Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Điện ảnh Thương Mại Việt Nam Trôi Theo Dòng Lịch Sử ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.11 KB, 14 trang )

Điện ảnh Thương Mại Việt Nam Trơi
Theo Dịng Lịch Sử
Miền Nam
Khi người Mỹ chính thức tham chiến vào chiến tranh Việt Nam, cùng với quận đội họ
đã mang theo cả văn hóa Âu Mỹ và những cơng nghệ kỹ thuật mới vào Việt Nam.
Điều này ảnh hưởng đến văn hóa nói chung trong đó có điện ảnh. Một yếu tố khác có
ảnh hưởng tới điện ảnh của miền Nam thời kỳ này là sự phát triển mạnh của cải lương
những năm cuối thập niên 1950, đầu thiệp niên 1960. Rất nhiều nghệ sĩ điện ảnh xuất
thân từ cải lương. Từ năm 1954 tới 1975, có những giai đoạn hồng kim, như năm
1957, các hãng phim tư nhân điện ảnh miền Nam sản xuất 37 phim một năm.

Chúng tôi muốn sống (1956)
Giai đoạn 1954-1960
Năm 1955, Phòng Điện ảnh được thành lập. Đến năm 1959 Trung tâm Quốc gia Điện
ảnh thuộc Nha Thông tin ra đời, với một đội ngũ những người làm phim gồm 19 đạo
diễn, 13 quay phim, 5 chuyên viên thu thanh và 2 chuyên viên dựng phim. Đa số
những người này được cố vấn Mỹ dạy tại chỗ hoặc đi tu nghiệp ở nước ngoài hai năm
từ 1957 đến 1959. Bên cạnh đó cịn mời chun gia của Philippines đến Sài Gòn hợp
tác với một số hãng tư nhân thực hiện những phim tuyên truyền cho chế độ. Trung
tâm Điện ảnh chính là nơi đào tạo những chuyên viên điện ảnh đầu tiên của miền
Nam.
Điện ảnh khi đó chủ yếu giành cho giới thành thị. Rạp chiếu bóng, mỗi ngày thường
chiếu theo xuất, thứ bảy có xuất chiều, chủ nhật thêm xuất sáng. Để thu hút khán giả,


các rạp thường mở nhạc các ca sĩ Paul Anka, Andy William, Elvis Presley, Patti
Page... Giới trí thức thành thị khi bị ảnh hưởng bởi lối sống Pháp. Các phim tình cảm
Pháp thịnh hành nhất khi đó, rồi đến những phim miền Tây của Mỹ, phim ca nhạc Ấn
Độ.
Giai đoạn 1955 đến 1958, nhiều hãng phim tư nhân được thành lập, tập trung sản xuất
loại phim tâm lý xã hội, cổ tích và các đề tài gia đình. Đây là giai đoạn nở rộ phong


trào làm phim cải lương, thần thoại, truyền thuyết, với nhiều bộ phim khơi gợi lòng tự
hào của người Việt trong việc ủng hộ phim do người Việt làm ra. Nổi bật nhất trong
phong trào làm phim này là các hãng Việt Thanh thành lập năm 1955, Văn Thế năm
1956, Tân Việt điện ảnh năm 1957 do ông Bùi Diễm làm giám đốc.
Các hãng tư nhân sản xuất phim mạnh mẽ, giới thiệu với công chúng một thế hệ diễn
viên mới như Kim Cương phim Lòng nhân đạo, Ngọc Bồ Đề; Trang Thiên Kim phim
Mục liên thanh đề, Trương Chi; Lê Thị Nam phim Đồng ruộng miền Nam; Kim Lan
phim Người mẹ hiền; Thu Trang phim Lục Vân Tiên; Mai Trâm phim Chúng tôi
muốn sống; Khánh Ngọc phim Ràng buộc, Ánh sáng miền Nam; Xuân Dung phim
Kim trai thời loạn; Kim Hoàng phim Tiền thân Đức Phật Tổ; Thiên Kim phim Huyền
Trân công chúa; Túy Phượng phim Thạch Sanh Lý Thông...
Cuối năm 1956, đạo diễn người Mỹ Joseph L. Mankiewicz tới miền Nam thực hiện
phim Người mỹ trầm lặng, bộ phim chuyển thể đầu tiên từ tác phẩm cùng tên của
Graham Greene. Đạo diễn Vĩnh Noãn - đạo diễn Chúng tôi muốn sống - được mời
hợp tác cho bộ phim này. Nhưng bộ phim không thành cơng, bị nhận sự phản đối bởi
chính Graham Greene. Diễn viên Laurence Oliver, người được chọn ban đầu, cũng
ủng hộ nhà văn và từ chối tới Việt Nam tham gia bộ phim.
Năm 1957 là năm điện ảnh miền Nam hoạt động mạnh nhất. Chỉ trong năm 1957, các
hãng phim tư nhân đã sản xuất hơn 37 phim. Do điều kiện trong nước yếu kém về mặt
kỹ thuật nên đa số những phim trắng đen, 35 mm. Nếu muốn tạo được sự chuẩn mực
về kỹ thuật đều phải thâu thanh tại nước ngồi. Thành cơng nhất về doanh thu giai
đoạn này Quan Âm Thị Kính. Một bộ phim ăn khách khác là Kiếp hoa của hãng Kim
Chung với hai diễn viên Kim Chung và Kim Xuân, được xem là phim nội địa hay
nhất. Diễn viên nữ số một là Kim Cương, người tham gia nhiều phim nhất những năm
1954 đến 1960.
Dịp Giáng Sinh 1957, phim Người đẹp Bình Dương của hãng phim Mỹ Vân với chiến
dịch quảng cáo rầm rộ mang đến cho công chúng ngôi sao tương lai Thẩm Thúy
Hằng. Cũng năm 1957, Kiều Chinh lần đầu xuất hiện trong phim Hồi chuông Thiên
Mụ của đạo diễn Lê Dân, hãng Tân Việt.



Nhưng đến cuối năm 1957, hoạt động sản xuất phim chững lại. Giai đoạn 1958 đến
1960 là giai đoạn bị kịch của điện ảnh miền Nam, đỉnh cao là năm 1960. Con số 39
nhà sản xuất phim chỉ còn 9 hãng hoạt động cầm chừng, mỗi năm sản xuất một hai
phim, thiếu vốn, phim lỗ, chính sách thuế... Báo chí cũng khơng cịn ủng hộ điện ảnh
trong nước. Các phim nhập khẩu thao túng thị trường
Giai đoạn 1960-1970
Trong giai đoạn khó khăn, vẫn có những người đam mê điện ảnh. Như nhóm Bọn Trẻ
của Nguyễn Long và Hồng Anh Tuấn đã cùng bạn bè góp vốn làm phim. Nguyễn
Long với bộ phim dài 100 phút Mưa lạnh hồng hơn (1961) giới thiệu gương mặt diễn
viên Mai Ly. Hoàng Anh Tuấn với phim Trời không muốn sáng. Để cạnh tranh lại với
phim Ấn Độ, Hồng Kông... Thái Thúc Nha điện ảnh hóa cải lương với những phim
Oan ơi ơng Địa (1961), vai chính là Thẩm Thúy Hằng hay Bẽ bàng (1961) với Kim
Cương. Nhưng do yếu kém về kỹ thuật và được thực hiện vội vàng, hai phim này cũng
bị báo giới chê bai.
Khoảng 1962, 1963 điện ảnh miền Nam bắt đầu hồi sinh trở lại. Nhiều hãng phim mới
xuất hiện cùng các dự án làm phim. Thời kỳ này các phim bắt đầu sử dụng kỹ thuât
đơn màu. Hãng phim Alpha tiên phong với Mưa rừng (1962) có Kim Cương cùng
Kiều Chinh. Sau đó là bộ phim tốn kém Đơi mắt người xưa của hãng Liêm Phim,
được thực hiện trong ba năm từ 1962 đến 1964. Đây cũng là phim đầu tiên Thanh Nga
tham gia, tuy nhiên khánh giả lại biết tới cơ với Hai chuyến xe hoa được trình chiếu
trước vào 1963.
Đạo diễn Lê Mộng Hoàng cùng kịch sĩ Năm Châu thực hiện Tơ tình do hãng Mỹ Vân
sản xuất năm 1963. Tơ tình có sự tham gia của Thẩm Thúy Hằng, La Thoại Tân, Mai
Ly và nữ ca sĩ Thanh Thúy. Đây là một bộ phim nặng về nhạc, trong phim Thẩm Thúy
Hằng trong vai ca sĩ Lệ Trinh. Sau thành công lớn về mặt doanh thu của Tơ tình, hãng
Mỹ Vân làm tiếp phim Bóng người đi (1964) do Năm Châu đạo diễn. Phim này Thẩm
Thúy Hằng diễn xuất cùng Thành Đuợc, Út Bạch Lan.
Năm 1969, Liên Ảnh Công Ty thực hiện bộ bộ màu màn ảnh rộng Từ Sài Gòn đến
Điện Biên Phủ. Về mặt kỹ thuật đây là bộ phim có những tiến bộ vượt bậc. Ngoài

những diên viên điện ảnh tên tuổi Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh, Ðồn Châu, phim
Từ Sài Gịn đến Điện Biên Phủ còn qui tụ các diện viên và soạn giả cải lương như Lê
Khanh, Thanh Cao, Ngọc Ðiệp, Tư Hề, Văn Lượng. Cũng năm 1969, một bộ phim
khác đạt kỷ lúc bán vé là Chiều kỷ niệm. Đây là bộ phim đầu tay của nhóm Thẩm
Thúy Hằng với đạo diễn là Lê Mộng Hoàng, lời thoại do nghệ sĩ Năm Châu viết. Phim


đen trắng, 35 mm dài 1 giờ 45 phút. Ngoài Thẩm Thúy Hằng, Hùng Cường, phim
cũng có sự tham gia của các tên tuổi cải lương Năm Châu, Phùng Há, Bảy Ngọc,
Thanh Tú... Chỉ trong tuần lễ công chiếu đầu tiên tại rạp Rex, Chiều kỷ niệm đã thu về
1 triệu đồng. Sau vài tuần, con số doanh thu lên tới 10 triệu.
Vào những năm này, để có nhạc cảnh và ca khúc trên phim, các hãng thường đặt các
nhạc sĩ như Phạm Duy, Hoàng Thi Thơ, Huỳnh Anh viết. Giọng ca do các ca sĩ như
Thái Thanh, Hoài Trung... thể hiện để diễn viên xuất hiện trên phim nhép miệng.
Nhưng phim khác đáng chú ý trong giai đoạn này có thể kể đến: Loạn, Yêu (1964),
Dang dở (1965), Giã từ bóng tối (1969), Trai thời loạn (1969)... Ngồi Thẩm Thúy
Hằng, Kiều Chinh, Thanh Nga, Kim Cương, điện ảnh còn ghi nhân những tên tuổi
Kim Vui, Mộng Tuyền, Thảo Sương, Kim Xuân, Thanh Lan, Thiên Trang, Ngọc
Minh... Đạo diễn sung sức nhất thời kỳ này là Lê Mơng Hồng. Năm 1966, tại Đại hội
điện ảnh Á Châu lần thứ 13, nữ diễn viên Xuân Dung đã được trao tặng giải thưởng
nữ Diễn viên Xuất sắc nhất với vai diễn trong phim Đôi mắt người xưa do hãng Liêm
Phim sản xuất. Đây là giải thưởng quốc tế lớn đầu tiên của các diễn viên điện ảnh
miền Nam.
Giai đoạn 1970-1975
Cuối thập niên 1960 ở miền Nam, trong khi cải lương ngày càng sa sút thì điện ảnh lại
phát triển mạnh mẽ, bước vào thời kỳ hoàng kim. Với hơn 30 hãng phim hoạt động,
kinh doanh điện ảnh thực sự có lãi. Số lượng phim tăng lên nhanh chóng: năm 1970
có 6 phim, năm 1971 có 24 phim và đỉnh cao là năm 1972 với 29 phim. Các hãng
phim đã nhìn xa trơng rộng, biết tìm đối tác, hợp tác cùng tác nước trong khu vưc để
sản xuất. Nếu như trước đây, các hãng phim muốn nhập phim nước ngồi thì phải từ

mình sản xuất một phim trong một năm, thì từ năm 1969, chính quyền Việt Nam Cộng
Hịa cho phép nhập phim tự do. Tuy thế việc làm phim trong nước với nhiều dự án
vấn phát triển mạnh mẽ.
Ngoài các diễn viên cải lương, điện ảnh còn chứng kiến sự lấn sân của các diên viên
kịch, ca sĩ như: Bạch Tuyết với những phim Như hạt mưa sa, Như giọt sương khuya,
Lan và Điệp, Con ma nhà họ Hứa; Băng Châu, Bạch Liên với Men tình mùa hạ, Hoa
mới nở; Như Loan với Đời chưa trang điểm; Phương Hồng Ngọc với Nắng chiều,
Nàng; Phương Hoài Tâm, Thanh Lan với Tiếng hát học trị, Trường tơi; Trang Thanh
Lan với Xa lộ khơng đèn; Ngọc Đan Thanh với Quái nữ Việt quyền đạo; Mai Lệ
Huyền với Gác chuông nhà thờ, Ly rượu mừng; Tuyết Lan, Quốc Dũng với Trường
tôi; Kiều Phượng Loan, Bạch Lan Thanh...
Từ năm 1970, điển ảnh Việt Nam Cộng Hòa liên tục cử nhiều đoàn đi tham dự các


liên hoan phim quốc tế tại Liên bang Đức, Ấn Độ, Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan,
Campuchia... Được sự quan tâm của chính quyền Việt Nam Cộng Hịa, năm 1970,
Giải thưởng Điện ảnh ra đời. Các hãng Mỹ Vân, Cosunam phim, Việt Nam Phim,
Giao Chỉ phim... xin phép những dự án xây dựng phim trường. Từ cuối 1969, các
phim sản xuất bắt đầu là phim màu, thường được in tráng ở nước ngồi, nhiều nhất là
ở Nhật Bản. Chính phủ còn miễn thuế nhập cảng phim màu, tạo điều kiện cho tác nhà
làm phim. Liên tiếp trong các năm 1971, 1972, 1973, 1974 ở các kỳ liên hoan phim
trong khu vực, Việt Nam Cộng Hòa đều gặt hái được những giải thưởng tôn vinh các
diễn viên Kiều Chinh, Thanh Nga, Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương...
Giai đoạn này, đề tài làm phim cũng đa dạng hơn, phục vụ thị hiếu đông đảo khán giả.
Con mà nhà họ Hứa sản xuất trong hai năm 1972 và 1973 là bộ phim kinh dị đầu tiên
của Việt Nam. Bộ phim của Dạ Lý Hương phim, đạo diễn Lê Hoàng Hoa với các diễn
viên Năm Châu, Bạch Tuyết, Thanh Tú, Dũng Thanh Lâm, Tư Rọm... đã thắng lớn về
doanh thu. Những bộ phim hài như Năm vua hề về làng (1974), Tứ quái Sài Gòn
(1973), Sợ vợ mới anh hùng (1974) đều là những phim ăn khách, thu hút khán giả tới
rạp. Khi đó điện ảnh võ thuật Hồng Kơng đang có sức hấp dẫn mạnh mẽ nên một số

nhà làm phim cũng đi theo hướng này. Tiêu biểu như Long hổ sát đấu (1972), Hận
thù, Quái nữ Việt quyền đạo.
Một số tác phẩm văn học cũng được các nhà làm phim đưa lên màn ảnh như Trống
mái (1971), Gánh hàng hoa (1971) dựa theo tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn, Điệu
ru nước mắt (1971), Vết thù trên lưng ngựa hoang (1971) của nhà văn Duyên Anh,
Chân trời tím (1970) của Văn Quang. Một đề tài hấp dẫn nữa là khai thác thế giới
giang hồ, vũ nữ với những phim Sau giờ giới nghiêm (1972), Xa lộ không đèn (1972),
Vết thù trên lưng ngựa hoang (1971), Mãnh lực đồng tiền (1971)... Cùng với đó phản
ánh đời sống của giới trẻ thành thị Loan mắt nhung (1970), Hoa mới nở (1974), Hè
72, Anh yêu em...
Loan mắt nhung năm 1970 của đạo diễn Lê Dân được xem là bộ phim chân thực hấp
dẫn phản ánh đúng một bộ phận thanh thiếu niên Sài Gòn thời ấy. Phim dài 1 giờ 45
phút, phỏng theo truyện xã hội đen của Nguyễn Thụy Long, người đã sống một thời
gian dài cùng du dãng và gái điếm. Với các diễn viên Huỳnh Thanh Trà trong vai
Loan mắt nhung, Thanh Nga trong vai Xuân, người yêu của Loan mắt nhung, Ngọc
Phu trong vai Thanh Italy, Kim Xuân vai Dung...phim có nhiều tình tiết éo le, những
cảnh vũ trường ăn chơi của Sài Gịn.
Năm 1970, Liên ảnh cơng ty bỏ ra một số tiền khổng lồ 14 triệu đồng cho Lê Hoàng
Hoa làm phim Chân trời tím dựa theo tiểu thuyết của Văn Quang. Ban đầu Liên Ảnh
công ty mời Kiều Chinh đóng vai Liên và đạo diễn được chọn là Hồng Vĩnh Lộc,


nhưng do thời gian chuẩn bị quá lâu nên hai nhân vật này bận phim khác đã từ chối.
Về sau được thực hiện với các diễn viên Hùng Cường vai Phi, Thanh Lan vai Phượng,
Kim Vui vai Liên, Ánh Nga vai Loan. Bộ phim được quay 3 tháng trời, với 100 xe
tăng, 45 máy bay trực thăng, 300 xe cơ giới đủ loại, 600 diễn viên chính phụ và đã thu
vào 94 triệu đồng.
Bên cạnh đó, một số phim ca ngợi hình ảnh người lính qn đội Cộng hịa, tun
truyền cho chính quyền miền Nam như Người tình khơng chân dung (1971), Xin nhận
nơi này làm quê hương (1968), Người về từ đỉnh núi... Người tình khơng chân dung

của hàng Giao Chỉ phim thực hiện năm 1970 do Hoàng Vĩnh Lộc đạo diễn. Kiều
Chinh trong vai chính Mỹ Lan, một phát thanh viên giữ mục tâm tình chiến sĩ trên đài
phát thanh dấn thân vào chiến trường tìm người yêu. Tuy được thực hiện với một kinh
phí hạn hẹp, nhưng phim đã đoạt giải chủ đề phim xuất sắc nhất và nữ tài tử chính khả
ái nhất tại đại hội điện ảnh Á Châu lần thứ 17 tổ chức tại Đài Bắc vào ngày 6 tháng 6
năm 1971.
Cuối năm 1974, hoạt động làm phim vẫn diễn ra sôi động. Lê Hoàng Hoa làm bộ
phim kinh dị Giỡn mặt tử thần với Thẩm Thúy Hằng, Phương Uyên. Thẩm Thúy
Hằng cũng cùng với đạo diễn Lưu Bạch Đàn lên kế hoạch hợp tác với Nhật Bản quay
bộ phim Tình khúc thứ 10, Hòn vọng phu... Ngày Điện ảnh Việt Nam 14 tháng 9 năm
1974, Thái Thúc Nha làm chủ tịch đã phát động phong trào ủng hộ điện ảnh với khẩu
hiệu "Người Việt xem phim Việt". Hãng phim Mỹ Vân xây dựng hồn chỉnh phim
trường lớn ở xa lộ Biên Hịa. Dịp tết 1975, màn ảnh Sài Gòn nhộn nhịp với nhiều
phim mới được công chiếu: Hải vụ 709, Từ quê ra tỉnh, Nữ quái sợ ma...
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 chấp dứt nền điện ảnh của Việt Nam Cộng Hịa. Cho
đến tận khi đó, một vài bộ phim như Giỡn mặt tử thần... vẫn chưa kịp công chiếu.
Giai đoạn sau 1975
Sau năm 1975, miền Bắc và miền Nam thống nhất kéo theo những thay đổi của điện
ảnh Việt Nam. Tại Sài Gòn, những nhà làm phim miền Bắc được tiếp nhận những
tranh thiết bị, máy móc kỹ thuật của miền Nam. Họ cùng với những nghệ sĩ của miền
Nam như các đạo diễn Lê Mộng Hoàng, Lê Hoàng Hoa... các diễn viên Thẩm Thúy
Hằng, Kim Cương, Nguyễn Chánh Tín, Lý Huỳnh... hợp thành một đội ngũ làm phim
đông đảo. Đề tài làm phim cũng đa dạng. Ngoài những phim về chiến tranh Việt Nam,
cũng có những phim nói về đề tài đô thị miền Nam. Trong giai đoạn này, điện ảnh
Thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trị quan trọng trong nền điện ảnh Việt Nam.
Xưởng phim Giải phóng - thành lập từ tháng 1 năm 1962 - được mở rộng quy mơ, sản
xuất nhiều loại hình phim, đổi tên thành Xưởng phim Tổng hợp thành phố Hồ Chí


Minh. Xưởng phim Nguyễn Đình Chiểu được thành lập với tiền thân là hãng phim

Alfa của Sài Gòn trước 1975. Cơ quan Phát hành phim và chiếu bóng Giải phóng
chuyển thành Chi nhánh Phát hành phim Trung ương tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Trung tâm tư liệu phim các tỉnh phía Nam được thành lập để quản lý, lưu trữ các phim
của điện ảnh miền Nam trước 1975, đến tháng 9 năm 1979 trở thành Cơ sở II của
Viện Tư liệu phim Việt Nam (nay là Viện Nghệ thuật và Lưu trữ Điện ảnh).
Bộ phim đầu tiên được ra đời Bên lề 30 - 4. Tiếp đó, Đài truyền hình thành phố thực
hiện phim Cơ Nhíp (1976) của đạo diễn Khương Mễ. Hãng phim truyện Việt Nam có
Ngày lễ thánh do Bạch Diệp biên kịch và đạo diễn với các diễn viên Trà Giang, Như
Quỳnh, Tuệ Minh, Trần Phương. Cũng năm 1976, Hãng phim truyện Việt Nam còn
thực hiện một bộ phim đáng chú ý khác là Sao tháng tám, đạo diễn Trần Đắc, diễn
viên Thanh Tú, Đức Hoàn, Lê Dũng Nhi.
Ngồi 350 rạp chiếu phim, điện ảnh cịn được phố biến nhờ 1.400 đội chiếu bóng lưu
động. Đề tài chính của điện ảnh Việt Nam giai đoạn này vẫn là cuộc chiến tranh vừa
kết thúc. Những bộ phim tiếp theo Mối tình đầu (1977), Mùa gió chướng (1978), Mẹ
vắng nhà (1979)... và Cánh đồng hoang (1979) của Xưởng phim Tổng hợp là bộ phim
dấu ấn nhất trong thời kỳ này.
Cánh đồng hoang do nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết kịch bản, đạo diễn phim là
Nguyễn Hồng Sến. Trước đó hai người đã hợp tác trong Mùa gió chướng, bộ phim
đầu tay của Nguyễn Hống Sến trên vai trò đạo diễn, cũng là kịch bản đầu tay của
Nguyễn Quang Sáng. Lấy bối cảnh vùng Đồng Tháp Mười, bộ phim phản ánh đời
sống của một gia đình trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Hai diễn viên chính của
Cánh đồng hoang là Lâm Tới và Thúy An. Cánh đồng hoang đã giành được nhiều giải
quan trọng trong Liên hoan phim Việt Nam 1980 và Huy chương vàng tại Liên hoan
phim Quốc tế Moskva, 1981.
Sang thập niên 1980, đề tài làm phim đã thực sự đa dạng. Đạo diễn Phạm Văn Khoa
có hai bộ phim chuyển thể từ tác phẩm văn học, Chị Dậu (1980) từ tiểu thuyết Tắt đèn
của Ngô Tất Tố và Làng Vũ Đại ngày ấy (1983) từ Sống mịn, Chí Phèo, Lão Hạc của
Nam Cao. Đạo diễn Đặng Nhật Minh cũng đã thực hiện những bộ phim được chú ý,
Thị xã trong tầm tay (1982), Bao giờ cho đến tháng mười (1984) và Cô gái trên sông
năm 1986.

Một tác phẩm điện ảnh dấu ấn trong giai đoạn này là bộ phim dài hơi Ván bài lật ngửa
của đạo diễn Lê Hoàng Hoa do Xưởng phim Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh sản
xuất. Ván bài lật ngửa được thực hiện từ năm 1982 tới năm 1987, gồm 8 tập: Đứa con
nuôi vị giám mục, Quân cờ di động, Phát súng trên cao nguyên, Cơn hồng thủy và bản


tango số 3, Trời xanh qua kẽ lá, Lời cảnh cáo cuối cùng, Cao áp và nước lũ, Vòng hoa
trước mộ. Phim được chuyển thể từ tiểu thuyết tình báo cùng tên của nhà văn Nguyễn
Trương Thiên Lý. Vai điệp viên Nguyễn Thành Luân do Nguyễn Chánh Tín và vai
Thùy Dung do Thúy An và Thanh Lan thể hiện. Ván bài lật ngửa đã giành được Giải
đặc biệt tại Liên hoan phim Việt Nam 1983, Bông sen bạc và nam diễn viên chính
xuất sắc năm 1985.
Từ tháng 4 năm 1975 đến năm 1985, điện ảnh Việt Nam đã thực hiện 149 bộ phim
truyện ra mắt cơng chúng. Mỗi năm cịn trung bình 12 phim hoạt hình và nhiều phim
tài liệu
Thời kỳ mở cửa
Đến cuối thập niên 1980, khi Việt Nam bước sang giai đoạn Đổi mới thì điện ảnh rơi
vào thời kỳ khủng hoảng. Những năm trước, trong thời kỳ bao cấp, các hãng phim
được nhà nước cấp kinh phí để sản xuất phim, khâu phát hành phim do cơ quan khác
quản lý. Đây là một trong những lý do làm giảm chất lượng phim. Thời kỳ này, sự cắt
giảm ngân sách của Nhà nước làm cho điện ảnh không đủ kinh phí để sản xuất phim.
Việc phân cấp các rạp và đội chiếu bóng về cho tỉnh, thành và quận, huyện được từ
đầu những năm 1980, tới thời gian này được thực hiện triệt để. Nhà nước bắt đầu xóa
bỏ bao cấp giành cho điện ảnh, chuyển từ chế độ bao cấp sang chế độ hạch tốn kinh
tế, có sự tài trợ một phần của Nhà nước. Các máy móc thiết bị làm phim đã cũ kỹ, tiền
của Nhà nước đầu tư cho điện ảnh cũng bị thất thoát.
Trong khi điện ảnh rơi vào bi kịch thì thể loại phim video mới xuất hiện và nhanh
chóng đạt tới thời kỳ hoàng kim, thu hút một số lượng khán giả rất lớn. Số lượng máy
video tăng nhanh và rạp chiếu phim khơng cịn sức hút với khán giả. Nhiều hãng phim
điện ảnh chỉ còn sản xuất một hai phim một năm, và chuyển sang làm phim video.

Dòng phim này chủ yếu ở miền Nam, rất nhiều bộ phim thương mại được sản xuất ồ
ạt, nội dung đơn giản, thường được gọi là dòng phim mỳ ăn liền. Dòng phim này cũng
kéo theo một thế hệ diễn viên ngôi sao mới như Lý Hùng, Diễm Hương, Việt Trinh,
Lê Công Tuấn Anh, Lê Tuấn Anh, Công Hậu, Thu Hà...
Một thời gian đầu, các phim video hướng tới các đề tài dân gian, những câu chuyện cổ
tích như Phạm Cơng Cúc Hoa, Thạch Sanh... Khi thể loại phim võ thuật của Hồng
Kông du nhập vào Việt Nam mạnh mẽ, các nhà làm phim cũng sản xuất hàng loạt
những phim võ hiệp dã sử Thăng Long đệ nhất kiếm, Lửa cháy thành Đại La, Tráng sĩ
Bồ Đề... Thời kỳ cuối cùng, cùng là giai đoạn mạnh mẽ nhất, là những bộ phim tình
cảm sướt mướt, bi lụy, những cuộc tình tay ba ngang trái: Sau những giấc mơ hồng,
Em không dối lừa, Sau cơn mưa trời lại sáng, Tóc gió thơi bay... Cho đến giữa những


năm 1990, do nhu cầu và thị hiếu khán giả thay đổi, dòng phim này bắt đầu đi xuống.
Giai đoạn này số lượng phim điện ảnh được sản xuất giảm đáng kể. Số lượng rạp
chiếu phim cũng giảm bớt. Nhiều rạp chiếu phim bị phá bỏ, hoặc chuyển sang kinh
doanh lĩnh vực khác, biến thành vũ trường. Một vài tác phẩm thành cơng của thời kỳ
này có thể kể đến Vị đắng tình yêu (1991), Người đi tìm dĩ vãng chuyển thể từ tiểu
thuyết Ăn mày dĩ vãng của nhà văn Chu Lai với các diễn viên Trần Lực, Thanh Mai,
Lê Cơng Tuấn Anh, Thương Tín.
Vị đắng tình u được Hãng phim Giải Phóng sản xuất năm 1991, do Lê Hồng đạo
diễn với các diễn viên Thuỷ Tiên, Lê Cơng Tuấn Anh, Lê Cung Bắc, Y Phụng, Phước
Sang... Vai Quang "Don Quixote" là vai diễn dấu ấn của Lê Công Tuấn Anh. Tại Liên
hoan phim quốc gia 1993, Vị đắng tình u đã giành nhiều giải quan trọng: Bơng sen
vàng, Đạo diễn xuất sắc, Nam diễn viên chính xuất sắc. Đây được xem là một bộ phim
vừa thành công về doanh thu lẫn nghệ thuật.
Năm 1992, có hai bộ phim Pháp được thực hiện ở Việt Nam. Người tình của đạo diễn
Jean-Jacques Annaud dựa theo tiểu thuyết cùng tên của Marguerite Duras với sự tham
gia của nữ diễn viên Pháp Jane March và diễn viên Hồng Kông Lương Gia Huy. Bộ
phim thứ hai là Đông Dương, đạo diễn Régis Wargnier và hai ngôi sao Catherine

Deneuve và Vincent Perez. Diễn viên người Pháp gốc Việt Phạm Linh Đan trong vai
Camille, con gái nuôi của Eliane Devries - vai Catherine Deneuve thể hiện. Đông
Dương đã được trao giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất năm 1992.
Năm 1993, chương trình Chấn hưng điện ảnh cấp Nhà nước được Chính phủ phê
duyệt và bước đầu triển khai.
Điện ảnh hải ngoại
Từ những năm ngay sau 1945, đã có những thước phim của các Việt kiều Pháp gửi về
Việt Nam. Đó là những phim tài liệu về Hội nghị Fontainebleau, Hồ Chí Minh ở Pháp,
hay về đời sống của những Việt kiều. Đầu những năm 1950, có những thanh niên Việt
Nam sang Pháp học về điện ảnh. Sau khi tốt nghiệp, một số về nước làm phim, như
đạo diễn Phạm Kỳ Nam của miền Bắc, Lê Dân, Hoàng Anh Tuấn, Lê Mộng Hoàng
của miền Nam. Một số khác ở lại Pháp làm phim, nhưng không có thành cơng đáng
kể.
Đạo diễn Việt kiều đầu tiên được giới điện ảnh nước ngoài chú ý đến là đạo diễn Lê
Lâm với bộ phim ngắn Long Vân Khánh Hội làm năm 1980 tại Pháp. Bộ phim nói về
một người lái tàu hỏa phải thực hiện công việc trong khi người vợ ở nhà đang hấp hối.


Long Vân Khánh Hội được giới thiệu trong chương trình Triển vọng của điện ảnh
Pháp tại Liên hoan phim Cannes năm đó. Ba năm sau, Lê Lâm làm tiếp phim Tro tàn
của đế chế. Bộ phim là một hoài niệm của tác giả về quê hương trong mối quan hệ với
những người Pháp thông qua nhân vật viên sĩ quan và người nữ tu sĩ Pháp, do nữ diễn
viên nổi tiếng người Pháp Dominique Sanda thủ vai.

Trong mười năm sau đó, Lê Lâm khơng làm phim nữa và cũng khơng có tên tuổi của
đạo diễn người Việt nào được nhắc đến trong hoạt động điện ảnh ở nước ngoài.
Mở đầu cho làn sóng các đạo diễn Việt kiều về Việt Nam làm phim là Hồ Quang
Minh. Vào năm 1985, đạo diễn Hồ Quang Minh từ Thụy Sĩ về nước thực hiện bộ
phim Con thú tật nguyền của Hãng phim Giải Phóng. Tiếp đó ơng làm các bộ phim
Trang giấy trắng (1991), Bụi hồng (1996) và mang những phim này tham dự một số

liên hoan phim quốc tế.
Năm 1993, đạo diễn trẻ người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng thực hiện bộ phim đầu
tay Mùi đu đủ xanh. Bộ phim nói về một cơ gái, từ khi cịn bé tới lúc trưởng thành, ở
Sài Gòn thập niên 1950. Trong một khung cảnh nhỏ hẹp, cốt truyện đơn giản, tác giả
đặc biệt chú ý đến hình ảnh và màu sắc . Và ngay từ tác phẩm đầu tay này, Trần Anh
Hùng đã thành công. Mùi đu đủ xanh giành được giải Trẻ và giải Camera vàng trong
Liên hoan phim Cannes năm đó. Sang năm 1994, phim được đề cử tranh giải Oscar
cho phim ngoại ngữ hay nhất và giành được giải César cho tác phẩm đầu tay.
Năm 1995, Trần Anh Hùng trở về Việt Nam làm phim Xích lơ. Xích lơ có sự tham gia
của nhiều diễn viên Việt Nam cùng ngôi sao điện ảnh Hồng Kông Lương Triều Vỹ.
Khác với bộ phim trước, bối cảnh của Xích lơ là Thành phố Hồ Chí Minh thập niên
1990 với nhiều bạo lực, tệ nạn. Phim đã giành đươc giải Sư tử vàng và giải FIPRESCI
tại Liên hoan phim Venise năm 1995. Năm 1999, Trần Anh Hùng thực hiện bộ phim
thứ ba cũng ở Việt Nam, Mùa hè chiếu thẳng đứng với sự tham gia của nhiều diễn
viên Việt Nam nổi tiếng: Lê Khanh, Như Quỳnh, Trần Quang Hải, Lê Tuấn Anh...
Với ba phim, tuy giành được những thành cơng ở nước ngồi, Trần Anh Hùng không
được nhiều khán giả Việt Nam biết tới. Các nhà làm phim trong nước đánh giá phim


Trần Anh Hùng ít bản sắc Việt Nam[4].
Cũng năm 1999, đạo diễn Việt kiều Mỹ Tony Bùi về nước làm Ba mùa, một bộ phim
với ba câu chuyện nhỏ xen kẽ với nhau. Ba mùa có sự tham gia của diễn viên người
Mỹ Harvey Keitel trong vai một cựu chiến binh Mỹ trở lại Việt Nam tìm con gái, và
các diễn viên Việt Nam như Đơn Dương, Ngọc Hiệp... Ba mùa được công chiếu rộng
rãi ở Việt Nam và đã thu hút được khán giả. Phim đoạt cả hai giải khán giả lẫn giám
khảo tại Liên hoan phim Sundance. Năm 2001, Tony Bùi đứng ra làm nhà sản xuất
cho bộ phim đầu tay của anh mình là Timothy Linh Bùi mang tên Rồng xanh. Phim
nói về những người Việt tị nạn sau biến cố tháng 4 năm 1975 với sự tham gia của ngôi
sao Hollywood Patrick Swayze, diễn viên Đơn Dương, các diễn viên hải ngoại Lê Thị
Hiệp, Kathleen Luong. Rồng xanh vấp phải sự phản đối của Nhà nước Việt Nam và

sau bộ phim này, diễn viên Đơn Dương rời Việt Nam sang định cư tại Hoa Kỳ.
Sang thập niên 2000, làn sóng các đạo diễn Việt kiều về nước làm phim trở nên mạnh
mẽ. Như Hồ Quang Minh với Thời xa vắng (2004), Việt Linh với Mê Thảo - Thời
vang bóng (2003), Nguyễn Võ Nghiêm Minh với Mùa len trâu (2004), Đoàn Minh
Phượng với Hạt mưa rơi bao lâu (2005). Họ cùng với các nhà làm phim trong nước
tạo nên nền điện ảnh Việt Nam đương đại.
Điện ảnh tại hải ngoại
Bên cạnh những đạo diễn về Việt Nam làm phim, một số nhà làm phim Việt kiều thực
hiện các bộ phim ngay tại hải ngoại.
Sau 1975, nhiều người Việt rời Việt Nam định cư ở nước ngoài. Một số diễn viên Việt
kiều tham gia vào nền điện ảnh nơi họ định cư. Như Kiều Chinh giành được nhiều vai
diễn nhỏ tại Hollywood. Năm 1993, Lê Thị Hiệp đóng vai nữ chính bên cạnh Tommy
Lee Jones trong bộ phim nói về chiến tranh Việt Nam Trời và đất của đạo diễn nối
tiếng Oliver Stone. Các diễn viên trẻ như Johnny Trí Nguyễn, Dustin Nguyễn cũng
tham gia nhiều phim của Hollywood.
Năm 2003, một đạo diễn trẻ Victor Vũ thực hiện bộ phim thứ hai của mình là Một
buổi sáng đầu năm (First Morning). Trước đó anh đã làm một phim ngắn tên
Firecracker vào năm 1997. Một buổi sáng đầu năm được thực hiện đơn giản, nhưng về
nội dung tác giả lại muốn đề cập đến nhiều khía cạnh cuộc sống của người Việt tị nạn.
Bộ phim, với sự tham gia của những diễn viên trẻ của điện ảnh hải ngoại là Johnny Trí
Nguyễn và Kathleen Lương, đã khơng để lại dấu ấn gì. Năm 2004, Victor Vũ làm Oan
hồn [Spirits), một phim thuộc thể loại kinh dị mang chất Á đơng. Oan hồn được báo
chí Việt Nam nhắc đến và Victor Vũ đã mang bộ phim này tham dự một số liên hoan


phim. Năm sau 2006, Victor Vũ tiếp tục sản xuất bộ phim kinh dị Thế giới huyền bí
tập 1 là Tình yêu bất biệt (Mysterious World, Episode 1: Love Never Die).
Bắt đầu năm 2005 và chính thức ra mắt năm 2007, đạo diễn Hàm Trần với bộ phim
Vượt sóng (Journey from the Fall - Hành trình từ sự sụp đổ) đã giành được sự chú ý
của cộng đồng người Việt hải ngoại. Phim được trình chiếu rộng rãi tại Hoa Kỳ và đã

đoạt được doanh thu kỷ lục cho mỗi rạp. Bộ phim nói về cảnh ngộ của những người
trong trại cải tạo ở Việt Nam sau 1975 và sau đó là những thuyền nhân. Vượt sóng có
sự tham gia của Kiều Chinh, Nguyễn Long và diễn viên, nữ ca sĩ Diễm Liên. Kinh phí
sản xuất bộ phim này cũng do cộng đồng người Việt ở Mỹ tài trợ.
Vào năm 2003, Đại hội Điện ảnh Việt Nam Quốc tế lần đầu tiên được tổ chức ở vùng
Little Saigon của Quận Cam, California, Hoa Kỳ. Sau đó Đại hội sẽ được tổ chức hai
năm một lần. Đây là đại hội điện ảnh duy nhất giành riêng cho các nhà làm phim gốc
Việt trên toàn thế giới. Ngoài những nhà làm phim Việt kiều, một số đạo diễn trong
nước như Pham Nhuệ Giang, hay Bùi Thạc Chuyên cũng đem phim tới dự.

[sửa] Điện ảnh Việt Nam đương đại
Từ giữa thập niên 1990, điện ảnh Việt Nam bắt đầu bước dần ra khỏi thời kỳ khủng
hoảng. Số lượng phim tăng lên. Ngoài những phim tiếp tục khai thác đề tài chiến tranh
như Hà Nội, mùa đông năm 1946 (1997) của Đặng Nhật Minh, Ngã ba Đồng Lộc
(1997) của Lưu Trọng Ninh, Đời cát (1999) của Thanh Vân, Ai xuôi Vạn Lý (1996)
của Lê Hoàng... các nhà làm phim đã hướng tới những đề tài đương đại: Vương Đức
với Những người thợ xẻ (1998), Nhuệ Giang với Thung lũng hoang vắng (2000), Đỗ
Minh Tuấn với Vua bãi rác (2002)...
Năm 1999, Liên hoan phim Châu Á-Thái Bình Dương được tổ chức ở Hà Nội. Điện
ảnh Việt Nam đã giành được nhiều giải quan trọng: Phim hay nhất cho Đời cát của
đạo diễn Thanh Vân, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai của Trần Văn Thủy đạt phim ngắn hay
nhất, hai diễn viên Mai Hoa và Hồng Ánh trong Đời cát đạt hai giải giành cho nữ diễn
viên chính và nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất.
Nhưng hầu hết những bộ phim này, với tư duy làm phim cũ, đã không kéo được khán
giả tới rạp, các phim làm ra tiếp tục thua lỗ. Nhà nước vẫn cấp kinh phí để sản xuất
những phim kỷ niệm các ngày lễ lớn. Những bộ phim này thường được thực hiện với
kinh phí lớn, nhưng ít được khán giả quan tâm, thậm chí các tên phim Ký ức Điện
Biên, Giải phóng Sài Gịn cịn làm khán giả tưởng nhầm là phim tài liệu. Ký ức Điện
Biên (2004) kỷ niêm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ được đầu tư 15 tỷ đồng, khi
cơng chiếu thu hút rất ít khán giả. Trong ba ngày chiếu tại rạp Đống Đa Thành phố Hồ



Chí Minh chỉ bán được 60 vé. Tại Hà Nội, ngồi hai suất chiếu phục vụ cơng ích cũng
chỉ chiếu được tám suất doanh thu, bình quân 25, 30 vé[5]. Sau đó Nhà nước có văn
bản chỉ đạo các cơ quan, doanh nghiệp tổ chức xem phim. Tuy thế, tại lễ trao giải
Cánh diều vàng 2004, với Ký ức Điện Biên Đỗ Minh Tuấn vẫn nhận giải Đạo diễn
xuất sắc nhất.

Vào cuối thập niên 1990, đầu thập niên 2000, nhiều rạp chiếu phim được nâng cấp,
trang bị lại. Trung tâm Chiếu phim Quốc gia được xây dựng mới ở Hà Nội. Một làn
sóng phim nước ngồi tràn ngập vào Việt Nam với những bộ phim ăn khách của Mỹ,
Hàn Quốc, Hồng Kông. Khán giả Việt Nam bắt đầu lấy lại thói quen tới rạp chiếu
phim. Năm 2001, đạo diễn người Úc Phillip Noyce tới Việt Nam quay bộ phim Người
Mỹ trầm lặng chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Graham Greene. Phim
có sự tham gia của hai diễn viên nổi tiếng của Hollywood là Michael Caine và
Brendan Fraser. Vai nữ chính trong phim do diễn viên Việt Nam Hải Yến đóng.
Đầu thập niên 2000, các nhà làm phim Việt Nam cũng cố gắng làm những phim thu
hút khán giả. Người đi đầu trong trào lưu làm phim thị trường là đạo diễn Lê Hoàng
với Gái nhảy (2003) của Hãng phim Giải phóng. Năm 2001, Lê Hồng nhận kịch bản
Trường hợp của Hạnh của biên kịch Ngụy Ngữ. Ban đầu ông định làm phim theo
phong cách bán tài liệu, sau đó chuyển dần sang hướng phim xã hội và lấy tên phim là
Gái nhảy. Được công chiều vào dịp Tết đầu năm 2003, Gái nhảy đã thu hút một số lớn
khán giả. Tuy gặp phải sự phê bình mạnh mẽ của báo chí và đồng nghiệp, phim vẫn
đạt kỷ lụt về doanh thu. Những năm tiếp theo, Lê Hoàng tiếp tục sản xuất những phim
ăn khách khác như Lọ lem hè phố (2004), Nữ tướng cướp (2005), Trai nhảy (2007).


Điện ảnh trở thành một thị trường với nhiều hãng phim tư nhân tham gia. Trong đó có
những hãng phim lớn mạnh như hãng Thiên Ngân và hãng Phước Sang. Năm 2004,
Thiên Ngân tung ra Những cô gái chân dài của đạo diễn Vũ Ngọc Đãng với một chiến

dịch quảng cáo rầm rộ thể hiện. Bộ phim có nhiều điều mới so với điện ảnh Việt Nam:
một trang web riêng của phim được lập, cuộc thi vẽ poster, soundtrack đuợc làm riêng
cho phim với ca sĩ nổi tiếng. Những cô gái chân dài là bộ phim nó về giới người mẫu,
các vai chính cũng do những người mẫu nổi tiếng Anh Thư, Xuân Lan, Thanh Hằng,
Ngọc Nga thể hiện. Không chỉ thành công về thương mại, Những cô gái chân dài còn
là bộ phim tư nhân đầu tiên giành được giải tại Liên hoan phim Việt Nam: giải Cánh
diều bạc năm 2004.
Những năm 2005, 2006, thị trường phim Việt Nam trở nên sôi động với nhiều bộ
phim, phần lớn của các hãng tư nhân: Khi đàn ơng có bầu (2005), 1735 km (2005),
Chiến dịch trái tim bên phải (2005), Đẻ mướn (2006), 2 trong 1 (2006), Hồn Trương
Ba, da hàng thịt (2006)... Để thu hút khán giả, các hãng phim đã mời những ca sĩ,
người mẫu nổi tiếng tham gia. Ngoài những đạo diễn Việt Kiều như Hồ Quang Minh,
Việt Linh, Nguyễn Võ Nghiêm Minh... Một số nhà làm phim trẻ Việt kiều cũng về
Việt Nam làm phim: Nguyễn Nghiêm Đặng Tuấn có 1735 km (2005), Ringo Le có
Chuyện tình Sài Gịn (2005) và gần đây là Charlie Nguyễn có Dòng máu anh hùng
(2007) với sự tham gia của Johnny Trí Nguyễn, Dustin Nguyễn, Ngơ Thanh Vân,
Nguyễn Chánh Tín.
Một số rạp chiếu hiện đại tiếp tục được xây dựng. Trong đợt chiếu phim Tết 2007, với
những bộ phim thương mại và phim hướng về nghệ thuật: Võ lâm truyền kỳ, Trai
nhảy, Đợi chuông reo rồi sẽ bắn, Áo lụa Hà Đông, điện ảnh Việt Nam dành được khán
giả trước những phim nước ngoài.



×