Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Mối quan hệ giữa chức năng kiểm toán với trách nhiệm của kiểm toán viên về chất lượng báo cáo kiểm toán doanh nghiệp.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.67 KB, 46 trang )

§Ò ¸n m«n häc
ĐẶT VẤN ĐỀ
§Ò ¸n m«n häc
Trong khoảng thời gian mười năm trở lại đây qua các phương tiện
thông tin đại chúng mà mọi người được làm quen với khái niệm kiểm toán nói
chung và kiểm toán Nhà nước, kiểm toán nội bộ, các công ty dịch vị tư vấn kế
toán- kiểm toán nói riêng. Việc hình thành và phát triển dịch vụ kiểm toán là
nhu cầu không thể thiếu của nền kinh tế thị trường nhằm thích ứng với yêu cầu
của nền kinh tế chuyển đổi và hội nhập quốc tế, hoạt động kiểm toán ở nước ta
đã nhanh chóng hình thành và phát triển.Vậy kiểm toán lµ gì? “Kiểm toán là
quá trình mà theo một cá nhân độc lập, có thẩm quyền thu thập và đánh giá các
bằng chứng về các thông tin số lượng cã liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ
thể nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin số
lượng đó với các chuẩn mực đã được xây dựng".
§Ò ¸n m«n häc
Cũng như mọi hoạt đéng có ý thức khác của con người, đặc biệt với tinh
chất của một hoạt động chuyên sâu cao về nghề nghiệp, kiển toán cũng có chức
năng hoạt động của riêng mình nhằm tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và
giám sát quá trình sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp
được thể hiện trên các báo cáo tài chính(BCTC). Vì vậy, chất lượng kiểm toán
BCTC không những là thước đo về tính hiệu quả của hoạt động kiểm toán mà
chất lượng BCTC còn dược thể hiện bằng việc đưa ra lêi nhận xét đúng đắn về
tính trung thực hợp lý và hợp pháp các thông tin được kiểm toám trên BCTC
nhằm phục vụ cho công tác quản lý và điều hành ngân sách Nhà nước của các
cấp chính quyền, các hoạt động quản trị doanh nghiệp, đối với các nhà quản lý,
các hoạt động đầu tư tài chính và các quan hệ giao dịch khác.Như vậy chất
lượng BCTC có vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định trong quản
lý kinh tế, nếu kết quả kiểm toán đưa ra những nhận xét không phù hợp về các
thông tin dược kiểm toám trên BCTC sẽ dẫn rới những hậu quả khó lường trong
hoạt động kinh tế, tài chính đặc biệt trong thời gian vừa qua nhất là trên các
phương tiện thông tin đại chúng đề cập tới các vụ đổ bể của không ít doanh


nghiệp (kể cả một số doanh nghiệp Nhà nước) dẫn tới tình trạng không bảo toàn
vốn sản xuất kinh doanh, thất thoát nghiêm trọng về tài chính cà tài sản, hàng
năm lao động bị mất việc làm hoặc việc làm không ổn định gây nên những xáo
động dư luận xã hội.Không ít những bài báo thực hiện“ đòi hỏi“ công ty kiểm
toán có trách nhiệm như thế nào đối với kiển toán chất lượng BCTC ?Vì vậy
trách nhiệm của kiểm toán viên (KTV) có vị trí rất quan trọng trong chất lượng
BCTC và đòi hỏi phải nắm vữg chức năng hoạt động nghề nghiệp của mình.
Do dó, với tính chất như vậy em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài“ Mối
quan hệ giữa chức năng kiển toán với trách nhiệm của kiển toán viên về
chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính.
§Ò ¸n m«n häc
Đề án môn học
B.NI DUNG
I. C s lý lun:
1. Chức năng của kiểm toán
Hot ng kim toỏn thc hin hai chc nng cơ bản xác minh v by t ý
kin v i tng kim toỏn. i tng kim toỏn núi chung v i tng kim
toỏn núi riờng luụn cha ng nhiu mi quan h v kinh t, v phỏp lý phong
phỳ v a dng. Do ú chc nng xỏc minh v by t ý kin cn c xỏc nh
tht khoa hc. Hn na trong kim toỏn ti chớnh ý kin hay kt lun kim toỏn
khụng phc v cho ngi lp hay ngi xỏc minh m phc v cho ngi quan
tõm n tớnh trung thc v hp phỏp ca BCTC. Do ú kt lun ny phi da
trờn bng chng y v cú hiu lc vi chi phớ kim toỏn thp nht. Do vy
vic xỏc nh mc tiờu kim toỏn khoa hc trờn c s cỏc mi quan h vn cú
ca khỏch th kim toỏn s giỳp KTV thc hin ỳng hng v cú hiu qu hot
ng kim toỏn. c im c bn trong trin khai chc nng chung ca kim
toỏn trong kim toỏn BCTC l thu nhp bng chng t (hay xỏc minh), hiu
rừ hn chc nng ny chỳng ta i tỡm hiu:
1.1/ Chc nng xỏc minh
Chc nng xỏc minh nhm khng nh mc trung thc ca ti liu,

tớnh phỏp lý ca vic thc hin cỏc nghip v hay vic lp cỏc BCTC. Xỏc minh
l chc nng c bn gn lin vi s ra i, tn ti v phỏt trin ca hot ng
kim toỏn. Bn thõn chc nng này khụng ngng phỏt trin v c th hin
khỏc nhau tu tng i tng c th ca kim toỏn l BCTC hay nghip v kinh
t c th hoc ton b ti liu k toỏn. i vi cỏc BCTC vic thc hin chc
nng xỏc minh ny trc ht c th hin s xỏc nhn ca ngi kim tra
c lp bờn ngoi. Ngay t thi Trung c nhng KTV c lp m Edword
nht v cỏc nam tc tuyn dng cng ch ghi mt ch " chng thc " trờn
BCTC. Cho n ngy nay, do quan h kinh t ngy cng phc tp v yờu cu
phỏp lý ngy cng cao nờn vic xỏc minh cỏc BCTC c c th hoỏ thnh cỏc
mc tiờu. Theo chun mc kim toỏn Vit Nam s 200 - khon 11 quy nh
"mc tiờu ca kim toỏn BCTC l giỳp cho KTV v cụng ty kim toỏn a ra ý
§Ò ¸n m«n häc
kiến xác nhận rằng BCTC có được lập trên cơ sở các chuẩn mực và chế độ kế
toán hiện hành hoặc được chứng nhận có tuân thủ pháp luật liên quan và có
phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính trên các khía cạnh trọng yếu
hay không ?"
Mục tiêu kiểm toán tài chính còn giúp cho các đơn vị được kiểm toán thấy
rõ những tồn tại sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài
chính của đơn vị. Trong đó các khái niệm trung thực, hợp lý, hợp pháp được
hiểu:
- Trung thực là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng
sự thật nội dung, bản chất và giá trị của NVKTPS.
- Hợp pháp là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh đúng
pháp luật, đúng chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc
được chấp nhận).
- Hợp lý là thông tin tài chính và tài liệu kế toán phản ánh trung
thực cần thiết và phù hợp về không gian thời gian và sự kiện được
nhiều người thừa nhận.
Để đạt được mục tiêu tổng quát nói trên cần cụ thể hoá hơn nữa cơ sở để

thu nhập thông tin cấu thành và tiến trình thực hiện các yêu cầu trung thực, hợp
lý, hợp pháp trong chức năng xác minh, cơ sở để thu nhập thông tin xuất phát từ
đặc điểm đối tượng kiểm toán tài chính. Có thể thấy đặc điểm nổi bật là BCTC
được hình thành qua công nghệ xử lý thông tin kế toán.
1.1.1/Cơ sở công nghệ thông tin kế toán với việc xác định mục tiêu kiểm
toán
Trong quá trình xử lý thông tin kế toán các phương pháp kĩ thuật riêng có
của kế toán như chứng từ, tính giá, đối ứng tài khoản và tổng hợp – cân đối kế
toán kết hợp chặt chẽ và tạo thành quy trình có tính liên hoàn để tạo ra sản phẩm
cuối cùng là BCTC. Do vậy tính trung thực và hợp lý của BCTC với ý nghĩa là
mục tiêu chung phải được xác định cụ thể từ chính các yếu tố đó đã được thể
chế qua các văn bản pháp lý cụ thể.
§Ò ¸n m«n häc
Để có cơ sở và xác định các mục tiêu này cần xem xét chức năng hình
thức của mỗi phương kế toán và yêu cầu quản lý vốn và tài sản từ mỗi phương
pháp kế toán.
Đầu tiên, chứng từ kế toán là phương pháp thông tin và minh chứng về sự
hình thành của các nghiệp vụ kinh tế tài chính. Để thực hiện được những chức
năng này đòi hỏi mỗi bản chứng từ phải được ghi chép đúng về số lượng, đơn
giá và tính toán chính xác thành tiền qua các phép toán số học. Đồng thời, mỗi
bản chứng từ cần tạo ra mối liên kết có tính liên hoàn với các sổ tổng hợp (qua
định khoản kế toán) và các sổ chi tiết thông qua việc xác định và ghi đủ các yếu
tố giúp cho việc phân loại chi tiết các nghiệp vụ phát sinh. Về mặt pháp lý, bước
công nghệ chứng từ còn đòi hỏi tuân thủ các thủ tục về chứng từ kể cả việc xác
định và ghi chép qua kiểm soát và xét duyệt đến luân chuyển và lưu trữ chứng
từ.
Thứ hai, tính giá là phương pháp biểu hiện giá trị của các loại tài sản, dịch
vụ khác nhau thành thước đo chung (tiền tệ) để tổng hợp chúng theo đơn vị đo
lường thống nhất. Trong kế toán, giá của tài sản, dịch vụ là giá trị thực mà đơn
vị kế toán (tổ chức kinh tế và cơ quan) bỏ tiền ra mua (giá trị thực tế). Do đó

tính giá phải tôn trọng một trong những nguyên tắc cơ bản của kế toán là nguyên
tắc "hoạt động liên tục". Đồng thời để tính giá từng loại tài sản đòi hỏi phải phân
loại đúng đối tượng tính giá (đặc biệt là loại dịch vụ, sản phẩm để tính giá) theo
yêu cầu quản lý và đặc điểm của đơn vị kế toán để mở sổ chi tiết thích hợp.
Thứ ba, đối ứng tài sản là phương pháp phân loại tài sản và (nguồn) vốn
để phản ánh sự vận động từng loại tài sản, từng loại nguồn vốn theo quan hệ đối
ứng "nợ - có" . Dựa vào thông lệ chung của kế toán quốc tế và đặc điểm cùng
yêu cầu quản lý của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ cụ thể người ta xây dựng
những văn bản pháp lý quy định hệ thống tài khoản cụ thể cùng các quan hệ đối
ứng của các nghiệp vụ cơ bản tạo ra "công nghệ chuẩn " cho việc phân loại và
phản ánh các nghiệp vụ trong quá trình hoạt động của từng loại đơn vị kết toán
(loại doanh nghiệp hoặc đơn vị công cộng) theo từng hình thức kế toán (loại sổ
tổng hợp cùng liên kết giữa sổ tổng hợp với chứng từ, sổ chi tiết với BCTC). Do
§Ò ¸n m«n häc
vậy, trước hết các đơn vị kế toán phải phân loại và phản ánh đúng các quan hệ
đối ứng đã được quy định. Tuy nhiên, dù cụ thể đến thế nào, các văn bản pháp lý
cũng không thể dự kiến hết các nghiệp vụ cụ thể phát sinh cần phân loại cùng
các quan hệ đối ứng thích hợp. Do vậy đơn vị kế toán cơ sở phải dựa vào bản
chất và các quan hệ vốn có của các nghiệp vụ để phân loại và định khoản đúng
các nghiệp vụ phát sinh để ghi sổ. Đồng thời với các việc ghi chép, phải thực
hiện việc xét soát lại các nghiệp vụ để đảm bảo đúng đắn (không khai khống) và
đầy đủ (không bỏ sót). Trên cơ sở đó, cuối kỳ kế toán cần cộng số phát sinh và
tính ra số dư chính xác để kết chuyển vào các BCTC cùng các bảng tổng hợp
khác.
Tổng hợp – cân đối kế toán là phương pháp khái quát các quan hệ kinh tế
tài chính theo mối quan hệ vốn có thành bảng tổng hợp – cân đối với những chỉ
tiêu (khoản mục) được phân loại nhất quán với loại tài khoản và thống nhất về
pháp lý trên những nguyên tắc cơ bản. Để có BCTC trung thực, hợp lý và hợp
pháp, trước hết các bảng tổng hợp phải phù hợp về nội dung và số tiền trên từng
khoản mục về hệ thống tài khoản (tổng hợp và chi tiết) cụ thể số tiền phản ánh

trên các tài khoản phải được chuyển vào bảng tổng hợp vừa đầy đủ về cơ cấu
(trọn vẹn) vừa đúng với thực tế phát sinh của nghiệp vụ và tồn tại của tài sản
(hiệu lực). Tiếp đó, mỗi bảng tổng hợp phải thực hiện sự cân đối vốn có giữa các
mặt của các mối quan hệ kinh tế trong bảng : cân đối giữa vốn và tài sản, cân đối
giữa số dư đầu kỳ và số phát sinh tăng với số phát sinh giảm và số dư cuối kỳ ;
cân đối giữa thu với chi và thu nhập. Đặc biệt, trong bảng cân đối tài sản còn
phải phân định giữa quyền sở hữu tài sản với quyền sử dụng tạm thời đối với tài
sản, giữa nghĩa vụ và pháp lý về vốn với các nghĩa vụ hợp đồng ngắn hạn, tạm
thời về vốn./
Các bước trên được thực hiện trong quan hệ liên hoàn, kế tiếp nhau để
hình thành BCTC với những khoản mục cụ thể. Mỗi khoản mục lại chứa đựng
cả mặt định lượng (số tiền), và mặt định tính (nội dung kinh tế) và được thể chế
hoá trên những văn bản pháp lý cụ thể. Có thể khái quát các bước công việc
§Ò ¸n m«n häc
chính của công nghệ xử lý thông tin kế toán trong quan hệ và việc xác định mục
tiêu cụ thể của kiểm toán tài chính qua bảng dưới đây:
Quy trình công nghệ kế toán
Yêu cầu quản lý và
phương hướng
Phương
pháp
Chức năng
Hình thức
cơ bản
Mục tiêu cơ bản của xác
minh và điều chỉnh
Chứng từ
-Thông tin về nghiệp
vụ
-Minh chứng cho

nghiệp vụ
Bản chứng
từ
-Ghi đúng số lượng, đơn
giá và thành tiền.
-Tuân thủ các thủ tục
chứng từ
-Liên kết với các bước
sau
Tính giá
-Phản ánh giá trị thực
của tài sản
-Tập hợp chi phí theo
loại
Sổ chi tiết
-Phân loại đối tượng tính
giá
-Phản ánh giá trị thực của
tài sản dịch vụ theo
nguyên tắc hoạt động liên
tục
Đối với
tài khoản
-Phân loại tài sản và
vốn
-Phản ánh vận động
của tài sản và vốn qua
từng nghiệp vụ
Sổ tổng
hợp

-Phân loại đúng yêu cầu
quản lý
-Định khoản và ghi sổ
đúng, cộng dồn số dư và
chuyển số chính xác
Tổng hợp
– cân đối
kế toán
-Khái quát các quan hệ
tài chính
-Cân đối tổng thể hoặc
bộ phận
Bảng tổng
hợp
-Phân tích quyền sở hữu
(tài sản) và nghĩa vụ
(vốn) với quan hệ hợp
đồng (ngoài bảng)
-Cân đối tài sản với vốn,
thu và chi (và số dư)
-Chuyển đúng với số dư
(hoặt số phát sinh) vào
khoản mục tương ứng
§Ò ¸n m«n häc

Bảng 1: Công nghệ kế toán với việc xác định mục tiêu kiểm toán
Từ tất cả những điều trình bày trên, có thể thấy mục tiêu xác minh tính
trung thực, hợp lý và hợp pháp của BCTC cần được cụ thể hoá theo các yếu tố
của hệ thống kế toán (phương pháp kế toán) trong quan hệ trực tiếp với việc
hình thành các bảng này. Theo đó mục tiêu xác minh cần phải hướng tới là:

Tính có thực của các thông tin với ý nghĩa các thông tin phản ánh tài sản
hoặc vốn phải được đảm bảo bằng sự tồn tại của tài sản, vốn hoặc tính thực tế
xảy ra của các nghiệp vụ.
Tính trọn vẹn của thông tin với ý nghĩa thông tin phản ánh trên bảng khai
tài chính không bị sót trong quá trình xử lý.
Tính đúng đắn của việc tính giá với ý nghĩa giá tài sản cũng như giá phí
(giá thành) đều được hình thành theo phương pháp kế toán là giá thực tế đơn vị
phải chi để mua hoặc thực hiện các hoạt động.
Tính chính xác về cơ học trong các phép tính số học cộng dồn cũng như
khi chuyển số, sang trang trong công nghệ kế toán.
Tính đúng đắn trong phân loại và trình bày với ý nghĩa tuân thủ các quy
định cụ thể trong phân loại tài sản và vốn cũng như các quá trình kinh doanh qua
hệ thống tài khoản tổng hợp và chi tiết cùng việc phản ánh các quan hệ đối ứng
để có thông tin hình thành BCTC. Những trường hợp đặc thù đều phải được giải
trình rõ ràng.
Tính đúng đắn trong việc phản ánh quyền và nghĩa vụ của đơn vị kế toán
trên BCTC với ý nghĩa tài sản phản ánh trên báo cáo phải thuộc quyền sở hữu
(hoặc sử dụng lâu dài) của đ¬n vị, còn vốn và công nợ phản ánh đúng nghĩa vụ
của đơn vị này.
Những hướng xác minh kể trên được dùng cho mọi khoản mục mọi thành
phần(gọi chung là phần hợp thành) kiểm toán như một "khung" chung nên được
gọi là mục tiêu chung. Khi áp dụng vào từng phần hợp thành kiểm toán, cần
xuất phát từ đặc điểm riêng của từng phần hợp thành để xây dựng "khung" cụ
thể hơn cho từng phần và gọi là mục tiêu đặc thù. Đây là một trong những nội
§Ò ¸n m«n häc
dung chính trong kiểm toán. Ở đây, cần đặc biệt quan tâm đến quan hệ giữa mục
tiêu hợp lý chung của toàn bộ BCTC với các mục tiêu chung của kiểm toán cho
mọi phần hành mà cả các nhà quản lý và KTV phải cam kết và quán triệt.
Cũng như các tài liệu kế toán khác, các bảng tổng hợp kế toán được hình
thành từ những người làm công tác kế toán và quản lý ở đơn vị được kiểm

toán(khách thể kiểm toán) và được gọi chung là nhà quản lý. Trong một tổ chức
hoặc cơ quan, người đại diện hợp pháp cao nhất là thủ trưởng (giám đốc, Tổng
giám đốc các doanh nghiệp và thủ trưởng các tổ chức, cơ quan khác). Theo tính
phổ biến của pháp lý, thủ trưởng đơn vị phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
trong đơn vị, trong đó có cả trách nhiệm về quá trình hình thành các BCTC. Quá
trình hình thành tài liệu này bao gồm cả các công việc lập, kiểm tra, kiểm soát
theo yêu cầu về pháp lý với từng tài liệu cụ thể và thuộc trách nhiệm của nhà
quản lý. KTV thực hiện chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến các đối tượng này.
Tất nhiên, kiểm toán tài chính không phải là quá trình xét duyệt lại các nghiệp
vụ theo phương pháp kế toán và kiểm tra của các nhà quản lý mà bằng phương
pháp chuyên môn của kiểm toán với trách nhiệm riêng của KTV để thu được
những sản phẩm riêng theo chuẩn mực của kiểm toán. Tuy nhiên,giữa quá trình
hình thành các thông tin và quá trình kiểm toán các thông tin đó đều có đối
tượng chung và có phần mục đích chung và phục vụ yêu cầu của những người
quan tâm. Do vậy các mục tiêu kiểm toán cần được xác định trong quan hệ trong
quan hệ về trách nhiệm giữa nhà quản lý và KTV.Trong quan hệ này nhà quản
lý trước hết là thủ trưởng đơn vị kiểm toán phải chịu trách nhiệm về tính trung
thực, hợp lý, hợp pháp của các thông tin. Trong quản lý hiện đại, trách nhiệm
này được chuẩn hoá trong các văn bản pháp lý, trong đó quy định nhà quản lý
phải lập các giải trình hoặc xác nhận hay cam đoan về độ tin cậy của các thông
tin và tính tuân thủ các chuẩn mực trong việc lập và trình bày các BCTC. Trên
cơ sở đó KTV xác minh lại các thông tin trên từng phần hoặc khoản mục cũng
như trên toàn bộ BCTC. Có thể khái quát các mối quan hệ cơ bản qua sơ đồ:
§Ò ¸n m«n häc
Theo sơ đồ trên bố cục được dùng để triển khai các mục tiêu kiểm toán
bao gồm xác nhận (giải trình) của nhà quản lý và các mục tiêu kiểm toán chung
và các mục tiêu kiểm toán đặc thù.
1.1.2/ Xác nhận (giải trình) của nhà quản lý (giám đốc)
Những xác nhận của nhà quản lý trực tiếp liên quan với các nguyên tắc kế
toán đã được thừa nhận. Những xác nhận là bộ phận của tiêu chuẩn mà ban giám

đốc dùng để ghi sổ và tiết lộ các thông tin kế toán trên các BCTC. Mặt khác,
theo nguyên lý chung về phân định chức năng quản lý, nhà quản lý với đại diện
cao nhất là giám đốc hay thủ trưởng đơn vị được kiểm toán (khách thể kiểm
toán) phải chịu trách nhiệm về độ tin cậy hợp lý về các thông tin trên BCTC
thông qua việc xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ nói chung về hệ thống kế
toán nói riêng đủ mạnh: KTV có chức năng đưa ra ý kiến xác minh về sự tin
cậy, hợp lý của các thông tin trên BCTC với những bằng chứng thuyết phục.
Người quan tâm
Báo cáo
tài chính
Các bộ
phận hợp
thành
Xác nhận
của nhà
quản lý
Xác nhận
của kiểm
toán viên
Bằng
chứng
kiểm toán
Kiểm toán và kiểm
soát
Cam kết về trách nhiệm và
quan hệ công tác
Xác định tính hợp
lý chung
Tính có
thực của

thông tin
về tài sản,
nghiệp vụ
Tính đầy
đủ của
thông tin
trong
khoản
mục
Tính
đúng đắn
của tính
giá tài
sản, dịch
vụ
Tính
chính xác
cơ học
của việc
ghi sổ
chuyển sổ
Tính
đúng đắn
của việc
phân loại,
trình bày
các khoản
mục
Tính
đúng đắn

của thông
tin trong
phản ánh
quyền và
nghĩa vụ
§Ò ¸n m«n häc
Trong quản lý hiện đại, các nguyên lý được thể chế hoá thành các văn bản pháp
lý cụ thể trong đó có hệ thống chuẩn mực kiểm toán. Chuẩn mực quốc tế và
chuẩn mực riêng của từng quốc gia trong hiệp hội kế toán quốc tế đều có những
chuẩn mực quy định rõ ràng trách nhiệm của nhà quản lý và của KTV về độ tin
cậy, hợp lý của các BCTC. Trong quan hệ đó nhà quản lý cần cam kết trách
nhiệm quản lý của mình trong việc trình bày các thông tin tài chính cần được
kiểm toán. Về nội dung thì các thông tin này rất đa dạng nhưng có ba loại chính
sau đây:
1. Những cam kết chung về trách nhiệm của nhà quản lý trong việc
trình bày đúng các BCTC. Thuộc loại này có cam kết hoặc giải
trình về tính độc lập khách quan và trung thực của những nhà quản
lý cấp cao và những người có liên quan trực tiếp đến việc hình
thành các thông tin tài chính, cam kết và giải trình về hiệu lực của
hệ thống kiểm soát nội bộ nói chung và hệ thống kế toán nói riêng
trong quan hệ với tính trọng yếu của thông tin trong BCTC.
2. Những cam kết về từng mặt, từng yếu tố cấu thành sự trung thực và
hợp lý. Các yếu tố cụ thể cần xét trong quan hệ trách nhiệm của nhà
quản lý trong tổ chức và thực hiện công nghệ kế toán trong quan hệ
với kiểm soát nội bộ. Trong quan hệ với công nghệ xử lý thông tin
kế toán, mỗi số dư hoặc số phát sinh ghi trên mỗi khoản mục của
BCTC đều phải qua các bước công nghệ từ chứng từ kế toán đến
các bảng tổng hợp – cân đối kế toán. Các thao tác cụ thể trong mỗi
bước công nghệ này cũng được thể chế hoá trong các văn bản pháp
lý về kế toán đòi hỏi nhà quản lý phải tuân thủ theo một quy định

công nghệ nào đó, mỗi con số trên các BCTC trong hệ thống bảng
tổng hợp – cân đối đều phải lường tới các mục tiêu chung: có thực,
trọn vẹn, chính xác cơ học, phản ánh đúng quyền và nghĩa vụ, loại
và giá cả tài sản, của vốn và nghiệp vụ theo đúng quy định trong
văn bản pháp lý đang có hiệu lực. Vì vậy trong quan hệ với trách
nhiệm về sự trung thực hợp lý chung với các BCTC, nhà quản lý
§Ò ¸n m«n häc
cũng phải chịu trách nhiệm ngay từ các yếu tố cụ thể nói trên của
đòi hỏi trung thực hợp lý. Chuẩn mực kiểm toán của Mỹ đã phân
chia năm loại xác nhận của nhà quản lý chung cho các bộ phận hợp
thành của BCTC:
Thứ nhất: Xác nhận về sự tồn tại hoặc phát sinh: là sự cam kết về
tính có thực của các con số trên BCTC: các số dư trên bảng cân đối
tài sản chẳng hạn, nhà quản lý xác nhận mọi số dư về tài sản, về
vốn đều tồn tại thực tế vào ngày lập bảng; với các phát sinh (trong
báo cáo kết quả kinh doanh) nhà quản lý phải cam kết là thực tế đã
xảy ra trong kỳ kế toán. Xác nhận này nhằm tránh tình trạng khai
không đúng hoặc khai không các khoản tiền không có thực vào
BCTC.
Thứ hai: Xác nhận về sự trọn vẹn: Là sự cam kết đã bao hàm trong
các BCTC tất cả các nghiệp vụ, các số dư cần và có thể trình bày
trong bảng tương ứng. Xác nhận về sự trọn vẹn có quan hệ ngược
với xác nhận về sự tồn tại hoặc phát sinh, xác nhân về sự trọn vẹn
có quan hệ với khả năng bỏ sót những nghiệp vụ đáng phải phản
ánh trong các BCTC. Trái lại xác nhận về sự tồn tại và phát sinh lại
quan hệ với khả năng dôi ra của những khoản tiền đáng ra không
được ghi vào bảng này. Trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, cả
hai mặt đối lập này được hợp nhất trong khái niệm "đúng đắn"
được ghi trong cam kết số 6 của chuẩn mực 580: "Các yếu tố sau
đây được ghi nhận một cách đúng đắn và trong trường hợp cần thiết

các thông tin thích hợp đã được nêu ra trong phần thuyết
minhBCTC
-Số dư và nghiệp vụ được thực hiện với các bên có liên quan
-Thua lỗ từ các hợp đồng mua bán
-Thoả thuận và các khả năng mua lại tài sản đã được chuyển
nhượng trước đây
-Các tài sản được đem đi thế chấp"
§Ò ¸n m«n häc
Thứ ba: Xác nhận về quyền và nghĩa vụ: Là sự cam kết trong các
BCTC các tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của đơn
vị và công nợ thuộc nghĩa vụ thanh toán của đơn vị tại thời điểm
lập bảng. Trong chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cam kết số 9 và 10
của chuẩn 580 nêu rõ:"Công ty là chủ sở hữu tất cả các tài sản trên
báo cáo tài chính và không có bất kỳ tài sản nào bị cầm cố thế chấp
hoặc bị cầm giữ, ngoại trừ những tài sản được nêu trong phần
thuyết minh X của báo cáo tài chính. Tất cả các khoản nợ, cam kết
vay và các khoản bảo lãnh của công ty với bên thứ ba đã được công
ty thanh toán và giải trình trong phần X " .(3, 580)
Thứ tư: Xác nhận về định giá và phân bổ: Giá trong kế toán được
xác định theo nguyên tắc "hoạt động liên tục" và do đó giá trong kế
toán biểu hiện giá tài sản do đơn vị thực tế bỏ tiền ra mua hoặc thực
hiện dịch vụ. Vì vậy, xác nhận về định giá là sự cam kết về sự thích
hợp về giữa số tiền phản ánh trên BCTC với số tiền đơn vị chi ra
cho tài sản, vốn, cổ phần, thu nhập,và chi phí ghi trên bảng từ đó
các khoản tính vào thu nhập và phân phối cũng phản ánh giá trị
thực tế.
Thứ năm: Xác nhận về phân loại và trình bày là cam kết về sự phù
hợp giữa sự phân loại và trình bày các phần hợp thành của BCTC
với những quy định đang có hiệu lực về sự phân loại và thuyết trình
các bộ phận này.

3. Những cam kết (giải trình) về mối quan hệ của nhà quản lý với
KTV. Tuỳ theo luật định và thực tiễn phát sinh cũng như nhu cầu
giải quyết về mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể kiểm toán.
Loại cam kết thứ ba này có thể bao gồm các vấn đề về tính độc lập
khách quan của giám đốc, của ban kiểm toán nội bộ và KTV bên
ngoài; về cách thức làm việc và phối hợp giữa ban quản lý, bộ phận
kiểm toán nội bộ với KTV bên ngoài
§Ò ¸n m«n häc
Về hình thức, xác nhận hay giải trình của nhà quản lý có ý nghĩa
khác nhau trong quan hệ với bằng chứng kiểm toán cũng rất đa
dạng. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 580 khoản 13 xác định:
"Các giải trình bằng văn bản được đánh giá là các bằng chứng kiểm
toán có giá trị hơn các giải trình bằng lời nói. Các giải trình bằng
văn bản được thể hiện dưới các hình thức :
- bản giải trình của giám đốc
-Thư của KTV liệt kê ra tất cả những hiểu biết của mình về các giải
trình của giám đốc và được giám đốc xác nhận là đúng
-biên bản họp hội đồng quản trị hoặc báo cáo tài chính đã được
giám đốc ký "
Về cách thức sử dụng xác nhận hay giải trình, KTV phải thu nhập và lưu
vào hồ sơ kiểm toán để làm bằng chứng kiểm toán. Tuy nhiên, trong nhiều
trường hợp các bằng chứng này không thể thay thế các bằng chứng khác như
hoá đơn, quyết toán, biên bản kiểm kê... Trong trường hợp nhà quản lý từ chối
cung cấp giải trình theo yêu cầu của KTV làm hạn chế phạm vi kiểm toán thì
KTV phải đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hoặc ý kiến từ chối.
Nếu cam kết của nhà quản lý phải hướng tới bước đòi hỏi của công nghệ
kế toán thì xác minh của KTV trước hết phải tập trung vào việc xem xét độ tin
cậy của các cam kết trên. Hơn nữa trách nhiệm chung của nhà quản lý, và KTV
là đảm bảo độ tin cậy cảu thông tin trong BCTC. Do vậy giữa xác nhận của nhà
quản lý và mục tiêu kiểm toán có quan hệ chặt chẽ với nhau về cả nội dung và

các yếu tố cấu thành độ trung thực hợp lý của BCTC. Do đó trong hệ thống mục
tiêu kiểm toán bao gồm các mục tiêu kiểm toán chung.
1.1.3/ Mục tiêu kiểm toán chung:
Được chia làm hai loại : mục tiêu hợp lý chung và mục tiêu chung khác.
1.1.3.1/ Mục tiêu hợp lý chung:
Mục tiêu này bao hàm việc xem xét, đánh giá tổng thể số tiền ghi trên
khoản mục trên cơ sở cam kết chung về trách nhiệm của nhà quản lý và thông
tin thu được qua khảo sát thực tế ở khách thể kiểm toán trong quan hệ với việc
§Ò ¸n m«n häc
lựa chọn các mục tiêu khác. Do đó đánh giá sự hợp lý chung cũng hướng tới khả
năng sai sót cụ thể của các số tiền trên khoản mục. Trên cơ sở đó có thể đánh giá
khả năng đạt được của các mục tiêu khác. Nếu KTV không nhận thấy mục tiêu
hợp lý chung đã đạt được tất yếu phải dùng đến mục tiêu chung khác. Từ đó
KTV sẽ lập kế hoạch thu thập những bằng chứng chi tiết hơn trên các khoản
mục hay phần hành động cụ thể với những mục tiêu xác định. Việc định vị các
bộ phận cấu thành kèm theo định hướng mục tiêu tương ứng này sẽ giúp ích rất
lớn cho kiểm toán nâng cao hiệu suất hoạt động do có được kết luận đúng đắn, trên
cơ sở đó có bằng chứng đầy đủ và có hiệu lực và chi phí kiểm toán ít.
Đồng thời, mục tiêu hợp lý chung đòi hỏi sự nhạy bén, khả năng phán
đoán cùng tác phong sâu sát với thực tế ở đơn vị cña KTV.
1.1.3.2/ Mục tiêu chung khác:
Những mục tiêu chung khác này được đặt ra tương ứng với cam kết của
nhà quản lý là hiệu lực, tính trọn vẹn, quyền và nghĩa vụ, chính xác cơ học, phân
loại và trình bày.
Mục tiêu hiệu lực là tính xác minh vào tính có thật của số tiền trên các
khoản mục. Có thể xem mục tiêu này là hướng tới tính đúng đắn về nội dung
kinh tế của khoản mục trong quan hệ với các nghiệp vụ, các bộ phận cấu thành
khoản mục đó. Từ đó số tiền ghi vào BCTC phải là những con số thực tế, tức là
những xác nhận này đề cập tới vấn đề tài sản, nợ và vốn cân đối trong bảng cân
đối tài sản có thực vào ngày lập bảng cân đối tài sản hay không. Như vậy mục

tiêu hiệu lực là hướng xác minh bổ sung vào cam kết về sự tồn tại của nhà quản
lý.
Mục tiêu trọn vẹn là hướng xác minh về sự đầy đủ về nội dung cấu thành
số tiền ghi trên các khoản mục. Cụ thể mục tiêu này liên quan đến tính đầy đủ
của các nghiệp vụ, tài sản và vốn cần được tính vào khoản mục. Mục tiêu này
hướng xác minh bổ sung cho xác nhận về tính trọn vẹn của nhà quản lý.
Các mục tiêu trọn vẹn và hiệu lực hướng trọng tâm chú ý vào những quan
hệ kiểm toán ngược nhau. Mục tiêu hiệu lực có quan hệ đến khả năng phóng đại
§Ò ¸n m«n häc
số tiền bởi những nghiệp vụ, tài sản vốn không có thực trong khi mục tiêu trọn
vẹn lại quan hệ tới nhưng bộ phận thực tế phát sinh nhưng không ghi sổ.
Mục tiêu quyền và nghĩa vụ: Những xác nhận này của ban quản trị đề cập
đến liệu tài sản có thuộc quyền sở hữu của công ty hay không và nợ có phải là
nghĩa vụ của công ty vào ngày được xét hay không ? Mục tiêu này bổ sung cho
cam kết về quyền và nghĩa vụ với ý nghĩa xác minh lại quyền sở hữu (hoặc sử
dụng lâu dài được luật định thừa nhận) của tài sản và nghĩa vụ pháp lý (hoặc hợp
đồng dài hạn) của các khoản nợ và vốn. Thực chất của mục tiêu này là hướng tới
mối quan hệ giữa các bộ phận và giữa các khoản mục trong và ngoài bảng cân
đối tài sản.
Mục tiêu định giá là hướng xác minh vào cách thức và kết quả biểu hiện
tài sản, vốn và các hoạt động (chi phí, chiết khấu, thu nhập...) thành tiền. Như
vậy, mục tiêu này nghiêng về thẩm tra giá trị thực kể cả cách đánh giá theo
nguyên tắc kế toán, thực hiện các phép toán theo nguyên tắc toán học. Tuy nhiên
mục tiêu này không loại trừ xem xét tới liên hệ về cơ cấu có ảnh hưởng tới số
tiền ghi trong BCTC như việc thẩm tra các khoản cổ tức, lãi suất, hối khấu...
Đây là những khoản cấu thành chi phí, thu nhập, tài sản, vốn. Mục tiêu này được
sử dụng để làm rõ hơn cam kết của nhà quản lý về định giá và phân phối.
Mục tiêu phân loại là hướng xem xét lại việc xác định các bộ phận,
nghiệp vụ được đưa vào tài khoản cùng việc sắp xếp các tài khoản trong các
BCTC theo bản chất kinh tế của chúng được thể chế bằng các văn bản pháp lý

cụ thể đang có hiệu lực. Trong các văn bản này, hệ thống tài khoản là cơ sở ban
đầu để thẩm tra phân loại tài sản, nghiệp vụ và vốn của khách hàng. Đồng thời
giới hạn về thời gian, đặc biệt là nghiệp vụ xảy ra cuối kỳ kế toán cũng là một
trọng tâm rà soát việc ghi vào các tài khoản. Với nội dung trên mục tiêu này là
sự bổ sung cần thiết vào cam kết phân loại và trình bày.
Mục tiêu chính xác cơ học: là hướng xác minh về sự đúng đắn tuyệt đối
qua các con số cộng sổ và chuyển sổ, các chi tiết trong số dư (cộng số phát sinh)
của tài khoản cần nhất trí với các con số trên các sổ phụ tương ứng, số cộng gộp
Mục tiêu kiÓm
toán đặc thù
Mục tiêu kiÓm
toán chung

×