Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận - cá nhân theo quan điểm của Mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.19 KB, 19 trang )

Mục lục
Mở đầu
Từ xưa đến nay vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của mọi ngành
khoa học. Mỗi ngành khoa học tìm hiểu những khía cạnh khác nhau của con người.
Đối với triết học, vấn đề con người là đề tài không mới nhưng luôn chứa đựng những
nội dung mới. Trên thực tế đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu ở những
góc độ khác nhau của con người như: bản chất của con người, vai trò của con người
trong xã hội, xây dựng con người xã hội chủ nghĩa…Tuy nhiên chưa có nhiều đề tài
nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống sự phát triển của cá nhân với tư cách là
một yếu tố quan trọng, đóng vai trò hạt nhân trong xã hội. Đây là một khía cạnh rất
hay trong nội dung triết học về con người.
Đối với tình hình kinh tế nước ta hiện nay, vai trò của con người càng trở nên
quan trọng. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do đảng khởi xướng và lãnh
đạo thì con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, muốn xã hội
phát triển hơn thì phải phát triển cá nhân con người như thế nào để phù hợp với điều
kiện kinh tế nước nhà? Để tìm đáp án cho câu hỏi này thì trước hết ta phải tìm hiểu
quan điểm của Mac về sự phát triển cá nhân trong môi trường xã hội và từ đó chỉ ra
con đường đi đúng đắn nhất để phát triển một cá nhân toàn diện phục vụ cho đất
nước.
Chương 1. Khái quát chung về cá nhân và những đặc trưng
của cá nhân
1.1. Khái niệm về cá nhân
Cá nhân là một khái niệm cụ thể để chỉ một con người trong xã hội. Cá nhân
là cá thể người có nhân cách phát triển đầy đủ và hoàn chỉnh. Mỗi cá nhân có những
đặc trưng riêng để phân biệt với những cá nhân khác. Người ta gọi đó là tính đơn
nhất và tính phổ biến của cá nhân. Ví dụ: trong xã hội có người cao, người thấp; có
người béo, người gầy; có người thế này, người thế kia… Chính sự khác nhau đó giúp
chúng ta phân biệt người này với người nọ. Bởi vậy có thể nói cá nhân chính là một
con người “khác với những con người khác”. Mỗi cá nhân có đời sống riêng, có quan
hệ xã hội riêng, có nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích riêng. Nhưng các cá nhân đều có
tính chung là thành viên của xã hội và mang bản chất xã hội.


Cá nhân tồn tại trong xã hội với những mối quan hệ khác nhau. Những mối
quan hệ đó được biểu hiện ở sự giao tiếp giữa các cá nhân với nhau. Ví dụ: một cá
nhân sống trong xã hội thì tồn tại mối quan hệ với gia đình, bạn bè, đối tác… và
nhiều mối quan hệ khác. Cá nhân là một hiện tượng có tính lịch sử. Cá nhân chỉ hình
thành và phát triển trong xã hội. Xã hội do các cá nhân tạo nên. Các cá nhân sống và
hoạt động trong các nhóm, cộng đồng và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch
sử xác định. Theo tiến trình lịch sử, xã hội luôn có sự biến đổi, vì thế cá nhân cũng
thay đổi theo. Yếu tố xã hội là đặc trưng căn bản để hình thành cá nhân. Một xã hội
tiến bộ là một xã hội mà mỗi cá nhân phát triển nhân cách của mình theo hướng tích
cực, phát huy vai trò động lực, chủ thể sáng tạo của mỗi cá nhân.
2
Cá nhân khác với con gười. Khái niệm con người dùng để chỉ tính phổ biến
bản chất con người của tất cả các cá nhân. Cá nhân là một con người cụ thể. Một dẫn
chứng là khi nhắc đến cụm từ “người Việt Nam” chúng ta đều hiểu đó là tất cả những
cá thể có nguồn gốc Việt Nam. Còn khi nghiên cứu, đánh giá một con người cụ thể
nào đó thì chính là nghiên cứu về một cá nhân trong xã hội Việt Nam.
Tóm lại cá nhân là các cá thể người có nhân cách, là một chỉnh thể đơn nhất
trong xã hội.
1.2. Những đặc trưng của cá nhân
Cá nhân là phương thức tồn tại cụ thể của loài người một cách trực tiếp cảm
tính. Vì thế để xem xét toàn bộ xã hội loài người thì trước hết cần xem xét từng cá
nhân. “Không có con người nói chung, mà chỉ có con người cụ thể - cá nhân – của
giống loài”.
Cá nhân là cơ sở để hình thành xã hội. Đặc điểm của xã hội do đặc điểm của
toàn bộ cá nhân cấu thành. Trình độ của xã hội do trình độ của cá nhân quyết định.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử quyết định, sự phát triển của cá nhân là đặc trưng của
cho sự phát triển của xã hội. Cá nhân càng phát triển với trình độ cao thì xã hội càng
hiện đại. Thực tế trong xã hội, khi mỗi con người trong xã hội ấy văn minh thì cả xã
hội sẽ văn minh, mỗi người giàu có về trí tuệ thì xã hội sẽ tiến bộ.
Cá nhân là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách, biểu hiện trong phẩm chất

sinh lí và tâm lí riêng biệt của mỗi con người. Nhân cách là đặc trưng cho mỗi cá
nhân trong điều kiện nhất định, là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Bản
chất của mỗi cá nhân được biểu hiện thông qua nhân cách. Cá nhân này khác với cá
nhân khác ở chính nhân cách của mình. Cá nhân phát triển toàn diện là cá nhân có
nhân cách hoàn thiện. Vì vậy để phát triển cá nhân thì phải tác động vào chính nhân
cách của mỗi cá nhân đó.
Cá nhân là một hiện tượng lịch sử. Cùng với sự vận động của xã hội, cá nhân
cũng có những thay đổi phù hợp. Trong bất cứ xã hội nào, cá nhân cũng không tách
rời khỏi xã hội, mỗi thời đại sản sinh ra một kiểu cá nhân có tính đặc thù.
3
Chương 2. Sự phát triển của cá nhân trong môi trường xã hội
2.1. Vai trò của cá nhân trong xã hội
Cá nhân tồn tại trong một xã hội cụ thể nên tất yếu nó có những mối liên hệ
với xã hội đó. Cá nhân có vai trò quan trọng nhất trong xã hội. Quan hệ giữa cá nhân
và xã hội là vấn đề có ý nghĩa lớn được đề cập một cách toàn diện và sâu sắc trên cơ
sở của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2.1.1. Cá nhân là sản phẩm của xã hội
Từ xa xưa, khi sự sống bắt đầu xuất hiện thì con người chưa có mặt trên trái
đất. Theo thời gian, cùng với sự vân j động phát triển của tự nhiên, con người đã ra
đời. Con người chính là sản phẩm của tự nhiên. Xã hội loài người là một bộ phận của
giới tự nhiên. Vì vậy con người chính là một bộ phận của xã hội.
Cá nhân – một con người cụ thể trong xã hội được sinh ra và tồn tại trong xã
hội. Cá nhân là sản phẩm của một xã hội cụ thể. Bởi vậy xã hội đóng vai trò là môi
trường, điều kiện và phương tiện để phát triển cá nhân. “Hoàn cảnh xã hội càng có
tính người bao nhiêu thì nhân cách cá nhân càng được phát triển và hoàn thiện bấy
nhiêu”. Hoàn cảnh xã hội khác nhau tạo nên những cá nhân khác nhau. Như người
Việt Nam ta có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” để chỉ vấn đề này.
2.1.2. Cá nhân là chủ thể của xã hội
Cá nhân con người là sản phẩm của xã hội, nhưng dần dần con người khẳng
định mình là chủ thể của xã hội. Từ khi sinh ra, cá nhân bắt đầu chinh phục tự nhiên

để thoát khỏi sự lệ thuộc vào tự nhiên. Với sức sáng tạo của tư duy trí tuệ và hành
động thực tiễn, dần dần cá nhân tự khẳng định mình trước tự nhiên. Cá nhân ngày
4
càng làm chủ xã hội nhiều hơn. Mác đã từng nói “con người tạo ra hoàn cảnh đến
mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy”.
Ngày nay con người đã làm chủ xã hội ở tất cả các khía cạnh khác nhau của
đời sống. Con người đã tạo nên lịch sử phát triển của xã hội. Con người thúc đẩy xã
hội phát triển tiến bộ hơn để đáp ứng nhu cầu phát triến của mình. Cá nhân thông qua
hoạt động thực tiễn để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, cải tọ tự nhiên theo ý
muốn. “Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội, và
do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người. Sự phát triển sáng
tạo, tự do cá nhân là điều kiện, là thước đo trình độ phát triển của xã hội.
2.2. Sự phát triển của cá nhân trong môi trường xã hội
Để thúc đẩy xã hội phát triển tiến bộ hơn thì cá nhân phải phát triển toàn diện.
Nhân tố xã hội đóng vai trò quan trọng quyết định đến sự phát triển của con người.
Sự phát triển cá nhân thực chất là khẳng định bản chất xã hội của con người.
Sự phát triến của cá nhân chỉ có thể đạt được trong quan hệ xã hội và điều
kiện xã hội xác định. Ví dụ như trong tình hình đất nước bị xâm lược thì phải phát
triển cá nhân theo hướng chiến đấu tốt và sản xuất tốt. Khi đất nước thanh bình thì
con người được phát triển toàn diện về mọi mặt, đặc biệt là có nhiều kiến thức khoa
học để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển cá
nhân như thế nào cho phù hợp với từng đất nước, từng thời điểm là cực kì quan
trọng. Cá nhân và xã hội có mối quan hệ thống nhất chặt chẽ với nhau. Sự phát triển
của cá nhân thúc đẩy xã hội tiến lên. Mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân là mối quan
hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Vì vậy để nâng cao lợi ích cá nhân phải tổ
chức xã hội hợp lí, tạo môi trường thuận lợi để cá nhân phát triển tốt hơn.
Phát triển cá nhân trong xã hội gắn liền với hoàn thiện nhân cách. Cá nhân tác
động đến xã hội tùy thuộc ở trình độ phát triển của nhân cách. Nhân cách là khái
niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên
trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá thể

với giống loài thì nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa các cá nhân. Cá nhân
5
là phương thức biểu hiện của giống loài, còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách
thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt.
Để phát triển cá nhân tốt thì phải tránh thái độ cực đoan: chỉ thấy cá nhân mà
không thấy xã hội, hoặc chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân. Những điều kiện xã
hội mới tạo tiền đề cho cá nhân để mỗi cá nhân phát huy năng lực riêng phù hợp với
lợi ích và mục tiêu của xã hội mới. Mac viết: “chỉ có trong cộng đồng, cá nhân mới
có được những phương tiện để có thể phát triển toàn diện những năng khiếu của
mình, và do đó chỉ có trong cộng đồng mới có thể có tự do cá nhân”.
Phát triển cá nhân trong xã hội là chủ trương hàng đầu, quan trọng trong công
cuộc đổi mới đất nước. Phát triển cá nhân đi liền với phát triển xã hội. Tất cả đều
nhằm mục đích xây dựng xã hội giàu đẹp, văn minh.
6
Chương 3. Giải pháp chủ yếu để phát triển cá nhân trong hoàn cảnh
kinh tế nước ta hiện nay
3.1. Tại sao phải đẩy mạnh phát triển cá nhân?
Đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế xã hội đòi hỏi những cá nhân năng động, sáng tạo,
nhạy bén với điều kiện kinh tế mở. Một cá nhân có năng lực, toàn diện về nhân cách
sẽ thúc đẩy năng suất lao động của cơ quan, đoàn thể tăng cao hơn. Một tập thể gồm
những cá nhân được phát triển tốt sẽ lao động tốt và tập thể đó sẽ ngày càng vững
mạnh hơn. Trong tình hình nước nhà, khi công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường
ngắn nhất góp phần quan trọng đến tiến bộ xã hội thì con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Đất nước phát triển, xã hội tiên tiến
chính là vì mục tiêu con người. Mặt khác cá nhân con người là chủ thể của xã hội nên
sự phát triển của cá nhân kéo theo sự phát triển của xã hội. Mối quan hệ giữa cá nhân
và xẫ hội là mối quan hệ biện chứng – chúng ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Vì thế để
phát triển xã hội thì đồng thời cũng phải phát triển cá nhân.
Yếu tố cá nhân được xem là hạt nhân cơ bản đặc trưng cho xã hội loài người,

đóng vai trò là nội lực của sự phát triển. Bởi vậy nếu như không phát triển cá nhân thì
mãi mãi xã hội sẽ ‘giậm chân” tại chỗ, không phát triển được. Tuy nhiên do tàn dư
của chế độ xã hội cũ lạc hậu và cổ hủ thì trong thời đại mới, sự phát triển cá nhân gặp
nhiều khó khăn. “Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đặt ra cho sự phát triển
cá nhân những yêu cầu mới, những thuận lợi và khó khăn mới, mà trong chiến lược
phát triển con người, Đảng và Nhà nước ta cần phải tính đến”.
7
Tuy phát triển cá nhân đóng vai trò quan trọng như vậy nhưng thực tế nước ta
hiện nay, vấn đề phát triển cá nhân chưa đặt đúng vị trí và yêu cầu của nó. Cùng với
những tiến bộ mạnh mẽ trên thế giới, phát triển cá nhân càng trở thành đòi hỏi bức
xúc của thực tiễn xây dựng đất nước. Phát triển cá nhân là quá trình hướng tới sự
phát triển độc đáo, hài hòa nhân cách con người – với tư cách là chủ thể sáng tạo của
xã hội.
Trong giai đoạn đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa thì nguồn
lực con người là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển. Phát triển cá nhân con
người là nhiệm vụ chiến lược, trung tâm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Để phục vụ tốt cho công cuộc đổi mới của đất nước thì phải phát triển cá nhân
theo xu hướng lành mạnh, phát huy những tác động tích cực, khắc phục những tác
động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đến sự phát triển của cá nhân. Đồng thời
phát triển cá nhân phải phù hợp với điều kiện phát triển xã hội, tránh chủ nghĩa cá
nhân nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng mà Đảng ta đã chỉ ra: xây dựng con người
Việt Nam có tinh thần yêu nước và yêu CNXH; có ý thức tự cường, có trách nhiệm
cao trong lao động; có lương tâm nghề nghiệp, có tác phong công nghiệp, có ý thức
cộng đồng; tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình,
cộng đồng và xã hội.
3.2. Điều kiện để phát triển cá nhân một cách đích thực là chủ nghĩa xã hội
Mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng Sản Việt Nam là triệt để giải phóng con
người. Đảng rất quan tâm đến yếu tố con người và nhận thấy vai trò cực kì to lớn của
cá nhân trong xã hội. Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới của đất nước với chiến lược

lấy con người làm trung tâm của sự phát triển, là mục tiêu, là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Điều kiện của sự phát triển cá nhân trước hết là việc tạo ra những điều kiện
kinh tế, những giá trị tư tưởng, tình cảm phong phú, cao đẹp. Điều này chỉ có thể có
được trong xã hội chủ nghĩa – giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chủ
nghĩa xã hội là điều kiện để phát triển cá nhân một cách đích thực vì chỉ trong chủ
8
nghĩa xã hội con người mới được đặt đúng vào vị trí trung tâm của xã hội. Chỉ có
trong điều kiện chủ nghĩa xã hội, nhân tố con người mới được phát huy hiệu quả.
“Trong khuôn khổ của xã hội cộng sản chủ nghĩa – cái xã hội duy nhất mà trong đó
sự phát triển độc đáo và tự do của các cá nhân không còn là lời nói suông. Sự phát
triển ấy chính là do mối liên hệ giữa những cá nhân quyết định, mối liên hệ được
biểu hiện một phần trong những tiền đề kinh tế, một phần trong sự cố kết tất yếu của
sự phát triển tự do của tất cả mọi người, và cuối cùng tính chất phổ biến của hoạt
động của tất cả các cá nhân trên cơ sở lực lượng sản xuất hiện có”. Đó chính là
những nhận định của Mac về sự phát triển cá nhân trong xã hội. Từ đấy ta thấy được
ý kiến của Mac: phát triển cá nhân tốt nhất là trong chủ nghĩa xã hội.
Nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là thời kì xuất
hiện nhiều hình thức kinh tế quá độ, vừa có chủ nghĩa xã hội, vừa có những yếu tố
của tư bản chủ nghĩa; là thời kì thuận lợi để phát triển cá nhân một cách triệt để vì tất
cả những mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội vẫn còn tồn tại và biểu hiện rõ rệt. Nếu
như chúng ta giải quyết tốt những mâu thuẫn thì tức là chúng ta đã thực hiện được
phát triển cá nhân, tạo tiền đề vững chắc về con người cho giai đoạn sau – giai đoạn
cộng sản chủ nghĩa. Vì thế yêu cầu đặt ra là phải phát triển cá nhân tốt nhằm phát huy
nhân tố con người để xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
3.3. Giải pháp chủ yếu để phát triển cá nhân
Như ta đã tìm hiểu, phát triển cá nhân là một nhiệm vụ cực kì quan trọng của
Đảng và Nhà nước. Vì thế một câu hỏi lớn được đặt ra là: phải phát triển cá nhân như
thế nào? Qua một số giải pháp dưới đây ta sẽ tìm hiểu đáp án cho câu hỏi trên.

3.3.1. Tạo lập những tiền đề vật chất để phát triển cá nhân
Cá nhân là sản phẩm của xã hội nên phát triển cá nhân là sản phẩm của phát
triển xã hội. Biểu hiện trước hết là ở chỗ phải có những tiền đề vật chất để phát triển
cá nhân.
9
Yếu tố đầu tiên là phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm tạo môi
trường rộng lớn giải quyết việc làm. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát
triển của các nước trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta
để đi lên mục tiêu "Xã hội công bằng văn minh, dân giàu nước mạnh". Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà chính là quá trình biến
đổi cách mạng sâu sắc trên các lĩnh vực đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, khoa học
của con người…) làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất, mà sâu xa
chính là tạo ra cơ hội việc làm cho con người. Trong điều kiện mới chúng ta cần xem
xét, đánh giá, bồi dưỡng "con người chủ thể" không chỉ trên bình diện "con người -
xã hội" mà còn trên cả bình diện "con người cá nhân". Mặt khác cá nhân con người
muốn phát triển tốt thì phải có nghề nghiệp ổn định. Lao động giúp cho xã hội ổn
định và phát triển. Nhân dân ta có câu “nhàn cư vi bất thiện”, nghĩa là khi con người
không có đủ công ăn việc làm thì xã hội xuất hiện những người thất nghiệp rất dễ sa
ngã vào thói hư, tật xấu. Vì thế xã hội làm sao phát triển, cá nhân con người làm sao
tiến bộ khi đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu!
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đến vấn đề việc làm cho người
lao động. Nhiều nhà máy, xí nghiệp mọc lên nhằm phát triển kinh tế phục vụ đất
nước và đồng thời giải quyết việc làm cho nhân dân. Tuy nhiên do còn nhiều khó
khăn, nhiều địa phương trên cả nước – đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, bà con nhân
dân vẫn không có việc làm. Vậy để đất nước phát triển, con người phát triển thì phải
thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài, tạo lập nghề nghiệp, nâng cao đời sống cho
nhân dân. Nhằm giải quyết vấn đề đó, Đảng và Chính phủ đã có rất nhiều chủ trương,
chính sách nhằm giúp đỡ người lao động có việc làm.
Yếu tố thứ hai là phải tạo ra cơ sở kinh tế vững chắc thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người.

Dễ thấy khi đời sống của nhân dân được nâng cao, họ sẽ có điều kiện để hoàn thiện
mình hơn. Vì vậy phải tạo lập cơ sở kinh tế vững mạnh đáp ứng nhu cầu của xã hội
và làm tiền đề cho sự phát triển cá nhân con người. Về điều này ta có thể lấy các
nước phát triển làm ví dụ. Ở các nước này, đời sống vật chất của người dân rất cao.
Họ không phải quá vất vả trong việc lo cơm ăn áo mặc như nhân dân ta. Chính vì thế
10
họ có nhiều thời gian, tiền bạc để đầu tư phát triển và hoàn thiện bản thân. Nhìn vào
những chính sách, điều luật của họ cũng thấy rằng họ phát triển con người rất toàn
diện. Vậy thì chúng ta sẽ phải làm gì trong tình hình đất nước hiện nay? Trước hết
chúng ta phải phát triển kinh tế. Dân có giàu thì nước mới mạnh. Con người có no đủ
thì mới nghĩ đến việc phát triển mình.
Yếu tố cuối cùng là xây dựng và giữ vững nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, tạo cơ hội và điều kiện cho mỗi cá nhân hội nhập và phát triển. Cơ
chế thị trường là môi trường thuận lợi để phát huy vai trò chủ thể cá nhân, là cơ chế
tốt cho nhân cách phát triển trong điều kiện hiện nay. Dù cùng một lúc phải làm
nhiều việc, dù đó thực sự rất khó khăn và vất vả với bộ máy nhà nước của chúng ta,
nhưng Đảng và Chính phủ luôn luôn kiên định với đường lối phát triển của đất nước.
Chúng ta đều tin tưởng rằng đó chính là con đường tốt nhất dẫn đất nước lên CNXH
nhanh và bền vững nhất.
3.3.2. Quan tâm đến nhu cầu và lợi ích cá nhân
“Muốn phát huy được tính tích cực của người lao động, cần tác động vào
những điều kiện làm nảy sinh những động lực thúc đẩy mỗi cá nhân cũng như cả
cộng đồng tích cực lao động để xây dựng xã hội mới”. Động lực đó chính là nhu cầu
cá nhân và lợi ích cá nhân. Trong đó lợi ích cá nhân là động lực mạnh mẽ nhất thúc
đẩy con người vươn lên trong sản xuất và cuộc sống.
Nói đến kinh tế thị trường là nói đến con người kinh tế và khi tiến hành hoạt
động kinh tế, con người chịu sự chi phối của lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân đã có
vai trò đáng kể trong việc thúc đẩy con người hành động. Nhờ việc theo đuổi các lợi
ích cá nhân khác nhau mà hoạt động của con người không những tạo ra những sản
phẩm thoả mãn các nhu cầu cá nhân của mình, góp phần làm giàu cho bản thân, mà

còn góp phần xoá đói, giảm nghèo, làm giàu cho xã hội. Đến lượt nó, sự giàu có
chính đáng của cá nhân đã làm nảy sinh ở con người những tấm lòng hào phóng, từ
thiện, sự thân ái, lòng vị tha. Điều đó không những góp phần giảm bớt gánh nặng cho
xã hội, mà còn tạo ra bầu không khí thân ái trong xã hội, góp phần tạo cơ sở cho việc
xây dựng đạo đức mới. Vì thế để thực hiện tốt nhiệm vụ này, nhà nước phải có hệ
11
thống chính sách cụ thể, mềm dẻo để kết hợp hài hòa các lợi ích. Tuy nhiên do còn
nhiều hạn chế trong cơ chế quản lí, tình trạng lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể không
được giải quyết hài hòa còn phổ biến. Từ đó làm cho lòng hăng say của người lao
động bị giảm sút. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới công cuộc phát triển con người. Vì
vậy Nhà nước cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể vì
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước cần quan tâm đến vấn đề dân
chủ hóa mọi mặt, đặc biệt là kinh tế. Dân chủ hóa trong đời sống kinh tế làm cho
người lao động thực sự cảm nhận được quyền làm chủ trong lao động của mình. Từ
đó những cá nhân con người càng tâm huyết với nghề và muốn cống hiến nhiều hơn
cho đất nước.
3.3.3. Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo
Đảng ta luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo, luôn chăm lo đến việc
“trồng người”, vì lợi ích “trăm năm” của tổ quốc. Giáo dục và đào tạo luôn góp phần
nâng cao dân chí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Tuy nhiên để
hội nhập được với xã hội ngày nay đòi hỏi cá nhân con người phải có trình độ hiểu
biết cao. Do đó giáo dục – đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu. Giáo dục –
đào tạo gắn liền với phát triển con người. Để phát triển cá nhân phải bồi dưỡng, nâng
cao hiểu biết cho cá nhân đó. Giáo dục là chìa khóa để phát triển nguốn lực con
người.
Công cuộc giáo dục – đào tạo có ý nghĩa hết sức to lớn. Trên thực tế nước ta
đã đạt được nhiều thành tựu trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo: chất lượng giáo dục
- đào tạo đã có những chuyển biến bước đầu. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri
thức mới của học sinh, sinh viên ngày càng được nâng cao. Số học sinh phổ thông
đạt các giải quốc gia và quốc tế theo một số môn học ngày càng tăng, khẳng định

tiềm năng trí tuệ to lớn của học sinh nước ta. Nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học, cao
đẳng có hoài bão lập thân, lập nghiệp và có tinh thần tự lập, năng động. Một số
ngành khoa học cơ bản và khoa học công nghệ phát triển đã từng bước nâng cao chất
lượng đào tạo. Mặc dù vậy sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam còn bộc lộ một số mặt
yếu kém như: Chất lượng giáo dục đào tạo đại trà ở các cấp bậc học còn thấp. Đa số
12
học sinh, sinh viên quen cách học thụ động thiếu năng lực tư duy độc lập, sáng tạo và
vận dụng kiến thức, kỹ năng vào sản xuất và đời sống. Một số học sinh,sinh viên ít
quan tâm đến việc rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Thể lực đa số học
sinh, sinh viên còn yếu. Các điều kiện cơ bản để đảm bảo chất lượng còn bất cập như
đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng, cơ cấu không đồng bộ và chất lượng thấp,
phương pháp giáo dục lạc hậu, phương tiện giảng dạy thiếu thốn. Một số hiện tượng
tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục đào tạo chưa được ngăn chặn kịp thời như :
Dạy thêm, học thêm tràn lan không vì mục đích giáo dục, không thực hiện nghiêm
túc quy chế đào tạo… Các hiện tượng mua bằng, bán điểm… làm ảnh hưởng đến uy
tín của nhà trường. Ma tuý và các tệ nạn xã hội thâm nhập vào nhà trường. Hiện
tượng gian lận trong thi cử còn phổ biến, ảnh hưởng xấu đến nhân cách học sinh. Vì
vậy, để phát triển cá nhân thì trước hết phải tập trung phát triển việc đào tạo lứa tuổi
học sinh. Mặt khác phải mở rộng hệ thống trường, lớp dạy nghề và đào tạo công nhân
lành nghề, tạo cơ hội cho những đối tượng học sinh không vào được đại học nhưng
vẫn có cơ hội tìm được công ăn việc làm tốt.
Giáo dục – đào tạo có thể tiến hành theo hai hướng: giáo dục con người theo
xu hướng trí tuệ hóa và tăng cường đào tạo tri thức và nhân tài. Trong điều kiện quốc
tế hóa kinh tế - khoa học công nghệ như hiện nay, nguồn lực đi lên của một quốc gia
không chỉ do nhân tố nội sinh qui định, một phần quan trọng còn do ảnh hưởng của
thế giới. Vì thế giáo dục – đào tạo hiện nay yêu cầu phải đồng thời tiếp thu tri thức
của nhân loại và học tập thế giới nhiều kinh nghiệm để hoàn thiện nền giáo dục Việt
Nam.
3.3.4. Phát triển nhân cách văn hóa cá nhân
Nhân cách là yếu tố quan trọng nhất để đánh giá một cá nhân. Nhân cách càng

hoàn thiện thì cá nhân phát triển càng tốt. Đặc biệt là nhân cách văn hóa. Nhân cách
văn hóa biểu hiện ở thái độ ứng xử với xã hội.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế nước nhà, vấn đề ứng xử có văn hóa là cực
kỳ quan trọng. Khi những người nước ngoài tới Việt Nam, họ sẽ nhìn vào văn hóa
của chúng ta đầu tiên. Cách cư xử của chúng ta như thế nào cũng có thể ảnh hưởng
13
tới niềm tin của họ khi đầu tư vào nước ta. Trên thực tế thái độ ứng xử của người
Việt Nam chưa được tốt lắm. Chúng ta có thể lấy ra rất nhiều những ví dụ tiêu biểu
mà trong cuộc sống hàng ngày chúng ta đã được chứng kiến hoặc ai đó trong chúng
ta cũng mắc phải. Ví dụ thứ nhất: một người đang đi đường thì bị một túi rác của ai
đó từ nhà ném ra. Đúng là một hành động thiếu văn hóa. Đó là hậu quả của sự giáo
dục không đến nơi đến chốn. Điều đáng nói là hành động này không phải hiếm gặp
trong xã hội. Ví dụ thứ hai: bạn là một người luôn chấp hành luật giao thông, gặp đèn
đỏ bạn dừng lại và bạn bị xe sau đâm sầm vào. Bạn không nhận được một lời cảm ơn
mà trái lại bạn bị chửi té tát vì ngu. Bạn nghĩ hành động đó như thế nào? Tôi cũng
không hiểu người nước ngoài họ cảm thấy như thế nào. Nhưng tôi tin họ rất thất
vọng. Còn nhiều, nhiều những ứng xử mà xã hội chúng ta cần loại bỏ. Tất cả đều bắt
nguồn từ cách chúng ta giáo dục cá nhân con người từ nhỏ. Chúng ta không đổ lỗi
cho giáo dục. Đó là lỗi và trách nhiệm của toàn xã hội. Tôi tin chắc rắng trong thời
gian tới Đảng và Nhà nước ta sẽ làm nhiều việc hơn nữa để nâng cao nhân cách văn
hóa của con người Việt Nam vì nhân cách văn hóa khi trở thành một tất yếu của xã
hội sẽ làm cho xã hội văn minh hơn.
3.3.5. Xây dựng cơ chế đánh giá cá nhân
Sự phát triển của cá nhân yêu cầu phải bình đẳng giữa cá nhân với cá nhân,
giữa cá nhân với tập thể. Vì thế phải có một cơ chế để đánh giá vai trò của cá nhân.
Từ đó có thể nhận định đúng tầm quan trọng của phát triển cá nhân trong xã hội.
Xây dựng cơ chế đánh giá cá nhân giúp đánh giá đúng những cá nhân có thành
tích đúng để biểu dương, khen thưởng và giúp những cá nhân có hành động sai trái
có thể sửa sai và khắc phục. Có thể nói việc xây dựng cơ chế đánh giá cá nhân giúp
cá nhân có động lực để phát triển tốt. Xây dựng cơ chế đánh giá cá nhân giúp xã hội

công bằng dân chủ hơn. Cơ chế đánh giá cá nhân một cách khách quan, khoa học tạo
điều kiện cho mỗi cá nhân phát triển toàn diện, hài hoà trong đời sống cộng đồng là
một hệ thống biện chứng. Hệ thống đó dựa trên cơ sở luật pháp tiến bộ của Nhà nước
Việt Nam và những vấn đề mang tính nhân loại, đề hình thành văn hoá pháp lý của
mỗi cá nhân với sự thống nhất giữa tri thức, tình cảm và hành vi của con người đối
14
với pháp luật. Nó được thể hiên trong quan điểm về Nhà nước pháp quyền của Đảng
ta nhằm mục đích phát triển con người: "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi
trọng giáo dục, nâng cao đạo đức. Đổi mới quan niệm và phương pháp đánh giá
khắc phục cách làm đơn giản, thành kiến, thiếu công tâm, dân chủ hình thức. Xây
dựng quy chế tuyển chợn cán bộ, tuyển chọn nhân tài". Trên tất cả những vấn đề đó,
suy cho cùng, cơ chế đánh giá cá nhân là sự thống nhất giữa luật pháp và đạo đức,
giữa những yêu cầu bắt buộc và sự nhận thức tự giác, để cá nhân phát triển theo
những định hướng giá trị cốt lõi, phù hợp với yêu cầu đề ra trong sự phát triển xã hội
hiện nay.
3.3.6. Khắc phục chủ nghĩa cá nhân để phát triển cá nhân
Trong việc phát triển cá nhân xuất hiện hiện tượng “chủ nghĩa cá nhân”. Chủ
nghĩa cá nhân đặt vai trò của cá nhân lên trên tất cả các yếu tố khác của xã hội. Chủ
nghĩa cá nhân chỉ nhìn thấy vai trò của cá nhân mà không thấy vai trò của tập thể.
Chủ nghĩa cá nhân mang tư tưởng cực đoan. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh
nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí những người
này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân
mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân. Chủ nghĩa cá nhân trái
ngược với đạo đức cách mạng, nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ
dịp để phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng, một dạ đấu
tranh cho sự nghiệp cách mạng. Một người mang nặng chủ nghĩa cá nhân thì việc gì
cũng nghĩ đến lợi ích của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người”, mà chỉ
muốn “mọi người vì mình”. Do chủ nghĩa cá nhân mà con người ngại gian khổ, khó
khăn, dễ sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị

quyền hành. Họ tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán chuyên
quyền. Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật,
kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và
của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Quá trình đổi mới,
dưới tác động của nhiều nhân tố, trước hết là từ mặt trái của nền kinh tế thị trường,
đã làm cho chủ nghĩa cá nhân phát triển với những biểu hiện ngày càng phức tạp.
15
Vì thế để phát triển cá nhân phải khắc phục chủ nghĩa cá nhân. Đấu tranh quét
sạch chủ nghĩa cá nhân vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách trước mắt của toàn Đảng, toàn dân. Phát triển cá nhân phải đặt trong quan
hệ hài hòa cá nhân và tập thể, cá nhân và xã hội. Vì vậy vai trò của cá nhân, vai trò
của tập thể và vai trò của xã hội phải đặt ngang bằng nhau. Mối quan hệ cá nhân và
xã hội là mối quan hệ biện chứng nên sự phát triển cá nhân phải song song với sự
phát triển xã hội. Chủ nghĩa cá nhân cần phải loại bỏ.
16
Kết luận
Con người nói chung và cá nhân nói riêng có vai trò quan trọng trong xã hội.
Cá nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của xã hội. Cá nhân và xã hội có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, vì thế sự phát triển của cá nhân trong xã hội song song với sự
phát triển của xã hội. Cùng với sự phát triển kinh tế theo định hướng xã hội của nước
ta thì cá nhân cũng phải phát triển cho phù hợp với điều kiện đó. Trước tình hình của
đất nước, sự phát triển của cá nhân có nhiều thuận lợi và cũng gặp nhiều khó khăn.
Sự phát triển cá nhân tốt nhất là diễn ra trong chủ nghĩa xã hội.
Quan điểm đổi mới của Đảng chỉ ra mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội
là xuất phát từ con người và vì con người. Để thúc đẩy xã hội tiến bộ, văn minh hơn
thì phải phát triển cá nhân phù hợp với sự phát triển của xã hội. Để phát triển cá nhân
toàn diện phải kết hợp hài hòa giữa các giải pháp phát triển đã nêu.
17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo tình triết học Mác Lênin, NXB chính trị quốc gia (tập I, tập II).

2. Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Phạm Minh Hạc,
NXB Chính trị quốc gia (1996).
3. Con người Việt Nam và công cuộc đổi mới, Kỷ yếu hội nghị khoa học từ 28 - 29 /
7/1993 TP HCM.
4. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn, Nguyễn Trọng
Chuẩn, NXB chính trị quốc gia.
5. Vấn đề con người, cá nhân, xã hội trong học thuyết của Mác, Trần Xuân Tiến, Tạp
chí cộng sản (1/1994).
6. Sự phát triển của cá nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đoàn Đức Hiếu, NXB Chính trị quốc gia.
18

×