về nội dung kiến thức văn học dân gian trong
nhà trờng Trung học cơ sở
Th.S. Nguyễn Việt Hùng
Khoa Ngữ văn - ĐHSP Hà Nội
Căn cứ để chúng tôi đánh giá nội dung, kiến thức phần văn học dân
gian (VHDG) trong nhà trờng THCS là sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn
Trung học cơ sở (THCS), cụ thể ở đây là SGK Ngữ văn 6 tập 1, Ngữ văn 7
tập 1 và 2. SGK đóng vai trò là vật liệu trụ cột trong việc xây dựng nội dung
môn học, nó có quan hệ chặt chẽ với Chơng trình. SGK là sự cụ thể hoá
những kiến thức của Chơng trình, do đó, muốn có SGK tốt thì cần phải có
một Chơng trình tốt, hợp lí. Do những sự điều chỉnh về mục tiêu, phơng hớng của Chơng trình mà SGK hiện hành so với SGK cũ có sự thay đổi ở một
số đơn vị kiến thức cơ bản.
1. Nhận định chung
Hệ thống kiến thøc VHDG cđa SGK THCS nh sau:
+ KiÕn thøc vỊ các tác phẩm cụ thể.
+ Kiến thức bổ trợ về tác phẩm và thể loại (ở phần đọc thêm)
+ Kiến thức về thể loại (ở phần chú thích)
Có thể thấy rằng, Chơng trình và SGK vẫn nặng về giảng văn, kiÕn thøc
VHDG cung cÊp cho HS chđ u th«ng qua các bài giảng văn. Ngoài ra, HS
có thể thu nhận mét sè kiÕn thøc bỉ trỵ ë trong SGK. Nhng vì phần VHDG
không có giờ tổng kết về từng thể loại, hay giờ ôn tập nên kiến thức mang
tính lí luận về VHDG không đợc thể hiện nhiều trong SGK. Có lẽ vì mục
tiêu của chơng trình THCS chú trọng đến việc rèn luyện kĩ năng cảm thụ tác
phẩm văn học nên việc trang bị kiến thức mang tính toàn diƯn, phong phó
cha cã ®iỊu kiƯn ®Ĩ thùc hiƯn.
SGK hiƯn hành không có bài khái quát cũng nh bài tổng kết về VHDG,
các bài giới thiệu về thể loại cũng không có. Những mảng kiến thức lí luận
và văn học sử VHDG sẽ đợc cung cấp ở những cấp học tiếp theo (lớp 10
PTTH, ở Cao đẳng và Đại học với những chuyên ngành ngữ văn học). Nhng
với những ai không có điều kiện học ở các cấp học tiếp theo đó thì kiến thức
về VHDG chỉ dừng lại ở những tác phẩm ở trong SGK THCS. Vì thế nhiều
giáo viên (GV) đà đề nghị SGK nên thêm những loại bài khác để cung cấp nhiều
kiến thức hơn nữa. Nhng việc thêm hay bớt đơn vị kiến thức nào là do Héi ®ång
1
biên soạn chơng trình và SGK quyết định. Do đó, chúng tôi chỉ đánh giá phần
kiến thức VHDG đợc thể hiện trong SGK hiện hành.
Nhìn chung, phần kiến thức về thể loại VHDG trong nhà trờng THCS khá
phong phú về thể loại: những thể loại lớn, những tác phẩm tiêu biểu về cơ
bản đà đợc da vào chơng trình. Tuy chơng trình và SGK chú trọng đến việc
dạy tác phẩm (theo cụm thể loại) nhng nội dung văn học sử cũng đợc chú ý
ở một mức độ nhất định. Sự sắp xếp trình tự các thể loại (truyền thuyết,
truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cời), trình tự các tác phẩm của một
thể loại (ví dụ: truyền thuyết sắp xếp theo thời đại phản ánh của tác phẩm:
Con Rồng cháu Tiên Thánh Gióng - Sơn Tinh, Thuỷ Tinh - Sự tích Hồ G ơm) trong SGK là cách sắp xếp thông thờng và đợc nhiều ngời chấp nhận.
Cách làm này cũng tạo thuận lợi cho chúng ta khi muốn tổng kết kiến thức
về văn học sử (tiến trình VHDG Việt Nam, đặc điểm của một thể loại
VHDG), dù ở một số chỗ có xen kẽ các văn bản tác phẩm VHDG nớc
ngoài.
Chơng trình Ngữ văn THCS hiện hành có sù xt hiƯn cđa 7 thĨ lo¹i
VHDG: trun thut, trun cổ tích, truyện cời, truyện ngụ ngôn, ca dao
dân ca, tục ngữ, chèo. Lớp 10, phần VHDG có 4 thể loại ca dao, sử thi,
truyện thơ, chèo. Nh vậy, ở bậc học phổ thông, ca dao và chèo đợc đa vào
chơng trình 2 lần (theo nguyên tắc đồng tâm).
Ngoài một số tác phẩm VHDG nớc ngoài (truyện cổ tích, một số câu tục
ngữ thế giới), phần VHDG ở SGK chủ yếu lựa chọn các tác phẩm VHDG
ngời Việt. Phần đọc thêm cũng ít và cũng không đa vào phần văn học các
dân tộc thiểu số. Đây là điểm khác của SGK Ngữ văn hiện hành so với sách
cũ. Sách Văn học 6 có các tác phẩm VHDG đặc sắc của các dân tộc thiểu số:
Đi san mặt đất (thần thoại Lô Lô), Kinh và Ba Na là anh em, Nha Rúi và
Tầm Dang Điều đó cho thấy một bộ phận lớn VHDG các dân tộc anh em
đà bị bỏ quên, không đợc giới thiệu trong chơng trình và SGK Ngữ văn. Có
thể đây là quan điểm của ngời biên soạn nhng rõ ràng các dân tộc anh em
cũng có những thành tựu về VHDG rất đáng trân trọng và cần đợc giới thiệu
nh những bộ phận hợp thành chỉnh thể nền văn học Việt Nam (trong đó đặc
biệt quan trọng là VHDG Việt Nam).
2. Kiến thức về các thể loại văn học dân gian
2.1. Các thể loại truyện dân gian
Trong các thể loại truyện dân gian, chơng trình THCS có mặt 4 thể
loại: Truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện cời, truyện ngụ ngôn. Thể loại
thần thoại không đợc đa vào vì cha có sự thống nhất trong quan niệm cña
2
các nhà nghiên cứu và biên soạn SGK về thể loại này. Nh vậy, sự có mặt của
các thể loại truyện dân gian là khá đầy đủ. Số lợng tác phẩm của mỗi thể loại
có thể hình thành nên những tri thức cơ bản về từng thể loại.
a. Truyền thuyết
SGK Ngữ văn 6 tập 1 có 5 truyền thuyết : Con Rồng cháu Tiên, Thánh
Gióng, Bánh chng bánh giầy, Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Sự tích Hồ Gơm. Các
truyền thuyết khá đa dạng về đề tài, chủ đề phản ánh nh: về nguồn gốc dân
tộc, truyền thống chống ngoại xâm, ca ngợi những anh hùng sáng tạo văn
hoá, đề cao thành tựu văn minh buổi ban đầu
Trong 5 truyền thuyết thì 4 truyện về thời đại Hùng Vơng, một truyện
về thời Hậu Lê. Thời đại Hùng Vơng là thời đại mở đầu lịch sử Việt Nam,
gắn với vấn đề nguồn gốc dân tộc và công cuộc dựng nớc, giữ nớc buổi ban
đầu của dân tộc. Chủ đề của các truyền thuyết đà bao quát đợc các vấn đề
trọng đại đặt ra với cộng đồng, dân tộc lúc bấy giờ, đó là:
- Giải thích nguồn gốc giống nòi.
- Giải thích tục làm bánh chng, bánh giầy thờ cúng ông bà
- Đề cao thành tựu văn minh buổi ban đầu
- ý thức và ớc mơ về ngời anh hùng chống ngoại xâm
- Giải thích hiện tợng lũ lụt, ca ngợi chiến công dựng nớc
Qua đó, HS đợc giáo dục về truyền thống của dân tộc, ý thức suy tôn
giống nòi, cổ vũ tinh thần đoàn kết và trách nhiệm với cộng đồng. Đó cũng
là những chức năng chính, vai trò lịch sử của thể loại mà truyền thuyết cần
đạt đợc. Trong số những trun thut ®ã, cã nhiỊu trun mang tÝnh t tëng
cao: tác giả Tầm Vu đà gọi đó là những truyện đứng đầu trong kho tàng
thần thoại (5 truyện), truyền thuyết ngời Việt, tác giả Định Gia Khánh cũng
lựa chọn 4 truyện tiêu biểu T tởng nổi bật của những truyện đó là yêu nớc
thơng nòi ở trình độ sơ khai nhng đà có những nét tuyệt vời1. SGK có 3
truyện trong số đó là: Con Rồng cháu Tiên (Truyện họ Hồng Bàng), Sơn
Tinh Thuỷ Tinh, Thánh Gióng. Những tác phẩm đó đà khẳng định giá trị của
chúng trong lòng nhân dân qua bao thế hệ và đợc nhân dân sàng lọc, nâng
niu, mài rũa, đồng thời chính những tác phẩm ấy đáp ứng tâm t, nguyện
vọng, những nhu cầu trực tiếp của ngời dân.
Đứng về phơng diện đề tài, các truyền thuyết trong SGK tập trung vào
những đề tài träng t©m cđa trun thut ngêi ViƯt. Nhng xem xÐt truyền
thuyết trong mối quan hệ với lịch sử thì chúng ta thấy truyền thuyết sau thời
kì Hùng Vơng chỉ có 01 truyện. Phần truyền thuyết thời kì Bắc thuộc, thời kì
phong kiến và truyền thuyết về những anh hùng nông dân khởi nghĩa không
3
®ỵc giíi thiƯu. Trong khi ®ã, SGK ®· cã mét truyền thuyết về nguồn gốc dân
tộc, sự tôn sùng ngỡng vọng với tổ tiên (Con Rồng cháu Tiên) thì nên thay
truyện Bánh chng bánh giầy để diện lựa chọn đợc phong phú toàn diện hơn,
cũng bởi vì tác phẩm này nằm trong sự giao thoa về thể loại nên đà gây ra sự
tranh luận kéo dài giữa các nhà nghiên cứu.
Trong SGK, phần đọc thêm cũng rất hạn chế, số trang và số giờ dành
cho công việc này hầu nh không có. Cho nên, ngoài kiến thức, ngoài tác
phẩm đợc học trong chơng trình, HS ít có dịp tiếp thu những kiến thức bổ trợ
khác. So với SGK trớc đây, SGK hiện hành ít hơn 2 truyện: Mị Châu
Trọng Thuỷ và Lê Nh Hổ. Truyền thuyết đầu là trờng hợp phức tạp cả về chủ
đề, kết cấu và t tởng tác phẩm nên việc đa ra ngoài SGK THCS là hợp lí.
Truyện thứ hai ở phần đọc thêm mang tÝnh chÊt bỉ sung cho kiĨu trun vỊ
ngêi tµi cã tài kì lạ.
b. Truyện cổ tích
SGK đa vào 5 TCT, trong đó có 2 truyện của nớc ngoài: Cây bút thần
(Trung Quốc) và Ông lÃo đánh cá và con cá vàng. Tác giả SGK đà lựa chọn
mỗi truyện đại diện cho mét kiĨu trun tiªu biĨu cđa TCT:
KiĨu trun vỊ nhân vật đội lốt
Kiểu truyện dũng sĩ
Kiểu truyện nhân vật thông minh
Kiểu truyện nhân vật có tài năng kì lạ
Trong 5 truyện đó có 4 truyện là thuộc tiểu loại TCT thần kì, 1 truyện là
TCT sinh hoạt (Em bé thông minh). Xét về khía cạnh tiểu loại, SGK không
có TCT về loài vật. Số lợng tác phẩm của SGK cũ là 10, với sự có mặt đầy đủ
của các tiểu loại.
c. Truyện cời
Truyện cời có 2 tác phẩm: Treo biển và Lợn cới áo mới, trong đó mỗi
truyện thuộc một tiểu loại truyện cời là truyện hài hớc (Treo biển) và truyện
châm biếm (Lợn cới áo mới).
Truyện Treo biển đà phê phán một cách nhẹ nhành cách ứng xử của anh
chủ quán, một ngời thiếu chủ kiến trong công viƯc. TiÕng cêi mang tÝnh chÊt
mua vui nhĐ nhµng vµ nã bËt ra tõ c¶ hai phÝa: ngêi gãp ý và ngời chủ quán.
Mỗi ngời góp ý đều chân thành và có lí nhng họ chỉ chú ý đến một khía
cạnh của tấm biển nên cuối cùng thì cả tấm biển đều không còn lại một chữ
nào. Qua đó, truyện muốn răn dạy con ngời phải suy xét sự việc, hiện tợng
một cách thấu đáo, toàn vẹn. Đó là lớp ý nghĩa mang tính triết học của mỗi
truyện cời mà khi nắm đợc sẽ khiến câu chuyện trở nên sâu sắc hơn.
4
Truyện Lợn cới áo mới là truyện châm biếm, tác giả dân gian đà khéo
léo sắp xếp tình huống để hai nhân vật bộ lộ tính cách khoe khoang của
mình. Cái tính thích khoe khoang đó đợc đẩy lên mức phóng đại là trong
hoàn cảnh vội vÃ, gấp gáp, họ không lo công việc mà chỉ chú tâm đến việc
khoe khoang với ngời khác.
Bên cạnh đó, những truyện này có những điểm hạn chế nhất định. Khi
đợc hỏi, phần lớn GV cho rằng nên thay các văn bản truyện cời này bởi vì
chúng không hấp dẫn, ít gây cời. Một là, các câu chuyện này đà quá quen
thuộc với các em nên không còn gây hứng thú. Thứ hai là các tình huống
gây cời không đặc sắc, không bất ngờ: truyện Treo biển có thể đoán trớc kết
cục (tơng tự nh truyện Đẽo cày giữa đờng), tình huống đối đáp của truyện
Lợn cới áo mới sau khi giảng giải kĩ lỡng các em mới hiểu và lúc đó dù tiếng
cời có bật ra thì cũng mất đi không khí diễn xớng của thể loại trong bối
cảnh tiếp nhận của HS.
Có thể nói rằng, truyện cời vốn là thể loại VHDG rất gần gũi với ngời
lao động, mang tính chất bình dân rõ nét. Đời sống lao động vất vả và đơn
điệu khiến cho ngời nông dân có nhu cầu giải trí, vui đùa. Cho nên, tính chất
của cái cời dân dà là hết sức hồn nhiên, tơi mới, giầu không khí của đời sống
và thậm chí có phần suồng sÃ, có yếu tố tục (truyện tiếu lâm tạo đợc hứng
thú hơn cả là vì thế). Vậy mà những văn bản truyện cời đợc lựa chọn dờng
nh là sản phẩm của những nhà nho, dùng t duy suy lí để thể hiện tiếng cời:
qua việc bỏ dần các yếu tố ngôn từ trong cái biển quảng cáo Dạng truyện
này cũng nh truyện Thắp đèn, xây dựng tình huống dựa trên những luận lí,
suy luận. Cách t duy đó hình nh xa lạ với tính chất thực tiễn, hồn nhiên của
ngời nông dân Việt Nam. Hơn nữa, đối tợng của Chơng trình và SGK THCS
là các em HS độ tuổi 12-13, những tiếng cời cũng cần thể hiện đợc sự hồn
nhiên và trong trẻo của t duy, của đời sống sinh hoạt của con ngời. Cho nên,
chúng tôi nghĩ rằng tác giả SGK nên chọn lại bài (ví dụ những truyện vừa
hấp dẫn, gây cời vừa có ý nghĩa đấu tranh xà hội nh: Cứ bảo tuổi sửu có hơn
không, hay Diêm Vơng thèm ăn thịt, Đậu phụ làng cắn đậu phù chùa )
d. Truyện ngụ ngôn
Thể loại ngụ ngôn có 4 truyện đợc đa vào SGK Ngữ văn 6, trong đó có
3 tác phẩm giảng văn và một tác phẩm đọc thêm (Đeo nhạc cho mèo). Đây
là những truyện ngụ ngôn khá quen thuộc, gắn với các câu thành ngữ trong
lời ăn tiếng nói của dân gian: Đeo nhạc cho mèo, ếch ngồi đáy giếng, Thày
bói xem voi Điều này khiến cho những bài học của truyện ngụ ngôn,
những lời quy châm dễ dàng đợc HS tiếp thu và những cách vËn dơng thµnh
5
ng÷ trong cc sèng gióp cho HS cđng cè kiÕn thức về tác phẩm ngụ ngôn
đà học.
Những bài học đạo lí, bài học ứng xử trong các truyện đó cũng khá đa
dạng và sâu sắc: phê phán những kẻ nông cạn mà lại huênh hoang (ếch ngồi
đáy giếng), khuyên con ngời xem xét sự vật một cách toàn diện (Thày bói
xem voi), phê phán những ý tởng viển vông, ham sống sợ chết và không tính
đến khả năng thực tế của mình (Đeo nhạc cho mèo); các thành viên trong tập
thể tôn trọng và hợp tác với nhau (Chân, Tay, Tai Mắt Miệng). Tuy nhiên chỉ
bài học cuối cùng trong số đó là có sự gần gũi với lứa tuổi HS lớp 6 và các
em có thể vận dụng trong thùc tÕ nhiỊu cịng nh cã ý nghÜa gi¸o dơc lối
sống, cách c xử của các em. Còn những bài học khác mang tính triết học sâu
sắc, có khi vợt ra ngoài tầm nhận thức của HS. Có lẽ điều đọng lại trong các
em lại là những kiến thức ngoài thể loại: sự hấp dẫn, sinh động của thế giới
loài vật (trong Đeo nhạc cho mèo) sự hồn nhiên ngộ nghĩnh trong cuộc trò
chuyện của các bộ phận cơ thể con ngời (Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng)
2.2. Ca dao, tục ngữ, chèo
a. Ca dao
SGK Ngữ văn 7, tập 1 đà lựa chọn 4 trong số những chủ đề tiêu biểu
của ca dao ngời Việt: 17 bài và 14 bài đọc thêm:
+ Tình cảm gia đình (4 bài)
+ Tình yêu quê hơng đất nớc (4 bài)
+ Những bài ca than thân
(3 bài)
+ Những bài câu hát châm biếm (4 bài)
Trong SGK chỉ thiếu 2 chủ đề lớn là bài ca nghề nghiệp và ca dao
giao duyên. Phần ca dao giao duyên gắn với tình cảm, tình yêu nam nữ
không đợc đa vào vì không phù hợp với lứa tuổi HS THCS. Mảng ca dao này
sẽ đợc giảng dạy ở lớp 10 THPT.
SGK cị cã 45 bµi häc vµ 33 bµi ca dao đọc thêm về 5 chủ đề : thêm chủ
đề ca dao về tình bạn tình ng ời tình cảm gắn bó với công việc làm ăn
và những vật thân thuộc và mảng ca dao sau cách mạng. Tất nhiên với số lợng bài ca dao bằng gần một nửa so với SGK cũ, SGK hiện hành đà đợc
giảm tải về nội dung và thời lợng trên lớp nhng cũng vì thế mà kiến thức về
phần ca dao cũng ít hơn, đơn giản hơn. Mảng kiến thức ca dao cũng hạn chế
hơn, không giới thiệu đợc một cách đầy đủ diện mạo của kho tàng ca dao
ngời Việt.
Nhng với những chủ đề hiện có trong SGK, HS đợc cung cấp những kiến
thức cơ bản về ca dao, về những đặc trng nổi bật của nội dung và hình thøc
6
thể loại. 17 bài ca dao đợc chọn cũng khá quen thuộc, gần gũi trong tâm trí
ngời dân Việt Nam.
Về chủ đề tình cảm gia đình, SGK có chọn 4 bài, trong đó có 1 bài về
công lao cha mẹ với con cái và lòng biết ơn con cái với cha mẹ (Công cha
nh núi Thái Sơn); 1 bài về nỗi nhớ thơng của con gái với ngời mẹ; 1 bài về
nỗi nhớ thơng ông bà; 1 bài về tình anh em ruột thịt. Trong chủ đề này, các
bài ca dao đà đề cập đến những quan hệ có tính chất phổ biến trong gia đình
Việt Nam. Đó là những lời ca dao tâm tình, chứa đựng những lời nhắn nhủ
về công ơn sinh thành, về tình cảm thiêng liêng, cao đẹp của con ngời. Mỗi
bài ca dao nh là lời đối đáp, trò chuyện giữa các thế hệ trong gia đình nhằm
giáo dục truyền thống và nhằm duy trì những mối quan hệ tốt đẹp. Những
bài ca dao đó cũng có hình thức nghệ thuật giản dị, tuy cũng có sử dụng biên
pháp tu từ nhng những hình ảnh, những cảm xúc lại hết sức đời thờng, bình
dị:
Ngó lên nuộc lạt mái nhà
Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu
Chủ đề này có 4 bài trong phần đọc thêm cũng rất sâu sắc, mang đậm
tiếng nói chân thành, tình nghĩa của con ngời về tổ tiên, ông bà. Đó cũng là
các bài đà đợc học trong SGK cũ. Tuy nhiên, số lợng những bài ca dao trong
SGK cũ nhiều hơn và đa dạng hơn về nội dung cũng nh hình thức nghệ
thuật. Trong nhóm ca dao gia đình ở SGK cũ (12 bài), đề cập đến nhiều mối
quan hệ hơn (ông bà, cha mẹ, anh em, chồng vợ). Trong nhiều bài, những
dòng đầu nói về công ơn cha mẹ đối với con cái và sau đó là tình cảm của
con cái với cha mẹ (nói về thầy trò cịng nh vËy). Bè cơc Êy mang tÝnh chÊt
h« øng và cũng là một đạo lí trong thực tế đời sống: lòng kính yêu biết ơn
ông bà cha mẹ của con cháu là điều tất nhiên và nó cũng bắt nguồn từ sự yêu
thơng chăm sóc của ông bà cha mẹ dành cho con cái. SGK cũ cũng có
những bài nãi vỊ tÝnh chÊt quan hƯ anh em, rt thÞt, dòng sau đó đề cập đến
những hành động biểu hiện cụ thể của đạo lí, của quan hệ:
Anh em nh thể chân tay
Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần
Những bài ca dao nh vậy giúp HS có sự hình dung một cách đầy đủ và
cụ thể về mối quan hệ gia đình, cũng nh tình cảm, trách nhiệm của mỗi
thành viên trong gia đình với nhau. Những bài ca dao trong SGK hiện hành ít
có đợc những u điểm nh vậy. Nhu cầu giảm tải là một trong những nguyên
nhân khiến dung lợng kiến thức bị thu hẹp. Có lẽ SGK đà chọn lựa những
bài, những chủ đề gần gũi, những mối quan hệ mà tầm hiểu biết của HS
7
THCS có thể cảm nhận đợc (những bài về quan hệ, tình cảm vợ chồng ở tầm
nhận thức cao hơn).
Những bài ca dao trong SGK thờng sử dụng biện pháp so sánh: những
tình cảm, những mối quan hệ trừu tợng (công cha, nghĩa mẹ, nhớ, yêu
nhau) đợc so sánh với nh÷ng sù vËt lín lao, cơ thĨ (nói ngÊt trêi, biển
Đông, nuộc lạt, tay chân). Những biện pháp nghệ thuật đó đà đạt hiệu quả
to lớn trong việc cung cấp kiến thức và biểu hiện tình cảm của nhân vật trữ
tình trong những bài ca dao đó.
Về chủ đề tình yêu quê hơng, đất nớc: Trong SGK hiện hành, những bài
ca dao thay đổi lớn so với SGK trớc đó: số lợng bài giảm, đa vào những bài
khác (giữ lại 2 bài trớc đây: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng và bài ở
đâu năm cửa nàng ơi?). SGK có 4 bài trong đó có nhắc đến nhiều địa danh,
tên núi, tên sông, tên vùng đất với những nét đặc sắc về hình thể, cảnh trí,
lịch sử, văn hoá của từng địa danh 2. Hai bài ca dao đầu là cảnh vật Bắc Bộ,
hai bài sau là cảnh vật Trung bé. Ca dao Nam Bé chØ xuÊt hiÖn mét lần trong
phần đọc thêm. Nh vậy, dù muốn giới thiệu sự giàu có, tơi đẹp của quê hơng
đất nớc thì sự lựa chọn các bài ca dao về tình cảm quê hơng đất nớc nh vậy
cũng cha thật toàn diện. HS miền Bắc vốn xa lạ với cảnh vật của miền Nam
nên nhu cầu tìm hiểu, khám phá một vùng đất mới cũng rất lớn, mặt khác
chính bản thân HS miền Nam cũng cần có những bài ca dao về địa phơng
mình trong SGK để thể hiện tình cảm, lòng tự hào đối với con ngời và quê
hơng đất nớc 3. Trong SGK cũ có 7 bài ca dao thì có 2 bài về địa danh Nam
Bộ. Theo chúng tôi, SGK Ngữ văn 7 nên có sự lựa chọn mang tính chất toàn
diện hơn.
Mảng ca dao này, tác giả SGK cũng chọn những bài có dung lợng lớn:
Bài thứ nhất có 12 dòng (6 cặp lục bát), bài 2 và 4 cã 4 dßng. Cã lÏ ngêi viÕt
mn giíi thiƯu thật nhiều sự giàu đẹp của những miền quê Việt Nam, qua
đó giáo dục tinh thần yêu nớc, truyền thống và sự gắn bó của con ngời với
mỗi mảnh đất mà mình sinh ra và lớn lên. Đồng thời, những bài ca dao này
cũng thể hiện đợc đặc trng của ca dao là cấu trúc đối đáp của những câu hát
trữ tình giao duyên. Bởi vì, những bài ca dao về quê hơng đất nớc cũng là
một bộ phận trong mảng ca dao lớn hơn ca dao giao duyên. Đó là những
lời mở đầu, lời giới thiệu trong mỗi cuộc hát, trong mỗi cuộc gặp gỡ, cho
nên trong mỗi bài ca dao về chủ đề quê hơng đất nớc thấp thoáng bóng của
những chàng trai, cô gái. Bức tranh cảnh của quê hơng đất nớc làm nền cho
những cuộc trò chuyện, đối đáp của họ, qua đó, mỗi ngời bộc lộ niềm tự
hào, tình yêu với quê hơng đất níc.
8
Bên cạnh đó, những bài ca dao này gắn với địa danh và lịch sử. Cho
nên, trong mỗi hình ảnh, mỗi địa danh chứa đựng bề dày của lịch sử, của
truyền thống địa phơng. SGK Ngữ văn 7, tập 1 cũng đà chú thích khá đầy đủ
những địa danh, những sự kiện lịch sử trong các bài 4. Việc ghi nhớ những sự
kiện đó sẽ giúp HS hiểu các bài ca dao và có tác dụng giáo dục những truyền
thống quý báu, những nét đẹp của mỗi vùng đất mà ca dao đề cập đến.
Về chủ đề than thân: Đây là một trong những chủ đề lớn nhất của ca
dao ngời Việt, gắn liền với bản chất trữ tình của ca dao: là lời tâm tình, bộc
lộ, giÃi bày tình cảm của ngời lao động. Những bài ca dao này ngoài ý
nghĩa than thân, đồng cảm với cuộc đời đau khổ, đắng cay của ngời lao
động, những câu hát này còn có ý nghĩa phản kháng, tố cáo xà hội 5.
SGK cũ gọi đó là ca dao về: Thân phận ngêi lao ®éng nghÌo khỉ trong
x· héi cị. Trong 8 bài của SGK cũ, sách Ngữ văn 7, tập 1 chỉ giữ lại một bài
ca dao (Bài số 4. Thơng thay thân phận con tằm), đa vào hai bài mới:
+
Nớc non lận đận một mình
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay
Ai làm cho bể kia đầy
Cho ao kia cạn cho gầy cò con
+
Thân em nh trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu
Phần đọc thêm cũng chỉ có 4 bài ca dao (đà từng có trong SGK cũ). Với
một chủ đề lớn và quan trọng nh vậy thì sự có mặt của 3 bài ca dao là quá ít.
Điều này không chỉ gây khó khăn cho việc giới thiệu những nội dung tình
cảm đa dạng, sinh động của con ngời mà còn gây khó khăn cho các thao tác
phân tích, tìm hiểu (bởi vì tìm hiểu ca dao cần sử dụng phơng pháp hệ thống,
giảng theo cấu trúc của những nhóm ca dao cùng loại). Trong tình hình giáo
viên thiếu t liệu tham khảo nh hiện nay thì việc cung cấp những văn bản ca
dao đầy đủ phong phú hơn là điều cần thiết.
Về chủ đề ca dao cời cợt: SGK hiện hành giữ lại bài số 1, số 3, số 6
(Cái cò lặn lội bờ ao Số cô chẳng giầu thì nghèo. Cậu cai nón dấu lông
gà) trong tổng số 8 bài ca dao của SGK cũ. Nh SGK Ngữ văn 7 nhận xét,
mảng ca dao này thể hiện khá tập trung nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng
dân gian Việt Nam. Qua các hình ảnh ẩn dụ, tợng trng, biện pháp nói ngợc
và phóng đại những câu hát châm biếm ấy đà phơi bày các sự mâu thuẫn,
phê phán thói h tật xấu của những hạng ngời và sự việc đáng cời trong xÃ
hội 6.
9
Bài số 1 có tính chất chế giễu những hạng ngời nghiện ngập, lời biếng
trong gia đình và xà hội. Hình thức châm biếm cũng đặc sắc ở chỗ: lời giới
thiệu có tính chất giao duyên lại mang phong cách trào phúng, khiến ngời
đọc bất ngờ, thủ pháp đối lập cũng phát huy hiệu quả khi đặt nhân vật trào
phùng chú tôi nghiện ngập đó bên cạnh cô yếm đào.
Bài số 2 là hình thức nhại lời của thày bói phán với ngời đi xem bói.
Tác giả dân gian không cần bình luận gì nhng tiếng cời bộc lộ ra từ những
mâu thuẫn trong cách nói của thày bói với hiện thực khách quan: tất cả lời
thày bói đều có tính chất nớc đôi là nói dựa. Hình thức trào lộng này hết sức
thú vị và bất ngờ, theo thủ pháp gậy ông đập lng ông.
Bài 3 phê phán những hủ tục ma chay trong xà hội cũ, tuy rằng tàn tích
này vẫn còn nhng không phải HS nào cũng có những hiểu biết về những vấn
đề đó ®Ĩ hiĨu néi dung Èn dơ cđa bµi ca dao. Bài ca dao sử dụng biện pháp
ẩn dụ, mỗi loài vËt biĨu trng cho mét lo¹i ngêi trong x· héi, dïng thÕ giíi
con vËt ®Ĩ nãi thÕ giíi con ngêi. Yêu cầu tìm sự liên tởng này cũng là vấn đề
hấp dẫn nhng khó khăn với HS. Còn bài số 4 là một định nghĩa về cậu cai,
là nhân vật của chế độ cũ thờng xuyên sách nhiễu dân chúng
b. Thể loại tục ngữ
Tục ngữ có hình thức ngắn gọn nhng chøa ®ùng néi dung to lín, lêi Ýt,
ý nhiỊu. Các vế của câu đối xứng nhau về cả hình thức và nội dung và sử dụng
vần lng là chủ yếu. Tục ngữ sử dụng cách nói bóng bảy, giàu hình ảnh.
Tục ngữ đợc giới thiệu ở SGK Ngữ văn 7 tập 2, với 2 chủ đề:
- Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất (8 câu + 7 câu đọc thêm)
- Tục ngữ về con ngời và xà hội (9 câu + 11 câu đọc thêm)
Chủ đề thứ nhất có thể chia làm hai nhóm: Tục ngữ về thiên nhiên đúc
kết kinh nghiệm quan sát và đoán định thời tiết; những câu tục ngữ về lao
động sản xuất (mỗi phần 4 câu), đúc kết kinh nghiệm trồng trọt và chăn nuôi
.Những câu tục ngữ này thể hiện những kinh nghiệm về các nhìn nhận, quan
sát thiên nhiên của nhân dân về thiên nhiên, lao động sản xuất. Trong mảng
nội dung này, tục ngữ đúc kiết kinh nghiệm quan sát về thiên nhiên mang
tính chất thời điểm và ®Þa ®iĨm cơ thĨ. Do ®ã, sù vËn dơng kinh nghiệm của
tục ngữ vào đời sống cũng phải chú ý đến sự phù hợp đó. Chẳng hạn, câu
Đêm tháng năm cha nằm đà sáng, ngày tháng mời cha cời đà tối là kinh
nghiệm về thời tiết của miền Bắc cho nên việc áp dụng kinh nghiệm này ở
các miền khác có lẽ không phù hợp. Còn câu 2, 3, 4 tổng kết những hiện tợng mang tính chất quy luật.
10
Nhóm thứ hai là những câu về lao động sản xuất. Những câu tục ngữ đó
là kinh nghiệm của ông cha đúc rút trong quá trình lao động sản xuất, là
những kinh nghiệm mang cách đánh giá chủ quan của con ngời. Qua đó,
chúng ta thấy đợc cách t duy, quan niệm của ngời nông dân Việt Nam: coi trọng
những thành quả lao động, đề cao sức lao động, sự cần cù của con ngời.
Chủ đề thứ hai: tục ngữ về con ngời và xà hội là những lời nhận xét,
khuyên nhủ con ngời cách ứng xử, cách sống trong sinh hoạt hằng ngày
(Đói cho sạch, rách cho thơm, Học ăn học nói học gói học mở, Ăn quả nhớ
kẻ trồng cây). Những câu tục ngữ thuộc mảng này luôn chú ý tôn vinh giá
trị con ngời Một mặt ngời hơn mời mặt của; đề cao vai trò, giá trị của ngời
thày Không thày đố mày làm nên Tuy nhiên, đây là những kinh nghiệm,
quan niệm có tính phiến diện, do đó sự nhận thức và vận dụng cũng cần hết
sức linh hoạt. Có những câu tởng chừng mâu thuẫn, ®èi lËp víi nhau nhng
thùc tÕ chóng bỉ sung cho nhau để tạo nên cách nhìn toàn diện và cách ứng
xử hợp tình, hợp lí hơn. Đằng sau những lời khuyên nhủ, răn dạy đó chứa
đựng tình cảm, sự quan tâm của ngời đi trớc dành cho thế hệ sau. Điều này
thể hiện bản chất thẩm mĩ của thể loại tục ngữ: vừa mang tính lí trí, vừa thể
hiện tình cảm của con ngời. Đó cũng là nét đẹp trong truyền thống văn hoá của
ngời Việt Nam, thể hiện trong cách ứng xử thấu tình, đạt lí.
c. Thể loại chèo
Lần đầu tiên, kịch bản chèo đợc đa vào chơng trình và SGK THCS tuy
rằng số bài còn khiêm tốn: chỉ học một đoạn trích của vở chèo Quan Âm Thị
Kính. Đó cũng là sự thay đổi lớn của SGK trong nỗ lực muốn giới thiệu và
bảo tồn vốn nghệ thuật trun thèng. Thùc tÕ cho thÊy, trỴ em cđa ngay
trong những vùng có hát chèo truyền thống nh Thái Bình, Hng Yên, Nam
Định cũng đang dần xa lạ với loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian này.
Các em cha yêu thích chủ yếu bởi vì không hiểu loại hình nghệ thuật này,
cho nên việc giới thiệu và bớc đầu giảng giải chèo cho HS là cần thiết.
Phần bài học cung cấp cho HS kiến thức về một số đặc điểm của sân
khấu chèo truyền thống 7. SGK tóm tắt nội dung vở chèo Quan Âm Thị Kính.
Đoạn trích Nỗi oan hại chồng là một trong những trích đoạn đặc sắc nhất
của vở chèo. Qua đó, SGK cung cấp HS những hiểu biết về nội dung, ý
nghĩa và một số đặc điểm nghệ thuật (mâu thuẫn kịch, ngôn ngữ, hành động
nhân vật) của đoạn trích và tác phẩm.
Phần chú thích giới thiệu về thể loại có dung lợng lớn nhất so với các
thể loại trớc đó. SGK cung cấp những kiến thức hết sức cơ bản về thể loại
này: giới thiệu hệ thống nhân vật chèo với những đặc trng riêng biệt và mang
11
tính biểu trng, ớc lệ và cách điệu; nêu khái quát nội dung và ý nghĩa xà hội
của thể loại Yêu cầu đọc hiểu trong SGK cũng rất chi tiết, cụ thể với 8 câu
hỏi.
Tóm lại, với sự có mặt của một số thể loại VHDG cùng với các tác
phẩm tiêu biểu, phần kiến thức VHDG trong nhà trờng THCS khá phong phú
và đa dạng. Tuy nhiên, kiến thức thể hiện qua SGK chủ yếu dới dạng kiến
thức văn học, cảm thụ về giá trị nội dung và nghệ thuật, vẻ đẹp t tởng
thẩm mĩ của tác phẩm VHDG mà cha chú ý đến đặc trng của từng thể loại
trong mối quan hệ với những sinh hoạt thực hành và hình thức diễn xớng.
Đồng thời, việc thể hiện những đơn vị kiến thức đó nh thế nào phụ thuộc
nhiều vào phơng pháp giảng dạy của giáo viên trong điều kiện cụ thể của
từng nhà trờng.
Chú thích
1. Tầm Vu (1967): T tëng chđ u cđa ngêi ViƯt thêi cỉ qua những truyện
đứng đầu trong thần thoại và truyền thuyết. Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn
học. NXB Thành phố Hồ Chí Minh 1999, trang 107
2. Ngữ văn 7 Tập 1 (2004- In lần thứ 2). NXB Giáo dục. H, trang 40
3. Ngữ văn 7 Tập 1 Sđd. Trang 40
4. Ngữ văn 7 Tập 1 Sđd. Trang 38-39
5. Ngữ văn 7 Tập 1 Sđd. Trang 49
6. Ngữ văn 7 Tập 1 Sđd. Trang 53
7. Ngữ văn 7 Tập 2 (2004- In lần thứ 2). NXB Giáo dục. H, trang 111
12