Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

bai thuyet trinh van hoc 09-10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.41 KB, 5 trang )

BÀI DỰ THI THUYẾT TRÌNH
VĂN HỌC
ĐỀ TÀI :
MỘT VÀI CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ “ BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ”
CỦA NGUYỄN KHUYẾN

Trong chương trình ngữ văn lớp 7 học kì I, chúng em được học nhiều tác phẩm văn học
của nhiều nhà thơ nổi tiếng trong nước và nước ngoài thuộc thời kì trung đại mà phần lớn
trong số đó được viết theo thể thơ Đường như Đỗ Phủ, Lí Bạch, Hạ Tri Chương …
( Trung Quốc ) Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến …( Việt Nam
) . Trong các tác phẩm ấy em tâm đắc nhất là bài thơ “ Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn
Khuyến- một nhà thơ được mệnh danh là “ Nhà thơ làng cảnh Việt Nam”. Bài thơ thể
hiện một quan niệm đẹp và đáng quý về tình bạn . Sau đây là những cảm nhận của em về
bài thơ .
Nguyễn Khuyến ( 1835-1909 ) người làng Yên Đỗ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam . Nhà
nghèo, học giỏi, đỗ đầu 3 kì thi (Hương, Hội, Đình ) được người đời kính trọng gọi là Tam
nguyên Yên Đỗ . Gần 10 năm làm quan triều Nguyễn, năm 1884, nước ta bị thực dân Pháp
đô hộ, ông cáo quan về quê sống cuộc đời thanh bạch.
Ông đã để lại trên 800 bài thơ cả chữ Hán, chữ Nôm với nhiều đề tài nhưng những bài
thơ Nôm viết về mùa thu và tình bạn là hay nhất . Trong đó có bài thơ “ Bạn đến chơi
nhà” . Đây là một bài thơ Nôm đặc sắc nói lên một tình bạn đẹp .Em xin đọc lại bài thơ :
Đã bấy lâu nay Bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu, nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng, rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú nhưng bố cục rất đặc biệt và từ ngữ hết
sức giản dị, mộc mạc và rất Việt Nam .Câu nhập đề rất tự nhiên, như một lời nói mộc mạc


của nhà thơ sau bao tháng ngày mới gặp lại bạn . Lời chào vồn vã, biểu lộ niềm vui mừng
khôn xiết :
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Chữ “ bác” gợi lên thái độ niềm nở, thân mật và kính trọng, một cách xưng hô thân tình .
đằng sau câu chữ lời chào hỏi có thể là những giọt lệ ứa ra ở khoé mắt đôi bạn già .
“Đã bấy lâu nay” là bao năm tháng ? Tính thời gian không được xác định cụ thể, nhưng
chắc chắn là đã khá lâu rồi, vì sức yếu tuổi già… nên xiết bao đợi chờ mong nhớ . Bộ phận
trạng ngữ chỉ thời gian được đặt lên hàng đầu câu thơ diễn tả sự xa cách nhớ mong, làm
nổi bật ý thơ, niềm xúc động và niềm vui sướng vô hạn khi gặp lại bạn . Trong bài thơ “
Khóc Dương Khuê”, có một chi tiết giúp ta cảm nhận được một phần nào cái hay, cái tình
ẩn chứa trong câu nhập đề :
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần
Cầm tay hỏi hết xa gần
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can
Chữ “ bác” được nói đến trong bài thơ “ Bạn đến chơi nhà” là bạn chí thân, ở xa, lâu
ngày mới gặp nên Nguyễn Khuyến rất mừng và cảm động.
Sáu câu thơ tiếp theo toát lên một nụ cười hóm hỉnh . Một ý thơ bao trùm : đã lâu ngày
bạn mới đến chơi, biết lấy gì đãi bạn đây ? . Một tình thế khá éo le : Trẻ thời đi vắng, chợ
thời xa . chữ thời ( Thì ) là một hư từ, rất ít khi xuất hiện trong thơ vì dễ rơi vào sự tầm
thường nhạt nhẽo . Nhưng dưới ngòi bút Tam nguyênYên Đổ, nó trở nên thanh thoát, tự
nhiên vô cùng, chứng tỏ ông có một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, điêu luyện .
Nguyễn Khuyến khi cáo quan, lui về sống bình dị ở chốn vườn Bùi quê cũ, với “ Năm
gian nhà cỏ thấp lè tè”, với một cơ ngơi : Chín sào tư thổ là nơi ở
Một bộ tàn thư ấy nghiệp nhà
( Ngày xuân dạy các con –I )
Phần thực và luận, tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ, nhất quán ở một cách
nói, một lối biểu cảm : Có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân ! Có ao và cá,có
vườn và gà, có cà và cải, có mướp và bầu . Bức tranh vườn Bùi hiện lên sống động, vui
tươi . Một nếp sống thôn dã chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu . Một cuộc đời thanh bạch,

ấm áp cây đời và tình người rất đáng tự hào . Chúng ta như cảm thấy Nguyễn Khuyến như
đang dắt tay bạn ra thăm vườn cây ao cá, tận hưởng thú vui dân dã của một ông quan về
quê ở ẩn . Phép đối hợp cách, chặt chẽ, cảnh với cảnh, trên dưới, trắc bằng phân minh, tạo
nên một giọng thơ nhẹ nhàng, vui tươi, lời thơ cân xứng, hoà hợp như cảnh vườn tược xinh
xắn,hữu tình :
Ao sâu nước cả khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Các tính từ ( sâu, cả , rộng, thưa ) , các trạng từ chỉ tình thái ( khôn, khó ), các trạng ngữ
chỉ sự tiếp diễn của hành động ( Chửa, mới, vừa, đương ) hô ứng, bổ trợ cho nhau, được sử
dụng thần tình, khéo léo, dung dị và tự nhiên . Những từ ngữ ấy được đặt bên cạnh những
chi tiết miêu tả chấm phá đã làm hiện lên khung cảnh vườn tược , cây cối đang đơm hoa
kết trái, ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, gần gũi và mến yêu :
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Dân gian có câu “ Khách đến nhà không gà cũng vịt” . Qua các câu thơ trên ta thấy
Nguyễn Khuyến đang giải bày với bạn : Trong nhà, ngoài vườn có bao nhiêu thứ, nhưng
thực ra chẳng có gì để thết bạn, đãi bạn vì tất cả đều chưa đến lúc, đến thời ! Câu thơ thứ
bảy tiếp nối và mở rộng ý thơ trên, khẳng định luôn cái “ không có” :
Đầu trò tiếp khách trầu không có
Phải chăng cái nghèo của cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã đến mức ấy ư ? “ Vẻ chi một mớ
trầu cay” ( Ca dao ) . Nhà thơ đã thậm xưng hoá cái nghèo, thi vị hoá cái nghèo . Một ông
quan to triều Nguyễn về quê ở ẩn, với một một cơ ngơi không nỗi nào thì không thể “
miếng trầu là đầu câu chuyện” để tiếp bạn cũng “ không có” . Đây là một lời thơ hóm
hỉnh, pha chút tự trào vui vui, để bày tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao
của một nhà nho khước từ lương bổng của thực dân Pháp, lui về sống bình dị giữa xóm
làng quê hương
Câu kết là một sự “ bùng nổ” về ý và tình . Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao, cỗ đầy, cao
lương mĩ vị, cơm gà, cá gỏi, mà chỉ có một tấm lòng, một tình bạn chân thành, thắm thiết :
Bác đến chơi đây, ta với ta
Lần thứ hai chữ “ bác” xuất hiện trong bài thơ, thể hiện một sự trìu mến, kính trọng . Bác

đã không quản tuổi già, sức yếu, không quản dướng sá xa xôi đến thăm tôi, còn gì quý hoá
bằng ! Tình bạn là trên hết .Không một thứ vật chất nào có thể thay thế được tình bạn tri
âm, tri kỉ . Mọi thứ đều không có nhưng lại có tình bằng hữu thân thiết . Chữ “ ta” là đại từ
nhân xưng trong bài thơ này là “ tôi”, là “ bác”, là hai chúng ta, không có gì cách bức nữa ,
Cụm từ “ Ta với ta” biểu lộ một niềm vui trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng trong tâm hồn ,
toả rộng trong không gian và thời gian . Với cụm từ “ Ta với ta” trong câu thơ “ Một
mảnh tình riêng ta với ta” của Bà Huyện Thanh Quan là nỗi buồn cô đơn của khách li
hương khi đứng trên đỉnh đèo Ngang lúc hoàng hôn, còn ở đây, trong câu thơ của Nguyễn
Khuyến lại ấm áp tình đời và sâu nặng tình bạn . Qua đó, ta cảm nhận được phần nào tính
cá thể hoá của ngôn ngữ và sắc điệu trữ tình tạo nên giá trị văn chương trong những bài thơ
cổ .
Có đọc qua một số bài thơ của Nguyễn Khuyến viết về tình bạn, ta mới thấy hết cái hay,
cái ý vị của bài thơ “ Bạn đến chơi nhà” . Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú,
niêm luật, đối chặt chẽ, hợp cách . Ngôn ngữ thuần nôm, không có một từ Hán- Việt nào,
đọc lên nghe thanh thoát, nhẹ nhàng, tự nhiên . Ta có cảm giác như Nguyễn Khuyến xuất
khẩu thành chương . Đặc biệt bố cục bài thơ không theo quy cách : đề- thực- luận- kết
truyền thống mà có bố cục :1-6-1 . Câu đầu nói lên niềm vui khi bạn đến, 6 câu giữa hóm
hỉnh, cười vui không có gì để tiếp bạn, câu cuối chỉ có tình bạn đẹp mà thôi .
Bài thơ nôm khó quên này cho thấy một tâm hồn đẹp, một tình bằng hữu thâm giao, chân
tình, một tấm lòng hồn hậu, đẹp đẽ . Tình bạn của Nguyễn Khuyến trong sáng, thanh bạch
đối lập với nhân tình thế thái “ Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử-Hết cơm, hết ruợu, hết ông
tôi” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã kịch liệt lên án . Hai nhà thơ sống cách nhau mấy trăm
năm mà có chung một tâm hồn lớn : nhân hậu, thuỷ chung, thanh bạch . Tâm hồn đó, tấm
lòng đó của tiền nhân đối với ngày nay vẫn xứng đáng là tấm gương sáng để mọi người
soi chung . Nguyễn Khuyến không những là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam mà còn là
nhà thơ của tình bạn trong sáng, thuỷ chung và cao đẹp rất đáng yêu, đáng kính .
MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ BÀI THUYẾT TRÌNH
* Thơ Đường luật :
-Là luật thơ do các thi sĩ đời Đường ( 618-907 ) Trung Hoa sáng tạo nên, là một trong
những thành tựu kì diệu của nền văn minh nhân loại . Thơ Đường hiện còn khoảng 48000

bài của trên 2300 thi sĩ . Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị …là những thi sĩ thiên tài lừng danh
thiên hạ .Thơ Đường du nhập vào nước ta rất sớm . Phần lớn các bài thơ chữ Hán, thơ chữ
Nôm của ông cha ta để lại đều sáng tác theo Đường luật . Bác Hồ có nhiều bài thơ chữ
Hán, chữ quốc ngữ được viết theo luật Đường .
-Phân loại : Có hai loại ( căn cứ vào số câu ) : Thơ bát cú ( Mỗi bài có 8 câu ), thơ tứ tuyệt
(Mỗi bài có 4 câu ) . Bạn đến chơi nhà , Qua đèo Ngang…là thơ bát cú . Tĩnh dạ tứ,
cảnh khuya, Bánh trôi nước là thơ tứ tuyệt
Căn cứ vào số chữ trong mỗi câu, người ta chia thơ đường luật thành hai kiểu : Ngũ ngôn
( Mỗi câu 5 chữ ) và thất ngôn ( Mỗi câu 7 chữ ) Tĩnh dạ tứ của lí Bạch là thơ ngũ ngôn,
Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương là thơ thất ngôn .
Luật thơ Đường có 5 tiêu chí : Vần, đối, luật, niêm, bố cục :
-Vần : Bài thơ thất ngôn bát cú có 5 vần chân: Chữ cuối câu 1,câu2,câu 4, câu 6 và câu 8
Cùng một vần
- Phép đối : Bình đối : Hai câu đối nhau gọi là bình đối ( hai câu đi sóng đôi nhau thường
là câu 3-4, câu 5-6 ) . Tiểu đối : hai vế trong một câu đối nhau . Đối có đối thanh, đối ý, đối
chữ
- Luật : Luật thơ là cách sắp đặt các tiếng bằng, tiếng trắc trong một bài thơ . Theo thông
lệ thì trong thơ thất ngôn bát cú Đường luật các tiếng 1,3,5 không kể còn các tiếng 2,4,6
phải rõ ràng : Nhất, tam, ngũ bất luận- Nhị, tứ, lục phân minh
Luật bằng và luật trắc : Căn cứ vào chữ thứ hai của câu thơ thứ nhất . Nếu viết theo vần
bằng thì bài thơ làm theo luật bằng, nếu viết theo vần trắc thì bài thơ làm theo luật trắc .
Bài thơ Bạn đến chơi nhà được làm theo luật trắc : Đã bấy lâu nay bác tới nhà ( Vần trắc )
-Niêm : Niêm nghĩa là dính . Đó là sự liên hệ về âm luật của hai câu thơ trong bài thơ .Hai
câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ hai của hai câu cùng theo một luật ( Hoặc cùng
bằng, hoặc cùng trắc )
Những cặp câu niêm với nhau là : Câu 1 với câu 8, câu 2 với câu 7, câu 3 với câu 6, câu
4 với câu 5
Bố cục : Đề : 2 câu đầu , thực : câu 3-4, luận : câu 5-6 , kết : câu 7-8
* Các bài thơ thu tiêu biểu của Nguyễn Khuyến : Thu ẩm ( Uống rượu mùa thu ), Thu
vịnh ( Vịnh mùa thu ), Thu điếu ( Câu cá mùa thu ) :

Thu điếu :
Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Một số bài thơ viết về tình bạn của Nguyễn Khuyến ; Khóc Dương Khuê có câu : :
Bác dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta
Hay bài Lụt hỏi thăm bạn : Ai lên thăm hỏi bác Châu Cầu
Lụt lội năm nay bác ở đâu
Châu Cầu và Dương Khuê là hai bạn đồng khoa của Nguyễn Khuyến
Nội dung bài thuyết trình :
Bài thơ mở đầu là tiếng chào, tiếng reo vui của chủ nhà khi bạn ( Bạn chứ không phải là
khách ) đến chơi . Ta có cảm giác như chủ nhà dùng cách nói xuề xoà, thân mật ôm chầm
lấy bạn hơn là những lời chào hỏi xã giao thông thường .Cách gọi bác vừa thân mật, vừa
trân trọng . Nhà thơ cũng đã nhiều lần dùng cách nói này với bạn : Bác già tôi cũng già rồi-
Biết thôi thế, thì thôi mới là - Muốn đi lại tuổi già thêm nhác- Trước ba năm gặp bác một
lần … ( Khóc Dương Khuê )
6 câu thơ tiếp theo tác giả liệt kê hàng loạt cái không có hoặc có nhưng chỉ mới ở dạng
tiềm ẩn chưa thể sử dụng được . Một mặt muốn bày tỏ thành ý là lâu ngày bạn đến chơi
muốn tiếp đãi bạn thật chu đáo nhưng ngặt một nỗi là bạn đến không đúng lúc nên chẳng
có thứ gì để thết đãi bạn kể cả những thứ cây nhà lá vườn ( Thành ngữ quen thuộc ) . Mặt
khác nhà thơ muốn nói quá lên ( cường điệu ) cho vui . Lời thơ là lời đùa vui, một chút
cường điệu duyên dáng trước bữa cơm không được thịnh soạn như ý, là lời tự khiêm để
bộc bạch tấm lòng thành với bạn
Câu cuối là cao trào lấy cái không có để nói tới một cái có đó là tấm lòng , Ta với ta hiểu

nhau, quý nhau , bài thơ nói chẳng có gì nhưng tấm lòng của nhà thơ với bạn là rất rõ, rất
sẳn .
Lời thơ mộc mạc , giản dị không hề có một từ Hán- Việt nào không những làm mất đi giá
trị thanh tao của một bài thơ Đường luật mà trái lại thể hiện được cái tình cảm chân thành
của nhà thơ với bạn


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×