Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Báo cáo: Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở Việt Nam 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 110 trang )









Gánh nặng bệnh tật
và chấn thương
ở Việt Nam 2008













NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC
HÀ NỘI - 2011


Dự án VINE

Trường Đại học Y tế Công cộng Trang ii








Tác giả

ThS. Nguyễn Thị Trang Nhung, Trường Đại học Y tế Công cộng, Việt Nam

CN. Trần Khánh Long, Trường Đại học Y tế Công cộng, Việt Nam

CN. Bùi Ngọc Linh, Trường Đại học Y tế Công cộng, Việt Nam

GS. TS. Theo Vos, Trường Sức khỏe dân số, Đại học Queensland, Úc

TS. Ngô Đức Anh, Trường Sức khỏe dân số, Đại học Queensland, Úc

TS. Nguyễn Thanh Hương, Trường Đại học Y tế Công cộng, Việt Nam








Lời cảm ơn



Chúng tôi xin chân thành cảm ơn tổ chức Atlantic Philanthropies đã tài trợ cho dự án
“Cung cấp các bằng chứng khoa học về bệnh tật và tử vong cho quá trình hoạch định
chính sách y tế ở Việt Nam” (dự án VINE). Nghiên cứu “Gánh nặng bệnh tật và chấn
thương ở Việt Nam 2008” là một cấu phần của dự án VINE.




Dự án VINE

Trường Đại học Y tế Công cộng Trang iii



MỤC LỤC

CHỮ VIẾT TẮT viii
TÓM TẮT 1
1. GIỚI THIỆU 3
2. MỤC TIÊU 4
2.1. MỤC TIÊU CHUNG 4
2.2. MỤC TIÊU CỤ THỂ 4
3. PHƯƠNG PHÁP 5
3.1. ƯỚC TÍNH TỬ VONG 5
3.2. SỐ NĂM SỐNG MẤT ĐI DO TỬ VONG SỚM (YLL) 8
3.3. SỐ NĂM SỐNG MẤT ĐI DO TÀN TẬT (YLD) 9
3.4. CÁC NHÓM BỆNH HOẶC CHẤN THƯƠNG 9
3.5. DÂN SỐ 11
3.6. CHIẾT KHẤU 11
3.7. TRỌNG SỐ BỆNH TẬT 12

3.8. TRỌNG SỐ TUỔI 14
3.9. TỶ LỆ MỚI MẮC VÀ THỜI GIAN MẮC 15
4. TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH BỆNH VÀ CHẤN THƯƠNG 17
4.1. LAO 17
4.2. HIV/AIDS 17
4.3. TIÊU CHẢY 18
4.4. NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP 18
4.5. UNG THƯ 19
4.6. ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 20
4.7. CÁC BỆNH TÂM THẦN KINH 21
Rối loạn do lạm dụng rượu 21
Rối loạn lo âu 21
Mất trí nhớ 21
Trầm cảm 22
Lạm dụng ma túy 22
Động kinh 22
Tâm thần phân liệt 23





Dự án VINE

Trường Đại học Y tế Công cộng Trang iv


4.8. CÁC KHUYẾT TẬT VỀ GIÁC QUAN 23
Khiếm thị 23
Khiếm thính 24

4.9. BỆNH MẠCH VÀNH (ISCHEMIC HEART DISEASE) 24
4.10. ĐỘT QỤY 25
4.11. BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MÃN TÍNH (COPD) 26
4.12. BỆNH THOÁI HÓA KHỚP (OSTEOARTHRITIS) 26
4.13. CHẤN THƯƠNG 27
5. KẾT QUẢ 29
5.1. TỬ VONG VÀ KỲ VỌNG SỐNG 29
5.2. GÁNH NẶNG DO TỬ VONG Ở VIỆT NAM (YLL) 30
5.3. SỐ NĂM SỐNG TÀN TẬT (YLD) 34
5.4. SỐ NĂM SỐNG TÀN TẬT HIỆU CHỈNH (DALYs) 39
5.5. MÔ HÌNH GÁNH NẶNG BỆNH TẬT THEO TUỔI VÀ GIỚI 46
5.6. CÁC BỆNH VÀ CHẤN THƯƠNG CỤ THỂ 53
Các bệnh truyền nhiễm 54
Ung thư 56
Đái tháo đường 59
Các bệnh tâm thần kinh 60
Các khuyết tật về giác quan 62
Bệnh tim mạch 64
Bệnh cơ xương khớp 67
Chấn thương 69
BÀN LUẬN 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
PHỤ LỤC 82











Dự án VINE

Trường Đại học Y tế Công cộng Trang v



DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. Các cụm điều tra nguyên nhân tử vong theo các trường Đại học Y 7
Bảng 2. 10 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong theo giới 29
Bảng 3. 10 nguyên nhân hàng đầu của YLL theo giới 34
Bảng 4. 10 nguyên nhân hàng đầu của YLD theo giới 39
Bảng 5. 10 nguyên nhân hàng đầu của DALYs theo giới 46
Bảng 6. 10 nguyên nhân hàng đầu của DALYs ở lứa tuổi 0-14 ở cả hai giới 47
Bảng 7. 10 nguyên nhân hàng đầu của DALYs ở lứa tuổi 15-44 theo giới 49
Bảng 8. 10 nguyên nhân hàng đầu của DALYs ở lứa tuổi 45-69 theo giới 51
Bảng 9. 10 nguyên nhân hàng đầu của DALYs ở lứa tuổi 70+ theo giới 53
Bảng 10. Các nguồn số liệu hiện mắc, mới mắc và vấn đề về chất lượng số liệu của các bệnh/chấn
thương chính 77

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Hình 1. Mô hình cơ bản của bệnh sử dụng trong DISMOD2 16
Hình 2. Mô hình chung của ung thư sử dụng trong tính toán YLD (bao gồm khoảng trọng số bệnh
tật và thời gian mắc) 20
Hình 3. YLL của 3 nhóm bệnh lớn, Việt Nam 2008 30
Hình 4. YLL của 3 nhóm bệnh lớn theo giới, Việt Nam 2008 30
Hình 5. YLL của các phân nhóm bệnh ở nam giới, Việt Nam 2008 31
Hình 6. YLL của các phân nhóm bệnh ở nữ giới, Việt Nam 2008 31

Hình 7. YLL của 3 nhóm bệnh lớn theo tuổi ở nam, Việt Nam 2008 32
Hình 8. YLL của 3 nhóm bệnh lớn theo tuổi ở nữ, Việt Nam 2008 32
Hình 9. YLL của các phân nhóm bệnh theo tuổi ở nam, Việt Nam 2008 33
Hình 10. YLL của các phân nhóm bệnh theo tuổi ở nữ, Việt Nam 2008 33
Hình 11. YLD của 3 nhóm bệnh lớn, Việt Nam 2008 34
Hình 12. YLD của 3 nhóm bệnh lớn theo giới, Việt Nam 2008 35
Hình 13. YLD của các phân nhóm bệnh ở nam, Việt Nam 2008 35
Hình 14. YLD của các phân nhóm bệnh ở nữ, Việt Nam 2008 36
Hình 15. YLD của 3 nhóm bệnh lớn theo tuổi ở nam, Việt Nam 2008 36
Hình 16. YLD của 3 nhóm bệnh lớn theo tuổi ở nữ, Việt Nam 2008 37
Hình 17. YLD của các phân nhóm bệnh theo tuổi ở nam, Việt Nam 2008 37
Hình 18. YLD của các phân nhóm bệnh theo tuổi ở nữ, Việt Nam 2008 38
Hình 19. DALYs của 3 nhóm bệnh lớn, Việt Nam 2008 40
Hình 20. Tỷ lệ YLL và YLD trong tổng gánh nặng bệnh tật theo giới, Việt Nam 2008 40
Hình 21. DALYs của các phân nhóm bệnh, Việt Nam 2008 41
Hình 22. DALYs của 3 nhóm bệnh lớn theo giới, Việt Nam 2008 41
Hình 23. DALYs của các phân nhóm bệnh ở nam, Việt Nam 2008 42
Hình 24. DALYs của các phân nhóm bệnh ở nữ, Việt Nam 2008 42
Hình 25. DALYs của 3 nhóm bệnh lớn theo tuổi ở nam, Việt Nam 2008 43
Hình 26. DALYs của 3 nhóm bệnh lớn theo tuổi ở nữ, Việt Nam 2008 44
Hình 27. DALYs của các phân nhóm bệnh theo tuổi ở nam, Việt Nam 2008 44
Hình 28. DALYs của các phân nhóm bệnh theo tuổi ở nữ, Việt Nam 2008 45


Dự án VINE

Trường Đại học Y tế Công cộng Trang vi


Hình 29. DALYs của các phân nhóm bệnh ở lứa tuổi 0-14, Việt Nam 2008 47

Hình 30. DALYs của các phân nhóm bệnh ở lứa tuổi 15-44 ở nam, Việt Nam 2008 48
Hình 31. DALYs của các phân nhóm bệnh ở lứa tuổi 15-44 ở nữ, Việt Nam 2008 48
Hình 32. DALYs của các phân nhóm bệnh ở lứa tuổi 45-69 ở nam, Việt Nam 2008 50
Hình 33. DALYs của các phân nhóm bệnh ở lứa tuổi 45-69 ở nữ, Việt Nam 2008 50
Hình 34. DALYs của các phân nhóm bệnh ở lứa tuổi 70+ ở nam, Việt Nam 2008 52
Hình 35. DALYs của các phân nhóm bệnh ở lứa tuổi 70+ ở nữ, Việt Nam 2008 52
Hình 36. YLL và YLD của các bệnh chính, Việt Nam 2008 54
Hình 37. Gánh nặng bệnh tật của các bệnh truyền nhiễm theo giới, Việt Nam 2008 54
Hình 38. Bình quân DALYs (trên 100.000 dân) của các bệnh truyền nhiễm theo tuổi ở nam,
Việt Nam 2008 55
Hình 39. Bình quân DALYs (trên 100.000 dân) của các bệnh truyền nhiễm 56
theo tuổi ở nữ, Việt Nam 2008 56
Hình 40. DALYs của các loại ung thư theo giới, Việt Nam 2008 57
Hình 41. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các loại ung thư 58
ở nam giới, Việt Nam 2008 58
Hình 42. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các loại ung thư 58
ở nữ giới, Việt Nam 2008 58
Hình 43. DALYs của bệnh đái tháo đường theo giới, Việt Nam 2008 59
Hình 44. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của bệnh đái tháo đường theo tuổi ở nam giới,
Việt Nam 2008 59
Hình 45. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của bệnh đái tháo đường theo tuổi ở nữ giới,
Việt Nam 2008 60
Hình 46. DALYs của các bệnh tâm thần kinh theo giới, Việt Nam 2008 60
Hình 47. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các bệnh tâm thần kinh 61
ở nam giới, Việt Nam 2008 61
Hình 48. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các bệnh tâm thần kinh 62
ở nữ giới, Việt Nam 2008 62
Hình 49. DALYs của các khuyết tật về giác quan theo giới, Việt Nam 2008 62
Hình 50. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các khuyết tật về giác quan ở nam giới,
Việt Nam 2008 63

Hình 51. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các khuyết về giác quan 63
ở nữ giới, Việt Nam 2008 63
Hình 52. DALYs của các bệnh tim mạch theo giới, Việt Nam 2008 64
Hình 53. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các bệnh tim mạch 65
ở nam giới, Việt Nam 2008 65
Hình 54. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các bệnh tim mạch 65
ở nữ giới, Việt Nam 2008 65
Hình 55. Gánh nặng của các bệnh đường hô hấp theo giới, Việt Nam 2008 66
Hình 56. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các bệnh đường hô hấp 66
ở nam giới, Việt Nam 2008 66
Hình 57. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các bệnh đường hô hấp 67
ở nữ giới, Việt Nam 2008 67
Hình 58. Gánh nặng bệnh tật của các bệnh cơ xương khớp theo giới, Việt Nam 2008 67
Hình 59. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các bệnh cơ xương khớp 68
ở nam giới, Việt Nam 2008 68



Dự án VINE

Trường Đại học Y tế Công cộng Trang vii



Hình 60. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các bệnh cơ xương khớp 68
ở nữ giới, Việt Nam 2008 68
Hình 61. DALYs của các chấn thương không chủ định theo giới, Việt Nam 2008 69
Hình 62. Gánh nặng do tử vong sớm và gánh nặng do tàn tật của các chấn thương không chủ định,
Việt Nam 2008 70
Hình 63. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các các chấn thương không chủ định ở nam giới,

Việt Nam 2008 71
Hình 64. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các các chấn thương không chủ định ở nữ giới,
Việt Nam 2008 71
Hình 65. DALYs của chấn thương có chủ định theo giới, Việt Nam 2008 72
Hình 66. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các các chấn thương có chủ định ở nam giới,
Việt Nam 2008 73
Hình 67. Bình quân DALYs trên 100.000 dân của các các chấn thương có chủ định ở nữ giới, Việt
Nam 2008 73

DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Phân nhóm bệnh tương ứng với mã ICD-10 83
Phụ lục 2. Trọng số bệnh tật 85
Phụ lục 3. Tử vong theo giới tính, tuổi và nguyên nhân 93
Phụ lục 4. YLL theo giới tính, tuổi và nguyên nhân 95
Phụ lục 5. YLD theo giới tính, tuổi và nguyên nhân 97
Phụ lục 6. DALY theo giới tính, tuổi và nguyên nhân 99
Phụ lục 7. Tỷ lệ hiện mắc YLD theo giới tính, tuổi và nguyên nhân 101





Dự án VINE

Trường Đại học Y tế Công cộng Trang viii



CHỮ VIẾT TẮT



BoD Gánh nặng bệnh tật (Burden of Disease)
COPCORD Chương trình định hướng cộng đồng kiểm soát bệnh thấp
khớp (Community-Oriented Program for the Control of
Rheumatic Disease)
COPD Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính
DALY Năm sống tàn tật hiệu chỉnh (Disability-adjusted life years)
DW Trọng số bệnh tật (disability weight)
GBD study Nghiên cứu Gánh nặng bệnh tật toàn cầu (Global Burden
of Disease study)
HIV/AIDS Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
ICD Hệ thống phân loại bệnh tật quốc tế
PTO method Phương pháp Hoán đổi về con người (Person Trade-Off
method)
VA Điều tra nguyên nhân tử vong sử dụng phương pháp
phỏng vấn (Verbal autopsy)
VINE Project Dự án “Cung cấp bằng chứng khoa học về bệnh tật và tử
vong cho quá trình hoạch định chính sách y tế ở Việt
Nam”
VMIS Điều tra Chấn thương Liên trường ở Việt Nam (Vietnam
Multi-center Injury Survey)
WHO Tổ chức Y tế Thế giới
YLD Số năm sống tàn tật (Years lived with disability)
YLL Số năm sống mất đi do tử vong sớm (Years of life lost)



Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 1





TÓM TẮT

GÁNH NẶNG BỆNH TẬT DO TỬ VONG SỚM (YLL)

 Gánh nặng bệnh tật do tử vong sớm của các bệnh và chấn thương ở nam giới của
Việt Nam năm 2008 là 4,1 triệu YLL và ở nữ giới là 2,7 triệu YLL.
 Các nguyên nhân chính của YLL năm 2008 bao gồm các bệnh tim mạch (24%), ung
thư (21%) và chấn thương không chủ định (17%).
 Đột quỵ (14%), tai nạn giao thông (9%) và ung thư gan (7%) là các nguyên nhân
chính gây tử vong ở nam giới.
 Đột quỵ (17%), tai nạn giao thông (4%) và viêm phổi (4%) là 3 nguyên nhân chính gây
tử vong ở nữ giới.
 10 nguyên nhân hàng đầu của YLL đóng góp 58% trong tổng gánh nặng do tử vong
sớm ở nam và 51% trong tổng gánh nặng do tử vong sớm ở nữ.

GÁNH NẶNG BỆNH TẬT DO TÀN TẬT (YLD)

 Gánh nặng bệnh tật do tàn tật của cả hai giới của Việt nam năm 2008 đều là 2,7 triệu YLD.
 Các bệnh tâm thần kinh (33%), chấn thương không chủ định (20%) và các khuyết tật
về giác quan (8%) là ba nhóm nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng do tàn tật cho
nam giới.
 Bệnh tâm thần kinh (41%), các khuyết tật giác quan (11%) and bệnh cơ xương khớp
(10%) là 3 nguyên nhân chính gây nên gánh nặng bệnh tật cho nữ
 Lạm dụng rượu (14%), trầm cảm (11%) và tai nạn giao thông (8%) là ba nguyên hàng
đâu gây nên gánh nặng bệnh tật không tử vong của nam giới trong khi 3 nguyên nhân
này ở nhóm nữ giới là trầm cảm (29%), khuyết tật về mắt (10%), thoái hóa khớp (9%).
 Mười nguyên nhân hàng đầu của YLD đóng góp 71% trong tổng gánh nặng do tàn tật

ở nam và 81% trong tổng gánh nặng do tàn tật ở nữ.


Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 2




GÁNH NẶNG BỆNH TẬT

 Tổng gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam năm 2008 là 12,3 triệu DALYs, trong đó gánh
nặng bệnh tật ở nam giới chiếm 56% tổng gánh nặng.
 Gánh nặng bệnh tật do tử vong sớm chiếm 56% tổng gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam,
60% tổng gánh nặng bệnh tật ở nam và 50% tổng gánh nặng bệnh tật ở nữ.
 Gánh nặng bệnh tật do các bệnh không truyền nhiễm chiếm 66% tổng gánh nặng
bệnh tật ở nam và 77% tổng gánh nặng bệnh tật ở nữ.
 Chấn thương không chủ định (18%), các bệnh tim mạch (17%) và các bệnh tâm thần
kinh (14%) là các nhóm nguyên nhân chính của gánh nặng bệnh tật ở nam giới trong
khi ở nữ giới các nhóm nguyên nhân chính của gánh nặng bệnh tật là các bệnh tâm
thần kinh (22%), các bệnh tim mạch (18%) và ung thư (12%).
 Ở nam giới, đột quỵ là nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật (10%), tiếp đến là
tai nạn giao thông (8%) và các rối loạn do lạm dụng rượu (5%).
 Ở nữ giới, trầm cảm là nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật (12%), tiếp
đến là đột quỵ (10%) và khiếm thị (4%).
 Nhiễm khuẩn hô hấp dưới (viêm phổi) là nguyên nhân chính của gánh nặng bệnh tật
ở trẻ em, chiếm 11% tổng gánh nặng bệnh tật.
 Tai nạn giao thông và HIV/AIDS chiếm một phần tư tổng gánh nặng bệnh tật ở nam
giới độ tuổi 15-44. Trầm cảm và tai nạn giao thông chiếm 32% tổng gánh nặng bệnh
tật ở nữ giới độ tuổi này.

 Đột quỵ là nguyên nhân hàng đầu của gánh nặng bệnh tật ở nam (14%) và nữ (9%)
độ tuổi 45-69. Ở độ tuổi trên 70, đột quỵ gây ra 22% tổng DALYs ở nam và 24% tổng
DALYs ở nữ.
CHẤT LƯỢNG SỐ LIỆU
 Hiện nay ở Việt Nam chưa có nhiều số liệu dịch tễ học có chất lượng cao có thể
sử dụng để tính toán gánh nặng bệnh tật.


Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 3



 Thiếu sự nhất quán giữa kết quả của các nghiên cứu/điều tra khác nhau về một bệnh.
 Nên có một trung tâm lưu trữ số liệu chi tiết của các nghiên cứu/điều tra để từ đó
các nhà nghiên cứu có thể phân tích sâu và giám sát chất lượng số liệu.
 Cần đầu tư nâng cao chất lượng hệ thống ghi nhận tử vong và số liệu trong
bệnh viện.

1. GIỚI THIỆU

Nhu cầu về sử dụng dịch vụ y tế ngày càng tăng do sự tăng lên về dân số đặt ra một
thách thức cho tất cả các quốc gia trên toàn cầu. Nguồn lực hạn chế đòi hỏi chính phủ
các nước phải cân nhắc kỹ trong việc đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người
dân. Thiếu các bằng chứng khoa học định hướng cho việc ra quyết định và phân bổ
nguồn lực là rào cản chính đối với việc xây dựng chính sách y tế. Việc ra quyết định đúng
đắn trong phân bổ nguồn lực (dựa trên các tác động về sức khỏe) phụ thuộc rất nhiều
vào sự sẵn có các thông tin chính xác và có thể dùng để so sánh. Các nhà nghiên cứu
của trường Đại học Harvard và Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã xây dựng một phương
pháp tổng quát để đo lường những mất mát về mặt sức khỏe của quần thể cho Báo cáo

Phát triển Toàn cầu của Ngân hàng Thế giới năm 1993. Mất mát về sức khỏe được đo
lường bằng chỉ số DALY - năm sống hiệu chỉnh theo mức độ tàn tật (sau đây chúng tôi
sẽ gọi là Năm sống tàn tật hiệu chỉnh) cho phép đo lường kết hợp gánh nặng do tử vong
và tàn tật.
Về phương diện chính sách, chỉ số DALY có ưu điểm là cho phép đo lường tình trạng
sức khỏe của quần thể bằng một chỉ số tổng hợp cả tác động của tử vong và tàn tật lên
sức khỏe. Điều này cho phép so sánh quy mô của các vấn đề sức khỏe khác nhau và so
sánh chi phí-hiệu quả của các can thiệp cho một vấn đề sức khỏe hay cho một số bệnh.
Thông tin về quy mô của các vấn đề sức khỏe hiện tại và trong tương lai, cùng với thông
tin về khả năng đáp ứng dịch vụ y tế bằng các can thiệp có tính chi phí - hiệu quả là
những thông tin rất hiệu quả dành cho các nhà hoạch định chính sách.




Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 4



Mục đích của Nghiên cứu “Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở Việt Nam 2008” là
đo lường gánh nặng của bệnh và chấn thương ở Việt Nam. Nghiên cứu này áp dụng
phương pháp của nghiên cứu “Gánh nặng bệnh tật toàn cầu” (GBD). Báo cáo này
cung cấp các thông tin dịch tễ học nhất quán cho một danh sách bệnh và chấn thương
ở Việt Nam năm 2008.
Theo sau báo cáo này sẽ là báo cáo về gánh nặng bệnh tật của một số yếu tố nguy cơ.
Nghiên cứu “Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở Việt Nam 2008” là một cấu phần của
dự án “Cung cấp các bằng chứng khoa học về bệnh tật và tử vong cho quá trình hoạch
định chính sách y tế ở Việt Nam” (VINE) trong khuôn khổ hợp tác giữa Bộ Y tế, trường
Đại học Y Hà Nội, trường Đại học Y tế công cộng và Đại học Queensland-Úc. Các nghiên

cứu viên của trường Đại học Y tế công cộng và Đại học Queensland chịu trách nhiệm
thực hiện nghiên cứu này trên cơ sở sử dụng thông tin về nguyên nhân tử vong của
nghiên cứu Điều tra nguyên nhân tử vong bằng phương pháp phỏng vấn (VA) và các
thông tin thu thập từ các nghiên cứu dịch tễ học hoặc các nguồn số liệu khác. Kết quả
của hai nghiên cứu này được sử dụng cho các đánh giá chi phí – hiệu quả thuộc cấu
phần thứ ba của dự án VINE.

2. MỤC TIÊU

2.1 MỤC TIÊU CHUNG
Cung cấp đánh giá tổng thể về gánh nặng bệnh tật do tử vong sớm và tàn tật theo từng
nguyên nhân bệnh và loại chấn thương.

2.2 MỤC TIÊU CỤ THỂ

 Ước lượng tỷ lệ tử vong của Việt Nam năm 2008 theo tuổi và giới.
 Cung cấp các số liệu mới mắc, hiện mắc, tử vong và thời gian mắc theo tuổi và giới
của từng bệnh và loại chấn thương một cách đồng nhất.
 Đo lường gánh nặng bệnh tật do tử vong sớm, do tàn tật và do cả hai phần này (chỉ
số DALY).


Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 5




3. PHƯƠNG PHÁP


Nghiên cứu “Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở Việt Nam 2008” chủ yếu sử dụng
phương pháp của nghiên cứu GBD. Nghiên cứu GBD lần đầu tiên được thực hiện vào
đầu những năm 1990 với mục tiêu đo lường gánh nặng của bệnh và chấn thương của
các quần thể khác nhau và xác định các vấn đề sức khỏe chính trên toàn cầu [1].
Phương pháp của nghiên cứu cho phép lượng hóa tất cả các tình trạng bệnh/chấn
thương bằng một chỉ số tổng hợp gọi là chỉ số DALY.
DALYs của một bệnh hay tình trạng sức khỏe được tính bằng tổng số năm sống mất đi
do tử vong sớm (YLL) trong quần thể và số năm sống “khỏe mạnh” mất đi do tàn tật
(hoặc số năm phải sống với bệnh hay tình trạng sức khỏe đó) (YLD) của các trường hợp
mới mắc bệnh hay tình trạng sức khỏe đó:

DALY = YLL + YLD
DALYs trong nghiên cứu GBD được chiết khấu ở mức 3% và áp dụng trọng số tuổi trong
khi DALYs của nghiên cứu “Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở Việt Nam 2008” cũng
được chiết khấu nhưng không áp dụng trọng số tuổi. Hiện vẫn còn nhiều tranh cãi xung
quanh việc áp dụng trọng số tuổi với ý nghĩa gán cho những người ở độ tuổi lao động có
trách nhiệm xã hội cao hơn trẻ em và người già [2].
Nghiên cứu này sử dụng kết hợp trọng số bệnh tật (DW) của nghiên cứu GBD và nghiên
cứu của Hà Lan [3], trong đó nghiên cứu của Hà Lan tính toán DW chi tiết hơn cho các
mức độ trầm trọng của bệnh.

3.1. ƯỚC TÍNH TỬ VONG
Số liệu tử vong theo nguyên nhân được tính dựa trên điều tra đại diện quốc gia về
nguyên nhân tử vong sử dụng phương pháp xác định nguyên nhân tử vong bằng
phương pháp phỏng vấn (VA) thực hiện tại 192 xã của 16 tỉnh thành đại diện cho 5 vùng
kinh tế - xã hội của Việt Nam là Thái Nguyên, Hòa Bình, Sơn La, Hà Nội, Quảng Ninh,



Dự án VINE

Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 6




Hải Dương, Thanh Hóa, Bình Định, Đắc Lắc, Khánh Hòa, Thừa Thiên Huế, Bình Dương,
Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Kiên Giang. Điều tra sử dụng kỹ thuật
chọn mẫu cụm nhiều giai đoạn với đơn vị mẫu đầu tiên là tỉnh thành và hộ gia đình là
đơn vị lên danh sách (listing units). Mẫu nghiên cứu gồm có 668.142 hộ gia đình với
2.616.056 người, đại diện cho khoảng 3% dân số Việt Nam.

Ghi nhận tử vong
Danh sách những trường hợp tử vong trong khoảng thời gian 01/01/2008 đến 31/12/2008
được lấy từ 3 hệ thống sổ sách ghi nhận tại tuyến xã: ghi nhận của trạm y tế xã, ghi nhận
của Ủy ban nhân dân xã và ghi nhận của cơ quan dân số. Với mỗi trường hơp tử vong,
các thông tin về người chết (tuổi, giới, ngày mất) và địa chỉ hộ gia đình được ghi lại nhằm
thuận tiện cho việc tìm hộ gia đình để phỏng vấn về nguyên nhân tử vong.

Xác định nguyên nhân tử vong
Giai đoạn 2 của quá trình thu thập số liệu về tử vong là phỏng vấn người chăm sóc chính
của người đã mất. Ở Việt Nam, điều tra nguyên nhân tử vong sử dụng phương pháp
phỏng vấn lần đầu tiên được áp dụng để ước tính tử vong mẹ và tử vong sơ sinh [4] và
sau đó là xác định nguyên nhân tử vong ở người trưởng thành tại Fila Bavi, một hệ thống
giám sát dân số cách Hà Nội khoảng 1 giờ đi bằng ô tô [5, 6]. Để điều tra nguyên nhân
tử vong sử dụng phương pháp phỏng vấn cho toàn quốc, bộ câu hỏi chuẩn của WHO đã
được chỉnh sửa cho phù hợp với bối cảnh của Việt Nam dựa trên những kinh nghiệm thu
được qua nghiên cứu tại Fila Bavi. Bộ câu hỏi bao gồm 2 phiếu: một phiếu phỏng vấn
cho các trường hợp tử vong chu sinh và trẻ dưới 12 tuổi và phiếu thứ 2 cho các trường
hợp tử vong vị thành niên và người trưởng thành. Bộ câu hỏi thu thập các thông tin về (i)
gia đình và các đặc điểm dân số học; (ii) các dấu hiệu và triệu chứng thông qua bảng

kiểm; (iii) các câu hỏi mở để tìm ra các thông tin về tình trạng ốm đau/bệnh tật dẫn đến tử
vong; và (iv) thông tin về việc tiếp cận dịch vụ y tế trong khoảng thời gian ốm đau trước
khi chết. Bản tiếng Anh của bộ câu hỏi đã được dịch ra tiếng Việt và thử nghiệm trước
khi sử dụng chính thức cho nghiên cứu.


Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 7



Ở mỗi xã được chọn, 2 điều tra viên được tuyển là nhân viên trạm y tế (y tá hoặc nữ hộ
sinh) và cán bộ dân số. Điều tra viên được tập huấn trong 3 ngày về các kỹ năng phỏng
vấn điều tra nguyên nhân tử vong. Quá trình tập huấn tập trung vào kỹ thuật làm dịu nỗi
đau và các kỹ năng truyền thông để động viên người chăm sóc chính của người đã mất
tham gia vào cuộc phỏng vấn và đưa ra các câu trả lời chính xác, đầy đủ. Ngoài ra, điều
tra viên cũng được tập huấn đầy đủ các nội dung của bộ câu hỏi, mục đích chính của
từng câu hỏi và hướng dẫn cụ thể cách ghi lại các câu trả lời. Phương pháp tập huấn
gồm có thuyết trình, thảo luận nhóm, đóng vai và thực hành. Trong quá trình tập huấn
cũng đề cập đến việc các kiến thức về y khoa của điều tra viên có thể gây nhiễu/sai lệch
kết quả phỏng vấn và hướng dẫn cụ thể cách hỏi và ghi lại câu trả lời cho từng câu hỏi là
phương pháp để hạn chế yếu tố nhiễu này.
Quá trình điều tra nguyên nhân tử vong được điều phối bởi 5 trường đại học Y Dược là
Đại học Y Dược Thái Nguyên và Đại học Y Hà Nội ở miền Bắc, Đại học Y Dược Huế ở
miền Trung, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Y Dược Cần Thơ ở
miền Nam. Để thuận tiện cho việc chuẩn bị và điều phối, 16 tỉnh thành được chia thành 5
cụm (Bảng 1) tương ứng với vị trí địa lý của mỗi trường. Mỗi trường chịu trách nhiệm thu
thập thông tin về nguyên nhân tử vong, thẩm định lại phiếu điều tra để xác định nguyên
nhân tử vong và mã hóa nguyên nhân tử vong vào các nhóm. Điều tra hoàn thành trong
6 tháng, từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2009.


Bảng 1. Các cụm điều tra nguyên nhân tử vong theo các trường Đại học Y

STT Tên trường Đại học Y Tỉnh phụ trách
1 Hà Nội Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Dương, Thanh Hóa
2 Thái Nguyên Thái Nguyên, Hòa Bình, Sơn La
3 Huế Thừa Thiên Huế, Bình Định, Khánh Hòa
4 HCM HCM, Lâm Đồng, Bình Dương
5 Cần Thơ Cần Thơ, An Giang




Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 8



Tổng số 9.293 phiếu điều tra đã được thẩm định bởi một nhóm các bác sỹ y khoa có kinh
nghiệm tại mỗi trường Đại học Y Dược và nhóm này xác định nguyên nhân tử vong vào
phiếu xác định nguyên nhân tử vong chuẩn [7]. Nguyên nhân chính gây tử vong được xác
định và mã hóa theo Hệ thống phân loại bệnh tật quốc tế phiên bản 10 (ICD-10) bởi các bác
sỹ y khoa đã được học về mã hóa ICD và có khả năng tiếng Anh tốt (có thể sử dụng phiên
bản tiếng Anh của ICD-10).

Phân tích thống kê
Có nhiều phương pháp gián tiếp như phương pháp Preston-Coale [8] nhằm đánh giá
tính chưa đầy đủ của hệ thống ghi nhận tử vong. Khi sử dụng phương pháp này đối
với các trường hợp tử vong được ghi nhận trong Điều tra biến động dân số năm 2006
của Tổng Cục thống kê, kết quả về tính đầy đủ rất thấp của hệ thống ghi nhận tử vong

(54% đối với tử vong ở nam và 69% đối với tử vong ở nữ) có vẻ không hợp lý. Vì vậy,
chúng tôi sử dụng ước lượng tử vong trẻ em và khả năng tử vong ở độ tuổi 15-59 của
nghiên cứu GBD mới [9, 10]. Ước lượng tử vong của Việt Nam năm 2008 được tính
theo phương pháp hồi quy các số liệu tử vong hiện có trên toàn cầu từ năm 1950.
Chúng tôi cho rằng những ước lượng này là đáng tin cậy nhất trong các số liệu hiện
có. Chúng tôi sử dụng chương trình phần mềm ModMatch của nghiên cứu GBD để
đưa các số liệu về tử vong trẻ em và người trưởng thành vào bảng sống. Sau đó mô
hình nguyên nhân tử vong theo tuổi và giới của nghiên cứu VA được áp dụng đối với
ước lượng tử vong của tất cả các nguyên nhân trong bảng sống để có được số liệu tử
vong theo nguyên nhân của toàn quốc.

3.2. SỐ NĂM SỐNG MẤT ĐI DO TỬ VONG SỚM (YLL)

YLL là cấu phần tử vong của DALYs và được tính theo kỳ vọng sống chuẩn của mỗi tuổi.
YLL ở các trường hợp tử vong tại mỗi nhóm tuổi theo giới được ước tính từ tuổi trung
bình khi tử vong và kỳ vọng sống chuẩn tại tuổi trung bình khi tử vong ở nhóm tuổi đó.
Công thức cơ bản để tính YLL là:
YLL = N * L


Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 9



Trong đó N là số trường hợp tử vong theo nhóm tuổi và giới và L là kỳ vọng sống chuẩn theo
nhóm tuổi và giới. Với tỷ lệ chiết khấu 3%, công thức tính sẽ là:

YLL = N * (1-e
-0.03L

) /0.03

3.3. SỐ NĂM SỐNG MẤT ĐI DO TÀN TẬT (YLD)
Mất mát về sức khỏe của những tình trạng sức khỏe không tử vong được tính dựa vào tỷ
suất mới mắc của tình trạng sức khỏe đó (bệnh tật hoặc chấn thương) trong năm nghiên
cứu. Với mỗi trường hợp mới mắc, số năm sống khỏe mạnh mất đi do tàn tật được tính
bằng cách nhân thời gian mắc bệnh hoặc chấn thương trung bình (đến khi khỏi hoặc tử
vong) với trọng số về mức độ trầm trọng (trọng số bệnh tật) của bệnh hoặc chấn thương
đó. Công thức cơ bản để tính YLD là:

YLD = I * DW * L

Trong đó I là số trường hợp mới mắc trong thời gian nghiên cứu, DW là trọng số bệnh tật
và L là thời gian mắc bệnh hoặc chấn thương trung bình (tính bằng năm). Với tỷ lệ chiết
khấu 3%, công thức tính sẽ là:

YLD = I * DW * L*(1-e
-0.03L
) / 0.03

Để cho ngắn gọn trong báo cáo này trở về sau chúng tôi gọi YLD là số năm sống tàn tật.

3.4. CÁC NHÓM BỆNH HOẶC CHẤN THƯƠNG

Một trong những mục tiêu chính của nghiên cứu GBD là xây dựng phương pháp ước tính
nhất quán và tin cậy các số liệu về gánh nặng bệnh tật, loại trừ được sự ước tính quá
cao về gánh nặng bệnh tật của một bệnh hay chấn thương nào đó do tính nhiều lần.

Cách tiếp cận của nghiên cứu là xác định các nhóm bệnh hoặc chấn thương hoàn toàn
riêng biệt của hơn 100 tình trạng sức khỏe và 400 giai đoạn bệnh sử dụng mã ICD-10.

Trong nghiên cứu của Việt Nam, các bệnh/chấn thương được chia làm 3 nhóm lớn, 22
phân nhóm bệnh hoặc chấn thương và các bệnh hoặc chấn thương cụ thể theo đúng cấu
trúc của danh sách bệnh và chấn thương của GBD (Phụ lục 1).


Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 10



Báo cáo này mô tả phương pháp đã được sử dụng để tính gánh nặng do tàn tật (YLD)
của 42 bệnh và chấn thương theo các giai đoạn hoặc hậu quả bệnh. Các bệnh và chấn
thương được lựa chọn trên cơ sở được cho là đóng góp đáng kể vào tổng gánh nặng do
tàn tật dựa trên xếp hạng của nghiên cứu Gánh nặng bệnh tật (BoD) tại Thái Lan năm
1999 [11] và các số liệu hiện có ở Việt Nam. Danh sách các bệnh và chấn thương được
lựa chọn cho nghiên cứu này chưa được đầy đủ, do đó kết quả của một số tình trạng
bệnh hoặc chấn thương phải ngoại suy do hạn chế về số liệu hiện có ở Việt Nam.
Ngược lại, ước tính gánh nặng bệnh tật do tử vong được cho là khá đầy đủ trong điều
kiện hạn chế của việc thu thập số liệu về nguyên nhân tử vong hiện nay. Do vậy, để hoàn
thiện bức tranh toàn cảnh về tổng gánh nặng bệnh tật của Việt Nam, chúng tôi sử dụng
một số giả định sau đây để tính gánh nặng do tàn tật của 41 bệnh và chấn thương không
được phân loại riêng:
 Đối với các bệnh/chấn thương có tỷ lệ tử vong cao, chúng tôi sử dụng tỉ số YLD/YLL
của các nhóm bệnh liên quan được phân loại riêng trong danh sách để tính gánh
nặng do tàn tật của các bệnh hoặc chấn thương đó.
 YLD cho một số tình trạng bệnh/chấn thương ở Việt Nam được tính bằng cách nhân tỉ
số YLD/YLL của bệnh/chấn thương đó trong nghiên cứu BoD của Thái Lan năm 1999
với YLL của Việt Nam. Chúng tôi sử dụng phương pháp ngoại suy này đối với suy
dinh dưỡng, rối loạn nội tiết, bệnh thấp tim (rheumatic heart disease), bệnh tim do
tăng huyết áp (hypertensive heart disease), bệnh tim do viêm (inflammatory heart dis-

ease), các bệnh di truyền và các dị tật bẩm sinh. Đối với các bệnh đường tiêu hóa,
YLD ở Việt Nam được tính bằng tỉ số YLD/YLL của các bệnh đường tiêu hóa ở Thái
Lan. YLD của các nhóm “khác” trong mỗi phân nhóm như “các bệnh tim mạch khác”,
“các ung thư khác”, “các bệnh lý thời kỳ chu sinh khác”, “các bệnh ở bà mẹ khác”,
“các nhiễm khuẩn khác” được ngoại suy sử dụng tỉ số YLD/YLL của các bệnh trong
phân nhóm đã được tính YLD và YLL. Vì số liệu các nghiên cứu hiện nay của Việt
nam chỉ cho phép ước tính YLD trực tiếp cho động kinh và mất trí nhớ một các chính
xác nên YLD của “các bệnh tâm thần kinh khác” được tính từ tỉ số tổng YLD/tổng YLL
của động kinh và mất trí nhớ của Việt nam.


Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 11



 Đối với những bệnh/chấn thương có tỷ lệ tử vong thấp mà không được phân loại
riêng trong danh sách, để tính YLD, chúng tôi sử dụng tỷ lệ YLD theo tuổi và giới từ
nghiên cứu BoD ở Thái Lan năm 1999.

3.5. DÂN SỐ

Dân số được ước tính dựa trên điều tra dân số quốc gia năm 1999 và 2009. Hai cuộc tổng
điều tra dân số gần đây cung cấp số liệu về số người, số hộ gia đình và các đặc tính dân số.

3.6. CHIẾT KHẤU

DALY đo lường số năm sống khỏe mạnh mất đi trong tương lai của mỗi trường hợp tử
vong hay mỗi trường hợp mới mắc bệnh/chấn thương. Như vậy, DALY được coi là
phương pháp đo lường dựa trên số liệu mới mắc hơn là số liệu hiện mắc. Nghiên cứu

GBD áp dụng mức chiết khấu 3% đối với những năm sống mất đi trong tương lai để ước
tính giá trị hiện tại của những năm sống đó. Ví dụ, khi áp dụng chiết khấu 3%, một năm
sống khỏe mạnh của 10 năm sau có giá trị thấp hơn 24% giá trị của một năm sống khỏe
mạnh ở hiện tại.
Áp dụng chiết khấu cho những lợi ích trong tương lai là phương pháp chuẩn được sử
dụng trong các phân tích kinh tế. Việc áp dụng chiết khấu đối với DALY trong tính toán
sức khỏe dân số [12] nhằm đảm bảo:
 Nhất quán với phương pháp đo lường kết quả về sức khỏe trong các phân tích chi
phí - hiệu quả.
 Tránh việc gán trọng số quá lớn cho các trường hợp tử vong ở lứa tuổi trẻ (nếu
không áp dụng trọng số tuổi và chiết khấu thì một trường hợp tử vong ở 0 tuổi của
nam giới đóng góp YLL nhiều hơn một trường hợp tử vong ở tuổi 25 là 44% và
một trường hợp tử vong ở tuổi 40 là 97%; nếu áp dụng chiết khấu 3% thì một
trường hợp tử vong sơ sinh chỉ đóng góp YLL nhiều hơn 12% so với một trường
hợp tử vong ở 25 tuổi và 29% so với một trường hợp tử vong ở 40 tuổi).
 Tránh được những nghịch lý trong lựa chọn đầu tư cho nghiên cứu hay cho loại
trừ một bệnh nào đó: giả dụ việc đầu tư cho nghiên cứu hoặc cho loại trừ một


Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 12



bệnh nào đó có cơ hội thành công, nếu không áp dụng chiết khấu thì tất cả kinh
phí hiện tại sẽ được cho là nên đầu tư vào bệnh đó bởi lợi ích tương lai của việc
đầu tư này là vô hạn.
Chiết khấu có tác động rất lớn đến việc ước tính quy mô của kết quả sức khỏe. Chiết
khấu làm thay đổi giá trị của các trường hợp tử vong ở các độ tuổi khác nhau. Vì vậy,
việc lựa chọn tỷ lệ chiết khấu nào cho kết quả về sức khỏe, cho dù là do yêu cầu về

mặt kỹ thuật tính toán, cũng có thể dẫn đến sự phân chia không thể chấp nhận được
về mặt đạo đức giữa các thế hệ. Do không dễ giải quyết những vấn đề xung quanh
chiết khấu, nghiên cứu GBD công bố cả 2 kết quả về gánh nặng bệnh tật: có chiết
khấu và không có chiết khấu.
Mức chiết khấu 5%/năm thường được sử dụng trong kinh tế y tế và các phân tích chính
sách xã hội trong nhiều năm. Trong những thập niên gần đây, các nhà môi trường và
các nhà phân tích năng lượng thay thế đã tranh luận rất nhiều về việc áp dụng mức chiết
khấu thấp hơn đối với các quyết định mang tính xã hội. Nghiên cứu xác định ưu tiên
trong kiểm soát bệnh tật của Ngân hàng Thế giới và nghiên cứu GBD đều sử dụng tỷ lệ
chiết khấu 3% [13,14]. Hội đồng phân tích chi phí-hiệu quả trong y dược của Mỹ gần đây
đã khuyến cáo về việc sử dụng tỷ lệ chiết khấu 3% trong các nghiên cứu chi phí-hiệu quả
đối với cả chi phí và kết quả sức khỏe [15] và phải có phân tích độ nhạy đối với kết quả
thu được. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng tỷ lệ chiết khấu 3% đối với DALY.

3.7. TRỌNG SỐ BỆNH TẬT

DALY sử dụng giá trị “ưu tiên” của các tình trạng sức khỏe khác nhau, được gọi là “trọng
số bệnh tật” (DW). Trọng số bệnh tật đo lường mức độ “ưu tiên” của xã hội đối với mỗi
tình trạng sức khỏe. Trọng số này không thể hiện sự trải nghiệm khi sống trong điều kiện
tàn tật hay tình trạng sức khỏe nào đó hay thể hiện giá trị xã hội của một người sống
trong điều kiện sức khỏe đó. Nó chỉ đo lường sự “ưu tiên” của xã hội đối với tình trạng
sức khỏe đó so với tình trạng sức khỏe “lý tưởng”. Trọng số bệnh tật có giá trị từ 0 đến 1
với 0 là hoàn toàn khỏe mạnh và 1 là tử vong.


Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 13




Trọng số bệnh tật của tình trạng liệt hai chi dưới là 0,57 không có nghĩa một người trong
tình trạng này là “chết một nửa” hay giá trị xã hội của người đó thấp hơn của những
người khác. Nó chỉ có nghĩa xã hội đánh giá một năm sống với tình trạng mù lòa (DW
0,43) được chấp nhận hơn so với một năm sống với tình trạng liệt hai chi dưới (DW 0,57)
và một năm sống với tình trạng liệt hai chi dưới được xã hội chấp nhận hơn so với một
năm sống liên tục trong tình trạng trầm cảm nặng (DW 0,76). Nó cũng có nghĩa rằng xã
hội chấp nhận một người sống 1 năm hoàn toàn khỏe mạnh rồi tử vong hơn là sống 1
năm với tình trạng liệt hai chi dưới và sau đó tử vong. Bên cạnh đó, xã hội chấp nhận
một người sống 3 năm với tình trạng liệt hai chi dưới rồi tử vong hơn là sống 1 năm hoàn
toàn khỏe mạnh rồi tử vong (3x (1-0,57) = 1,3 năm sống “khỏe mạnh” lớn hơn 1 năm
sống trong tình trạng hoàn toàn khỏe mạnh).
Trọng số bệnh tật sử dụng trong nghiên cứu BoD được xác định bằng phương pháp
“hoán đổi về con người” (PTO) bởi nó gần với việc đo lường sự chấp nhận của xã hội
hơn so với các phương pháp khác. Khi sử dụng phương pháp này, trọng số bệnh tật của
22 tình trạng sức khỏe được các nhóm chuyên gia y tế trên khắp thế giới xác định và sau
đó là một quá trình thảo luận cho phép các thành viên của nhóm chỉnh sửa những đánh
giá ban đầu của họ sau khi nghe phản biện từ các thành viên khác. Đã có tranh cãi về sự
chấp nhận đối với các tình trạng sức khỏe là khác nhau ở các quần thể dân số khác nhau
về niềm tin văn hóa, khái niệm về sức khỏe, kỳ vọng về sức khỏe cũng như sự khỏe
mạnh. Tuy nhiên có rất ít bằng chứng chứng tỏ cho điều này [17]. Nghiên cứu GBD thực
hiện nghiên cứu về sự chấp nhận đối với các tình trạng sức khỏe trên 10 quốc gia và kết
quả rất ngạc nhiên là có sự nhất quán khá cao giữa trọng số bệnh tật cho 22 tình trạng
sức khỏe với các mức độ trầm trọng khác nhau [16].
Chúng tôi sử dụng trọng số sẵn có hoặc được tính toán lại từ hai nguồn: nghiên cứu
GBD và trọng số của Hà Lan sử dụng trong nghiên cứu của Úc [3, 18]. Nghiên cứu của
Hà Lan chỉ cho trọng số bệnh tật của một số tình trạng sức khỏe nhưng được xác định
cho các giai đoạn và mức độ trầm trọng của tình trạng sức khỏe. Chính vì vậy, trọng số
bệnh tật của Hà Lan có thể áp dụng trong các mô hình bệnh chi tiết để ước tính YLD.
Trọng số bệnh tật của Hà Lan cũng có ưu điểm là chúng định nghĩa một giai đoạn hay
mức độ trầm trọng của tình trạng sức khỏe theo những mô tả chuẩn sử dụng các mức



Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 14



phân loại của EuroQol với 6 phạm trù (đi lại, tự chăm sóc, hoạt động thường ngày, đau
đớn, tình cảm và nhận thức) và 3 mức độ trầm trọng cho mỗi phạm trù (‘không có vấn
đề”, “có chút vấn đề” và “rất có vấn đề”).

Nghiên cứu GBD có trọng số bệnh tật cho nhiều tình trạng sức khỏe nhưng không cụ thể
cho từng giai đoạn hay mức độ trầm trọng của tình trạng sức khỏe. Riêng đối với chấn
thương, nghiên cứu GBD có trọng số bệnh tật khá toàn diện cho 39 loại chấn thương với
thời gian “ngắn hạn” và “dài hạn”. Trọng số bệnh tật của đa số các tình trạng sức khỏe từ
2 nguồn khó có thể so sánh trực tiếp với nhau bởi các bệnh trong nghiên cứu của Hà Lan
cụ thể hơn. Hệ số tương quan giữa 2 hệ thống trọng số bệnh tật là 0,91 cũng như đường
mô phỏng khá khớp với nhau (giá trị độ dốc: 0,998 và điểm cắt: 0,009) cho thấy có thể sử
dụng trọng số của GBD và của Hà Lan trong cùng một nghiên cứu.

Danh sách các trọng số bệnh tật được sử dụng trong nghiên cứu cùng nguồn số liệu của
chúng được trình bày ở Phụ lục 2.

3.8. TRỌNG SỐ TUỔI
Nghiên cứu GBD coi một năm khỏe mạnh ở lứa tuổi trẻ và già có giá trị thấp hơn ở
những lứa tuổi khác.Tuy nhiên, không có sự thống nhất trong việc gán cho năm sống ở
lứa tuổi trẻ và già có giá trị thấp hơn hoặc nếu làm vậy thì thấp hơn bao nhiêu so với năm
sống ở lứa tuổi khác.
Trọng số tuổi là giá trị được lựa chọn gây nhiều tranh cãi nhất khi tính toán DALY. Bốn
vấn đề tranh cãi chính xung quanh trọng số tuổi là [2, 19]:

 Xét ở góc độ công bằng, trọng số tuổi là không thể chấp nhận được bởi các
năm sống phải có giá trị như nhau;
 Trọng số tuổi chưa được kiểm chứng trên quần thể dân số lớn;
 Trọng số tuổi không phản ánh giá trị xã hội; và


Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 15



 Sử dụng trọng số tuổi chỉ làm phức tạp thêm phương pháp tính toán gánh nặng
bệnh tật và làm nó trở nên khó hiểu trong khi kết quả cuối cùng thay đổi rất không
đáng kể.
Ngược lại, có một số ý kiến cho rằng trọng số tuổi bản thân nó đã mang tính công bằng
bởi mỗi cá nhân đều có thể sống qua các lứa tuổi khác nhau và nó thực chất đã phản
ánh các ưu tiên được chấp nhận về mặt xã hội [20]. Nghiên cứu gánh nặng bệnh tật và
chấn thương của Việt Nam sử dụng trọng số tuổi đồng nhất có nghĩa một năm sống khỏe
mạnh có giá trị như nhau ở tất cả các lứa tuổi.

3.9. TỶ LỆ MỚI MẮC VÀ THỜI GIAN MẮC

Bước đầu tiên khi tính toán YLD là xác định số trường hợp mới mắc của một bệnh hoặc
loại chấn thương nào đó trong năm nghiên cứu và ước tính hay mô hình hóa thời gian
mắc bệnh hoặc chấn thương và đôi khi xây dựng mô hình của bệnh/chấn thương theo
các giai đoạn và mức độ trầm trọng. Với một số bệnh/chấn thương, ta có thể lấy số liệu
mới mắc từ các hệ thống ghi nhận bệnh, các số liệu thường kỳ hay các nghiên cứu dịch
tễ học, tuy nhiên đa số bệnh/chấn thương chỉ có số liệu hiện mắc. Ngoài ra, ta cũng
thường phải ước tính thời gian mắc bệnh trung bình thông qua các số liệu khác như tỷ lệ
khỏi bệnh hay tỷ lệ tử vong. Đối với những bệnh/chấn thương đó, chúng tôi sử dụng

phần mềm DISMOD2. Mô hình sử dụng trong DISMOD2 được mô tả dưới đây (Hình 1).

Mô hình dịch tễ học của một bệnh được mô tả bằng các chỉ số mới mắc, hiện mắc, khỏi
bệnh, thời gian mắc, và một số chỉ số về tử vong (nguy cơ tương đối, tỷ lệ chết/mắc hay
tỷ lệ tử vong). Các chỉ số này khác nhau về bản chất. Ví dụ, tỷ lệ mới mắc và tỷ lệ
chết/mắc mô tả sự biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác trong khi tỷ lệ hiện
mắc chỉ đơn thuần là tỷ lệ phần trăm. Về cơ bản, tất cả các chỉ số này đều có thể thu
được qua quan sát/theo dõi tùy theo mức độ khó thực hiện. Ví dụ như tỷ lệ tử vong thì
có thể dễ dàng quan sát/theo dõi nhưng đối với một số bệnh thì có thể xác định nhầm
nguyên nhân tử vong; tuy nhiên các số liệu về nguyên nhân tử vong thường là nguồn
thông tin đáng tin cậy.


Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 16




Hình 1. Mô hình cơ bản của bệnh sử dụng trong DISMOD2

Nếu có 3 trong 5 chỉ số trên thì DISMOD2 có thể tính toán 2 chỉ số còn lại. Thông thường
ta hay có tỷ lệ hiện mắc, tỷ lệ tử vong và một số thông tin về tỷ lệ khỏi bệnh. DISMOD2
tính tỷ lệ mới mắc và thời gian mắc bệnh trung bình theo tuổi và giới sao cho nhất quán
với các chỉ số đã biết.
Tuy các giả định khác nhau về tỷ lệ khỏi bệnh và tỷ lệ chết/mắc ảnh hưởng đến sự phân
bố theo tuổi của tỷ lệ hiện mắc và YLD, tổng YLD gần như không bị thay đổi do các giả
định này khớp với phân bố cố định của tỷ lệ hiện mắc. Đó là do YLD được tính bằng cách
nhân số trường hợp mới mắc với thời gian mắc bệnh - gần như tương đương với số hiện
mắc. Nói cách khác, đối với đa số các bệnh, sự kết hợp giữa tỷ lệ mới mắc, tỷ lệ

chết/mắc và tỷ lệ khỏi bệnh (để tính ra thời gian mắc bệnh) sử dụng trong tính toán YLD
tạo ra rất ít sự khác biệt về tổng YLD ở các nhóm tuổi nếu mô hình hiện mắc không thay
đổi. Tuy nhiên khi áp dụng chiết khấu thì phức tạp hơn, các bệnh có tỷ lệ mới mắc thấp
và thời gian mắc bệnh dài bị chiết khấu nhiều hơn những bệnh có tỷ lệ mới mắc cao
nhưng thời gian mắc bệnh ngắn.
Đối với những giai đoạn bệnh có thời gian ngắn như giai đoạn hồi phục sau phẫu thuật,
thay vì sử dụng DISMOD2, chúng tôi sử dụng các giả định về thời gian mắc trong các y
văn hoặc theo ý kiến của chuyên gia.


Dự án VINE
Trường Đại học Y tế Công cộng Trang 17




4. TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH BỆNH VÀ CHẤN THƯƠNG

4.1. LAO

Chúng tôi sử dụng số liệu thường niên về lao từ năm 2002 đến năm 2008 của Bệnh
viện Phổi Trung Ương (số liệu này cũng được sử dụng trong hệ thống dữ liệu Lao
toàn cầu của WHO) để tính số mới mắc lao. Do chỉ có số mới mắc AFB+ theo tuổi và
giới, chúng tôi áp dụng mô hình theo tuổi và giới của AFB+ cho các trường hợp mới
mắc lao phổi (bao gồm AFB+ và AFB-) và lao ngoài phổi.
YLD của lao được tính cho 6 nhóm: điều trị và khỏi bệnh, điều trị và tái phát, điều trị
nhưng không khỏi bệnh, không được điều trị và tử vong, không được điều trị nhưng tự
hồi phục và không được điều trị dẫn đến lao mãn tính. Theo một nghiên cứu quần thể ở
Việt Nam, có 20% số trường hợp lao không được ghi nhận [21]. Do không có số liệu của
Việt Nam, chúng tôi giả định giống giả định trong nghiên cứu BoD của Thái Lan rằng tỷ lệ

được điều trị là 70% [11, 22]. Thời gian điều trị lao là 10 tháng, bao gồm 4 tháng có triệu
chứng trước khi điều trị và 6 tháng điều trị [23]. Theo số liệu của Chương trình phòng
chống Lao quốc gia, tỷ lệ khỏi bệnh của các trường hợp được điều trị là 89%. Với 8,6%
là những người tái phát, thời gian điều trị trung bình là 12 tháng (4 tháng trước điều trị và
8 tháng điều trị) [24]. Với 2,4% là những người không khỏi bệnh, thời gian điều trị trung
bình là 18 tháng. Với những người không được điều trị, chúng tôi giả định 50% tử vong,
18% chuyển sang lao mãn tính và 32% tự hồi phục [25].
Trọng số bệnh tật của Hà Lan được sử dụng để tính YLD của lao (0,29 đối với lao phổi
và 0,30 đối với lao ngoài phổi).

4.2. HIV/AIDS

Chúng tôi xây dựng mô hình của HIV/AIDS gồm 4 giai đoạn: Giai đoạn đầu nhiễm HIV
không có triệu chứng (DW của Hà Lan là 0,20), tiếp theo là giai đoạn nhiễm HIV có triệu
chứng (DW là 0,31), sau đó là giai đoạn AIDS (DW là 0,56) và cuối cùng là giai đoạn cuối
của bệnh (DW là 0,95).

×