Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

luận văn giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.26 KB, 111 trang )








LUẬN VĂN:

Giải pháp tài chính nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp xây dựng công trình giao thông







mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việc Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mở
ra một trang sử mới trong phát triển kinh tế xã - hội của đất nước. WTO mở ra nhiều cơ
hội mới để cả nền kinh tế nước ta cũng như mỗi doanh nghiệp thu hút thêm sức mạnh để
tăng năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững. Trong xu hướng tích cực chủ
động hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp xây dựng
công trình giao thông nói riêng cần phải đón đầu nắm bắt những cơ hội và hạn chế, khắc
phục các tác động tiêu cực - coi đó như là những thách thức cần phải vượt qua. Vấn đề
cấp bách đặt ra cho các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông (XDCTGT) Việt
Nam hiện nay là làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp doanh nghiệp tồn tại


và phát triển bền vững trong điều kiện thị trường có sự tham gia của các tập đoàn quốc tế
đổ bộ vào Việt Nam, thời hậu WTO.
Trên cả thị trường trong nước và quốc tế, năng lực cạnh tranh hiện nay của hầu
hết các doanh nghiệp XDCTGT Việt Nam được đánh giá là còn thấp. Nguyên nhân chính
dẫn đến tình trạng đó là do năng lực tài chính của các doanh nghiệp XDCTGT còn rất
khiêm tốn, đã hạn chế các doanh nghiệp trong việc tập trung vốn đầu tư, nghiên cứu thị
trường và lựa chọn thị trường mục tiêu, xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp, nâng cao năng lực quản lý và điều hành, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới,
đổi mới công nghệ, sử dụng nhân lực và các nhu cầu phát triển khác của doanh nghiệp.
Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp XDCTGT là một tất yếu khách
quan trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nếu không làm được điều này,
doanh nghiệp không chỉ thất bại trên "sân khách" mà còn gánh chịu những hậu quả tương
tự trên "sân nhà".
Xuất phát từ thực tế trên, việc tìm giải pháp tài chính để nâng cao năng lực cạnh
tranh cho các doanh nghiệp x XDCTGT Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay
là yêu cầu rất thiết thực và cấp bách. Đó chính là lý do tác giả nghiên cứu đề tài: "Giải pháp

tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình
giao thông".
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu khả năng cạnh tranh, các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp và vai trò của tài chính trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp XDCTGT. Phân tích các đặc điểm của doanh nghiệp XDCTGT và
đặc điểm của sản phẩm XDCTGT ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
XDCTGT.
- Đánh giá thực trạng tình hình tài chính, thực trạng về năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp XDCTGT trong hoạt động kinh doanh từ đó đề xuất các giải pháp tài
chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT trong điều
kiện hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Là những vấn đề lý luận và thực tiễn về
năng lực cạnh tranh và các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp XDCTGT.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Năng lực cạnh tranh và việc sử dụng các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT là vấn đề rất rộng lớn. Trong khuôn khổ
của một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu thực tế ở các doanh
nghiệp XDCTGT Nhà nước trong lĩnh vực cầu, đường bộ.
Đánh giá khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT, ngoài việc đánh
giá chung, luận văn tiến hành khảo sát, phân tích số liệu ở một số doanh nghiệp cụ thể từ
năm 2004 đến nay - đây cũng là thời kỳ mà khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp được
đặt ra bức thiết nhất.
4. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Hiện nay, sự cạnh tranh trên thị trường của các thành phần kinh tế ngày càng gay
gắt và khốc liệt. Vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam nói
chung và cho các doanh nghiệp XDCTGT nói riêng là một nội dung cần được quan tâm.
Vấn đề này đã và đang trở thành vấn đề có tính thời sự được Chính phủ, cũng như các nhà
quản lý doanh nghiệp quan tâm. Do vậy những nghiên cứu của luận văn góp phần làm
sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh, nhân tố ảnh hưởng, các
tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh và vai trò của tài chính đối với năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp XDCTGT. Đồng thời, về thực tiễn luận văn đã đánh giá thực trạng
và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng cầu đường bộ - Bộ Giao thông
Vận tải (GTVT) trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, luận văn đề xuất một số giải pháp tài
chính cụ thể nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT - đây là
vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp trong tình hình hiện nay.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Doanh nghiệp XDCTGT và vai trò của tài chính đối với năng lực

cạnh tranh của các doanh nghiệp XDCTGT.
Chương 2: Thực trạng tài chính và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
XDCTGT.
Chương 3: Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp XDCTGT.

Chương 1
Doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông và
vai trò của tài chính đối với năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công
trình giao thông

1.1. doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông và hoạt động của các
doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông trong nền kinh tế thị trường ở nước ta

Doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp XDCTGT nói riêng là một hệ thống
phức tạp và đa dạng cả về số lượng lao động, cả về chuyên môn hay kết quả sản xuất, lẫn
công nghệ sử dụng.
Sự tiến triển của thị trường, các hình thức cạnh tranh mới, các công nghệ sản
xuất mới xuất hiện thúc đẩy doanh nghiệp phải tự thích ứng, phải trở nên mềm dẻo hơn.
Dưới áp lực của nhiều ràng buộc cả từ bên ngoài (Nhà nước, nhà cung cấp, khách hàng,
các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp khác ) lẫn từ bên trong, doanh nghiệp phải quyết
đoán để có thể tồn tại và phát triển.
1.1.1. Doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông và các mối quan hệ
trong kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Trừ các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hoạt động công ích, doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường nói chung có thể được hiểu là một tổ chức kinh doanh nhằm mục
đích kiếm lời, được luật pháp thừa nhận (pháp nhân hoặc thể nhân), được phép kinh
doanh trên một số lĩnh vực nhất định, có mức vốn không thấp hơn mức vốn pháp định do
Nhà nước quy định cho từng loại hình doanh nghiệp có từ một chủ sở hữu trở lên, và chủ
sở hữu phải đảm bảo trước pháp luật bằng toàn bộ tài sản của mình (trách nhiệm vô hạn

hoặc trách nhiệm hữu hạn), có tên gọi riêng và hoạt động với doanh nghiệp riêng.

Doanh nghip XDCTGT l mt dng doanh nghip m chc nng chớnh ca nú
l sn xut cỏc sn phm xõy lp, xõy dng cỏc cụng trỡnh giao thụng phc v giao lu
kinh t trong xó hi.
Quỏ trỡnh hot ng sn xut kinh doanh ca cỏc doanh nghip XDCTGT luụn din
ra trong mt mụi trng kinh t - xó hi vi nhng mi quan h qua li tỏc ng ln nhau
ca nhiu ch th kinh t - xó hi khỏc nhau.
Riờng trong phm vi cỏc quan h kinh t cú th phõn thnh hai nhúm quan h:
Nhúm cỏc quan h kinh t bờn trong doanh nghip v nhúm cỏc quan h kinh t bờn
ngoi doanh nghip.
Nhúm cỏc mi quan h kinh t bờn ngoi doanh nghip gm: Cỏc mi quan h
vi ngõn sỏch nh nc, vi cp trờn, vi ch u t, cỏc t chc t vn xõy dng, cỏc t
chc cung ng vt t thit b, cỏc t chc tớn dng v vi th trng trong mụi trng
kinh doanh ca doanh nghip XDCTGT.
Doanh nghiệp
XD giao thông
Môi
sinh thái
tr

ng
Các chủ đầu t
Các tổ chức
cung cờp vật t
máy móc
xây dựng
Nhà n ớ c
Những ng ời
lao động

XD CTGT
Các đối thủ
cạnh tranh
Các tổ chức
cung cấp tiền
và vốn cho
xây dựng
Các cơ quan
t vờn,thiết kế
dịch vụ
xây dựng
Môi
tr

ng
Môi
tr

ng
Môi
tr

ng
công
nghệ
y tế
xã hội

Hỡnh 1.1: Mi quan h v mụi trng kinh doanh ca doanh nghip XDCTGT


Doanh nghip
XDCTGT
Cỏc ch

u t
Cỏc t chc
cung
ng vt
t mỏy múc
xõy dng
Cỏc c quan

t v
n, thit k
dch v
xõy dng

Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn, thiết kế, dịch
vụ diễn ra chủ yếu thông qua đấu thầu, ký kết hợp đồng, thanh toán và bàn giao công
trình đã hoàn thành.
Mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các tổ chức cung cấp vật tư, thiết bị, máy móc
xây dựng là quan hệ mua bán tại cửa hàng hay theo bản hợp đồng cung cấp.
Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước là những quan hệ về cấp phát vốn, các
khoản thuế, lệ phí. Những quan hệ này được giới hạn trong khuôn khổ do luật định.
Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các nhà đầu tư cho vay, với bạn hàng, với
khách hàng phát sinh khi doanh nghiệp tiến hành các nghiệp vụ huy động vốn đầu tư qua
liên doanh, qua phát hành cổ phiếu, qua vay tín dụng và ngược lại cũng liên doanh, đầu tư
cho vay vốn với các doanh nghiệp khác Các quan hệ kinh tế này luôn bị chi phối bởi các
quy luật kinh tế: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sự điều chỉnh của
pháp luật của Nhà nước.

Xét cả về lý luận lẫn thực tiễn, trong cơ chế kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế
này của doanh nghiệp hết sức quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu coi nhẹ, không nắm bắt và thiếu hiểu biết về nó thì cạnh tranh và hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể đạt tới đỉnh cao.
Nhóm các quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp: Đó là những mối quan
hệ về sản xuất - kỹ thuật - phân phối - tài chính và quan hệ hạch toán kinh tế giữa doanh
nghiệp với các bộ phận trong doanh nghiệp, giữa các bộ phận với nhau và giữa doanh
nghiệp, các bộ phận với người lao động nẩy sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.1.2. Nhiệm vụ của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông trong
nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp XDCTGT có các nhiệm vụ chung
sau đây:

- Hoạt động sản xuất kinh doanh xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường
GTVT về xây dựng các tuyến đường, các cây cầu, nhà ga, bến cảng trực tiếp hay gián
tiếp phục vụ cho quá trình vận chuyển hàng hóa, hành khách, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu
vận chuyển không ngừng tăng lên của nền kinh tế và nhu cầu đi lại của nhân dân.
- Thực hiện đầy đủ các cam kết với khách hàng về sản phẩm, dịch vụ. Giải quyết
thỏa đáng các quan hệ lợi ích với các chủ thể kinh doanh theo nguyên tắc bình đẳng cùng
có lợi.
- Chăm lo đời sống của người lao động trong doanh nghiệp.
- Bảo toàn và tăng trưởng vốn, mở rộng quy mô kinh doanh.
- Bảo vệ môi trường, bảo vệ sản xuất, bảo đảm an ninh, an toàn và trật tự xã hội.
- Chấp hành luật pháp, thực hiện chế độ hạch toán thống kê thống nhất và có
nghĩa vụ đối với Nhà nước.
1.1.3. Hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông trong
nền kinh tế thị trường
Hoạt động chủ yếu của các doanh nghiệp XDCTGT là xây dựng các công trình
giao thông vận tải. Hoạt động ấy được tiến hành theo một số giai đoạn kế tiếp và có quan

hệ mật thiết với nhau đó là: Nghiên cứu thị trường - chuẩn bị các yếu tố đầu vào - sản
xuất - tiêu thụ. Nội dung cụ thể của từng giai đoạn đó là:
* Giai đoạn nghiên cứu thị trường
Thị trường theo nghĩa đen là nơi mua bán hàng hóa. Theo nghĩa rộng thị trường
là nơi hay còn là một quá trình trong đó người mua và người bán tác động qua lại lẫn
nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa cần mua bán.
Trong XDCTGT thị trường tồn tại chủ yếu dưới dạng đấu thầu, đàm phán và một
số hình thức khác.
Hai lực lượng cung và cầu đóng vai trò chủ yếu trong thị trường sản xuất
XDCTGT là các doanh nghiệp XDCTGT (bên cung) và các chủ đầu tư (bên cầu). Các

doanh nghiệp XDCTGT có nhiệm vụ dùng năng lực sản xuất của mình để xây dựng các
công trình theo nhu cầu và đơn đặt hàng (hợp đồng) của chủ đầu tư.
Tham gia vào thị trường XDCTGT còn có các tổ chức dịch vụ, tư vấn, thiết kế
đóng vai trò cung cho các chủ đầu tư và các tổ chức cung cấp máy móc thiết bị, vật tư
dịch vụ đóng vai trò cung cho các doanh nghiệp XDCTGT.
Khi nghiên cứu thị trường XDCTGT cần chú ý đặc điểm sau:
- Vì sản phẩm XDCTGT có tính chất cá biệt cao, giá trị lớn, chúng được sản xuất
theo đơn đặt hàng cho nên không thể sản xuất hàng loạt, không có thời gian lưu kho, chưa
được xây dựng khi chưa có đơn đặt hàng và chào hàng.
- Quá trình mua bán xảy ra trước lúc bắt đầu giai đoạn sản xuất (tức giai đoạn
xây dựng công trình) thông qua việc đấu thầu và ký kết hợp đồng xây dựng và còn tiếp
diễn thông qua các đợt thanh toán trung gian cho đến khi bàn giao công trình và quyết
toán cuối cùng.
- Việc tiêu thụ sản phẩm XDCTGT được tiến hành trực tiếp giữa người bán
(doanh nghiệp XDCTGT) và người mua (chủ đầu tư) không qua khâu trung gian.
- Quy luật cạnh tranh trong thị trường XDCTGT xảy ra phổ biến dưới hình thức
đấu thầu.
- Thị trường XDCTGT phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường đầu tư và định hướng
phát triển của ngành, của đất nước.

- Trong XDCTGT không có giá cả thống nhất cho một công trình toàn vẹn.
- Marketing trong XDCTGT được tiến hành cá biệt cho từng trường hợp tranh
thầu. Quảng cáo tiến hành chủ yếu thông qua các thành tích đã đạt được của doanh
nghiệp trong việc xây dựng các công trình.
- Vai trò của Nhà nước đối với XDCTGT lớn hơn so với ngành khác vì
XDCTGT có liên quan đến vấn đề sử dụng đất đai, bảo vệ môi trường và nguồn vốn đầu
tư của Nhà nước.

* Giai đoạn chuẩn bị các yếu tố đầu vào
- Yếu tố lao động, bao gồm số lượng và chất lượng lao động trong XDCTGT,
trình độ tổ chức lao động khoa học, các biện pháp động viên, kích thích lao động.
- Yếu tố tư liệu lao động, bao gồm các thiết bị, máy móc, nhà xưởng phục vụ cho
XDCTGT.
- Yếu tố đối tượng lao động, bao gồm vật liệu xây dựng, kết cấu xây dựng,
- Vốn cho xây dựng, bao gồm vốn cố định, vốn lưu động, đất đai, bản quyền sáng
chế, phát minh
- Thông tin phục vụ cho quản lý sản xuất và kinh doanh.
* Giai đoạn kết hợp các yếu tố đầu vào và tiến hành sản xuất tạo ra sản phẩm
* Giai đoạn tổ chức tiêu thụ và thu tiền
Bốn giai đoạn kể trên tạo nên nội dung cốt lõi của quá trình sản xuất kinh doanh
XDCTGT. Để đạt hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp
XDCTGT cần phải chú ý:
Một là, áp dụng nhiều biện pháp nhằm rút ngắn thời gian xây dựng, tức là rút
ngắn chu kỳ sản xuất kinh doanh hay rút ngắn thời gian thực hiện các khâu của quá trình
kinh doanh.
Hai là, nhận dạng đúng từng hình thái thị trường để có cách ứng xử phù hợp.
Để có ưu thế trong thị trường xây dựng hoặc có thể thắng thầu xây dựng, các
doanh nghiệp XDCTGT cần phải:
- Cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
- Không ngừng phát triển và hoàn thiện công cụ lao động như máy móc và thiết

bị xây dựng
- Hoàn thiện và áp dụng kỹ thuật thi công tiên tiến.
- Hoàn thiện và áp dụng công nghệ mới trong XDCTGT.

- Sử dụng vật liệu mới có hiệu quả, áp dụng cấu kiện mới, các cấu kiện đúc sẵn.
- Hoàn thiện và hợp lý hóa các phương pháp tổ chức sản xuất xây dựng, đổi mới
công nghệ quản lý sản xuất.
Ba là, nắm vững môi trường kinh doanh.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện trong những
môi trường kinh doanh cụ thể. Để có hiệu quả cao, tối đa hóa lợi nhuận, bí quyết thành công
của các nhà doanh nghiệp phụ thuộc trước hết vào khả năng phân tích và sự am hiểu môi
trường kinh doanh từ đó hoạch định được chính xác chiến lược kinh doanh và thực hiện
chiến lược đó một cách nhất quán, năng động, linh hoạt, không thụ động, cam chịu rủi ro
đưa đến một cách ngẫu nhiên.
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp XDCTGT bao gồm: thị trường của các
yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất xây dựng (vật tư, máy móc ); thị trường đầu ra tức
là thị trường tiêu thụ sản phẩm XDCTGT (các chủ đầu tư); thị trường vốn (bao gồm thị
trường chứng khoán, ngân hàng, tín dụng ); thị trường lao động; cơ quan chính quyền và
công chúng xã hội. Người ta có thể chia thành hai nhóm:
Nhóm thứ nhất: Gồm những yếu tố và mối quan hệ mà các doanh nghiệp có thể
kiểm soát hoặc làm chủ được thông qua các mối liên hệ chằng chịt trên thị trường. Ví dụ
số lượng sản phẩm bao nhiêu, chất lượng ra sao, dùng phương pháp công nghệ kỹ thuật
và các nguồn lực sản xuất nào, giá cả và các trung gian phân phối
Nhóm thứ hai: Gồm các yếu tố, những mối liên hệ nằm ngoài khả năng kiểm soát
của doanh nghiệp như các yếu tố chính trị, luật pháp, lạm phát Doanh nghiệp phải tìm
hiểu cặn kẽ để có phương thức xử lý thích hợp, đặc biệt phải tìm hiểu nghiên cứu, nắm
vững luật pháp để thực hiện đúng, bảo đảm quyền lợi và trách nhiệm trong hoạt động sản
xuất kinh doanh trước pháp luật.
Bốn là, phải lựa chọn chiến lược sản xuất kinh doanh.
Chiến lược sản xuất kinh doanh là phương hướng hoạt động cụ thể của doanh

nghiệp. Nó quy định loại sản phẩm hay dịch vụ doanh nghiệp đảm nhận, quy mô sản xuất

kinh doanh, các nguồn lực sản xuất, khả năng sinh lời cũng như triển vọng phát triển của
doanh nghiệp.
Việc xác định mục tiêu của chiến lược sản xuất kinh doanh có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng. Thông thường bao gồm:
- Lợi nhuận.
- Thế lực trong cạnh tranh.
- An toàn, tránh những rủi ro.
Để thực hiện chiến lược đã hoạch định, đòi hỏi phải xây dựng và thực hiện một
hệ thống các chính sách như:
- Chính sách sản phẩm.
- Chính sách giá cả.
- Chính sách phân phối.
- Chính sách giao tiếp, quảng cáo
Cần phải có kế hoạch cụ thể triển khai chiến lược sản xuất kinh doanh.
Năm là, Xác định giá trị sản lượng hoàn thành, đạt lợi nhuận cao nhất.
Cần phải phân tích các loại chi phí, thu nhập làm căn cứ tính toán sao cho giá
trị sản lượng doanh nghiệp đạt được phải dừng lại ở đơn vị sản phẩm có chi phí cận biên
bằng thu nhập cận biên. Nếu ít hơn thì doanh nghiệp sẽ không đạt lợi nhuận tối đa, nếu
nhiều hơn thì doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ.
1.2. Đặc điểm sản phẩm xây dựng công trình giao thông và đặc điểm quy trình
sản xuất xây dựng công trình giao thông
1.2.1. Đặc điểm sản phẩm xây dựng công trình giao thông
Sản phẩm XDCTGT là các tuyến đường, các cây cầu, nhà ga, bến cảng trực tiếp
hay gián tiếp phục vụ cho quá trình vận chuyển hàng hóa, hành khách. Nó là bộ phận
quan trọng của cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân, đảm bảo thỏa mãn nhu

cầu vận chuyển không ngừng tăng lên của nền kinh tế quốc dân và nhu cầu đi lại của
nhân dân.

Sản phẩm XDCTGT có những đặc điểm sau:
Sản phẩm XDCTGT cố định tại nơi sản xuất cho nên chịu sự ảnh hưởng của điều
kiện khí hậu, địa chất, thủy lực, thủy văn nơi công trình đi qua. Vì vậy trước khi thiết
kế xây dựng đòi hỏi phải chi ra những khoản tiền để thăm dò, khảo sát thật kỹ lưỡng,
đảm bảo cho việc đầu tư đúng mục đích, có hiệu quả cao; Ngân hàng thế giới gọi khoản
tiền đó là khoản bảo hiểm để chống lại những quyết định sai lầm.
Sản phẩm XDCTGT có khối lượng lớn, thời gian xây dựng dài cho nên chi phí
lao động, vật tư, tiền vốn lớn do đó những sai lầm về xây dựng có thể gây nên những lãng
phí rất lớn. Vì vậy phải có biện pháp sao cho tiết kiệm được chi phí, giảm tới mức thấp
nhất khối lượng xây lắp dở dang tránh ứ đọng vốn. Đồng thời cũng phải xác định nhu cầu
vốn sao cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục, đồng vốn không bị ứ đọng.
Mặt khác để phù hợp với yêu cầu của công việc, quyết toán về tài chính cần phân
biệt sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng của XDCTGT. Sản phẩm trung gian có
thể là công việc xây dựng, các giai đoạn và đợt xây dựng đã hoàn thành. Sản phẩm cuối
cùng là các công trình hay hạng mục công trình hoàn thành. Chính vì vậy đòi hỏi các
doanh nghiệp XDCTGT phải có biện pháp thi công dứt điểm từng hạng mục công trình,
tránh tình trạng thi công dàn trải gây ứ đọng và thất thoát vốn.
Sản phẩm XDCTGT được sản xuất ngoài trời. Đòi hỏi phải có biện pháp tổ chức
thi công hợp lý, giảm thời gian ngừng nghỉ do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu đồng thời
có biện pháp tổ chức quản lý, cung ứng vật tư đều đặn, kịp thời, đầy đủ điều đó lại liên
quan đến việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn cho quá trình sản xuất xây dựng. Giảm sự di
chuyển, tiết kiệm chi phí.
Sản phẩm XDCTGT thường được sản xuất đơn chiếc theo đơn đặt hàng, được
sản xuất ra ở những điều kiện, địa điểm khác nhau, chi phí cũng thường khác nhau đối
với cùng một loại sản phẩm.

Sản phẩm XDCTGT tồn tại lâu dài: Đặc điểm này đòi hỏi công trình giao thông
phải đảm bảo bền vững về mặt kỹ thuật và mỹ quan kiến trúc. Mặt khác do tồn tại lâu dài
cho nên nhiệm vụ sửa chữa thường xuyên, sửa chữa lớn, cải tạo và mở rộng là một nhu cầu
tất yếu và phải giành một khoản chi phí lớn.

Những đặc điểm trên của sản phẩm XDCTGT chi phối tới việc thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh có liên quan như: khảo sát, thiết kế, lựa chọn phương án
thi công, kết cấu công trình, điều kiện mặt bằng thi công và cả về phương pháp tổ chức
quản lý, tổ chức lao động, xác định nhu cầu vốn và khả năng đáp ứng nhu cầu vốn đó cho
nên việc nắm vững những đặc điểm của sản phẩm do mình tạo ra là cần thiết đối với các
doanh nghiệp XDCTGT.
1.2.2. Đặc điểm quá trình sản xuất xây dựng công trình giao thông
Đặc điểm của sản phẩm XDCTGT tác động trực tiếp tới quá trình sản xuất xây
dựng và tạo nên những đặc điểm riêng của nó. Bao gồm những đặc điểm sau:
Điều kiện sản xuất xây dựng trong XDCTGT thiếu tính ổn định, luôn biến đổi
theo địa điểm xây dựng. Cụ thể trong XDCTGT, con người và công cụ lao động luôn
phải thay đổi theo địa điểm và giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này làm khó khăn cho việc
tổ chức sản xuất, làm nảy sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực lượng sản xuất và
cho công trình tạm phục vụ sản xuất. Đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp XDCTGT
phải chú ý tăng cường tính cơ động, linh hoạt và gọn nhẹ về mặt trang bị tài sản cố định,
lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất linh hoạt, giảm chi phí liên quan đến vận chuyển, lợi
dụng tối đa lực lượng xây dựng tại chỗ và liên kết tại chỗ để tranh thầu xây dựng, chú ý
đến nhân tố chi phí vận chuyển khi lập giá tranh thầu. Đặc điểm này cũng đòi hỏi phát
triển rộng khắp loại hình dịch vụ sản xuất phục vụ xây dựng như dịch vụ cho thuê máy
xây dựng, cung ứng vận tải, sản xuất vật liệu xây dựng
Chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng công trình) dài: Đặc điểm này làm cho
vốn đầu tư xây dựng công trình và vốn sản xuất của các doanh nghiệp XDCTGT thường
bị ứ đọng lâu tại các công trình đang được xây dựng, các doanh nghiệp XDCTGT dễ gặp

phải các rủi ro ngẫu nhiên theo thời gian. Đặc điểm này đòi hỏi các doanh nghiệp
XDCTGT phải chú ý đến nhân tố thời gian khi lựa chọn phương án, có chế độ thanh toán
và kiểm tra thích hợp.
Sản xuất XDCTGT phải tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trường hợp cụ
thể thông qua hình thức ký kết hợp đồng sau khi thắng thầu. Đặc điểm này dẫn đến
yêu cầu phải xác định giá cả của sản phẩm trước khi sản phẩm được làm ra và hình thức

giao nhận thầu hoặc đấu thầu xây dựng cho từng công trình cụ thể trở nên phổ biến trong
sản xuất XDCTGT.
Sản xuất XDCTGT phải tiến hành ngoài trời nên chịu nhiều ảnh hưởng của
thời tiết, điều kiện làm việc năng nhọc. ảnh hưởng của thời tiết thường làm gián đoạn
quá trình thi công, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp XDCTGT không được sử
dụng điều hòa theo bốn quý, gây khó khăn cho việc lựa chọn trình tự thi công, đòi hỏi dự
trữ vật tư nhiều hơn Đặc điểm này đòi hỏi doanh nghiệp XDCTGT phải lập tiến độ thi
công hợp lý, áp dụng cơ giới hóa, chú ý đến nhân tố rủi ro vì thời tiết khi tranh thầu, xác
định lượng vật tư dự trữ vật tư hợp lý để tránh ứ đọng vốn.
Kỹ thuật thi công phức tạp. Đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự tính toán cụ thể.
Một là phải bỏ vốn ra để đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị thi công; hai là đi thuê của
doanh nghiệp khác.
Tất cả các đặc điểm trên đã ảnh hưởng đến mọi khâu của sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp XDCTGT, kể từ khâu tổ chức dây chuyền công nghệ sản xuất, trình độ
kinh doanh, tổ chức cung ứng vật tư, cấu tạo trang bị vốn cố định, chế độ thanh toán, chế
độ kiểm tra chất lượng sản phẩm, chính sách đối với lao động, chính sách giá cả,
1.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xây
dựng công trình giao thông hiện nay
1.3.1. Hội nhập quốc tế và sự ảnh hưởng của nó tới năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông

Thực tế đã chứng minh một nền kinh tế không thể phát triển nếu không hội nhập
với cộng đồng kinh tế quốc tế, đặc biệt với những nước đang phát triển như Việt Nam.
Hàng hóa của các doanh nghiệp Việt nam phải chịu thuế cao ở nhiều thị trường lớn là
một nguyên nhân làm giảm tính cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung.
Mặt khác nếu không hội nhập thì khó thu hút được các nhà đầu tư quốc tế sẽ làm nền
kinh tế thiếu hụt nguồn vốn đầu tư để phát triển.
Cùng với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta, nhất là từ sau Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã mở đường cho chiến lược phát triển hội nhập và mở
cửa, Việt Nam đã và đang ngày càng tham gia tích cực vào quá trình hội nhập. Toàn cầu

hóa và khu vực hóa làm cho nền kinh tế Việt Nam bắt đầu vận động theo những hình thái
mới: Năm 1992, Việt Nam ký hiệp định hợp tác kinh tế - thương mại với cộng đồng Châu
âu (EU), Nhật Bản và là quan sát viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN);
Năm 1995, chính thức gia nhập ASEAN và cam kết trong giai đoạn 1996 - 2006 triển
khai thực hiện chương trình của khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); Năm 1998 là
thành viên của Diễn đàn hợp tác Châu á Thái Bình Dương (APEC); Năm 2000 ký kết
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ; Năm 2006, chính thức trở thành thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới Tính đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại
với trên 150 nước và vùng lãnh thổ.
Bằng việc cắt giảm thuế quan trong tiến trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đã
xóa nhòa ranh giới giữa các quốc gia về mặt kinh tế và đặt các doanh nghiệp trong nước nằm
trong một mặt bằng kinh tế chung với các doanh nghiệp nước ngoài. Điều đó đòi hỏi các
doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp XDCTGT nói riêng phải phấn
đấu nâng cao khả năng cạnh tranh của mình để tồn tại và phát triển không chỉ trên thị
trường quốc tế mà ngay cả ở trong nước. Như vậy, hội nhập chịu sức ép của cả yếu tố chủ
quan và khách quan và là một xu thế tất yếu mà cộng đồng doanh nghiệp phải đón nhận
và có những giải pháp thích hợp nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh.
1.3.2. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp xây dựng công trình
giao thông khi tham gia hội nhập

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo cho các doanh nghiệp XDCTGT nhiều cơ
hội thuận lợi:
Thứ nhất, nhờ cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam mà tạo ra khả
năng giảm thấp chi phí đầu vào, góp phần hạ thấp giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có
doanh nghiệp XDCTGT.
Thứ hai, môi trường kinh doanh và đầu tư được cải thiện, các quốc gia và các
doanh nghiệp có thêm nhiều điều kiện để tiếp nhận nguồn vốn quốc tế với nhiều hình
thức đa dạng. Hiện nay, nguồn tài chính lại vẫn đang là điểm nóng đối với các doanh
nghiệp XDCTGT Việt Nam, vì vậy, tận dụng được các nguồn vốn vay ưu đãi chính thức,

vay thương mại, các nguồn viện trợ của nước ngoài, hoặc qua con đường hợp tác liên
doanh, liên kết, đầu tư trực tiếp nước ngoài, các chương trình dự án hỗ trợ phát triển là
con đường lựa chọn thích hợp.
Thứ ba, nhờ mở cửa thị trường đã góp phần giúp các doanh nghiệp XDCTGT
Việt nam tiếp cận nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại của thế giới với giá
rẻ hơn hoặc thông qua con đường chuyển giao công nghệ, rút ngắn những bước đi dò
dẫm, giảm chi phí trong công tác nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, thông qua
nhiều con đường như liên doanh, liên kết, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chuyển giao
công nghệ các doanh nghiệp XDCTGT Việt Nam có thể tiếp nhận nhanh chóng công
nghệ, kỹ thuật hiện đại, nâng cao năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm từ đó
nâng cao năng lực cạnh tranh cho chính mình.
Thứ tư, nhờ hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp có khả năng tiếp cận, học tập
những kinh nghiệm và kỹ năng quản lý tiên tiến của thế giới. Một trong những điều kiện
để thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa là sự phát triển của công nghệ thông tin - viễn thông.
Kết quả của hệ thống thông tin toàn cầu còn là điều kiện để nâng cao dân trí, mở rộng và
giao lưu giữa các dòng văn hóa, các dân tộc, tạo điều kiện cho việc tiếp xúc với một thế
giới mở, nâng cao năng lực đổi mới và hiện đại hóa công tác quản lý, trao đổi những tri
thức và kinh nghiệm đã được tìm tòi, đúc kết từ bao đời, hưởng thụ nền văn minh nhân

loại, tiết kiệm thời gian và nguồn lực. Đồng thời xu thế cạnh tranh của nền kinh tế dựa
trên trí tuệ, cũng là cơ hội tiềm tàng có nhiều hứa hẹn đối với những nền kinh tế non trẻ.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức đối
với các doanh nghiệp XDCTGT.
Thứ nhất, Vai trò bảo hộ của Nhà nước sẽ yếu dần đi và không còn nữa. Các
doanh nghiệp XDCTGT buộc phải cạnh tranh không những ở thị trường nước ngoài mà
còn phải thực hiện cạnh tranh với các đối thủ hùng mạnh trên thế giới ngay tại thị trường
trong nước. Có thể nói là các doanh nghiệp phải đối mặt với cuộc cạnh tranh không biên
giới. Các đối thủ tiềm năng chính của các doanh nghiệp Việt Nam là các nước Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc, Australia, Pháp thì đã có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam
khoảng vài chục năm. Trong bối cảnh đó, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh

nghiệp XDCTGT là vô cùng cần thiết và cấp bách.
Thứ hai, năng lực cạnh tranh của Việt Nam nói chung còn ở thứ bậc thấp trên cả
ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền
kinh tế, theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, năm 2002 Việt Nam xếp thứ 68/75
nước được xem xét; năm 2003: 60/102; năm 2004: 77/104; năm 2005: 74/125 và năm
2006 xếp thứ 77/125 nước được xếp hạng. Như vậy, chỉ số cạnh tranh quốc tế của Việt
Nam ngày càng lùi xa vị trí xếp hạng đầu tiên trong bảng. Từ đó cho ta thấy, trong thời
gian qua, năng lực cạnh tranh kinh tế của Việt Nam vẫn còn yếu kém so với nhiều nước
khác, nếu không muốn nói ít nhiều đã có sự thụt lùi.
Thứ ba, quá trình hội nhập cũng tạo ra nguy cơ lây nhiễm các rủi ro của nền kinh
tế thế giới. Do quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa được quốc tế hóa cao độ, thị
trường thế giới hình thành một thể thống nhất. Sự rủi ro hoặc khủng hoảng ở một quốc
gia bất kỳ cũng tạo ra nguy cơ khủng hoảng của cả hệ thống thế giới. Trong quá trình
tham gia hội nhập, nền kinh tế Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng của sự rủi ro chung của
kinh tế thế giới và lôi kéo các doanh nghiệp Việt Nam vào vòng xoáy của nó
Trình độ công nghệ, quản lý, khả năng khai thác thông tin thị trường cũng như
thực tiễn về kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp XDCTGT Việt Nam là rất yếu kém

nên việc tham gia vào thị trường quốc tế không tránh khỏi những khó khăn thậm chí thất
bại. Tuy vậy, nhìn chung những lợi ích từ hội nhập là cơ bản và to lớn. Vì vậy, thách thức
cạnh tranh ngày càng lớn đối với doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp
XDCTGT nói riêng. Các doanh nghiệp XDCTGT cần chú ý tới những thay đổi mang tính
đột phá để có thể chuẩn bị tương đối sẵn sàng trong bối cảnh cạnh tranh từ nước ngoài
đang cận kề và thực tế sẽ đến rất nhanh.
1.4. năng lực cạnh tranh và vai trò của tài chính đối với việc nâng cao năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng công trình giao thông
1.4.1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và các nhân tố ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.4.1.1. Khái niệm và các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp

Các học thuyết kinh tế thị trường, dù trường phái nào đều thừa nhận rằng: cạnh
tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà cung - cầu và giá cả
hàng hóa là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản của kinh tế thị
trường.
Hiểu theo nghĩa thông thường, cạnh tranh là sự cố gắng giành phần hơn, phần
thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như
nhau.
Dưới góc độ kinh tế học, cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh
tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế
của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các
điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể trong quá
trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận,
đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Đối với doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu của doanh nghiệp là tồn tại và tìm kiếm
lợi nhuận tối đa trên cơ sở cùng ganh đua với các đơn vị khác để giữ và mở rộng thị phần

trên thị trường. Vì vậy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được xem xét như là
khả năng đáp ứng và chống lại các đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các
đòi hỏi của khách hàng để giành được thị phần cung cấp sản phẩm một cách lâu dài và
thu lợi nhuận ngày càng cao hơn, đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và bền vững cho
doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp có thể kinh doanh một hay nhiều sản phẩm, dịch vụ. Giữa
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ có
sự khác nhau. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ là thị phần của sản phẩm, dịch
vụ đó trên thị trường.
Như vậy, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một khái niệm rộng hơn năng lực
cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thông qua
lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh tranh của
các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Giữa năng lực cạnh tranh của sản

phẩm, dịch vụ với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, trước hết các sản phẩm mà doanh nghiệp đó kinh
doanh phải có năng lực cạnh tranh, phải chiếm lĩnh được một thị phần đáng kể trên thị
trường. Một sản phẩm có năng lực cạnh tranh cũng phản ánh một phần năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Do vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, ngoài việc
tìm mọi biện pháp để gia tăng lợi nhuận một cách lâu dài và xây dựng chiến lược kinh doanh
phù hợp, rất cần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp kinh
doanh.
Khi nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không thể không đề cập
đến năng lực cạnh tranh quốc gia vì giữa năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết.
Năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực của một nền kinh tế có thể tạo ra tăng
trưởng bền vững trong môi trường kinh tế đầy biến động của thị trường thế giới.

Ba cấp độ sức cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo điều kiện
cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia. Một nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc
gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao. Ngược lại, để tạo điều kiện
cho doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh thì môi trường kinh doanh phải thuận lợi,
các chính sách vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được; nền kinh tế phải ổn định; bộ máy
nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả nghĩa là, năng lực cạnh tranh quốc gia
cao là nền tảng để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Xét về biểu hiện bề ngoài, có thể thấy có hai tiêu chí lớn thể hiện năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Đó là:
Thị phần: Thị phần của một doanh nghiệp về một loại sản phẩm, dịch vụ nhất
định được đánh giá bằng tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu của doanh nghiệp so với tổng
doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại sản phẩm, dịch vụ đó trên thị
trường. Thị phần càng lớn càng thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng
mạnh. Để tồn tại và có sức cạnh tranh, doanh nghiệp phải chiếm giữ được một phần thị
trường bất kể nhiều hay ít, dù nó là địa phương hay thế giới.

Lợi nhuận: Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp cuối cùng phản ánh hiệu quả hoạt động
của doanh nghiệp, là số chênh lệch giữa tổng doanh thu, thu nhập của doanh nghiệp với toàn
bộ chi phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong một thời kỳ nhất định. Xét tổng thể xu hướng biến
đổi lợi nhuận của doanh nghiệp trong mối tương quan với các doanh nghiệp khác; xét trong
ngắn hạn và dài hạn để thấy được doanh nghiệp có thể tiếp tục đứng vững và phát triển trong
môi trường cạnh tranh hay không, bởi vì nếu lợi nhuận được duy trì bền vững và có khả
năng gia tăng (đặt trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ và
trong lâu dài) chứng tỏ sự vững chắc về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Xét về tiêu chí chiều sâu, Diễn đàn kinh tế thế giới sử dụng hai chỉ số để đánh
giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là: Mức độ tinh xảo của các chiến lược kinh
doanh và chất lượng môi trường kinh tế vi mô cho doanh nghiệp hoạt động.
Một là, mức độ tinh xảo của các chiến lược kinh doanh.

Mức độ tinh xảo của các chiến lược kinh doanh là một chỉ số đánh giá năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp là bởi vì lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào
việc lựa chọn chiến lược cạnh tranh và các hoạt động tạo ra, tìm kiếm, vận dụng và duy
trì lợi thế cạnh tranh - một bộ phận cốt yếu của chiến lược kinh doanh.
Chỉ số mức độ tinh xảo của các chiến lược kinh doanh được xây dựng nhằm đánh
giá tri thức, công nghệ, vốn vật chất và kỹ năng quản lý được thể hiện trong chiến lược
kinh doanh, trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều thước đo được sử dụng
để đo lường chỉ số này như trình độ công nghệ sản xuất, mức độ hoạt động tiếp thị, tính
đặc thù của sản phẩm và tham gia thị trường quốc tế
Hai là, chất lượng môi trường kinh tế vi mô cho doanh nghiệp hoạt động.
Chất lượng môi trường kinh tế vi mô cho doanh nghiệp hoạt động là một chỉ số
đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vì chính chất lượng môi trường kinh tế vi
mô sẽ quyết định đến vhất lượng sản phẩm, năng suất lao động và giá thành sản phẩm
của doanh nghiệp. Đây lại chính là những yếu tố thiết yếu để doanh nghiệp chiến thắng
trong cạnh tranh. Môi trường kinh tế vi mô cho doanh nghiệp hoạt động chịu sự ảnh
hưởng của các yếu tố như chất lượng và chi phí các đầu vào cho sản xuất kinh doanh; nhu
cầu đối với sản phẩm, dịch vụ; trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp; chất lượng

đội ngũ nhân viên
1.4.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
ảnh hưởng và quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có rất nhiều
nhân tố. Việc nắm bắt được từng nhân tố ảnh hưởng, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố
sẽ giúp lãnh đạo doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm tăng khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp một cách hiệu quả và bền vững. Xét theo phạm vi, các nhân
tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được chia thành hai nhóm: nhóm
các nhân tố thuộc về bên trong doanh nghiệp và nhóm các nhân tố thuộc về bên ngoài
doanh nghiệp.
a) Các nhân tố bên trong doanh nghiệp

Các nhân tố bên trong doanh nghiệp là những nhân tố chủ yếu quyết định đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có rất nhiều nhân tố, đó là:
1- Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, mọi doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh cần phải có vốn. Vốn phải tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định
để thuê được đội ngũ cán bộ quản lý, lao động lành nghề, để đầu tư kỹ thuật công nghệ
hiện đại và để quảng cáo, chào hàng… do đó vốn là tiền đề để nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Năng lực tài chính của doanh nghiệp không chỉ thể hiện ở số vốn
hiện có mà nó còn thể hiện ở khả năng khai thác và sử dụng các nguồn lực tài chính trong
và ngoài doanh nghiệp. Năng lực tài chính đủ mạnh cho phép doanh nghiệp mở rộng qui
mô sản xuất, đầu tư công nghệ kỹ thuật hiện đại từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, chiến thắng
thường thuộc về những đối thủ trường vốn.
2- Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp bị chi phối bởi chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp đúng hay sai. Nếu có chiến lược kinh doanh đúng thì sức cạnh tranh sẽ
được nâng lên.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các chiến lược về sản phẩm,
về thị trường, chiến lược về đổi mới công nghệ, về đầu tư dài hạn, về nguồn nhân lực…

Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp là những định hướng cho hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp trong tương lai (gồm trong cả ngắn hạn và dài hạn), thể hiện mục tiêu
của doanh nghiệp và con đường để đạt mục tiêu đó. Để xây dựng một chiến lược kinh
doanh có hiệu quả đòi hỏi doanh nghiệp phải phân tích đúng đắn nhu cầu thị trường, phân
tích chính xác lợi thế và các bất lợi của doanh nghiệp từ đó xác định thị phần cho mình.
Do đó chiến lược kinh doanh thể hiện phương thức khai thác có hiệu quả các nguồn lực
trong và ngoài doanh nghiệp, thể hiện mảng thị trường nhất định mà doanh nghiệp tập
trung khai thác và phát triển những sản phẩm mà doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh.
Như vậy, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp không những ảnh hưởng đến năng lực

cạnh tranh hiện tại mà còn quyết định đến cả năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong
tương lai.
3- Trình độ kỹ thuật công nghệ
Một nguyên lý do C. Mác nêu ra từ thế kỷ XVIII và đã được thực tiễn lịch sử
chứng minh là: Công cụ lao động quyết định năng suất lao động. Hơn thế nữa, trong điều
kiện kinh tế tri thức ngày nay, khi mà hàm lượng tri thức được vật chất hóa thành kỹ
thuật công nghệ, mà cùng với nó là hàm lượng tri thức trong sản phẩm ngày càng cao thì
kỹ thuật, công nghệ trở thành yếu tố then chốt, quyết định trong việc tăng năng suất lao
động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Tức là, nó là nhân tố ảnh hưởng rất
lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Điều này lý giải tại sao các doanh nghiệp
của các nước có nền công nghiệp phát triển thường chiếm ưu thế áp đảo trong cạnh tranh
so với các nước kém phát triển.
4- Kinh nghiệm, sở trường
Nói đến kinh nghiệm, sở trường là nói đến những lĩnh vực mà doanh nghiệp đã
từng làm và đạt kết quả. Khi doanh nghiệp càng có nhiều kinh nghiệm thì chất lượng sản
phẩm của doanh nghiệp sẽ được nâng cao, có nghĩa là khả năng cạnh tranh của sản phẩm
của doanh nghiệp cao, do đó khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng sẽ được nâng
cao.
5- Khả năng quản lý
Nói đến khả năng quản lý của một doanh nghiệp là nói đến phương thức, quy

trình quản lý và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp. Phương thức quản lý
không phù hợp sẽ dẫn tới tăng chi phí quản lý hoặc không kiểm soát tốt quá trình sản
xuất kinh doanh, do vậy làm giảm chất lượng sản phẩm. Trình độ, năng lực của các thành
viên trong bộ máy lãnh đạo ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối quan
hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ không những đem lại cho doanh nghiệp lợi ích trước mắt
như tạo công ăn việc làm, tăng doanh thu, lợi nhuận, mà còn cả uy tín và lợi ích lâu dài

của doanh nghiệp - Đây mới là yếu tố quan trọng có tác động đến sức cạnh tranh của
doanh nghiệp. Nói chung, khả năng quản lý kém có thể dẫn tới yếu kém toàn diện một
doanh nghiệp, từ việc tăng chi phí đến không đảm bảo chất lượng và không làm tốt các
biện pháp bổ trợ cần thiết như chăm sóc khách hàng, quảng cáo
6- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và thái độ lao động của người lao động
Yếu tố này phản ánh kỹ năng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các nhân viên
tác nghiệp và công nhân trong doanh nghiệp. Trình độ tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ
của người lao động và lòng hăng say làm việc của họ là một yếu tố tác động mạnh mẽ
đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao, chuyên môn cao lại cộng
thêm lòng hăng say nhiệt tình lao động thì tăng năng suất lao động là tất yếu. Đây là tiền
đề để doanh nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.
7- Chất lượng sản phẩm
Theo nghĩa chung nhất, chất lượng được hiểu là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của
một con người, một sự vật. Từ đó có thể hiểu, chất lượng của một hàng hóa hay dịch vụ
là tổng thể những yếu tố cấu thành sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà từ đó tạo cho nó
những phẩm chất đáp ứng những nhu cầu sử dụng sản phẩm ấy của người tiêu dùng,
chẳng hạn như chức năng, công dụng, sự tiện lợi, độ bền Như vậy, rõ ràng khi mua
hàng, khách hàng thường quan tâm rất nhiều đến chất lượng hàng hóa, nó tồn tại song
song với quá trình đàm phán giá cả của người mua hàng. Trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi và với giá cả hàng hóa như nhau, hiển nhiên khách hàng sẽ lựa chọn mua sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ có chất lượng tốt hơn. Có nghĩa là, hàng hóa, dịch vụ có chất
lượng cao hơn sẽ có năng lực cạnh tranh cao hơn và ngược lại.

8- Thương hiệu của doanh nghiệp
Thương hiệu của một doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối với năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp. Tạo lập được một thương hiệu có uy tín chính là tạo lập được
một chỗ đứng vững chắc trong suy nghĩ của khách hàng về doanh nghiệp và về sản phẩm
của doanh nghiệp. Nó là một yếu tố đảm bảo cho năng lực cạnh tranh lâu dài của doanh

×