa hai
vạch này. Trong trường hợp này, chỉ có ngân hàng được ghi tên mới có quyền thu
hộ tiền cho người thụ hưởng (Điều 62, Luật các công cụ chuyển nhượng).
1.5. Các quy định pháp luật liên quan đến việc cung ứng và sử dụng séc mà
người sử dụng séc lưu ý khi sử dụng
a. Cung ứng séc trắng
Khi có nhu cầu sử dụng séc, chủ tài khoản đề nghị tổ chức thực hiện thanh toán nơi mình
mở cung ứng séc trắng. Séc trắng là chứng từ là để lập séc, được các tổ chức in sẵn theo
mẫu nhưng chưa được điền các nội dung chủ yếu theo quy định của pháp luật và chưa có
hiệu lực là một tờ séc. Mẫu séc trắng mà các tổ chức thực hiện thanh toán in và cung ứng
phải được đăng ký tại NHNN (Điều 64, Luật các công cụ chuyển nhượng).
Các chủ thể sau được phép cung ứng séc trắng:
 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cung ứng séc trắng cho các tổ chức tín dụng và
các tổ chức khác có tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
 Các ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán khác cung ứng séc trắng cho
tổ chức, cá nhân sử dụng tài khoản để ký phát séc (Điều 63, Luật các công cụ
chuyển nhượng).
b. Các yếu tố của séc và ký phát séc

Người ký phát séc sau khi nhận được séc trắng muốn ra lệnh thanh toán thì phải thực hiện
ký phát séc. Ký phát séc là việc chủ tài khoản điền đầy đủ các thông tin vào tờ séc. Tờ
séc phải đảm bảo các nội dung sau mới có hiệu lực (Điều 58, Luật các công cụ chuyển
nhượng):
 Từ "Séc" được in phía trên séc;
 Số tiền xác định;
 Tên của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán là người bị ký
phát;
 Tên đối với tổ chức hoặc họ, tên đối với cá nhân của người thụ hưởng được
người ký phát chỉ định hoặc yêu cầu thanh toán séc theo lệnh của người thụ
hưởng hoặc yêu cầu thanh toán séc cho người cầm giữ;
 Địa điểm thanh toán;
 Ngày ký phát;
 Tên đối với tổ chức hoặc họ, tên đối với cá nhân và chữ ký của người ký phát.
Tờ séc mà thiếu một trong các nội dung trên thì sẽ không có giá trị; trừ nội dung về địa
điểm thanh toán. Trường hợp địa điểm thanh toán không ghi trên séc thì séc được thanh
toán tại địa điểm kinh doanh của người bị ký phát.
c. Xuất trình và thanh toán séc
c.1. Xuất trình séc
Người thụ hưởng sau khi nhận được tờ séc từ người ký phát mà muốn được thanh toán thì
phải xuất trình séc. Tờ séc được coi là “xuất trình” nếu tờ séc dưới dạng chứng từ giấy
(trường hợp xử lý thanh toán bằng chứng từ) hoặc dữ liệu điện tử của tờ séc (trường hợp
xử lý thanh toán bằng điện tử) tới địa điểm xuất trình. Địa điểm xuất trình có thể là địa
điểm thanh toán được ghi ngay trên séc hoặc trụ sở kinh doanh của người bị ký phát.
Nhưng để được thanh toán thì séc phải được xuất trình trong thời hạn luật định.
Tờ séc được xuất trình trong vòng 30 ngày kể từ ngày ký phát (không tính thời gian diễn
ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan) và người ký phát có đủ khả năng
thanh toán để chi trả số tiền ghi trên séc, thì người bị ký phát có trách nhiệm thanh toán
cho người thụ hưởng hoặc người được người thụ hưởng uỷ quyền ngay trong ngày xuất
trình hoặc ngày làm việc tiếp theo sau ngày xuất trình đó. Thời gian diễn ra sự kiện bất

khả kháng hoặc trở ngại khách quan không tính vào thời hạn xuất trình yêu cầu thanh
toán. Quy định này có thể được hiểu là nếu xảy ra một trong hai điều kiện là sự kiện bất
khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì thời hạn này không được tính vào thời hạn xuất
trình, tuy nhiên như thế nào là sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì cần
phải dựa trên các văn bản pháp luật khác để đối chiếu.
Trong trường hợp tờ séc được xuất trình sau thời hạn xuất trình để thanh toán
nhưng chưa quá 06 tháng kể từ ngày ký phát thì người bị ký phát vẫn có thể thanh toán
nếu người bị ký phát không nhận được thông báo đình chỉ thanh toán đối với tờ séc đó và
người ký phát có đủ khả năng để thanh toán. Việc thanh toán séc theo quy định trên
chấm dứt sau sáu tháng, kể từ ngày ký phát ghi trên séc. Tuy nhiên điều đó không có
nghĩa là chấm dứt nghĩa vụ hoàn trả số tiền của người ký phát đối với người thụ hưởng.
c.2. Thanh toán séc
Bên cạnh thời hạn xuất trình thì khả năng thanh toán của người ký phát khi đến
hạn cũng rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bên thụ hưởng vì vậy các
quy định của pháp luật cũng chú trọng điều chỉnh. Tại Điều 17, Quy chế số 30/2006/QĐ-
NHNN về cung ứng và sử dụng séc. Chỉ những tờ séc hội đủ các điều kiện có hiệu lực thì
mới được thanh toán. Các điều kiện đó bao gồm:
Một là, điều kiện về hình thức
Đó là việc tờ séc là bản gốc, không có chỉnh sửa, tẩy xóa, nhàu nát
Hai là, điều kiện về nội dung.
Đó là việc tờ séc phải hội đủ các nội dung cần thiết do luật định như tên người ký phát,
tên người thụ hưởng, số tiền, ngày ký phát
Ba là, điều kiện về người thu hưởng.
Tổ chức thanh toán phải kiểm tra tư cách của người thụ hưởng có tương ứng với nội dung
trên séc không. Nếu là séc đích danh thì người xuất trình có đúng là người được ghi trên.
Nếu séc đã được chuyển nhượng thì chuỗi chữ ký chuyển nhượng phải đảm bảo tính liên
tục.
Bốn là, điều kiện về thời hạn xuất trình séc.
Séc phải được xuất trình trong thời hạn luật định. Nếu có sự kiện bất khả kháng hay trở
ngại khách quan thì người xuất trình phải chứng minh được điều đó.

Năm là, điều kiện về số tiền bảo chứng.
Người thụ hưởng sẽ được thanh toán khi số tiền trong tài khoản của khách hang lớn hơn
hoặc bằng số tiền ghi trên séc. Trường hợp số tiền trên tài khoản nhỏ hơn số tiền ghi trên
séc thì tờ séc đó vẫn được thanh toán trong các trường hợp sau: (1) thanh toán toàn bộ tờ
séc khi tổ chức thanh toán chấp nhận thấu chi; (2) thanh toán một phần tờ séc trong phạm
vi số dư trên tài khoản theo yêu cầu của người thụ hưởng.
Ngoài ra, trong quá trình thanh toán séc còn có thêm những vi phạm về ký phát
séc và không đủ khả năng thanh toán được chia làm ba trường hợp:
Vi phạm lần thứ nhất
Trường hợp tờ séc được xuất trình trong thời hạn thanh toán, nhưng khoản tiền
mà người ký phát được sử dụng để ký phát séc tại người bị ký phát không đủ để chi trả
toàn bộ số tiền trên tờ séc thì sau khi lập giấy xác nhận từ chối thanh toán theo quy định,
người bị ký phát có trách nhiệm gửi thông báo tới người ký phát để yêu cầu người đó
thực hiện nghĩa vụ trả số tiền ghi trên séc. Người bị ký phát có trách nhiệm đình chỉ ngay
và vĩnh viễn quyền ký phát séc của người vi phạm, đồng thời thông báo cho Trung tâm
thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về người vi phạm và hình thức xử
lý. Người bị ký phát có trách nhiệm lưu giữ thông tin về người ký phát séc không đủ khả
năng thanh toán vào hồ sơ lưu của mình.
Vi phạm lần thứ hai
Người ký phát tái phạm cách lần thứ nhất dưới 12 tháng, nếu trong thời hạn 5
ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của người bị ký phát, người ký phát thanh
toán ngay cho người thụ hưởng và gửi thông báo cho người bị ký phát về việc đã thực
hiện nghĩa vụ trả tiền kèm tờ séc đã được thanh toán thì người bị ký phát tạm thời đình
chỉ thanh toán séc trong vòng 6 tháng, đồng thời thông báo cho Trung tâm thông tin tín
dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về người vi phạm.
Vi phạm lần thứ ba
Trong 12 tháng nếu người ký phát vi phạm 3 lần, thì người bị ký phát đình chỉ
ngay và vĩnh viễn quyền ký phát séc của người vi phạm
Lãi suất phạt chậm trả séc bằng 200% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
công bố tại thời điểm áp dụng. Số tiền phạt chậm trả được trả cho người thụ hưởng tờ

séc. (Điều 15, 16 Quy chế số 30/2006/QĐ-NHNN về cung ứng và sử dụng séc).
1.6. Ưu và nhược điểm của phương thức thanh toán bằng séc
Thanh toán bằng séc rất thuận lợi và nhanh chóng trong giao dịch mua bán. Người mua
hàng ký séc đưa cho người bán và người bán chỉ cần cầm séc và CMND ra ngân hàng là
có thể nhận được tiền.
Tuy nhiên, thực tế, tâm lý của người bán nhận séc thường lo ngại là trên tài khoản của
người mua không còn tiền, séc giả, dễ dẫn đến rủi ro trong giao dịch nên hay từ chối việc
thanh toán séc. Phần lớn các giao dịch mua bán hiện nay được sử dụng bằng phương thức
ủy nhiệm chi là chính (ở Tp.HCM chiếm khoảng 75% trong thanh toán không dùng tiền
mặt) nhưng hình thức này thời gian thanh toán dài hơn, đòi hỏi 2 bên phải ký hợp đồng
mua bán mới có thể lập ủy nhiệm chi để trả tiền.
Việc thanh toán séc cũng gặp không ít phiền phức. Hiện nay khách mua và khách bán
hàng có tài khoản ở cùng một ngân hàng thì khi khách bán đến ngân hàng để nộp séc,
ngân hàng sẽ ghi có trên tài khoản khách bán và ghi nợ trên tài khoản khách mua.
Nhưng khi khách mua và khách bán không có tài khoản ở cùng một ngân hàng, buộc các
ngân hàng thương mại phải thông qua hệ thống thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà
nước. Mỗi ngày ở đây chỉ có 2 phiên thanh toán bù trừ (vào lúc 10 giờ sáng và 15 giờ) và
việc kiểm tra séc ở Ngân hàng Nhà nước vẫn chủ yếu là thủ công.
Nếu các ngân hàng phát hành mấy chục ngàn tờ séc mỗi ngày thì việc thanh toán bù trừ
trong ngày gặp rất nhiều khó khăn.

2. Ủy nhiệm chi
2.1. Khái niệm
Theo quyết định 226/2002/QĐ-NHNN quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước về
việc ban hành Quy chế Hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán, tại khoản 3 điều 9 quy định về ủy nhiệm chi như sau: “Uỷ nhiệm chi hoặc lệnh chi:
là phương tiện thanh toán mà người trả tiền lập lệnh thanh toán theo mẫu do tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán quy định, gửi cho tổ chức cúng ứng dịch vụ thanh toán nơi mình
mở tài khoản yêu cầu tổ chức đó trích một số tiền nhất định trên tài khoản của mình để
trả cho người thụ hưởng.”

Hay ủy nhiệm chi được hiểu là lệnh chi do chủ tài khoản lập theo mẫu in sẵn để yêu cầu
ngân hàng nơi mình mở tài khoản tiền gửi trích một số tiền nhất định từ tài khoản tiền gửi
của mình để trả cho người thụ hưởng về tiền mua hàng hóa, dịch vụ…hoặc chyển vào tài
khoản khác của chính mình.
Ủy nhiệm chi không có nghĩa là ủy nhiệm cho ngân hàng chi hộ mà ủy nhiệm chi phải do
Khách hàng lập, ký và ngân hàng chỉ căn cứ vào lệnh đó để trích tiền từ tài khoản khách
hàng chuyển trả cho đơn vị thụ hưởng. Việc ngân hàng tự động trích tài khoản của khách
hàng là không được phép trừ trường hợp đã có thỏa thuận trước bằng văn bản.
Với cách sử dụng thuận tiện, đơn giản, ủy nhiêm chi được dùng để thanh toán các khoản
tiền mua vật tư, hàng hóa hoặc dùng để chuyển tiền rộng rãi và phổ biến trong cả nước,
không phân biệt trong cùng hệ thống hoặc khác hệ thống ngân hàng. Việc chuyển nợ có
uỷ quyền như các doanh nghiệp nhờ Ngân hàng trả lương vào Tài khoản của công nhân,
việc nộp các loại phí bảo hiểm… cũng là một dịch vụ thanh toán mới tương tự như ủy
nhiệm nhưng hình thức luân chuyển thông tin có thể là đĩa hoặc băng từ hay qua mạng
viễn thông.

2.2. Thanh toán bằng lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi
Điều 13 quyết đinh 226/2002/QĐ-NHNN quy định :
Lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ
hoặc chuyển tiền của người sử dụng dịch vụ thanh toán trong cùng một tổ chức cung ứng
dịch vụ thanh toán hoặc giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về hình thức bao gồm
các yếu tố sau:
 Chữ lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi, số sê ri;
 Họ tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản người trả tiền;
 Tên, địa chỉ tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người trả tiền;
 Họ tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản người thụ hưởng;
 Tên, địa chỉ tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người thụ hưởng;
 Số tiền thanh toán bằng chữ và bằng số,
 Nơi, ngày tháng năm lập lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi;

 Chữ ký của chủ tài khoản hoặc người được chủ tài khoản ủy quyền;
 Các yếu tố khác do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định không trái
pháp luật.
Điều kiện, thủ tục thanh toán, thời hạn thực hiện lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi do tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán thỏa thuận với người sử dụng dịch vụ thanh toán phù
hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Trong thời gian không quá 1 ngày làm việc kể từ thời điểm nhận được lệnh chi hoặc
ủy nhiệm chi do tổ chức cung ứng địch vụ thanh toán phục vụ người trả tiền gửi đến, tổ
chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người thụ hưởng phải ghi có vào tài khoản của
người thụ hưởng theo yêu cầu của lệnh chi hoặc ủy nhiệm chi đó.
Ủy nhiệm chi không có nghĩa là ủy nhiệm cho ngân hàng chi hộ mà ủy nhiệm chi
phải do Khách hàng lập, ký và ngân hàng chỉ căn cứ vào lệnh đó để trích tiền từ tài khoản
khách hàng chuyển trả cho đơn vị thụ hưởng. Việc ngân hàng tự động trích tài khoản của
khách hàng là không được phép trừ trường hợp đã có thỏa thuận trước bằng văn bản.
Với cách sử dụng thuận tiện, đơn giản như trên, ủy nhiêm chi được dùng để thanh
toán các khoản tiền mua vật tư, hàng hóa hoặc dùng để chuyển tiền rộng rãi và phổ biến
trong cả nước, không phân biệt trong cùng hệ thống hoặc khác hệ thống ngân hàng. Việc
chuyển nợ có uỷ quyền như các doanh nghiệp nhờ Ngân hàng trả lương vào Tài khoản
của công nhân, việc nộp các loại phí bảo hiểm… cũng là một dịch vụ thanh toán mới
tương tự như ủy nhiệm nhưng hình thức luân chuyển thông tin có thể là đĩa hoặc băng từ
hay qua mạng viễn thông.
2.3. Ưu và nhược điểm của phương thức ủy nhiệm chi
a. Ưu điểm:
Đây là phương thức thanh toán không dùng tiền mặt nên giảm chi phí in ấn, vận chuyển,
kiểm đếm, bảo quản tiền mặt. Từ đó giảm lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế góp
phần giảm chi phí cho xã hội. Mặt khác, khi khách hàng gửi tiền vào tài khoản ở ngân
hàng để thanh toán thì ngân hàng sẽ huy động thêm vốn để đầu tư cho nền kinh tế.
Ưu điểm của phương thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi so với các phương thức thanh
toán không dùng tiền mặt khác là: thanh toán nhanh, thủ tục đơn giản. Nên tại Việt Nam,
ủy nhiệm chi được dùng phổ biến nhất để thanh toán các khoản hàng hóa, dịch vụ hoặc

chuyển tiền một cách rộng rãi và phổ biến trong cả nước không phân biệt trong cùng hệ
thống hay khác hệ thống ngân hàng.
b. Nhược điểm:
Vì người mua nhận hàng rồi mới viết ủy nhiệm chi nên việc thu hồi vốn của bên bán bị
phụ thuộc vào bên mua, nếu bên mua gặp khó khăn về tài chính thì quyền lợi của bên bán
cũng bị ảnh hưởng.
Bên cạnh đó, nhược điểm lớn nhất của phương thức thanh toán dùng ủy nhiêm chi là
người mua chiếm dụng vốn của người bán trong một thời gian dài. Trong thời điểm khan
hiếm hàng hóa thì ủy nhiệm chi là phương thức ứng trước tiền hàng.
Mặt khác, áp dụng phương thức thanh toán bằng ủy nhiệm chi thì khả năng kiểm soát
của ngân hàng bị hạn chế vì quyền chủ động chi trả phụ thuộc vào chủ tài khoản, nếu đến
hạn trả tiền mà người mua chưa trả tiền thì ngân hàng không kiểm soát được.

×